Tải bản đầy đủ (.pdf) (59 trang)

Hợp đồng đại lý bảo hiểm trong bảo hiểm thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.71 MB, 59 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI
------------------

LÊ THỊ ÁNH NGUYỆT

HỢP ĐỒNG ĐẠI LÝ BẢO HIỂM
TRONG BẢO HIỂM THƢƠNG MẠI
CHUYÊN NGÀNH LUẬT THƢƠNG MẠI

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2015


TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI
------------------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

HỢP ĐỒNG ĐẠI LÝ BẢO HIỂM
TRONG BẢO HIỂM THƢƠNG MẠI

SINH VIÊN THỰC HIỆN: LÊ THỊ ÁNH NGUYỆT

Khóa: 19-TM36 MSSV: 1155010245

GIẢNG VIÊN HƢỚNG DẪN: ThS. TRẦN MINH HIỆP

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2015



LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan: Khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, đƣợc
thực hiện dƣới sự hƣớng dẫn khoa học của ThS.Trần Minh Hiệp, đảm bảo tính trung
thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo. Tơi xin chịu
hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này.


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT

NỘI DUNG ĐƢỢC VIẾT TẮT

ĐLBH

Đại lý bảo hiểm

DNBH

Doanh nghiệp bảo hiểm

Luật KDBH 200

Luật Kinh doanh bảo hiểm (Luật số
24/2000/QH10) ngày 9/12/2000

LTM 2005

Luật Thƣơng mại (Luật số
26/2005/QH11) ngày 14/6/2005


BLDS 2005

Bộ luật Dân sự (Luật số 33/2005/QH11)
ngày 14/06/2005

Nghị định số 45/2007/NĐ-CP

Nghị định số 45/2007/NĐ-CP của Chính
phủ ngày 27/03/2007 quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật Kinh doanh
bảo hiểm

Thông tƣ số 124/2012/TT-BTC

Thông tƣ số 124/2012/TT-BTC của Bộ
Tài chính ngày 30/07/2012 hƣớng dẫn thi
hành một số điều của Nghị định số
45/2007/NĐ-CP ngày 27 tháng 3 năm
2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật Kinh doanh
bảo hiểm và Nghị định số 123/2011/NĐCP ngày 28 tháng 11 năm 2011 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành một
số điều của luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm


MỤC LỤC
Phần mở đầu .................................................................................................................1
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ ĐẠI LÝ BẢO HIỂM VÀ HỢP ĐỒNG ĐẠI LÝ

BẢO HIỂM ...................................................................................................................4
1.1 Khái niệm, đặc điểm của đại lý bảo hiểm ..............................................................4
1.2 Hợp đồng đại lý bảo hiểm ......................................................................................8
1.2.1 Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng đại lý bảo hiểm ...........................................8
1.2.2 Phân biệt hợp đồng đại lý bảo hiểm với một số hợp đồng khác .......................13
1.2.2.1 Phân biệt với hợp đồng trung gian thƣơng mại ..............................................13
1.2.2.2 Phân biệt với hợp đồng môi giới thƣơng mại .................................................16
CHƢƠNG 2: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA HỢP ĐỒNG ĐẠI LÝ BẢO
HIỂM ..........................................................................................................................19
2.1 Những hoạt động đƣợc thực hiện của đại lý bảo hiểm .........................................19
2.1.1 Phạm vi ủy quyền trong hợp đồng đại lý bảo hiểm ............................................19
2.1.2 Giới hạn của sự ủy quyền trong hợp đồng đại lý bảo hiểm................................23
2.2 Nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng đại lý bảo hiểm ........................................26
2.2.1 Nghĩa vụ của doanh nghiệp bảo hiểm ...............................................................26
2.2.2 Nghĩa vụ của đại lý bảo hiểm ............................................................................31
2.3 Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của đại lý bảo hiểm .................................................38
2.3.1 Các hành vi vi phạm phổ biến của đại lý bảo hiểm ...........................................38
2.3.2 Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của đại lý bảo hiểm .............................42
2.3.2.1 Bảo đảm về nghề nghiệp ................................................................................42
2.3.2.2 Bảo đảm về tài chính ......................................................................................44
Kết luận .......................................................................................................................47
Danh mục tài liệu tham khào


PHẨN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ rất lâu, kinh doanh bảo hiểm thƣơng mại đã trở thành một phần của hoạt
động kinh tế ở nhiều quốc gia. Đến nay, hoạt động kinh doanh bảo hiểm thƣơng mại
đã phát triển và lan rộng trên toàn thế giới. Song song với sự ra đời và phát triển của
hoạt động kinh doanh bảo hiểm thƣơng mại là sự ra đời của đại lý bảo hiểm. Vì vậy,

pháp luật về hợp đồng đại lý bảo hiểm – cơ sở của hoạt động đại lý bảo hiểm – cũng
hình thành từ rất sớm trên thế giới. Chế định hợp đồng đại lý bảo hiểm là một trong
những công cụ pháp lý cần thiết và thích hợp cho việc thăm dị thị trƣờng, tìm kiếm
cơ hội kinh doanh nhằm mở rộng thị trƣờng kinh doanh của doanh nghiệp kinh
doanh bảo hiểm.
Tại Việt Nam, hoạt động kinh doanh bảo hiểm bắt đầu từ năm 1965. Đến năm
1993, hoạt động kinh doanh bảo hiểm chính thức đƣợc pháp luật ghi tại Nghị định
100-CP năm 1993 về kinh doanh bảo hiểm. Tuy nhiên, pháp luật lúc bấy giờ chỉ ghi
nhận và dành một vài điều khoản cho chế định về hợp đồng đại lý bảo hiểm. Mãi
đến năm 2000, hoạt động kinh doanh bảo hiểm nói chung và hoạt động đại lý bảo
hiểm nói riêng mới đƣợc ghi nhận tại một văn bản Luật, Luật Kinh doanh bảo hiểm
2000 (Luật KDBH 2000). Đến nay, qua gần mƣời lăm năm áp dụng và đƣợc sửa đổi
bổ sung, chế định hợp đồng đại lý bảo hiểm trong Luật KDBH 2000 khơng cịn là
cơng cụ pháp lý mới mẻ mà đã dần trở nên phổ biến. Mặc dù đƣợc quy định trong
luật và đƣợc hƣớng dẫn tại các nghị định, thơng tƣ nhƣng trên thực tế chế định này
vẫn cịn khá nhiều bất cập. Nguyên nhân là do các quy định vẫn chƣa bao quát hết
những vấn đề phát sinh liên quan đến hợp đồng đại lý bảo hiểm. Có những nội dung
chƣa đƣợc quy định hoặc đã đƣợc quy định nhƣng còn khá tổng quát, chƣa cụ thể,
chƣa tƣơng thích với pháp luật và tập quán thƣơng mại quốc tế. Thực tế đó đã gây
nhiều khó khăn, trở ngại cho các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm khi vận dụng
vào thực tiễn. Khơng những thế, nó cịn gây nhiều thiệt hại cho chính các doanh
nghiệp kinh doanh bảo hiểm và cả những ngƣời tham gia bảo hiểm. Do vậy, lòng tin
của khách hàng dành cho doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nói riêng và hệ thống
bảo hiểm nói chung ngày càng ít. Trong khi đó, hoạt động kinh doanh bảo hiểm lại
là một kênh huy động vốn hữu hiệu của nền kinh tế, giúp ổn định tài chính và cải
thiện đời sống của ngƣời dân. Vì vậy, việc làm rõ và hoàn thiện pháp luật về hoạt
động đại lý bảo hiểm cũng nhƣ hợp đồng đại lý bảo hiểm là một yêu cầu cần thiết
và khách quan.
1



Mặt khác, thị trƣờng bảo hiểm Việt Nam đƣợc đánh giá là thị trƣờng tiềm
năng, có độ tăng trƣởng khá cao trong khu vực. Đồng thời, trong bối cảnh Việt Nam
gia nhập vào tổ chức thƣơng mại thế giới WTO và chủ trƣơng xây dựng, hoàn thiện
pháp luật của Đảng và Nhà nƣớc, việc hoàn thiện pháp luật về hợp đồng đại lý bảo
hiểm theo hƣớng phù hợp là vấn đề cấp bách để hoạt động kinh doanh bảo hiểm
thƣơng mại ở Việt Nam có thể hội nhập hơn nữa với hoạt động kinh doanh bảo
hiểm trong khu vực và trên tồn thế giới. Vì những lý do trên tác giả đã chọn đề tài
“Hợp đồng đại lý bảo hiểm trong bảo hiểm thương mại” làm khóa luận tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu
Đến nay, ở Việt Nam đã có một số cơng trình nghiên cứu khoa học, luận văn,
bài viết trên các tạp chí chun ngành nghiên cứu, bình luận về hoạt động kinh
doanh bảo hiểm và việc sửa đổi, bổ sung nhiều vấn đề nhằm hoàn thiện pháp luật về
kinh doanh bảo hiểm. Trong “Giáo trình Bảo hiểm” của Trƣờng Đại học Kinh tế
Quốc dân có một chƣơng bàn về hợp đồng đại lý bảo hiểm, chủ yếu chỉ trình bày
các quy định của pháp luật dƣới góc độ kinh tế. Trƣờng Đại học Kinh tế Quốc dân
cũng có một giáo trình khác liên quan đến hoạt động đại lý bảo hiểm, đó là “Giáo
trình Quản trị kinh doanh bảo hiểm”. Giáo trình này chủ yếu trình bày về ĐLBH
nhƣ một kênh phân phối trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Tuy nhiên, vẫn chƣa
có cơng trình, luận văn hoặc bài viết nào đi sâu vào nghiên cứu một cách có hệ
thống và tồn diện về ĐLBH và hợp đồng đại lý bảo hiểm.
3. Mục đích nghiên cứu
Khi thực hiện luận văn này, tác giả mong muốn cung cấp cho ngƣời đọc một
cái nhìn tổng thể về đại lý bảo hiểm và hợp đồng đại lý bảo hiểm. Đồng thời giúp
ngƣời đọc hiểu rõ bản chất và vai trò của của hợp đồng đại lý bảo hiểm trong thực
tiễn hoạt động kinh doanh bảo hiểm, cũng nhƣ nắm đƣợc những điểm thiết sót, bất
cập của pháp luật trong thực tiễn áp dụng. Vì vậy, luận văn có thể là tài liệu tham
khảo cho các nhà lập pháp trong việc bổ sung, sửa đổi các quy định của pháp luật
nhằm tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm đƣợc phát triển mạnh mẽ.
Luận văn cũng là tài liệu nghiên cứu học tập cho các sinh viên ngành Luật, Kinh tế,

