Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Khám nghiệm hiện trường trong tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.47 MB, 89 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH


LÊ SƠN ĐƠNG

KHÁM NGHIỆM HIỆN TRƯỜNG
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 60380104

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Trịnh Văn Thanh

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2012


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn khoa học của PGS.TS Trịnh Văn Thanh. Các số liệu, kết quả nêu
trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai cơng bố trong bất kỳ cơng
trình nào khác.
Tác giả luận văn

Lê Sơn Đông


MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................. .1


CHƢƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHÁM NGHIỆM HIỆN
TRƢỜNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM .................................. 5
1.1. Nhận thức chung về hiện trƣờng và khám nghiệm hiện trƣờng trong
Tố tụng hình sự.................................................................................................... 5
1.1.1. Nhận thức về hiện trường............................................................................ 5
1.1.2. Nhận thức về khám nghiệm hiện trường................................................... 14
1.2. Lịch sử khám nghiệm hiện trƣờng trong luật Tố tụng hình sự Việt Nam . .28
1.2.1. Trước khi có Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 ...................................... 28
1.2.2. Khám nghiệm hiện trường theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 ........ 29
1.2.3. Khám nghiệm hiện trường theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 ........ 30
1.3. Khám nghiệm hiện trƣờng trong pháp luật Tố tụng hình sự một số
nƣớc trên thế giới .............................................................................................. 32
1.3.1. Quy định về khám nghiệm hiện trường trong Bộ luật Tố tụng hình sự
Liên Bang Nga .................................................................................................... 32
1.3.2. Quy định về khám nghiệm hiện trường trong Luật Tố tụng hình sự
Nước Cộng hịa nhân dân Trung Hoa ................................................................. 36
CHƢƠNG II. KHÁM NGHIỆM HIỆN TRƢỜNG TRONG BỘ LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 2003 VÀ THỰC TIỄN ÁP
DỤNG ................................................................................................................. 39
2.1. Cơ sở pháp lý của khám nghiệm hiện trƣờng theo quy định của Bộ
luật Tố tụng hình sự Việt Nam và mối quan hệ phối hợp giữa các lực
lƣợng trong khám nghiệm hiện trƣờng........................................................... 39


2.1.1. Cơ sở pháp lý của khám nghiệm hiện trường theo quy định của Bộ luật
Tố tụng hình sự Việt Nam ................................................................................... 39
2.1.2. Chủ thể tham gia trong khám nghiệm hiện trường ................................... 42
2.1.3. Mối quan hệ phối hợp giữa các lực lượng trong khám nghiệm hiện trường... 44
2.2. Thực tiễn áp dụng biện pháp khám nghiệm hiện trƣờng trong Tố
tụng hình sự Việt Nam ...................................................................................... 45

2.3. Đánh giá nhận xét về luật thực định và thực tiễn áp dụng .................... 56
CHƢƠNG III. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN,
NÂNG CAO HIỆU QUẢ KHÁM NGHIỆM HIỆN TRƢỜNG TRONG
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ................................................................... 62
3.1. Phƣơng hƣớng hoàn thiện, nâng cao hiệu quả khám nghiệm hiện
trƣờng trong Tố tụng hình sự Việt Nam ......................................................... 62
3.2. Giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu quả khám nghiệm hiện trƣờng
trong Tố tụng hình sự Việt Nam ...................................................................... 64
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện các quy định trong pháp luật Tố tụng hình sự ........ 64
3.2.2. Giải pháp tăng cường quan hệ phối hợp và nâng cao nhận thức của Cơ
quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng .............................................. 68
3.2.3. Tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo khám nghiệm hiện trường .......... 70
3.2.4. Phát huy biện pháp khoa học kỹ thuật phục vụ khám nghiệm hiện trường ..... 72
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Đất nước ta đang tiến hành cơng cuộc đổi mới sâu sắc và tồn diện trên
tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội nhằm thực hiện mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Cùng với sự
phát triển, thay đổi mạnh mẽ cả về mặt kinh tế và xã hội của đất nước thì tình
hình diễn biến của các hành vi vi phạm pháp luật, các loại tai-tệ nạn xã hội,
đặc biệt là các loại tội phạm có chiều hướng gia tăng và diễn biến phức tạp về
số lượng lẫn phương thức thủ đoạn ngày càng đa dạng, tinh vi, xảo quyệt.
Việc tội phạm sử dụng các thành tựu khoa học tiên tiến trên thế giới vào hành

vi phạm tội của mình địi hỏi công tác điều tra, khám phá tội phạm cũng cần
đổi mới về phương tiện và cách thức điều tra.
Ngày nay, đóng một vai trị quan trọng trong việc điều tra và chứng
minh hành vi phạm tội là chứng cứ thu được ở hiện trường các vụ án. Hiện
trường là nơi lưu giữ nguồn chứng cứ vật chất quan trọng đối với bất kỳ một
vụ việc mang tính hình sự nào. Mỗi hành vi được thực hiện đều gây ra những
tác động lên thế giới vật chất xung quanh. Do đó, dù muốn hay khơng thì một
hành vi phạm tội khi được thực hiện cũng sẽ để lại ở hiện trường những dấu
vết. Điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán đều nhận thức rõ tầm quan trọng
của việc chứng minh các chứng cứ thu được ở hiện trường có giá trị cao trong
việc chứng minh tội phạm và người phạm tội.
Khám nghiệm hiện trường là một hoạt động điều tra nhằm phát hiện
xem xét, ghi nhận dấu vết của tội phạm, vật chứng và làm sáng tỏ các tình tiết
của vụ án. Việc phân tích, đánh giá các dấu vết, vật chứng thu được từ hiện
trường vụ án, những nhận định về đối tượng gây án thông qua thủ đoạn gây
án, nhận định về diễn biến của vụ án,... là cơ sở quan trọng giúp cho cơ quan
điều tra xác định đúng hướng trong quá trình điều tra vụ án, giúp điều tra viên
xây dựng giả thiết điều tra sát thực tế diễn biến của vụ án đã xảy ra, lựa chọn
những chiến thuật, biện pháp điều tra tiếp theo đạt hiệu quả cao.