các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm đối với các quy định về đại lý bảo hiểm và
hợp đồng đại lý bảo hiểm nhằm bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đây là cơng trình nghiên cứu đầu tiên của tác giả ở bậc đại học về hợp đồng
đại lý bảo hiểm với sự nghiên cứu chuyên sâu, tồn diện và có hệ thống pháp luật
về hợp đồng đại lý bảo hiểm và thực tiễn áp dụng. Trong đó, đề tài nghiên cứu các
quy định của pháp luật Việt Nam về hợp đồng đại lý bảo hiểm, so sánh với pháp
2


luật của một số nƣớc khác về vấn đề này. Đồng thời liên hệ với thực tiễn hoạt động
của đại lý bảo hiểm để làm rõ chế định hợp đồng đại lý bảo hiểm, tìm ra những bất
cập, thiếu sót của các quy định pháp luật hiện hành. Từ đó đề xuất những kiến nghị
cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng đại lý bảo hiểm ở nƣớc ta hiện nay.
Nội dung của hợp đồng đại lý bảo hiểm bao gồm nhiều vấn đề và có liên quan
đến một số lĩnh vực pháp luật khác, nhƣng trong phạm vi của đề tài, tác giả chỉ đề
cập một số nội dung nhất định nhằm hƣớng đến bảo vệ quyền lợi cho hợp pháp cho
khách hàng tham gia bảo hiểm. Ngoài ra, hợp đồng đại lý bảo hiểm thƣơng mại bao
gồm hợp đồng đại lý bảo hiểm nhân thọ và hợp đồng đại lý bảo hiểm phi nhân thọ
nhƣng vì thời gian nghiên cứu hạn chế nên ở luận văn này, tác giả chỉ tập trung
nghiên cứu về hợp đồng đại lý bảo hiểm nhân thọ.
5. Phƣơng pháp tiến hành nghiên cứu
Đề tài đƣợc thực hiện dựa trên nền tảng chung là chủ nghĩa duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử, nghiên cứu lý luận kết hợp thực tiễn. Do tính chất của đề
tài nên trong q trình nghiên cứu, tác giả phối hợp hợp lý các phƣơng pháp nghiên
cứu khoa học cơ bản, chủ yếu sử dụng các phƣơng pháp phân tích và tổng hợp, phối
hợp phƣơng pháp so sánh đối chiếu để làm rõ các vấn đề cần nghiên cứu.
6. Bố cục tổng quát của khóa luận
Đề tài đƣợc trình bày trong 48 trang, bao gồm: Lời nói đầu, hai Chƣơng và Kết
Luận.

- Chương 1: Tổng quan về đại lý bảo hiểm và hợp đồng đại lý bảo hiểm
- Chương 2: Những nội dung cơ bản của hợp đồng đại lý bảo hiểm
Trong thời gian giới hạn để thực hiện đề tài, mặc dù đã hết sức cố gắng nhƣng
luận văn vẫn không thể tránh khỏi những hạn chế nhất định. Tác giả rất mong nhận
đƣợc sự đóng góp của ngƣời đọc để luận văn đƣợc hồn chỉnh và thiết thực hơn.

3


CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ ĐẠI LÝ BẢO HIỂM VÀ HỢP ĐỒNG ĐẠI
LÝ BẢO HIỂM
1.1. Khái niệm, đặc điểm của đại lý bảo hiểm
Khi tham gia vào hoạt động kinh doanh bảo hiểm, tất cả doanh nghiệp đều
mong muốn mở rộng thị trƣờng cung ứng dịch vụ của mình. Cách thức thơng
thƣờng nhất để đạt đƣợc mục đích này là các doanh nghiệp tự sử dụng nguồn nhân
lực và các khả năng sẵn có để tìm kiếm và trực tiếp thiết lập quan hệ với khách
hàng. Phƣơng thức “cổ điển” này nhìn chung rất đơn giản và có những ƣu điểm dễ
nhận thấy là lợi nhuận không bị chia sẻ và bảo đảm đƣợc sự liên hệ trực tiếp giữa
doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) với bên mua bảo hiểm. Tuy nhiên, khơng phải mọi
doanh nghiệp đều có khả năng tài chính và năng lực quản trị để có thể thiết lập một
nguồn nhân lực dồi dào cũng nhƣ hệ thống các cơ sơ kinh doanh để thực hiện các
giao dịch trực tiếp. Ngay cả với những doanh nghiệp có quy mơ kinh doanh lớn thì
việc xây dựng đội ngũ nhân lực và hệ thống các chi nhánh của mình để kinh doanh
đạt hiệu quả kinh tế là việc làm khó khăn và địi hỏi nguồn đầu tƣ rất lớn. Ngồi ra,
việc sử dụng phƣơng thức này sẽ càng tỏ ra kém hiệu quả khi DNBH muốn mở
rộng phạm vi kinh doanh trên thị trƣờng. Cung cấp dịch vụ bảo hiểm không chỉ đơn
thuần là đặt ra yêu cầu về mặt chất lƣợng mà còn cần yêu cầu về lòng tin. Sự tin
tƣởng là một trong những yếu tố quyết định đến việc sử dụng dịch vụ của khách
hàng. Với đặc trƣng này, có thể dễ dàng nhận thấy các hạn chế từ phƣơng pháp “cổ
điển”. Nếu muốn mở rộng thị trƣờng mà khơng có sự liên kết với các chủ thể khác

sẽ là khó khăn lớn đối với DNBH.
Vì vậy, đối với hoạt động kinh doanh đặc thù này, các DNBH sẽ cần đến một
chủ thể trung gian làm “cầu nối” với khách hàng. Các chủ thể trung gian sẽ giúp
DNBH mở rộng thị trƣờng kinh doanh thông qua hoạt động, tìm kiếm, tạo niềm tin
và thiết lập quan hệ với khách hàng. Sự ra đời và phát triển của hình thức trung gian
này là một vấn đề có tính thiết yếu trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Chủ thể
thực hiện hoạt động trung gian này đã xuất hiện từ khá lâu. Nhìn chung các quốc
gia trên thế giới đều gọi họ là ngƣời tƣ vấn bảo hiểm.1 Tại Việt Nam, chủ thể này
đƣợc gọi với nhiều tên khác nhau nhƣ tƣ vấn viên2, tƣ vấn viên tài chính3, đại lý bảo
1

“Tƣ vấn viên bảo hiểm nhân thọ - nghề hot trên thế giới”, truy cập ngày 15/7/2015.
2

“Tuyển dụng tƣ vấn viên”, truy
cập ngày 15/7/2015.
3

“Tƣ vấn viên tài chính”, truy cập ngày 15/7/2015.

4


hiểm4,… Pháp luật ghi nhận chủ thể trung gian này với tên gọi pháp lý là đại lý bảo
hiểm (ĐLBH). Theo quy định tại Điều 84 Luật Kinh doanh bảo hiểm của Việt Nam
năm 2000 (Luật KDBH 2000) thì: “Đại lý bảo hiểm là tổ chức, cá nhân được doanh
nghiệp bảo hiểm ủy quyền trên cơ sở hợp đồng đại lý bảo hiểm để thực hiện hoạt động
đại lý bảo hiểm theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên
quan”. Nhƣ vậy ĐLBH là ngƣời đƣa sản phẩm bảo hiểm đến tận tay ngƣời có nhu cầu
bảo hiểm. Họ hoạt động trong phạm vi ủy quyền của DNBH đƣợc thể hiện trong hợp

đồng đại lý ký kết giữa DNBH và ĐLBH. Vì thế, có thể nói ĐLBH là chủ thể trung
gian giữa DNBH và bên mua bảo hiểm, do vậy trách nhiệm pháp lý phát sinh trong
hoạt động ĐLBH ảnh hƣởng không nhỏ đến quyền và lợi ích của bên tham gia gia
bảo hiểm cũng nhƣ DNBH. Điều đó địi hỏi phải quy định những căn cứ pháp lý cụ
thể để ràng buộc trách nhiệm của ĐLBH trong quan hệ bảo hiểm nhằm bảo vệ
quyền, lợi ích của các bên tham gia trong quan hệ bảo hiểm, thúc đẩy hoạt động
KDBH phát triển nói riêng, thúc đẩy nền kinh tế phát triển nói chung. Đồng thời
khắc phục hậu quả rủi ro trong hoạt động xã hội, huy động vốn cho đầu tƣ, phát
triển. ĐLBH có thể chủ động trong các giao dịch của mình, có quyền đánh giá rủi ro
của khách hàng và quyết định cung cấp dịch vụ hay khơng, điều đó xác định về
trách nhiệm của ĐLBH độc lập với trách nhiệm của công ty bảo hiểm, ĐLBH phải
chịu trách nhiệm về tính trung thực trong giao dịch bảo hiểm.
Căn cứ vào quy định của Luật KDBH 2000 có thể thấy một số đặc điểm cơ bản
của ĐLBH nhƣ sau:
Thứ nhất, chủ thể thực hiện hoạt động đại lý bảo hiểm có thể là cá nhân hoặc
tổ chức. Theo khoản 1 Điều 86 Luật KDBH 2000, cá nhân muốn hoạt động đại lý
bảo hiểm phải có đủ các điều kiện: “a) Là công dân Việt Nam thường trú tại Việt
Nam; b) Từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; c) Có Chứng chỉ
đại lý bảo hiểm do cơ sở đào tạo được Bộ Tài chính chấp thuận cấp”. Đồng thời,
chƣơng trình, nội dung, hình thức đào tạo và việc cấp Chứng chỉ đại lý bảo hiểm do
Bộ Tài chính quy định.5 Ngồi ra cá nhân hoạt động đại lý bảo hiểm khơng đƣợc
thuộc nhóm ngƣời đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đang phải chấp hành
hình phạt tù hoặc bị Tồ án tƣớc quyền hành nghề vì phạm các tội theo quy định của
pháp luật.6

4

“Tuyển dụng đại lý”, truy cập ngày 15/7/2015.

5


Xem điểm c khoản 10 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm (Luật số

61/2010/QH12) ngày 24/11/2010.
6
Xem khoản 3 Điều 86 Luật Kinh doanh bảo hiểm (Luật số 24/2000/QH10) ngày 9/12/2000.

5


Pháp luật quy định về khung điều kiện chung dành cho đại lý bảo hiểm là cá
nhân. Tuy nhiên, tùy vào tính chất, nhu cầu của mình mà DNBH có thể bổ sung các
tiêu chí khác để đảm bảo chất lƣợng và ràng buộc trách nhiệm pháp lý của đại lý. Ví
dụ: quy định về tuổi, kinh nghiệm, thái độ tích cực, bằng cấp, ngoại hình, kĩ năng giao
tiếp,… Đơn cử là công ty bảo hiểm nhân thọ Manulife. Điều kiện trở thành ĐLBH của
công ty là: công dân Việt Nam, từ 22 tuổi đến 62 tuổi và trình độ học vấn tối thiểu tốt
nghiệp Phổ Thông Trung Học.7 Hoặc đối với điều kiện hoạt động đại lý bảo hiểm của
cơng ty bảo hiểm nhân thọ AIA, cá nhân đó phải phải thỏa mãn các yêu cầu: độ tuổi từ
25 đến 60, tốt nghiệp phổ thông trung học, năng động, có định hƣớng kinh doanh, kỹ
năng giao tiếp tốt và ý chí phấn đấu cao.8 Khơng chỉ bổ sung các tiêu chí trở thành
ĐLBH, DNBH cịn có thể quy định việc cấm nhân viên của mình làm đại lý cho
chính mình; hoặc khơng cho phép cá nhân đƣợc đồng thời làm ĐLBH của DNBH
khác nếu không đƣợc sự chấp thuận của DNBH mà đại lý đang làm việc. Bên cạnh
các cá nhân thì tổ chức cũng có thể trở thành ĐLBH nếu thỏa mãn đƣợc những điều
kiện luật định. Cụ thể tại khoản 2 Điều 86 Luật KDBH 2000 quy định tổ chức muốn
thực hiện hoạt động đại lý bảo hiểm phải đáp ứng tất cả các điều kiện: a) Là tổ chức
được thành lập và hoạt động hợp pháp; b) Nhân viên trong tổ chức đại lý trực tiếp
thực hiện hoạt động đại lý bảo hiểm phải có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1
Điều này. Có nghĩa là ngồi điều kiện tổ chức đó đƣợc thành lập, hoạt động hợp
pháp thì các nhân viên trong tổ chức đại lý trực tiếp hoạt động đại lý bảo hiểm phải

đáp ứng tất cả các điều kiện của một cá nhân thực hiện hoạt động đại lý bảo hiểm
nhƣ vừa đƣợc phân tích ở trên. Tƣơng tự nhƣ đối với cá nhân, việc tổ chức có thể
đƣợc đồng thời làm ĐLBH của DNBH khác hay không phụ thuộc vào sự quyết định
của DNBH mà đại lý đang làm việc.
Thứ hai, bản chất pháp lý của hoạt động ĐLBH là thực hiện một giao dịch
đƣợc ủy quyền. Khái niệm hoạt động ĐLBH đƣợc quy định tại khoản 3 Điều 3 Luật
KDBH 2000. Theo đó, hoạt động đại lý bảo hiểm là hoạt động giới thiệu, chào bán
bảo hiểm, thu xếp việc giao kết hợp đồng bảo hiểm và các công việc khác nhằm
thực hiện hợp đồng bảo hiểm theo uỷ quyền của DNBH. ĐLBH là một nhà kinh
doanh độc lập và không tồn tại mối quan hệ lao động giữa ĐLBH và DNBH.9 Nhƣ
vậy ĐLBH hoạt động nhân danh DNBH và mang lại lợi ích cho DNBH nhƣng
7

“Tƣ vấn tài chính, u cầu và quy trình tuyển dụng”, truy
cập ngày 10/06/2015.
8

“Tuyển chọn Đại lý bảo hiểm”, truy cập ngày 10/06/2015.
9

Xem Sự ủy quyền và kinh doanh độc lập tại Điều 1 Hợp đồng đại lý bảo hiểm Công ty TNHH Bảo hiểm
nhân thọ Cathay – Việt Nam.

6


ĐLBH chỉ đƣợc làm những công việc mà DNBH cho phép, đã đƣợc nêu trong hợp
đồng đại lý bảo hiểm. Nhƣ vậy ĐLBH không tham gia xác lập giao dịch với vai trò
là một bên trong hợp đồng bảo hiểm mà chỉ là một chủ thể trung gian.
Thứ ba, ĐLBH đƣợc nhận hoa hồng đại lý bảo hiểm khi thực hiện hoạt động

đại lý bảo hiểm. Hoa hồng đại lý bảo hiểm đƣợc quy định cụ thể tại Điều 41 Thơng
tƣ 124/2012/TT-BTC. Theo đó, hoa hồng đại lý bảo hiểm là các khoản chi phí của
DNBH trả trực tiếp cho đại lý bảo hiểm sau khi ĐLBH mang lại dịch vụ cho DNBH
đó. Tuy nhiên các DNBH chỉ đƣợc chi trả hoa hồng bảo hiểm từ phần phí bảo hiểm
thu đƣợc theo tỷ lệ hoa hồng bảo hiểm không vƣợt quá tỷ lệ hoa hồng do Bộ Tài
chính quy định.10
Thứ tƣ, hoạt động ĐLBH có liên quan đến hai bên khác nhau là DNBH và
khách hàng. Nhƣ đã phân tích ở trên, ĐLBH là kênh phân phối gián tiếp của
DNBH. Khách hàng không trực tiếp giao dịch với bên cung ứng sản phẩm bảo hiểm
mà thông qua trung gian là ĐLBH. Có nghĩa là hoạt động ĐLBH ln có sự tham
gia của ba bên: một là, ĐLBH, giữ vai trò trung gian; hai là DNBH, bên cung ứng
sản phẩm bảo hiểm và ba là khách hàng, bên sử dụng sản phẩm, dịch vụ bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm và sản phẩm bảo hiểm đều rất phức tạp nên trƣớc khi tham gia
bảo hiểm, khách hàng cần đƣợc ĐLBH có chuyên mơn và đạo đức tƣ vấn để có thể
hiểu các quy định, lựa chọn sản phẩm bảo hiểm phù hợp với nhu cầu, tài chính của
mình và hỗ trợ làm các thủ tục với DNBH. Nhƣ vậy yêu cầu về tƣ vấn bảo hiểm của
khách hàng là yêu cầu khách quan, cần thiết. Bên tƣ vấn bảo hiểm phải là hoạt động
độc lập mới đảm bảo tính khách quan trong quá trình tƣ vấn sản phẩm. Thực tế,
hiện nay đại lý bảo hiểm là kênh phân phối chính của các DNBH. Một số DNBH
gọi các ĐLBH là ngƣời tƣ vấn tài chính và đƣợc xem nhƣ nhân viên của DNBH đó.
Có DNBH cịn ký hợp đồng “Tƣ vấn bảo hiểm” với cá nhân mà không phải là hợp
đồng “Đại lý bảo hiểm”. Các cá nhân này đƣợc DNBH trả hoa hồng nhƣ là một
khoản lƣơng. Ở đây, cá nhân ký hợp đồng tƣ vấn bảo hiểm (gọi là tƣ vấn viên)
không cần đáp ứng đủ điều kiện nhƣ ngƣời ký hợp đồng đại lý bảo hiểm. Tuy vậy,
tƣ vấn viên lại vẫn đƣợc thực hiện hoạt động tƣ vấn bảo hiểm. Chủ thể đƣợc gọi là
tƣ vấn viên không đƣợc pháp luật quy định cụ thể. Sự có mặt của chủ thể này trong
hoạt động phân phối sản phẩm bảo hiểm của DNBH vẫn chƣa đƣợc pháp luật ghi
nhận. Nhƣ vậy, ở đây, đang có sự khơng rõ ràng giữa vai trò “tƣ vấn” với vai trò
“đại lý”. Quyền và nghĩa vụ của tƣ vấn viên đƣợc quy định trong hợp đồng tƣ vấn
bảo hiểm. ĐLBH và tƣ vấn viên đều đƣợc quyền tƣ vấn sản phẩm bảo hiểm cho

10

Xem khoản 1 Điều 22 Nghị định số 45/2007/NĐ-CP của Chính phủ ngày 27/3/2007 quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm.