2

Tuy nhiên, có một thực trạng hiện nay là khám nghiệm hiện trường tuy
có vai trị rất lớn trong q trình điều tra giải quyết vụ án nhưng trong cơng
tác thực tiễn hoạt động khám nghiệm hiện trường vẫn còn bộc lộ nhiều bất
cập, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đặt ra. Thực trạng trên do nhiều
nguyên nhân gây ra như: việc nhận thức về tầm quan trọng của công tác khám
nghiệm hiện trường chưa cao, công tác khám nghiệm hiện trường chưa được
quan tâm đúng mức, pháp luật quy định về khám nghiệm hiện trường chưa

hoàn thiện, còn nhiều bất cập, chồng chéo nhau, sự phối hợp giữa các lực
lượng trong khám nghiệm hiện trường chưa chặt chẽ, thiếu đồng bộ,…
Trước tình hình đó, việc nghiên cứu một cách có hệ thống, tồn diện
những vấn đề lý luận và thực tiễn của công tác khám nghiệm hiện trường
nhằm đưa ra những đề xuất để góp phần định hướng hoàn thiện các quy định
của pháp luật và các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động khám nghiệm
hiện trường trong tố tụng hình sự Việt Nam là cần thiết. Chính vì vậy, việc
lựa chọn nghiên cứu đề tài “Khám nghiệm hiện trường trong Tố tụng hình
sự Việt Nam” làm luận văn Thạc sĩ luật học là hoàn toàn mang tính cấp thiết
và phù hợp với thực tiễn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Khám nghiệm hiện trường được nhiều nhà khoa học trong nước và trên
thế giới quan tâm. Ở nước ta, việc nghiên cứu nhằm tìm ra các giải pháp hồn
thiện, nâng cao hiệu quả cơng tác khám nghiệm hiện trường có đề tài nghiên
cứu của các tác giả sau:
- Nguyễn Văn Hà: “Công tác thu thập, nghiên cứu và đánh giá dấu vết
hình sự tại hiện trường các vụ trộm cắp tài sản tại địa bàn thành phố Hà NộiThực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả” luận văn Thạc sĩ luật học,
Học viện Cảnh sát nhân dân, năm 2003.
- Lê Hải Âu: “Tổ chức hoạt động khám nghiệm hiện trường có người
chết chưa rõ nguyên nhân trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh” luận văn
Thạc sĩ luật học, Học viện Cảnh sát nhân dân, năm 2003.


3

- Tạ Quang Thanh: “Khám nghiệm hiện trường các vụ trộm cắp tài sản
tại địa bàn tỉnh Thái Bình, thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả”
luận văn Thạc sĩ luật học, Học viện Cảnh sát nhân dân, năm 2005.
- Trương Công Khoa: “Hoạt động khám nghiệm hiện trường trong Tố
tụng hình sự Việt Nam (Từ thực tiễn các vụ án tai nạn giao thông đường bộ)”

luận văn Thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, năm
2006.
Các đề tài nghiên cứu về hoạt động khám nghiệm hiện trường đã nêu
trên chủ yếu nghiên cứu dưới góc độ khoa học điều tra hình sự, chưa nghiên
cứu một cách đầy đủ, toàn diện về hoạt động khám nghiệm hiện trường dưới
góc độ của khoa học tố tụng hình sự. Do vậy, việc nghiên cứu một cách có hệ
thống và tồn diện đề tài “Khám nghiệm hiện trường trong Tố tụng hình sự
Việt Nam” là cần thiết cả về phương diện lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở nghiên cứu, xác định làm rõ những vấn đề có tính lý luận
chung của cơng tác khám nghiệm hiện trường. Đánh giá đúng thực trạng cũng
như làm rõ những nguyên nhân tồn tại, những bất cập trong quá trình thực
hiện, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm hồn thiện, nâng cao hiệu quả hoạt
động khám nghiệm hiện trường.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu, phƣơng pháp nghiên cứu của đề
tài
- Đối tượng nghiên cứu: là hoạt động khám nghiệm hiện trường trong
Tố tụng hình sự Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: toàn bộ hoạt động khám nghiệm hiện trường từ
năm 2007 đến năm 2011.
- Phương pháp nghiên cứu: đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương
pháp luận là phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, những quan điểm
của Đảng và nhà nước về xây dựng Nhà nước pháp quyền và về Chiến lược
cải cách tư pháp. Thể hiện bằng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: hệ
thống hóa, tổng hợp tài liệu, thống kê hình sự, phân tích, so sánh, tham khảo
chun gia…


4


5. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm có:
- Phần mở đầu: Tính cấp thiết của đề tài; tình hình nghiên cứu đề tài;
mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu; phương pháp luận và phương
pháp nghiên cứu đề tài; ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài và cơ cấu của đề
tài.
- Phần nội dung có ba chương:
+ Chương 1: Những vấn đề lý luận về khám nghiệm hiện trường trong
Tố tụng hình sự Việt Nam.
+ Chương 2: Khám nghiệm hiện trường trong Bộ luật Tố tụng hình sự
Việt Nam năm 2003 và thực tiễn áp dụng.
+ Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu quả
khám nghiệm hiện trường trong Tố tụng hình sự Việt Nam.
- Kết luận.
Ngồi ra cịn một số vấn đề khác: lời cam đoan, mục lục, danh mục tài
liệu tham khảo, phụ lục.


5

Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHÁM NGHIỆM HIỆN TRƢỜNG
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Nhận thức chung về hiện trƣờng và khám nghiệm hiện trƣờng trong
Tố tụng hình sự
1.1.1. Nhận thức về hiện trường
1.1.1.1. Khái niệm hiện trường
Trong Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản Văn hóa Thơng tin, năm 2010
thì: “Hiện trường là nơi xảy ra sự việc hay hoạt động”1. Đây là một khái niệm
có tính khái quát chung nhất cho tất cả các loại hiện trường, bản thân khái

niệm không phân định, chỉ rõ về mặt thời gian của sự việc hay hoạt động là
đã, đang hoặc sẽ xảy ra, và cũng không chỉ rõ tính chất của sự việc hay hoạt
động xảy ra đó là gì. Nhưng trong khái niệm đã chỉ ra được những thuộc tính
cơ bản của hiện trường.
Hiện trường, trước hết phải là “nơi”. Thuật ngữ “nơi” ở đây được hiểu
đó là sự tồn tại của một địa điểm nhất định trong khơng gian. Và chính nó
cũng chỉ rõ hiện trường của sự việc hay hoạt động xảy ra phải được tồn tại ở
một địa điểm nhất định nào đó trong khơng gian và tất nhiên phải có một
khoảng thời gian nhất định để sự việc hay hoạt động xảy ra. Bởi mọi sự vật,
hiện tượng, quá trình,… trong thế giới khách quan khơng thể vận động, tồn tại
ngồi khơng gian và thời gian.
Phải có sự việc hay hoạt động xảy ra: Sự việc hay hoạt động xảy ra
được nêu trong khái niệm có thể được hiểu đó là những sự việc hay hoạt động
xảy ra mang tính bất kỳ. Điều đó có nghĩa là mỗi một sự việc, hiện tượng,…
nào đó xảy ra trong hiện thực khách quan, thì đều phải có hiện trường.
Chính vì thế, thuật ngữ “hiện trường” đã được sử dụng một cách rộng
rãi trong đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội để chỉ địa điểm, không gian, thời

1

Thái Xuân Đệ (2010), Từ điển Tiếng Việt, NXB Văn hóa Thơng tin, Hà Nội, tr. 352.