7


khách hàng nhƣng điều kiện chủ thể của hai đối tƣợng này lại không giống nha. Sự
không tách bạch này là một trong những nguyên nhân dẫn đến những tranh chấp
trong hoạt động bảo hiểm, trong đó khách hàng thƣờng là bên chịu thiệt hại về
quyền lợi.11
1.2. Hợp đồng đại lý bảo hiểm
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng đại lý bảo hiểm
Hợp đồng đại lý bảo hiểm là cơ sở cho hoạt động đại diện theo ủy quyền đƣợc
thực hiện trên thực tế giữa ĐLBH và DNBH. Luật KDBH 2000 chỉ đƣa ra khái
niệm về ĐLBH đƣợc quy định tại Điều 84 mà không đƣa ra khái niệm hợp đồng đại
lý bảo hiểm. Tuy nhiên, hoạt động đại lý bảo hiểm là một dạng của đại diện theo ủy
quyền, vì vậy hợp đồng đại lý bảo hiểm cũng là một dạng của hợp đồng ủy quyền.
Do đó, chúng ta có thể căn cứ vào Điều 84 Luật KDBH 2000 và các quy định về
hợp đồng nói chung để xây dựng khái niệm hợp đồng đại lý bảo hiểm nhƣ sau: Hợp
đồng đại lý bảo hiểm là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa các bên, theo đó bên
nhận ủy quyền (là ĐLBH) thực hiện các hoạt động đại lý bảo hiểm trong phạm vi
ủy quyền với danh nghĩa, vì lợi ích của bên ủy quyền (là DNBH) và được bên ủy
quyền trả hoa hồng. Mặc dù chỉ mang tính khái quát nhƣng khái niệm trên cũng đã
cho thấy các đặc điểm cơ bản của hợp đồng đại lý bảo hiểm. Cũng nhƣ các hợp
đồng khác, hợp đồng đại lý bảo hiểm có bản chất của hợp đồng nói chung, đó là sự
tự nguyện thỏa thuận và thống nhất ý chí của các chủ thể trong hợp đồng. Tuy
nhiên, hợp đồng đại lý bảo hiểm cũng mang những đặc điểm riêng để phân biệt nó
với những hợp đồng khác. Những đặc điểm đó là:

Thứ nhất: Chủ thể của hợp đồng gồm DNBH và ĐLBH. Nhƣ đã phân tích ở
phần trên, ĐLBH có thể là cá nhân, tổ chức nếu thỏa mãn các điều kiện luật định.
Còn đối với DNBH, pháp luật quy định DNBH phải là doanh nghiệp đƣợc thành
lập, tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật KDBH 2000 và các quy định khác
của pháp luật có liên quan để kinh doanh bảo hiểm, tái bảo hiểm. Nhƣ vậy, DNBH
không chỉ đáp ứng các điều kiện về hình thức doanh nghiệp theo quy định của Luật
Doanh nghiệp mà còn phải thỏa các điều kiện của pháp luật kinh doanh bảo hiểm.
Theo đó các loại hình DNBH bao gồm: Doanh nghiệp bảo hiểm nhà nƣớc; Công ty
cổ phần bảo hiểm; Tổ chức bảo hiểm tƣơng hỗ; Doanh nghiệp bảo hiểm liên doanh;
Doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn đầu tƣ nƣớc ngồi. Có thể thấy, khơng phải mọi
loại hình doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2014 đều có thể trở
11

Xem thêm tại
/>truy cập ngày 06/7/2015.

8


thành DNBH. Doanh nghiệp tƣ nhân và công ty hợp danh tuy là một trong các loại
hình doanh nghiệp theo quy định của pháp luật doanh nghiệp nhƣng theo quy định
của Luật KDBH thì hai loại hình này khơng thể trở thành ĐLBH. Đây là quy định
hoàn toàn hợp lý bởi vì sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm vơ hình, tính rủi ro rất cao.
Trong khi đó, doanh nghiệp tƣ nhân và cơng ty hợp danh khơng có sự độc lập về tài
sản giữa doanh nghiệp và chủ sở hữu. Chƣa kể đến bản chất của hoạt động kinh
doanh bảo hiểm cũng rất đặc biệt. Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của DNBH
nhằm mục đích sinh lợi, theo đó DNBH chấp nhận rủi ro của ngƣời đƣợc bảo hiểm,
trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để DNBH trả tiền bảo hiểm cho
ngƣời thụ hƣởng hoặc bồi thƣờng cho ngƣời đƣợc bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo
hiểm. Số tiền mà ngƣời tham gia bảo hiểm phải đóng thấp hơn so với số tiền bảo

hiểm mà họ nhận đƣợc. Đó là chƣa kể đến trƣờng hợp xảy ra các sự kiện pháp lý
mà DNBH phải trả số tiền nhiều gấp hai hoặc có thể là gấp ba lần số tiền bảo hiểm.
Ví dụ nhƣ đối với hợp đồng bảo hiểm nhân thọ của công ty Bảo hiểm nhân thọ Phú
Hƣng. Số tiền mà ngƣời tham gia bảo hiểm đƣợc nhận khi xảy ra sự kiện bảo hiểm
tử vong hoặc thƣơng tật toàn bộ và vĩnh viễn bằng 200% số tiền bảo hiểm của hợp
đồng bảo hiểm mà họ tham gia. Nhƣ vậy, việc không để hai loại hình này đƣợc trở
thành DNBH là hồn toàn phù hợp. Quy định này vừa đảm bảo hạn chế rủi ro cho
ngƣời tham gia bảo hiểm vừa đảm bảo cho chính DNBH nói riêng và hệ thống bảo
hiểm nói chung. Ngồi ra, doanh nghiệp muốn đƣợc thành lập và hoạt động thì cịn
phải đảm bảo các điều kiện khác nhƣ: Có ngƣời quản trị, ngƣời điều hành có năng
lực quản lý, chuyên môn, nghiệp vụ về bảo hiểm; Có hồ sơ xin cấp giấy phép thành
lập và hoạt động; Có số vốn điều lệ đã góp khơng thấp hơn mức vốn pháp định theo
quy định của Chính phủ.12 Mức vốn tối thiều của doanh nghiệp kinh doanh bảo
hiểm nhân thọ là 600.000.000.000 đồng Việt Nam.13
Thứ hai: Về hình thức của hợp đồng đại lý bảo hiểm. Theo quy định tại Điều
401 Bộ Luật dân sự (BLDS 2005) thì hợp đồng dân sự có thể đƣợc giao kết bằng lời
nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể, khi pháp luật khơng quy định loại hợp
đồng đó phải đƣợc giao kết bằng một hình thức nhất định. Trong trƣờng hợp pháp
luật có quy định hợp đồng phải đƣợc thể hiện bằng văn bản có cơng chứng hoặc
chứng thực, phải đăng ký hoặc xin phép thì phải tuân theo các quy định đó. Luật
KDBH 2000 khơng nêu rõ hình thức của hợp đồng đại lý bảo hiểm là văn bản, lời
nói hay hành vi cụ thể. Tuy nhiên, một trong những nguyên tắc hoạt động của đại lý
12

Xem Điều 63 Luật Kinh doanh bảo hiểm (Luật số 24/2000/QH10) ngày 9/12/2000 .

13

Xem điểm b khoản 1 Điều 4 Nghị định số 46/2007/NĐ-CP của Chính phủ ngày 27/3/2007 quy định chế độ
tài chính đối với doanh nghiệp bảo hiểm và doanh nghiệp môi giới bảo hiểm.


9


bảo hiểm kí hợp đồng bảo hiểm theo quy định tại Điều 87 của Luật KDBH 2000.14
Nhƣ vậy, pháp luật đã gián tiếp quy định hình thức của hợp đồng đại lý bảo hiểm là
bằng văn bản. Trở lại với quy định của BLDS 2005, ngồi hình thức bằng văn bản,
hợp đồng cịn có thể tồn tại dƣới hình thức giao kết bằng lời nói. Tuy nhiên, việc
cho cơng nhận hình thức hợp đồng đại lý bảo hiểm bằng lời nói là khơng hề phù
hợp. Trong hợp đồng đại lý bảo hiểm ghi nhận rất nhiều quyền, nghĩa vụ và trách
nhiệm của các bên chủ thể. Đặc biệt, đây là quan hệ ủy quyền nên nếu không đƣợc
ghi nhận rõ ràng thì rất dễ xảy ra tranh chấp. Hiện nay dù đã có văn bản quy định rõ
ràng nhƣng số lƣợng tranh chấp về hợp đồng bảo hiểm, gắn liền với những nghĩa vụ
của ĐLBH vẫn rất nhiều. Nếu chỉ dựa trên việc ủy quyền bằng lời nói sẽ làm tăng
tranh chấp và mức rủi ro cho khách hàng cũng nhƣ DNBH. Quan hệ của các chủ thể
trong hợp đồng đại lý bảo hiểm là một dạng đặc thù của cơng việc ủy quyền có hoa
hồng và gắn liền với quyền lợi của các bên trong một thời gian dài. Quan hệ này
không chỉ ảnh hƣởng trực tiếp đến các bên chủ thể trong hợp đồng mà cịn ảnh
hƣởng khơng nhỏ đến bên thứ ba là ngƣời tham gia bảo hiểm. Nhƣ đã nêu ở phần
trƣớc, ĐLBH có vai trị là cầu nối và có sự ảnh hƣởng lớn đến các chủ thể trong hợp
đồng bảo hiểm, DNBH và ngƣời tham gia bảo hiểm. Vì vậy quy định hình thức của
hợp đồng đại lý bảo hiểm phải lập thành văn bản là một quy định hợp lý nhằm đảm
đảm quyền và lợi ích của các bên chủ thể trong hợp đồng đại lý bảo hiểm và cả bên
thứ ba, ngƣời tham gia bảo hiểm.
Thứ ba: Về nội dung của hợp đồng. Điều 87 Luật KDBH 2000 đã quy định cụ
thể nội dung cơ bản của hợp đồng đại lý bảo hiểm gồm: Tên, địa chỉ của ĐLBH;
tên, địa chỉ của DNBH; Quyền và nghĩa vụ của các bên; Nội dung và phạm vi hoạt
động của ĐLBH; Hoa hồng đại lý bảo hiểm; Thời hạn hợp đồng; Nguyên tắc giải
quyết tranh chấp. Ngồi ra, đối với ĐLBH là tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng
nƣớc ngồi thì nội dung cơ bản của hợp đồng đại lý bảo hiểm còn đƣợc hƣớng dẫn

tại điều khoản riêng. Theo đó, trong hợp đồng đại lý bảo hiểm của tổ chức tín dụng,
chi nhánh ngân hàng nƣớc ngoài so với nội dung hợp đồng đại lý bảo hiểm của cá
nhân thì có thêm các điều kiện: Ngày hiệu lực và thời hạn của hợp đồng đại lý bảo
hiểm; Hoa hồng bảo hiểm và các khoản thanh tốn khác (nếu có); Thỏa thuận về
cung cấp thông tin giữa doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ và tổ chức tín dụng, chi
nhánh ngân hàng nƣớc ngồi; Điều khoản về chấm dứt hợp đồng đại lý bảo hiểm.15
14

Xem khoản 1 Điều 28 Nghị định số 45/2007/NĐ-CP.

15

Xem Điều 6 Thông tƣ liên tịch số 86/2014/TTLT-BTC-NHNNVN của Bộ trƣởng Bộ Tài chính - Thống
đốc Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam ban hành ngày 02/07/2014 hƣớng dẫn hoạt động đại lý bảo hiểm của tổ
chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nƣớc ngoài cho doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ.

10


Nguyên nhân có sự khác biệt này là do hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh
ngân hàng nƣớc ngồi mang tính nhạy cảm cao, phức tạp hơn nhiều so với hoạt
động đại lý bảo hiểm của cá nhân. Sự sai sót của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân
hàng nƣớc ngoài trong hoạt động đại lý bảo hiểm không chỉ ảnh hƣởng đến thị
trƣờng kinh doanh bảo hiểm mà cịn ảnh hƣởng đến uy tín của các tổ chức tín dụng
trong nền kinh tế. Với sự tác động mạnh mẽ của chủ thể này, pháp luật đã đặt ra
khung pháp lý chặt chẽ hơn khi quy định nội dung trong hợp đồng đại lý bảo hiểm
của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nƣớc ngồi. Các nội dung bao gồm ngày
hiệu lực của hợp đồng đại lý bảo hiểm, điều khoản chấm dứt hợp đồng giúp cho hợp
đồng đại lý bảo hiểm đƣợc rõ ràng, cụ thể hơn. Đặc biệt quy định về thỏa thuận
cung cấp thông tin giữa ĐLBH là tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nƣớc ngoài

với DNBH. Mặc dù đối với hợp đồng đại lý bảo hiểm của cá nhân không quy định
bắt buộc về việc thỏa thuận cung cấp thông tin giữa hai bên chủ thể nhƣng đa số tất
cả hợp đồng đại lý bảo hiểm đều có nội dung này. Khơng những vậy, thỏa thuận về
cung cấp thơng tin cịn đƣợc quy định rõ ràng, chi tiết ở nhiều điều khoản về cam
kết, nghĩa vụ. Nhƣ vậy, có thể thấy đƣợc tầm quan trọng của việc thỏa thuận về
cung cấp thông tin trong hợp đồng đại lý bảo hiểm. Thêm vào đó, mặc dù ĐLBH là
tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nƣớc ngoài và ĐLBH là cá nhân tồn tại song
song nhƣng ĐLBH là cá nhân vẫn là kênh phân phối chính.16 Vì vậy cần có sự bổ
sung các quy định này vào nội dung hợp đồng đại lý bảo hiểm của cá nhân để giúp
hạn chế tranh chấp phát sinh trong quá trình thực hiện hoạt động đại lý bảo hiểm.
Thứ tƣ, đây là một hợp đồng ủy quyền đặc biệt. Liên quan đến hợp đồng ủy
quyền, pháp luật dân sự và pháp luật thƣơng mại cũng có những quy định riêng.
Theo quy định của BLDS 2005, trong hợp đồng ủy quyền, bên ủy quyền có thể là
một cá nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình hoặc pháp nhân, tổ chức, nhƣng ngƣời đại diện
cho tất cả những chủ thể này phải là một con ngƣời có đầy đủ năng lực hành vi,
năng lực pháp luật.17 Ngƣời đại diện có thể có những phạm vi hoạt động rất lớn theo
thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật nhƣng tất cả mọi công việc, hoạt động,
hành vi của ngƣời đại diện ln phải đƣợc thực hiện vì lợi ích của ngƣời đƣợc đại
diện. Ngƣời đại diện hoạt động khơng nhân danh chính bản thân mình và khơng
đƣợc vì lợi ích của mình. Ngồi ra, ngƣời đại diện không đƣợc phép xác lập, thực
hiện các giao dịch với chính mình hoặc với ngƣời khác mà mình cũng là ngƣời đại
16

“Bán bảo hiểm qua ngân hàng, Xu thế tất yếu?”, truy cập ngày 07/07/2015.
17

Nguyễn Thanh - Văn phòng công chứng Hà Thành, “Ủy quyền và những điểm cần lƣu ý”,
truy cập ngày 10/7/2015.

11



diện của ngƣời đó, trừ một số trƣờng hợp đặc thù.18 Trong trƣờng hợp ngƣời đƣợc
đại diện vì một mục đích nào đó hoặc vì lợi ích của bản thân, thực hiện công việc
gây bất lợi hoặc thiệt hại cho bên ủy quyền, thì bên ủy quyền có quyền khởi kiện để
yêu cầu ngƣời đƣợc ủy quyền bồi thƣờng thiệt hại. Đồng thời, ngƣời đƣợc ủy quyền
phải giao trả đầy đủ tất cả mọi văn bản, giấy tờ, toàn bộ các khoản tiền, tài sản và
tất cả lợi ích thu đƣợc khi thực hiện các công việc đƣợc ủy quyền cho ngƣời đã ủy
quyền. Hợp đồng, giao dịch đƣợc ký kết và thực hiện giữa ngƣời đại diện với chính
mình hoặc với ngƣời thứ ba cũng do chính mình là ngƣời đại diện có thể bị vơ hiệu
do vi phạm điều cấm của pháp luật.19 Điều này cũng cho thấy ngƣời đại diện và
ngƣời đƣợc đại diện không thể là những ngƣời có quyền, lợi ích trái ngƣợc, xung
đột.
Trong luật thƣơng mại, hợp đồng đại lý thƣơng mại cũng là hợp đồng ủy quyền.
Tuy nhiên đây là sự ủy quyền giữa các bên thƣơng nhân với nhau và chỉ có thƣơng
nhân mới đƣợc tham gia vào quan hệ ủy quyền này.20 Nhƣ vậy, ủy quyền trong Luật
Thƣơng mại (LTM 2005) là dạng ủy quyền cho thƣơng nhân còn ủy quyền trong
BLDS 2005 là dạng ủy quyền cho cá nhân. Trở lại với hợp đồng đại lý bảo hiểm,
hợp đồng đại lý bảo hiểm cũng sẽ có những đặc điểm chung của một quan hệ ủy
quyền. Đây là quan hệ đại diện theo ủy quyền. Trong đó bên nhận ủy quyền có thể
là cá nhân hoặc tổ chức. Khơng thể xếp quan hệ ủy quyền này vào dạng ủy quyền
trong LTM 2005 vì trƣờng hợp cá nhân hoặc tổ chức khơng phải là thƣơng nhân thì
khơng thể trở thành trung gian thƣơng mại. Tƣơng tự, quan hệ ủy quyền này cũng
không thể xếp vào dạng ủy quyền trong BLDS 2005 vì tổ chức không đƣợc phép
nhận ủy quyền trong quan hệ ủy quyền dân sự thuần túy. Ngoài sự khác nhau về
chủ thể ủy quyền cịn có sự khác biệt về phạm vi xác lập giao dịch giữa ủy quyền
thuần túy trong Bộ luật dân sự và ủy quyền trong Luật kinh doanh bảo hiểm. Bộ
luật dân sự không cho ngƣời đại diện đƣợc phép xác lập các giao dịch với chính
mình. Tuy nhiên, trong Luật kinh doanh bảo hiểm, ĐLBH đƣợc quyền xác lập giao
dịch với chính mình. Nói cách khác, ĐLBH vừa là chủ thể trung gian cũng vừa

khách hàng.
Thêm một điểm khác biệt của ủy quyền trong hoạt động đại lý bảo hiểm đó là
khơng cho phép ủy quyền lại. Theo quy định của BLDS 2005 thì bên đƣợc ủy
quyền chỉ đƣợc ủy quyền lại cho ngƣời thứ ba, nếu đƣợc bên ủy quyền đồng ý hoặc

18

Xem khoản 5 Điều 144 Bộ luật Dân sự (Luật số 33/2005/QH11) ngày 14/06/2005.

19

Xem Điều 122, Điều 128, Điều 410 Bộ luật Dân sự (Luật số 33/2005/QH11) ngày 14/06/2005.
Xem Điều 167 Luật Thƣơng mại (Luật số 26/2005/QH11) ngày 14/6/2005.