6

gian diễn ra sự việc hay hoạt động, như nơi đang thi công cầu, đường hay nơi
đang tổ chức cuộc mít tinh,…
Khái niệm về hiện trường trong khoa học hình sự cũng có rất nhiều
quan điểm khác nhau. Có quan điểm cho rằng, hiện trường là nơi chứa đựng
thông tin về tội phạm. Theo quan điểm này, hiện trường là một khái niệm rất

rộng, bởi lẽ tính “thơng tin” hàm chứa nhiều nội dung khác nhau, nếu cứ
mang thông tin về tội phạm là hiện trường thì khơng thể giới hạn về không
gian của hiện trường, không giới hạn, không định vị được hiện trường thì
khơng thể tổ chức khám nghiệm hiện trường để thu thập dấu vết hình sự, nếu
tiến hành khám nghiệm cũng sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Quan điểm về hiện
trường như trên rất rộng, nhưng lại giới hạn trong hai từ “tội phạm”. Tội
phạm là gì? Theo Điều 8 Bộ luật hình sự đã đề cập rất rõ về khái niệm này,
nhưng trên thực tế có thể có những vụ, việc xảy ra sau khi đã khởi tố vụ án
mới tiến hành khám nghiệm hiện trường, nhưng cũng có những vụ việc xảy ra
chưa thể xác định được ngay có hay khơng có sự việc phạm tội mà phải thông
qua hoạt động khám nghiệm hiện trường mới có kết luận được, nếu khẳng
định tất cả hiện trường khám nghiệm đều phải mang thông tin về tội phạm là
chưa thật chính xác, khơng mang tính khái quát về hiện trường nói chung.
Theo cuốn Từ điển bách khoa Cơng an nhân dân Việt Nam thì: “Hiện
trường là nơi diễn ra sự việc hay hoạt động thực tế”2. Với khái niệm này,
chúng ta không xác định được đâu là hiện trường chủ đạo, đâu là hiện trường
chính để tiến hành khám nghiệm hiện trường để thu thập dấu vết, vật chứng,
sự việc khi “diễn ra” là một chuỗi các hành vi khác nhau, kéo dài trong những
khoảng thời gian khác nhau và tồn tại trong những không gian cũng khác
nhau. Khái niệm này chưa chỉ ra được sự việc cụ thể.
Tại khoản 1 Điều 150 Bộ luật Tố tụng hình sự có quy định: “Điều tra
viên tiến hành khám nghiệm nơi xảy ra, nơi phát hiện tội phạm, nhằm phát
hiện dấu vết của tội phạm, vật chứng và làm sáng tỏ các tình tiết có ý nghĩa
đối với vụ án”. Nơi xảy ra tội phạm là nơi mà ở đó người phạm tội trực tiếp
Viện Chiến lược và Khoa học Bộ Công an (2005), Từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt Nam, NXB
Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 573.
2


7


thực hiện hành vi phạm tội. Nơi phát hiện dấu vết tội phạm có khi khơng phải
là nơi tội phạm đã được thực hiện. Như vậy, theo quy định này thì hiện trường
phải là “nơi xảy ra” hoặc “nơi phát hiện tội phạm”. Trước hết, hiện trường
phải là “nơi” tức là nó phải được tồn tại trong một khoảng khơng gian và thời
gian nhất định, nơi đó đã xảy ra hoạt động phạm tội hoặc nơi đó đã phát hiện
ra tội phạm. Hiện trường phải tồn tại những dấu vết, vật chứng và chính bản
thân chúng phản ảnh sự tác động qua lại giữa thủ phạm với nạn nhân và với
môi trường vật chất tại nơi mà thủ phạm lựa chọn để thực hiện hành vi phạm
tội. Việc phát hiện ra những chứng cứ vật chất này là cơ sở khách quan quan
trọng để xác định địa điểm gây án, diễn biến của vụ án cũng như các đối
tượng đã tham gia vào q trình gây án,…
Trong thực tiễn, cơng tác điều tra các vụ án hình sự là quá trình xác
định một vụ việc mang tính hình sự xảy ra có phải là vụ tội phạm hay khơng
phải là vụ tội phạm thường xuất phát từ một số thông tin ban đầu cho phép
các nhà điều tra hình sự đặt ra các giả thiết khác nhau về tính chất của vụ việc
đã xảy ra. Qua quá trình tiến hành điều tra đã thu thập, bổ sung, củng cố
những chứng cứ, những thơng tin,…Lúc đó mới có khả năng loại trừ được
những yếu tố, những giả thiết không phù hợp với thực tế khách quan của sự
việc xảy ra, để dần dần từng bước đi tới việc xác định các yếu tố cấu thành tội
phạm. Chỉ có như vậy mới xác định được sự việc xảy ra có phải là vụ tội
phạm hay khơng phải là vụ tội phạm. Ví dụ: những vụ hiện trường có người
chết chưa rõ nguyên nhân thì phải qua quá trình khám nghiệm hiện trường,
thu thập thơng tin mới có thể kết luận được nạn nhân chết là do án mạng, tự
sát, tai nạn hay bệnh lý,…
Thực tế trong cơng tác điều tra hình sự, nhiều vụ việc khi xảy ra các
nhà điều tra chưa có đủ những thơng tin ban đầu để có thể xác định được tính
chất của vụ việc cũng như hiện trường của các vụ việc mang tính hình sự xảy
ra, nên chưa thể khẳng định được đâu là nơi xảy ra tội phạm, hoặc đó có phải
là nơi phát hiện ra tội phạm hay khơng.

Chính vì vậy, theo tác giả thì quy định tại khoản 1 Điều 150 Bộ luật tố
tụng hình sự chưa được chặt chẽ, bởi vì Điều tra viên muốn tiến hành khám


8

nghiệm phải xác định được đâu là nơi xảy ra tội phạm, đâu là nơi phát hiện tội
phạm, trong khi phần lớn muốn xác định được vấn đề này thì phải qua quá
trình khám nghiệm hiện trường mới kết luận được. Nhiều vụ, việc xảy ra
những thông tin cung cấp ban đầu chưa đủ để có thể nhận định và xác định rõ
tính chất của vụ việc đó có mang dấu hiệu của tội phạm hay không? Muốn
xác định phải có một khoảng thời gian điều tra làm rõ. Vì vậy, khái niệm về
hiện trường theo Điều 150 Bộ luật Tố tụng hình sự cịn bó hẹp và khơng
mang tính khái quát cao.
Dù đề cập đến vấn đề hiện trường ở góc độ nào, nghiên cứu vấn đề này
ở khía cạnh nào đi nữa, thì hiện trường cũng phải thỏa mãn những dấu hiệu cơ
bản sau đây:
Thứ nhất: Hiện trường phải tồn tại ở một địa điểm cụ thể trong khoảng
không gian và thời gian xác định. Đây là thuộc tính tất yếu của hiện trường.
Thứ hai: Phải có sự việc mang tính hình sự xảy ra.
Chính vì vậy, khái niệm hiện trường dưới góc độ nghiên cứu của khoa
học điều tra hình sự theo cuốn Giáo trình Điều tra hình sự năm 2005 của
Trường Đại học Luật Hà Nội: “Hiện trường là nơi xảy ra, nơi phát hiện các vụ
phạm tội hoặc vụ việc có tính hình sự”3. Đây là khái niệm mang tính khái quát
cao và đầy đủ. Nội dung của khái niệm đã chỉ ra các thuộc tính của hiện
trường một cách cụ thể. Hiện trường là một khơng gian nhất định. Điều này
có thể hiểu đó là một địa điểm đã được xác định cụ thể trong khơng gian, nơi
mà ở đó có các vụ phạm tội hoặc vụ việc mang tính hình sự đã hoặc đang xảy
ra: Đó là nơi xảy ra, nơi phát hiện ra các vụ phạm tội hoặc vụ việc mang tính
hình sự. Hiện tượng vật chất xảy ra trong không gian hiện trường là những vụ