20

12


pháp luật có quy định.21 Trong khi đó, hợp đồng đại lý bảo hiểm lại không đƣợc
phép ủy quyền lại. Nguyên nhân là do yêu cầu về điều kiện trở thành ĐLBH. Không
phải mọi cá nhân, tổ chức đều đủ điều kiện để trở thành ĐLBH. Một trong những
điều kiện quan trọng để trở thành ĐLBH là phải có chứng chỉ do Bộ tài chính cấp.
Nhƣ vậy, việc ủy quyền lại trong hợp đồng đại lý bảo hiểm không chỉ phụ thuộc vào
ý chí của ĐLBH, DNBH mà cịn tn thủ thêm các điều kiện khác của pháp luật.
Vậy ủy quyền trong hợp đồng đại lý bảo hiểm đƣợc xem nhƣ một dạng “trung gian”
giữa hai dạng ủy quyền trên. Ủy quyền trong hợp đồng đại lý bảo hiểm không phải
ủy quyền trung gian thƣơng mại cũng không phải ủy quyền thuần túy trong bộ luật
dân sự. Đây là dạng ủy quyền đặc thù, khác biệt với những quan hệ ủy quyền mà
pháp luật quy định trƣớc đó. Vì vậy hợp đồng đại lý bảo hiểm cũng là một dạng hợp

đồng ủy quyền đặc thù, khác biệt với hợp đồng ủy quyền trong dân sự và hợp đồng
đại lý thƣơng mại. Từ các đặc điểm của hợp đồng đại lý bảo hiểm nhƣ trên, có thể
thấy rằng quy định của pháp luật nƣớc ta về hợp đồng đại lý bảo hiểm tuy có một số
điểm đặc trƣng riêng nhƣng vẫn thể hiện rõ bản chất của hợp đồng đại lý bảo hiểm
tƣơng tự pháp luật của các nƣớc khác, đó là: trong hợp đồng đại lý bảo hiểm, ĐLBH
luôn hành động theo sự ủy quyền của DNBH, vì lợi ích và nhân danh của DNBH.
1.2.2. Phân biệt hợp đồng đại lý bảo hiểm với một số hợp đồng khác
Những đặc điểm trên đã phản ánh một cách cơ bản về bản chất của hợp đồng
đại lý bảo hiểm. Theo khái niệm hợp đồng đại lý bảo hiểm thì đây là một dạng của
hợp đồng ủy quyền. Vậy có sự đồng nhất nào giữa hợp đồng đại lý bảo hiểm và các
hợp đồng trung gian thƣơng mại đƣợc quy định trong Luật Thƣơng mại năm 2005
(LTM 2005) hay khơng? Ngồi ra, thƣờng có sự nhầm lẫn giữa mơi giới bảo hiểm
và ĐLBH dẫn đến sự nhầm lẫn về hợp đồng đại lý bảo hiểm với hợp đồng môi giới
bảo hiểm. Do đó, để hiểu rõ về hợp đồng đại lý bảo hiểm thì cần làm rõ những điểm
tƣơng đồng và khác biệt giữa hợp đồng đại lý bảo hiểm với các loại hợp đồng này.
1.2.2.1. Phân biệt với hợp đồng trung gian thƣơng mại
Hoạt động đại lý bảo hiểm và hoạt động trung gian thƣơng mại đều là những
hoạt động trung gian. Tuy nhiên, do tính chất của hai hoạt động trung gian này có
nhiều điểm khác biệt nên mỗi loại hợp đồng cũng sẽ mang những đặc điểm riêng để
phân biệt nó với cái cịn lại. LTM 2005 quy định bốn hình thức trung gian thƣơng
mại cũng nhƣ bốn loại hợp đồng trung gian thƣơng mại tƣơng ứng gồm: hợp đồng
đại diện cho thƣơng nhân, hợp đồng môi giới, hợp đồng ủy thác mua bán hàng hóa
và hợp đồng đại lý. Mặc dù có các quy định riêng biệt nhƣng cả bốn loại hợp đồng
trung gian thƣơng mại này đều có những điểm chung. Vì vậy tác giả lựa chọn so
21

Xem Điều 583 Luật Thƣơng mại (Luật số 26/2005/QH11) ngày 14/6/2005.

13



sánh hợp đồng đại lý bảo hiểm với hợp đồng trung gian thƣơng mại nói chung
thơng qua các tiêu chí về chủ thể trung gian trong hợp đồng, hình thức của hợp
đồng và nội dung của hợp đồng.
Thứ nhất: Chủ thể của hợp đồng trung gian thƣơng mại có ít nhất một bên là
thƣơng nhân. Trong đó, chủ thể thực hiện hoạt động trung gian thƣơng mại phải là
thƣơng nhân theo quy định của pháp luật Việt Nam. Khái niệm thƣơng nhân đƣợc
quy định tại khoản 1 Điều 6 LTM 2005. Theo quy định này thì thƣơng nhân là các
cá nhân có đăng kí kinh doanh hoặc tổ chức kinh tế thành lập hợp pháp, tiến hành
hoạt động thƣơng mại một cách độc lập, thƣờng xuyên. Còn trong hợp đồng đại lý
bảo hiểm, các cá nhân, tổ chức đủ điều kiện luật định đều có thể trở thành ĐLBH,
thực hiện hoạt động đại lý bảo hiểm và các doanh nghiệp thỏa mãn đủ điều kiện luật
định thì có thể trở thành DNBH. Nhƣ vậy chủ thể trong hợp đồng trung gian thƣơng
mại theo LTM 2005 bị giới hạn hơn so với chủ thể hợp đồng đại lý bảo hiểm. Trong
khi các cá nhân, tổ chức đều có thể thực hiện hoạt động ĐLBH thì chỉ có thƣơng
nhân mới đƣợc tiến hành hoạt động trung gian thƣơng mại. Ngoài ra, chủ thể trung
gian của hai hợp đồng này còn khác nhau về phạm vi đại diện. Bên trung gian
thƣơng mại có thể thực hiện một hoặc một số các hoạt động thƣơng mại trên danh
nghĩa của chính họ hay của bên thuê dịch vụ để hƣởng thù lao còn ĐLBH chỉ đƣợc
thực hiện hoạt động ĐLBH trên danh nghĩa của DNBH để hƣởng hoa hồng. Sự
khác biệt này xuất phát từ tính độc lập với chủ thể cịn lại trong hợp đồng. Bên làm
trung gian thƣơng mại là một bên độc lập với các bên khác tham gia giao dịch, độc
lập với chính bên thuê dịch vụ và độc lập với bên thứ ba cịn ĐLBH khơng hồn
tồn độc lập với DNBH. Ở đây, độc lập đƣợc hiểu là sự độc lập cả về tƣ cách pháp
lý và tài sản. Nhƣ vậy, nếu bên làm trung gian đặt ra yêu cầu độc lập cả về tƣ cách
pháp lý và tài sản thì ĐLBH chỉ độc lập trong hoạt động, vẫn có sự phụ thuộc về tƣ
cách pháp lý.22 Vì vậy mà ĐLBH không thể thực hiện hoạt động đại lý bảo hiểm
trên danh nghĩa của mình.
Thứ hai: Về hình thức của hợp đồng. Nhƣ đã trình bày ở phần trên pháp luật
đã gián tiếp cơng nhận hình thức của hợp đồng đại lý bảo hiểm là văn bản. Đối

chiếu với hợp đồng trung gian thƣơng mại, LTM 2005 ghi nhận sự tồn tại của hợp
đồng trung gian thƣơng mại dƣới nhiều hình thức khác nhau. Các hình thức đó bao
gồm: văn bản, hình thức khác có giá trị tƣơng đƣơng văn bản hoặc có thể xác lập
bằng lời nói hay hành vi cụ thể đối với hợp đồng môi giới thƣơng mại. Một câu hỏi
đặt ra là hợp đồng đại lý bảo hiểm ngồi hình thức bằng văn bản thì các hình thức
22

Lê Thị Thảo (2010), “Vai trị và trách nhiệm của đại lý bảo hiểm trong hợp đồng kinh doanh bảo hiểm”,
Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 09 (241)/2013, tr.56-59.

14


khác có giá trị tƣơng đƣơng văn bản có đƣợc cơng nhận hay khơng? Điều 142 LTM
2005 có đề cập đến hình thức khác có giá trị pháp lý tƣơng đƣơng văn bản khi quy
định về hình thức của hợp đồng đại diện cho thƣơng nhân. Mặc dù LTM 2005
không giải thích về các hình thức khác có giá trị pháp lý tƣơng đƣơng là những hình
thức nào nhƣng khi đối chiếu các nguyên tắc tại Điều 15 LTM 2005 với Luật Giao
dịch điện tử 2005 thì có thể kết luận: thơng điệp dữ liệu có thể xem là hình thức
khác có giá trị pháp lý tƣơng đƣơng văn bản. Thơng điệp dữ liệu đƣợc thể hiện dƣới
hình thức trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thƣ điện tử, điện tín, điện báo,
fax.23
Thứ ba: Về nội dung của hợp đồng. Giống nhƣ quy định trƣớc đây của Luật
Thƣơng mại 1997, Luật KDBH 2000 cũng quy định cụ thể nội dung cơ bản của hợp
đồng. Tuy nhiên, hiện nay LTM 2005 khơng cịn quy định về vấn đề này. Nội dung
của hợp đồng trung gian thƣơng mại bao gồm sự thỏa thuận giữa các bên về quan
hệ trung gian về quyền và nghĩa vụ của các bên. LTM 2005 đã đề cao nguyên tắc tự
do hợp đồng, cho phép các bên trong hợp đồng trung gian thƣơng mại đƣợc quyền
thỏa thuận với nhau các vấn đền có liên quan đến hoạt động trung gian thƣơng mại.
Ngoài ra, trong đó phải quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của mỗi bên, thể hiện