việc có thể bao gồm: Những hành vi phạm tội cụ thể được quy định trong
từng điều luật của Bộ luật hình sự hoặc những vụ việc mang tính hình sự khi
xảy ra đã có những hành vi xâm hại tới những khách thể được Bộ luật hình sự
quy định cụ thể để bảo vệ, song chưa thể xác định được các yếu tố cấu thành

3

Trường Đại học Luật Hà Nội (2005), Giáo trình Khoa học điều tra hình sự, NXB Cơng an nhân dân, Hà
Nội, tr. 55.


9

tội phạm,…Ở những địa điểm này vẫn phải tiến hành khám nghiệm hiện
trường như: Hiện trường nơi xảy ra cháy nổ, sự cố kỹ thuật, hư hỏng máy
móc, các vụ có người chết khơng tự nhiên, chết chưa rõ ngun nhân,… mà ở
những nơi đó có thể có hoặc khơng có hành vi phạm tội xảy ra. Vì vậy có thể
nói: Hiện trường là nơi xảy ra, nơi phát hiện vụ việc phạm tội hoặc vụ việc có
tính hình sự.
1.1.1.2. Phân loại hiện trường
Hiện trường vụ việc mang tính hình sự rất đa dạng bao gồm trong đó là
hiện trường các vụ án hình sự, hiện trường các vụ tai nạn, tệ nạn và hiện
trường các vụ việc khác mà cơ quan điều tra cần phải thu thập chứng cứ, làm
rõ bản chất sự việc. Việc phân chia hiện trường thành các loại có ý nghĩa về lý
luận và thực tiễn đối với công tác bảo vệ hiện trường, khám nghiệm hiện
trường và các hoạt động điều tra.
Phân chia hiện trường thành các loại khác nhau giúp cho người tiến
hành tố tụng hình sự nhận thức về: Loại vụ việc gì đã xảy ra; dấu vết vật
chứng ở hiện trường có bị tác động của các yếu tố thời tiết hay khơng; hiện
trường vụ việc đó có bao nhiêu khu vực,… Đó cũng là cơ sở quan trọng giúp

cho việc tổ chức biện pháp, bố trí lực lượng, phương tiện trong quá trình bảo
vệ hiện trường. Nhận biết được từng loại hiện trường sẽ đảm bảo cho công tác
bảo vệ hiện trường được triển khai nhanh chóng, đồng bộ, đúng yêu cầu đề ra.
Đồng thời cũng giúp cho người chỉ huy bảo vệ hiện trường báo cáo nhanh vụ
việc xảy ra và tình hình hiện trường cho các cơ quan chức năng.
Việc phân chia thành hiện trường vụ có người chết chưa rõ nguyên
nhân, hiện trường vụ cướp tài sản, hiện trường vụ cháy,…và từng loại hiện
trường đó có bị xáo trộn hay còn nguyên vẹn là cơ sở để tổ chức hoạt động
khám nghiệm hiện trường. Từ việc nhận thức được loại hiện trường của vụ
việc sẽ là cơ sở để người lãnh đạo chỉ huy thuộc Cơ quan điều tra các cấp
quyết định việc điều động lực lượng, sử dụng loại phương tiện thiết bị khám
nghiệm và áp dụng các biện pháp thích hợp để triển khai kịp thời, nhanh
chóng cơng tác khám nghiệm hiện trường nhằm góp phần điều tra làm rõ vụ
việc xảy ra.


10

Nhận thức được loại hiện trường cần khám nghiệm là cơ sở để người
chủ trì, người tham gia khám nghiệm quyết định áp dụng chiến thuật, phương
pháp, phương tiện khám nghiệm để đạt mục đích của q trình khám nghiệm.
Từ nhận thức về loại hiện trường được phân công khám nghiệm sẽ đảm bảo
người cán bộ khám nghiệm nghiên cứu tồn diện, khách quan hiện trường có
trọng tâm, trọng điểm đảm bảo cho quá trình phát hiện, thu thập và khai thác
dấu vết, vật chứng đạt hiệu quả cao nhất. Kết quả phân loại hiện trường là cơ
sở để ghi tên vụ việc trong biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản khám
nghiệm tử thi, sơ đồ hiện trường và khái quát báo cáo kết luận vụ việc sau khi
khám nghiệm.
Việc phân loại hiện trường thường dựa vào nhiều căn cứ khác nhau để
phân loại:

- Căn cứ vào đặc điểm phạm vi không gian nơi xảy ra, nơi phát hiện vụ
việc mang tính hình sự.
Mỗi vụ việc mang tính hình sự đều diễn ra trong phạm vi khơng gian có
giới hạn nhất định. Trong phạm vi khơng gian đó có tồn tại các dấu vết vật
chứng cần phải bảo vệ và phát hiện, thu thập. Căn cứ vào phạm vi khơng gian
xảy ra hoặc phát hiện vụ việc mang tính hình sự, phân định hiện trường thành
các loại sau:
+ Hiện trường trong nhà: Nơi xảy ra hoặc nơi phát hiện vụ việc mang
tính hình sự trong phạm vi khơng gian giới hạn trong căn nhà. Đối với loại
hiện trường này, các dấu vết, vật chứng xuất hiện và tồn tại ở hiện trường ít
chịu sự chi phối, tác động của yếu tố thời tiết. Tuy nhiên ở hiện trường này
các dấu vết, vật chứng lại chịu sự tác động của con người (Nạn nhân, người
nhà nạn nhân, người phát hiện, người đưa đi cấp cứu,…), do đó khi khám
nghiệm cần chú ý các yếu tố này.
+ Hiện trường ngoài trời: Phạm vi khơng gian xảy ra vụ việc ở ngồi
trời. Dấu vết vật chứng ở hiện trường chịu tác động trực tiếp của thời tiết, như
nắng, mưa. Sự tác động đó làm xáo trộn hiện trường, thay đổi dấu vết, vật
chứng gây khơng ít khó khăn đối với cơng tác phát hiện, thu thập, khai thác
dấu vết trong quá trình khám nghiệm.


11

+ Hiện trường vừa ngồi trời vừa trong nhà: Khơng gian xảy ra và phát
hiện vụ việc mang tính hình sự một phần ở trong nhà, một phần ngoài trời.
Dấu vết vật chứng ở hiện trường có khu vực chịu sự tác động trực tiếp của
nắng mưa, nhưng có nơi ít có sự chi phối của thời tiết.
+ Hiện trường trên các phương tiện giao thơng: Diễn biến chính của
tồn bộ vụ việc đã xảy ra hoặc một phần hành động của thủ phạm xảy ra trên
phương tiện giao thông đường bộ, đường thủy, đường sắt, đường hàng không.

Khi vụ việc xảy ra trên các phương tiện giao thơng thì thường có nhiều người,
do đó thơng tin về vụ việc, đối tượng và những người biết, chứng kiến về vụ
việc xảy ra phong phú, đa dạng. Do có nhiều người tham gia trên phương tiện
giao thông, nên khi vụ việc xảy ra dấu vết, vật chứng cũng rất dễ bị tác động
làm thay đổi.
- Căn cứ vào tính chất sự việc.
Hiện trường các loại vụ việc mang tính hình sự rất đa dạng và không
trùng lặp. Tuy nhiên, hiện trường là hệ quả của một vụ việc trong nhóm các
vụ việc mang tính hình sự có cùng tính chất tương ứng. Căn cứ vào tính chất
vụ việc mang tính hình sự xảy ra, chia hiện trường thành những loại sau:
+ Hiện trường vụ có người chết
+ Hiện trường vụ có người bị thương
+ Hiện trường vụ tai nạn giao thông
+ Hiện trường vụ tai nạn lao động
+ Hiện trường vụ trộm cắp tài sản
+ Hiện trường vụ cướp tài sản
+ Hiện trường vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản
+ Hiện trường vụ vi phạm về môi trường
+ Hiện trường vụ sản xuất, tàng trữ, sử dụng chất ma túy
+ Hiện trường vụ cháy, nổ, sự cố kỹ thuật
+ Hiện trường vụ ngộ độc chất độc
+ Hiện trường vụ hiếp dâm
+ Hiện trường vụ rải tờ rơi, viết khẩu hiệu có nội dung phản động


12

- Căn cứ vào diễn biến sự việc.
Một vụ việc mang tính hình sự đều xảy ra ở phạm vi khơng gian xác
định, chúng ta gọi đó là khu vực hiện trường. Nhưng, mỗi vụ việc mang tính

hình sự có thể diễn ra ở nhiều phạm vi không gian khác nhau và mỗi phạm vi
khơng gian đó là bộ phận của hiện trường. Với cách tiếp cận này, có thể thấy
một vụ việc mang tính tình sự xảy ra có thể diễn biến ở nhiều khu vực hiện
trường, cho nên gọi theo thứ tự các khu vực đó là hiện trường 1, hiện trường
2, hiện trường 3,…
Thực tế, nhiều trường hợp nơi xảy ra vụ việc mang tính hình sự đồng
thời là nơi phát hiện. Nhưng cũng có thể nơi phát hiện không phải là nơi xảy
ra vụ việc mang tính hình sự. Vì thế, có thể phân chia thành: Hiện trường nơi
xảy ra sự việc và hiện trường nơi phát hiện sự việc mang tính hình sự. Hiện
trường nơi xảy ra sự việc là nơi trực tiếp diễn ra các hành vi của con người và
sự tác động của các đối tượng vật chất khác liên quan đến vụ việc có ý nghĩa
hình sự. Tại hiện trường có thể tồn tại nhiều dấu vết, vật chứng quan trọng
nếu được phát hiện, khai thác tốt sẽ là cơ sở để tái hiện toàn bộ vụ việc đã xảy
ra. Hiện trường nơi phát hiện sự việc mang tính hình sự là địa điểm phát hiện
dấu vết, vật chứng, tử thi,… phản ánh có vụ việc mang tính hình sự đã xảy ra.
Dấu vết, vật chứng, thông tin tài liệu tồn tại ở hiện trường nơi phát hiện vụ
việc mang tính hình sự phản ánh các đối tượng vật chất tham gia trong q
trình xảy ra sự việc nên có ý nghĩa đối với hoạt động điều tra.
Nếu xét về diễn biến quá trình của con người khi thực hiện hành vi
phạm tội, thì tội phạm thường diễn ra qua các giai đoạn: chuẩn bị, thực hiện
và che giấu hành vi phạm tội. Cho nên, đối với các vụ án hình sự có thể phân
chia hiện trường thành những loại sau: Hiện trường nơi chuẩn bị thực hiện
hành vi phạm tội; hiện trường nơi thực hiện hành vi phạm tội và hiện trường
nơi che giấu hành vi phạm tội.
- Căn cứ vào tình trạng hiện trường.
+ Hiện trường nguyên vẹn là hiện trường khi khám nghiệm dấu vết, vật
chứng và cảnh vật ở hiện trường chưa bị thay đổi, xáo trộn. Hiện trường
nguyên vẹn là điều kiện thuận lợi nâng cao hiệu quả công tác khám nghiệm



13

hiện trường. Do dấu vết, vật chứng không bị thay đổi nên việc nghiên cứu
phát hiện cũng như thu thập, khai thác chúng thuận lợi, đồng thời dễ xác định
quan hệ giữa các dấu vết, vật chứng giúp cho đánh giá kết luận vụ việc được
chính xác, khách quan.
+ Hiện trường xáo trộn là hiện trường khi khám nghiệm dấu vết, vật
chứng cảnh vật ở hiện trường đã có sự thay đổi, mất mát, hư hỏng. Đối với
loại hiện trường này vị trí, trạng thái, đặc điểm của dấu vết, vật chứng có sự
thay đổi dẫn đến việc nghiên cứu phát hiện xác định dấu vết, vật chứng liên
quan đến vụ việc sẽ khó khăn, phức tạp hơn. Nhiều trường hợp, do hiện
trường xáo trộn quá nhiều, làm cho việc nghiên cứu phát hiện, khai thác dấu
vết, vật chứng không chính xác dẫn đến khơng kết luận được hoặc kết luận
khơng chính xác. Việc xác định tình trạng hiện trường dựa trên cơ sở thông
tin thu thập được khi đến hiện trường, kết quả quan sát hiện trường.
+ Ngoài ra còn hiện trường giả tạo. Hiện trường giả tạo là loại hiện
trường do tội phạm dựng lên đánh lạc hướng của cơ quan điều tra khi tiến
hành khám nghiệm nhằm mục đích che dấu hành vi phạm tội của mình.
1.1.1.3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu hiện trường
Nghiên cứu hiện trường vụ việc mang tính hình sự có ý nghĩa vô cùng
quan trọng trong công tác bảo vệ và khám nghiệm hiện trường được kịp thời,
nhanh chóng, đầy đủ, tồn diện, phục vụ tốt cho quá trình thu thập dấu vết,
vật chứng, tài liệu liên quan,… nhằm điều tra khám phá án chính xác.
Hiện trường của vụ việc mang tính hình sự là nơi mà các dấu vết, vật
chứng được tìm thấy, những dấu vết vật chứng này tồn tại là kết quả của sự
phản ảnh vật chất xung quanh giữa vật gây vết và vật nhận vết, do vậy nó là
cơ sở quan trọng trong việc xây dựng giả thiết điều tra, nhận định tình hình
nhằm điều tra, khám phá án được chính xác, nhanh chóng. Vì vậy, chúng ta
cần xác định rằng: thủ phạm khi gây án luôn để lại dấu vết vật chứng ở hiện
trường và do đó hiện trường chính là nơi chứa đựng dấu vết vật chứng của tội

phạm. Thủ phạm có tinh vi xóa dấu vết, thì theo quy luật của sự phản ánh dấu
vết, chúng sẽ để lại hiện trường những dấu vết xóa, nhiệm vụ quan trọng của
cơ quan điều tra là phải tìm, thu được hết các dấu vết vật chứng để những dấu