đúng bản chất của quan hệ đại diện mà LTM 2005 đã quy định. Nhƣ vậy, sự tự do
thỏa thuận trong hợp đồng trung gian thƣơng mại rộng hơn rất nhiều so với trong
hợp đồng đại lý bảo hiểm. Nhìn chung, điểm khác biệt giữa hai loại hợp đồng này
xuất phát từ sự rủi ro cao mà các bên có thể gánh chịu trong q trình thực hiện hợp
đồng. Vì để hạn chế thấp nhất rủi ro cho các bên và khách hàng, hợp đồng đại lý
bảo hiểm quy định về hình thức và nội dung chặt chẽ hơn nhiều so với hợp đồng
trung gian thƣơng mại.
Nhƣ vậy, mặc dù cả hai đều là hợp đồng trung gian nhƣng hợp đồng đại lý bảo
hiểm không phải là một trong bốn hình thức hợp đồng trung gian thƣơng mại đƣợc
quy định tại LTM 2005. Đây là một loại hợp đồng trung gian đặc thù. Hợp đồng đại
lý bảo hiểm có phạm vi chủ thể rộng hơn và nội dung hợp đồng đƣợc quy định chặt
chẽ hơn.
1.2.2.2. Phân biệt với hợp đồng môi giới bảo hiểm
ĐLBH và doanh nghiệp môi giới bảo hiểm đều là kênh phân phối bảo hiểm
của DNBH. Tuy nhiên, hợp đồng đại lý bảo hiểm và hợp đồng mơi giới bảo hiểm
lại có nhiều điểm khác biệt. Thông qua khái niệm về hoạt động môi giới bảo hiểm24
23

Nguyễn Thị Thúy Nga (2006), Pháp luật về hợp đồng đại diện thương mại và thực tiễn áp dụng, Luận văn

thạc sĩ luật học, Trƣờng Đại học Luật Tp.Hồ Chí Minh, tr. 22
24
Xem khoản 4 Điều 3 Luật KDBH 2000

15


và khái niệm doanh nghiệp mơi giới bảo hiểm25 có thể khái quát về hợp đồng môi
giới bảo hiểm nhƣ sau: Hợp đồng môi giới bảo hiểm là sự thỏa thuận bằng văn bản
giữa các bên, theo đó doanh nghiệp mơi giới bảo hiểm có nghĩa vụ tìm kiếm khách

hàng, giới thiệu sản phẩm cho khách hàng, cịn DNBH có nghĩa vụ trả hoa hồng
môi giới. Nhƣ vậy, hợp đồng môi giới bảo hiểm nhƣ cũng tƣơng tự với một số hợp
đồng nói chung ở đặc điểm: đây là hợp đồng song vụ và có thể xác lập bằng văn
bản, lời nói hoặc hành vi cụ thể. Luật KDBH 2000 không quy định về hợp đồng
môi giới bảo hiểm mà chỉ quy định về phạm vi hoạt động của doanh nghiệp môi
giới bảo hiểm. Nhƣ vậy, các quy định khác về hợp đồng môi giới bảo hiểm sẽ tuân
theo quy định của BLDS.
Đặc điểm khác biệt lớn nhất giữa hợp đồng đại lý bảo hiểm và hợp đồng môi
giới bảo hiểm là loại hợp đồng. Hợp đồng đại lý bảo hiểm là hợp đồng ủy quyền.
Theo đó, ĐLBH (bên nhận ủy quyền) sẽ thực hiện các công việc trong phạm vi ủy
quyền, vì lợi ích của DNBH (bên ủy quyền). Trong khi đó, hợp đồng mơi giới bảo
hiểm là hợp đồng dịch vụ. Doanh nghiệp mơi giới bảo hiểm đóng vai trò là bên
cung ứng dịch vụ và DNBH là bên thuê dịch vụ. Trong hợp đồng này, hai bên chủ
thể khơng có sự ràng buộc lẫn nhau về mặt tổ chức và hoạt động. Doanh nghiệp môi
giới bảo hiểm hoạt động vì lợi ích của mình và nhân danh chính mình. Vì đây là hai
loại hợp đồng khác nhau nên tất yếu dẫn đến sự khác nhau về quyền và nghĩa vụ
của các bên trong hợp đồng.
Đặc điểm khác biệt thứ hai là điều kiện chủ thể của hợp đồng. Một bên trong
hợp đồng đại lý bảo hiểm và hợp đồng môi giới bảo hiểm bắt buộc là DNBH. Vì
vậy, sự khác biệt về chủ thể xuất phát từ sự khác nhau giữa ĐLBH và doanh nghiệp
môi giới bảo hiểm. Chủ thể thực hiện hoạt động môi giới bảo hiểm hẹp hơn rất
nhiều so với chủ thể thực hiện hoạt động ĐLBH. Mọi cá nhân, tổ chức thỏa các điều
kiện luật định đều có thể thực hiện hoạt động đại lý bảo hiểm hay nói cách khác là
trở thành ĐLBH. Cịn mơi giới bảo hiểm phải là doanh nghiệp, thành lập và hoạt
động theo quy định của Luật KDBH và pháp luật có liên quan. Việc thành lập
doanh nghiệp mơi giới bảo hiểm phải có vốn pháp định và những điều kiện hành
nghề khác nhƣ trình độ quản lý, trình độ chun mơn và đƣợc quy định rải rác ở
nhiều văn bản pháp luật.26 Vậy để trở thành doanh nghiệp mơi giới bảo hiểm địi hỏi
đáp ứng nhiều điều kiện hơn so với việc trở thành ĐLBH. Bên cạnh đó, khi so sánh
25

26

Xem Điều 89 Luật Kinh doanh bảo hiểm (Luật số 24/2000/QH10) ngày 9/12/2000.
Xem Mục 1 Chƣơng 2 Nghị định số 45/2007/NĐ-CP và Mục 5 Chƣơng 2 Nghị định số 123/2011/NĐ-CP

của Chính phủ ngày 28/12/2011 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật Kinh doanh bảo hiểm và sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 45/2007/NĐ-CP.

16


hai chủ thể này trên góc độ địa vị pháp lý, trách nhiệm pháp lý, mối quan hệ với
DNBH và khách hàng sẽ giúp làm rõ hơn sự khác biệt của hai kênh phân phối. Từ
đó làm rõ hơn sự khác nhau giữa hợp đồng đại lý bảo hiểm và hợp đồng môi giới
bảo hiểm.
Về địa vị pháp lý. ĐLBH là cá nhân, tổ chức đƣợc DNBH ủy quyền trên cơ sở
hợp đồng đại lý bảo hiểm để thực hiện hoạt động đại lý bảo hiểm. Trong khi đó,
doanh nghiệp môi giới bảo hiểm là tổ chức kinh doanh độc lập, chuyên kinh doanh
trong lĩnh vực môi giới bảo hiểm. Nhƣ vậy, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm xem
việc hoạt động môi giới bảo hiểm là thực hiện hoạt động kinh doanh của mình. Cịn
đối với ĐLBH thì hoạt động đại lý bảo hiểm là việc thực hiện một công việc theo ủy
quyền.
Về trách nhiệm pháp lý. ĐLBH đƣợc DNBH ủy quyền thực hiện một số nhiệm
vụ nhất định. Những thiệt hại do ĐLBH gây ra cho khách hàng sẽ do DNBH chịu
trách nhiệm. Sau đó, ĐLBH sẽ hồn trả cho DNBH một khoản tiền theo quy định
của pháp luật dân sự.27 Tuy nhiên, khác với ĐLBH, doanh nghiệp môi giới bảo
hiểm là tổ chức kinh doanh độc lập, thay mặt khách hàng giao dịch với DNBH để
giúp khách hàng chọn sản phẩm, dịch vụ phù hợp nhất. Xuất phát từ sự độc lập
trong hoạt động, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm phải tực chịu trách nhiệm về hoạt
động kinh doanh của mình. Chính vì sự khác biệt này mà trong q trình hoạt động

doanh nghiệp mơi giới bảo hiểm phải mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho
hoạt động mơi giới bảo hiểm cịn ĐLBH thì khơng phải mua bảo hiểm trách nhiệm
nghề nghiệp.
Về mối quan hệ với khách hàng và DNBH. ĐLBH có vai trị tìm kiếm khách
hàng, tƣ vấn trực tiếp sản phẩm bảo hiểm, đại diện cho DNBH đứng ra giao dịch
với khách hàng. Môi giới bảo hiểm cũng thực hiện hoạt động tìm kiếm khách hàng
nhƣng khác với ĐLBH, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm không đại diện cho DNBH
mà đại diện cho khách hàng đứng ra giao dịch với DNBH. Nội dung chủ yếu của
hoạt động môi giới bảo hiểm bao gồm: Cung cấp các thông tin cho bên mua bảo
hiểm; Tƣ vấn cho bên mua bảo; Đàm phán, thu xếp giao kết hợp đồng bảo hiểm
giữa doanh nghiệp bảo hiểm và bên mua bảo hiểm; Và thực hiện các cơng việc khác
có liên quan đến việc thực hiện hợp đồng bảo hiểm theo yêu cầu của bên mua bảo
hiểm. 28
Nhƣ vậy, ĐLBH có thể chỉ đƣợc làm đại lý cho một DNBH, chịu sự quản lý
giám sát trực tiếp của DNBH đó. Thơng thƣờng DNBH ít khi đồng ý cho ĐLBH
27
28

Xem Điều 618 Bộ luật Dân sự (Luật số 33/2005/QH11) ngày 14/06/2005.
Xem Điều 90 Luật Kinh doanh bảo hiểm (Luật số 24/2000/QH10) ngày 9/12/2000.