14

vết, vật chứng này sẽ chứng minh được: đối tượng phạm tội, tính chất vụ việc,
phương thức thủ đoạn gây án và công cụ phương tiện mà thủ phạm sử dụng
để gây án.
1.1.2. Nhận thức về khám nghiệm hiện trường
1.1.2.1. Khái niệm, mục đích, ý nghĩa, nhiệm vụ và yêu cầu khám
nghiệm hiện trường
* Khái niệm khám nghiệm hiện trường
Khám nghiệm hiện trường được quy định tại Điều 150 Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2003. Nhưng tại điều luật này chỉ đề cập đến vấn đề Điều tra
viên phải làm những gì khi tiến hành hoạt động này, cách thức tiến hành như
thế nào mà không đề cập đến khái niệm khám nghiệm hiện trường là gì.
Theo cuốn Giáo trình Điều tra hình sự năm 2005 của Trường Đại học
Luật Hà Nội thì: “Khám nghiệm hiện trường là biện pháp điều tra được tiến
hành tại hiện trường nhằm phát hiện, ghi nhận, thu lượm, bảo quản, nghiên
cứu, đánh giá dấu vết, vật chứng của các vụ phạm tội hoặc vụ việc có tính
hình sự đã xảy ra”4.
Theo Từ điển bách khoa Cơng an nhân dân Việt Nam thì: “Khám
nghiệm hiện trường là hoạt động thu thập thông tin liên quan đến vụ, việc tại
chính nơi vụ, việc đó xảy ra hoặc tại nơi phát hiện tội phạm. Đó là q trình
sử dụng các kiến thức khoa học-kỹ thuật, có sự hỗ trợ của các phương tiện
nghiệp vụ, nhằm phát hiện, thu thập thông tin, dấu vết, vật chứng của tội
phạm hoặc nghi có liên quan đến tội phạm để xác định có hay khơng có tội
phạm xảy ra và làm sáng tỏ các tình tiết có ý nghĩa đối với vụ án”5.

Theo Điều 1 Quy chế phân công trách nhiệm giữa các lực lượng Công
an nhân dân trong công tác khám nghiệm hiện trường (Ban hành kèm theo
Quyết định số 57/2001/QĐ-BCA(C11) ngày 06 tháng 02 năm 2001 của Bộ
trưởng Bộ Cơng an) thì: “Khám nghiệm hiện trường là hoạt động tố tụng hình
sự nhằm phát hiện nhằm phát hiện dấu vết, vật chứng của tội phạm và làm rõ
Trường Đại học Luật Hà Nội (2005), Giáo trình Khoa học điều tra hình sự, NXB Cơng an nhân dân, Hà
Nội, tr. 63.
5
Viện Chiến lược và Khoa học Bộ Công an (2005), Từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt Nam, NXB
Công an nhân dân, Hà Nội, 669-670.
4


15

các tình tiết ở hiện trường có ý nghĩa đối với vụ án; Đồng thời cũng là một
biện pháp nghiệp vụ áp dụng khoa học kỹ thuật giúp cơ quan Công an trong
công tác điều tra, khám phá tội phạm, phục vụ cho việc xác định sự thật vụ án
và yêu cầu nghiệp vụ của ngành Công an”6.
Qua các khái niệm trên ta thấy cơ bản đã làm rõ được bản chất của
khám nghiệm hiện trường, như:
- Khám nghiệm hiện trường là hoạt động điều tra theo tố tụng hình sự.
- Địa điểm tiến hành khám nghiệm hiện trường là tại hiện trường.
- Nhiệm vụ của khám nghiệm hiện trường là phát hiện dấu vết của tội
phạm, vật chứng và làm sáng tỏ các tình tiết có ý nghĩa đối với vụ án.
- Mục đích của khám nghiệm hiện trường là phục vụ cho công tác điều
tra, khám phá, xử lý tội phạm.
Tuy nhiên đi sâu nghiên cứu từng khái niệm cụ thể chúng ta thấy vẫn
cịn có những hạn chế nhất định như: chưa xác định cụ thể chủ thể của cơng
tác khám nghiệm hiện trường, có khái niệm chỉ xác định khám nghiệm hiện

trường là hoạt động điều tra theo tố tụng hình sự đơn thuần mà chưa chỉ rõ
khám nghiệm hiện trường còn là hoạt động nghiệp vụ có tính cấp bách,…
Từ phân tích nêu trên, có thể đưa ra khái niệm khám nghiệm hiện
trường như sau: Khám nghiệm hiện trường là hoạt động điều tra có thể tiến
hành trước khi khởi tố vụ án hình sự, do Điều tra viên và những người theo
luật định tiến hành nghiên cứu, phát hiện, thu thập, đánh giá các dấu vết, vật
chứng và những tin tức, tài liệu liên quan đến vụ việc phạm tội hoặc vụ việc
có tính hình sự đã xảy ra tại hiện trường, nhằm xác định có hay khơng có tội
phạm xảy ra, định hướng cho hoạt động điều tra tiếp theo và phục vụ cho việc
xử lý tội phạm.
Trong khái niệm trên đã phản ánh đầy đủ, rõ ràng hơn những nội dung
cần đề cập, như: Khám nghiệm hiện trường là hoạt động điều tra có thể tiến
hành trước khi khởi tố vụ án hình sự, điều đó cũng có nghĩa là hoạt động điều
tra theo tố tụng hình sự đồng thời cũng là hoạt động nghiệp vụ có tính cấp
Bộ Cơng an (2001), Quyết định 57/2001/QĐ-BCA(C11), ngày 6/2/2001 của Bộ trưởng Bộ Công an về phân
công các lực lượng công an trong công tác khám nghiệm hiện trường, Hà Nội.
6


16

bách cần tiến hành ngay sau khi xác định vụ việc có tính hình sự xảy ra, ngồi
ra trong khái niệm còn chỉ rõ địa điểm tiến hành khám nghiệm hiện trường,
chủ thể tiến hành khám nghiệm hiện trường, nhiệm vụ và mục đích của khám
nghiệm hiện trường.
* Mục đích, ý nghĩa khám nghiệm hiện trường
- Mục đích khám nghiệm hiện trường.
Khám nghiệm hiện trường là quá trình tổ chức nghiên cứu phát hiện,
ghi nhận, thu lượm, bảo quản, đánh giá dấu vết, vật chứng và thu thập chứng
cứ để làm sáng tỏ các tình tiết có ý nghĩa đối với vụ việc mang tính hình sự;

xác định vụ việc xảy ra có hành vi tội phạm hay khơng, nếu có thể thì xác
định đối tượng thực hiện hành vi phạm tội; là cơ sở xây dựng kế hoạch điều
tra tiếp theo.
Hiện trường là nơi chứa đựng những thông tin mà được khai thác một
cách có hệ thống, đúng luật và khoa học thì chúng có thể giúp xác định được
điều gì đã xảy ra và những người nào có liên quan đến sự việc đã xảy ra đó.
Mục đích của việc khám nghiệm hiện trường là để xây dựng lại hoàn
chỉnh các sự kiện đã xảy ra dựa vào các chuỗi sự kiện, phương pháp tiến hành
hoạt động, động cơ thúc đẩy, các đồ vật bị mất, và tất cả những gì mà kẻ tội
phạm có thể làm. Mặt khác, khám nghiệm hiện trường cịn nhằm tìm ra và
phục hồi các dấu vết có thể dùng làm vật chứng để chứng minh đối tượng
phạm tội. Trong một số trường hợp kết quả khám nghiệm có thể trực tiếp chỉ
ra đối tượng phạm tội, cung cấp các vật chứng kết tội đối tượng phạm tội,
thậm chí trước cả khi chúng bị tình nghi.
- Ý nghĩa hoạt động khám nghiệm hiện trường.
Khám nghiệm hiện trường có một ý nghĩa hết sức quan trọng trong
công tác điều tra, khám phá và xử lý tội phạm. Kết quả khám nghiệm hiện
trường là cơ sở để xác định tính chất của một sự việc có tính hình sự đã xảy ra
có phải là tội phạm hay không phải là tội phạm, là cơ sở để khởi tố vụ án,
khởi tố bị can và tiến hành các biện pháp tố tụng hình sự tiếp theo, kết quả
khám nghiệm hiện trường là cơ sở để làm sáng tỏ các tình tiết có ý nghĩa đối
với vụ việc đã xảy ra, chứng minh những vấn đề nêu trong kết luận điều tra


17

của cơ quan điều tra, kết quả khám nghiệm hiện trường được dùng làm chứng
cứ chứng minh tội phạm và người phạm tội trong truy tố và xét xử. Đồng thời
qua công tác khám nghiệm hiện trường, chúng ta cũng tổng kết, đánh giá và
rút ra được những nguyên nhân điều kiện làm nảy sinh phạm tội, xác định

được tính chất, phương thức, thủ đoạn hoạt động mới của tội phạm, từ đó
nghiên cứu tìm ra các biện pháp, giải pháp thích hợp phục vụ cho cơng tác
phịng ngừa làm hạn chế tội phạm, ngăn chặn tội phạm xảy ra.
* Nhiệm vụ khám nghiệm hiện trường
Nhiệm vụ của công tác khám nghiệm hiện trường được xác định dựa
trên cơ sở những vấn đề cần phải chứng minh, nội dung cơ bản của hoạt động
điều tra tội phạm và mục đích của khám nghiệm hiện trường. Xuất phát từ vấn
đề đó, khám nghiệm hiện trường vụ việc mang tính hình sự có những nhiệm
vụ sau:
- Thu thập, phân tích chọn lọc những tin tức tài liệu có liên quan đến
hiện trường, sự việc xảy ra. Đó là những thơng tin phản ánh về thời gian xảy
ra vụ án, người phát hiện, về tung tích lai lịch và mối quan hệ của nạn nhân,
đặc điểm nhận dạng thủ phạm, những thay đổi của các dấu vết, vật chứng
trong quá trình bảo vệ hiện trường,... Những thơng tin đó có giá trị định
hướng cho việc nghiên cứu phát hiện, thu thập, đánh giá dấu vết, vật chứng ở
hiện trường có trọng tâm, trọng điểm, đồng thời tạo tiền đề thuận lợi cho việc
triển khai các biện pháp nghiệp vụ khác đạt hiệu quả cao.
- Ghi nhận vị trí, trạng thái và quang cảnh chung của hiện trường. Hiện
trường vụ việc mang tính hình sự tồn tại các phản ánh vật chất và phản ánh
nhận thức. Hiện trường chỉ tồn tại trong khoảng thời gian nhất định, nhưng
việc nghiên cứu địa điểm, phạm vi không gian, trạng thái và quang cảnh của
hiện trường phải thực hiện trong suốt quá trình điều tra vụ án. Do đó, cần phải
ghi nhận vị trí, trạng thái, quang cảnh của hiện trường và mối tương quan giữa
phạm vi hiện trường với vùng lân cận. Quá trình ghi nhận vị trí, trạng thái,
quang cảnh hiện trường chỉ được sử dụng các biện pháp mà pháp luật đã quy
định như: mô tả trong biên bản khám nghiệm, chụp ảnh, vẽ sơ đồ.


18


- Áp dụng các biện pháp, phương pháp khoa học và sử dụng phương
tiện kỹ thuật hỗ trợ nhằm phát hiện và khai thác thông tin từ dấu vết, vật
chứng tồn tại ở hiện trường. Hiện trường vụ việc mang tính hình sự ln tồn
tại các phản ánh vật chất, đó là các dấu vết, vật chứng. Các phản ánh vật chất
chứa đựng những thông tin phản ảnh về diễn biến hành động của con người,
quá trình tác động giữa các đối tượng vật chất. Dấu vết, vật chứng tồn tại dưới
nhiều dạng khác nhau, trong đó có nhiều loại rất khó phát hiện, nên cần có
phương tiện kỹ thuật hỗ trợ nhằm phát hiện được tất cả các dấu vết, vật
chứng. Nếu không phát hiện được dấu vết, vật chứng thì khơng thể nghiên
cứu đánh giá xác định cơ chế hình thành và khai thác các thơng tin để làm rõ
diễn biến và tình tiết của vụ việc. Để đạt được mục đích đó địi hỏi cán bộ
khám nghiệm phải nắm vững tri thức nghiệp vụ Kỹ thuật hình sự, nhất là
khoa học về dấu vết hình sự và pháp y, đồng thời nắm vững tính năng tác
dụng và sử dụng thành thạo phương tiện kỹ thuật.
- Thu thập, củng cố các chứng cứ vật chất phục vụ quá trình điều tra,
truy tố, xét xử. Đây là nhiệm vụ rất quan trọng của quá trình khám nghiệm
hiện trường. Trên cơ sở các dấu vết, vật chứng đã phát hiện, tiến hành nghiên
cứu để xác định chứng cứ từ đó áp dụng phương pháp khoa học và phương
tiện kỹ thuật thích hợp để thu thập, củng cố, bảo quản các chứng cứ vật chất
đó. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này địi hỏi cán bộ khám nghiệm hiện trường
khơng những có năng lực chun mơn giỏi, kỹ năng thực hành tốt mà còn
phải nắm vững pháp luật và thực hiện thu thập chứng cứ theo đúng quy định
của pháp luật.
- Lập hồ sơ khám nghiệm hiện trường vụ việc mang tính hình sự theo
đúng quy định của pháp luật Tố tụng hình sự. Hồ sơ khám nghiệm hiện
trường vụ việc mang tính hình sự bao gồm: Biên bản khám nghiệm hiện
trường, biên bản khám nghiệm tử thi, bản ảnh hiện trường, bản ảnh khám
nghiệm tử thi, sơ đồ hiện trường. Khi xây dựng các tài liệu này phải theo mẫu
quy định, nội dung của từng loại tài liệu phải đáp ứng chính xác, khách quan,
tồn diện, đúng luật nhằm đảm bảo giá trị pháp lý của hoạt động khám