17


của mình đồng thời làm ĐLBH cho DNBH khác. Nhƣng cịn doanh nghiệp mơi giới
bảo hiểm hoạt động độc lập, đại diện cho khách hàng nên có thể làm mơi giới cho
nhiều DNBH và không chịu sự quản lý về tổ chức hoạt động của bất kì DNBH nào.
Mối quan hệ của DNBH với doanh nghiệp môi giới bảo hiểm khơng đảm bảo tính
lâu dài, chắc chắn vì muốn có và duy trì mối quan hệ này DNBH phải bỏ ra chi phí
lớn hơn nhiều so với ĐLBH. Mặc dù vẫn có nhiều điểm tƣơng đồng giữa hợp đồng

đại lý bảo hiểm với hợp đồng trung gian thƣơng mại và hợp đồng mơi giới bảo hiểm
nhƣng qua những phân tích trên chúng ta đã có thể biết đƣợc đặc điểm của hợp
đồng đại lý bảo hiểm và phân biệt nó với các loại hợp đồng khác.
KẾT LUẬN CHƢƠNG
Những nội dung vừa đƣợc trình bày giúp xác định các đặc điểm của ĐLBH,
chủ thể trung gian trong hợp đồng đại lý bảo hiểm. Bên cạnh đó, việc phân tích chủ
thể, nội dung, hình thức của hợp đồng giúp phân biệt hợp đồng đại lý bảo hiểm với
hợp đồng trung gian thƣơng mại trong Luật Thƣơng mại và hợp đồng ủy quyền
trong Bộ luật dân sự. Từ đó làm cơ sở để xây dựng các quy định pháp luật phù hợp
điều chỉnh hoạt động đại lý bảo hiểm.

18


CHƢƠNG 2: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA HỢP ĐỒNG ĐẠI LÝ BẢO
HIỂM
2.1. Những hoạt động đƣợc thực hiện của đại lý bảo hiểm
2.1.1. Phạm vi ủy quyền trong hợp đồng đại lý bảo hiểm
Nhƣ đã phân tích ở Chƣơng I, hợp đồng đại lý bảo hiểm là một dạng của hợp
đồng ủy quyền nên việc xác định phạm vi ủy quyền hay nói cách khác là những
hoạt động mà ĐLBH đƣợc thực hiện là cần thiết, vì nó ảnh hƣởng đến quyền và lợi
ích hợp pháp của ĐLBH, DNBH và khách hàng.
Pháp luật quy định về nội dung hoạt động của đại lý bảo hiểm tại Điều 85 Luật
KDBH 2000 gồm các hoạt động: Giới thiệu, chào bán bảo hiểm; Thu xếp việc giao
kết hợp đồng bảo hiểm; Thu phí bảo hiểm; Thu xếp giải quyết bồi thường, trả tiền
bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm; Thực hiện các hoạt động khác có liên quan
đến việc thực hiện hợp đồng bảo hiểm. Tuy nhiên, pháp luật lại không quy định cụ
thể về các nội dung này. Xét về bản chất, hợp đồng đại lý bảo hiểm là sự thỏa thuận
của các bên chủ thể, đặc biệt đây lại là việc DNBH ủy quyền cho ĐLBH nhân danh
mình thực hiện một công việc nên pháp luật không can thiệp quá sâu mà để cho

DNBH tự quyết. Nhƣ vậy ĐLBH ở những DNBH khác nhau có thể sẽ có phạm vi
hoạt động khác nhau. Trong các nội dung đƣợc quy định, những hoạt động đƣợc
thực hiện của ĐLBH cần đƣợc quan tâm nhất bao gồm: Giới thiệu, chào bán bảo
hiểm; Thu xếp việc giao kết hợp đồng; Thu phí bảo hiểm, cấp biên lai hoặc các giấy
tờ khác theo hƣớng dẫn của DNBH; Chăm sóc khách hàng.
Một là: Giới thiệu, chào bán bảo hiểm. Tham gia bảo hiểm tuy mang lại nhiều
lợi ích cho ngƣời tham gia nhƣng khơng phải ai cũng có nhu cầu hoặc chủ động
trong việc mua bảo hiểm, nhất là đối với thị trƣờng bảo hiểm Việt Nam. Vì vậy, hầu
hết khách hàng của DNBH thƣờng là do ĐLBH chủ động tiếp cận và thuyết phục họ
tham gia bảo hiểm. ĐLBH có vai trị tìm kiếm khách hàng và giới thiệu, tƣ vấn cho
khách hàng về các sản phẩm của doanh nghiệp. ĐLBH sẽ là ngƣời trực tiếp thu thập
các thông tin về nhu cầu, tài chính của khách hàng để cung cấp và tƣ vấn các sản
phẩm bảo hiểm phù hợp. Họ cũng chịu trách nhiệm trong việc giải thích đầy đủ và
chính xác về các quyền và nghĩa vụ khi khách hàng tham gia bảo hiểm. Các DNBH
cũng có thể hỗ trợ ĐLBH thực hiện việc bán sản phẩm bảo hiểm bằng việc in tờ rơi
giới thiệu sản phẩm bảo hiểm, quảng cáo,…Liên quan tới hoạt động giới thiệu, chào
bán sản phẩm bảo hiểm cho khách hàng, hợp đồng đại lý bảo hiểm của công ty Bảo
hiểm nhân thọ Phú Hƣng quy định nhƣ sau: Đại lý bảo hiểm đƣợc quyền độc lập
giới thiệu, tƣ vấn, chào bán Hợp đồng bảo hiểm cho khách hàng tiềm năng. Trong
trƣờng hợp đặc biệt, đƣợc liên kết với một đại lý khác đang hoạt động trong công ty
19


để giới thiệu, tƣ vấn, chào bán Hợp đồng Bảo hiểm và phục vụ cho cùng khách
hàng.29 Có thể thấy, việc khách hàng tiếp cận bƣớc đầu đối với sản phẩm bảo hiểm
và quyết định có lựa chọn tham gia hay không là phụ thuộc rất lớn vào ĐLBH.
ĐLBH phải đảm bảo không chỉ tƣ vấn, thuyết phục tốt mà cịn phải trung thực trong
việc cung cấp thơng tin sản phẩm. Ở giai đoạn này, DNBH hồn tồn rất khó trong
việc kiểm tra, giám sát để đảm bảo những thông tin mà ĐLBH đƣa ra là chính xác.
Khoảng thu của ĐLBH là khoản hoa hồng mà DNBH tra cho đại lý dựa trên từng

hợp đồng bảo hiểm. Chƣa kể đến một số DNBH vì mong muốn mở rộng thì trƣờng
mà đặt ra doanh số cho các ĐLBH. Vì vậy khơng tránh khỏi việc ĐLBH vì muốn có
nhiều hoa hồng, đảm bảo doanh số nên đã cung cấp thông tin về sản phẩm, quyền
và nghĩa vụ của khách hàng khi tham gia bảo hiểm một cách sai lệch nhằm thúc đẩy
việc họ mua sản phẩm bảo hiểm. Điều này là một trong những nguyên nhân gây ra
thiệt hại cho cả ngƣời tham gia và DNBH.
Hai là: Thu xếp việc giao kết hợp đồng. Giai đoạn này bao gồm các công việc:
hƣớng dẫn khách hàng điền thơng tin; giám sát việc kí tên của khách hàng; đối
chiếu tài liệu, hồ sơ khách hàng cung cấp với bản gốc; nộp lại đơn cho công ty.30
Nhƣ vậy, sau khi khách hàng đã đồng ý mua sản phẩm bảo hiểm, ĐLBH sẽ cung
cấp cho họ đơn yêu cầu bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm hoặc giấy chứng nhận bảo
hiểm. Trong giai đoạn này, công việc của ĐLBH là hƣớng dẫn khách hàng cung cấp
và điền thông tin cần thiết vào đơn yêu cầu bảo hiểm và các tài liệu khác liên quan
đến những giao dịch bảo hiểm (nếu có). Thêm vào đó, ĐLBH cũng sẽ giám sát việc
kí tên của khách hàng trên các tài liệu liên quan đến các văn bản này, đảm bảo xác
nhận chữ kí đó đã đƣợc thực hiện trƣớc sự hiện diện của đại lý. Ngồi ra, ĐLBH
cịn phải đối chiếu các bản sao hồ sơ mà khách hàng cung cấp cho DNBH với bản
gốc. Cuối cùng, ĐLBH sẽ nhận đơn yêu cầu này từ khách hàng và đem về cho
DNBH. Nhƣ vậy, các thơng tin về khách hàng, tính xác thực về hồ sơ, tài liệu cũng
nhƣ chữ kí của khách hàng đều do ĐLBH xác thực. Có thể thấy, khi DNBH trao
cho ĐLBH quyền thực hiện công việc này sẽ giúp tạo nhiều điều kiện hơn cho
khách hàng khi tham gia bảo hiểm. Họ không cần phải đến trực tiếp trụ sở chính,
chi nhánh, văn phịng của DNBH mà chỉ cần làm việc trực tiếp với ĐLBH, chủ thể
đại diện cho DNBH đó. Tuy nhiên, việc này cũng hàm chứa rất nhiều rủi ro. Trong
cả q trình đó, DNBH không biết cũng không thể giám sát. Chỉ đến khi nào ĐLBH
nộp đơn yêu cầu bảo hiểm cho DNBH thì DNBH mới biết đƣợc thơng tin về khách
29

Xem điểm a khoản 7.2 Điều 7 Hợp đồng đại lý bảo hiểm Công ty Cổ phần Bảo hiểm nhân thọ Phú Hƣng.


30

Xem điểm b, điểm c, điểm d, điểm e khoản 2.1 Điều 2 Hợp đồng đại lý bảo hiểm Công ty Cổ phần Bảo
hiểm nhân thọ Phú Hƣng.

20


×