nghiệm hiện trường.


19

- Phòng ngừa tội phạm là một bộ phận cấu thành của đấu tranh phịng
chống tội phạm, vì vậy từ việc đánh giá kết quả khám nghiệm hiện trường để
nghiên cứu tìm ra các biện pháp phịng ngừa làm hạn chế tội phạm, các vi
phạm pháp luật khác là nhiệm vụ cần được quan tâm. Qua quá trình khám
nghiệm hiện trường phát hiện những sơ hở, thiếu sót trong cơng tác phòng
ngừa tội phạm, những nguyên nhân điều kiện nảy sinh phạm tội, xác định
phương thức, thủ đoạn hoạt động mới của tội phạm, từ đó đề xuất các biện
pháp thích hợp để phịng ngừa, ngăn chặn tội phạm.
* u cầu của khám nghiệm hiện trường
- Đảm bảo yêu cầu pháp lý: Khám nghiệm hiện trường vụ việc mang
tính hình sự là hoạt động điều tra tố tụng, do đó quá trình tổ chức khám
nghiệm hiện trường phải tuân thủ các quy định của pháp luật.
Để đảm bảo yêu cầu pháp lý thì quá trình tổ chức và tiến hành khám
nghiệm loại hiện trường này cần lưu ý: về địa điểm tiến hành khám nghiệm
hiện trường là nơi xảy ra, nơi phát hiện vụ việc mang tính hình sự; thời điểm
tiến hành khám nghiệm hiện trường có thể tiến hành trước khi khởi tố vụ án
hình sự; về nội dung khám nghiệm: Tiến hành chụp ảnh, vẽ sơ đồ, mô tả hiện
trường, đo đạc, dựng mơ hình, thu lượm và xem xét tại chỗ dấu vết của tội
phạm, đồ vật, tài liệu có liên quan đến vụ việc mang tính hình sự, ghi kết quả
xem xét vào biên bản khám nghiệm hiện trường. Trường hợp không thể xem
xét ngay được thì đồ vật và tài liệu thu giữ phải được bảo quản, giữ nguyên
trạng hoặc niêm phong để đưa về nơi tiến hành điều tra; phải có người chứng
kiến và có Kiểm sát viên của Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp kiểm sát quá
trình khám nghiệm hiện trường; khi tiến hành khám nghiệm phải lập biên bản
khám nghiệm hiện trường theo đúng quy định của pháp luật Tố tụng hình sự;

việc thu mẫu vật, dấu vết, tài liệu trong quá trình khám nghiệm hiện trường
phải được ghi nhận trong biên bản và niêm phong, bảo quản theo quy định7.
- Đảm bảo yêu cầu kịp thời, nhanh chóng: Ở hiện trường vụ việc mang
tính hình sự, các dấu vết vật chứng luôn chịu sự tác động của các yếu tố
khách quan và chủ quan nên dễ bị thay đổi, phá huỷ, hiện trường bị xáo trộn.
7

Điều 150 Bộ luật Tố tụng hình sự của nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2003.


20

Vì thế cơng tác khám nghiệm hiện trường cần triển khai kịp thời nhằm hạn
chế đến mức thấp nhất các biến đổi có thể xảy ra đối với hiện trường, đối với
dấu vết, vật chứng. Tiếp cận hiện trường nhanh và khẩn trương triển khai
khám nghiệm càng sớm bao nhiêu càng hạn chế được sự thay đổi ở hiện
trường bấy nhiêu, từ đó tạo điều kiện cho việc phát hiện, thu thập dấu vết, vật
chứng và các tin tức tài liệu tại hiện trường được đầy đủ, khách quan. Mặt
khác, kết quả khám nghiệm hiện trường vụ việc mang tính hình sự là cơ sở để
quyết định nội dung các biện pháp tố tụng hình sự ở giai đoạn tiếp theo, do đó
cơng tác khám nghiệm hiện trường cần được tiến hành một cách khẩn trương,
nhanh chóng nhằm thu thập, phân tích thơng tin để định hướng xây dựng kế
hoạch điều tra tiếp theo.
Để đảm bảo yêu cầu nhanh chóng cần lưu ý: Các đơn vị nghiệp vụ
phải chủ động chuẩn bị phương tiện kỹ thuật và nhân lực, sẵn sàng nhận
nhiệm vụ và nhanh chóng tiếp cận hiện trường khi được phân công khám
nghiệm; triển khai thực hiện đồng bộ hoạt động khám nghiệm hiện trường
một cách khoa học, với sự sắp xếp giải quyết hợp lý tất cả các phần việc, kể
từ khi nhận tin cho đến khi kết thúc khám nghiệm; ngay sau khi nhận tin,
người lãnh đạo chỉ huy phải linh hoạt, kịp thời đưa ra quyết định phù hợp.

Đồng thời nhanh chóng phân cơng giao việc và tổ chức huy động phương tiện
để đưa cán bộ tiếp cận hiện trường; phải phối hợp chặt chẽ các khâu, các lực
lượng chức năng liên quan. Trong quá trình khám nghiệm phải có kế hoạch cụ
thể, phân cơng giao việc rõ ràng, thực hiện đúng quy trình khám nghiệm và sử
dụng, áp dụng chiến thuật, phương pháp khám nghiệm một cách hợp lý nhất.
- Đảm bảo yêu cầu kế hoạch hóa: Q trình khám nghiệm phải được
lập kế hoạch và thực hiện theo kế hoạch đã vạch ra. Chỉ có như vậy thì việc
khám nghiệm hiện trường mới đảm bảo được tính khoa học, nghiên cứu đánh
giá dấu vết, vật chứng mới có hiệu quả. Việc lập kế hoạch đối với công tác
khám nghiệm hiện trường là một yếu tố quan trọng, vừa đảm bảo yêu cầu về
tính cấp bách, vừa thể hiện sự phối hợp có hiệu quả các lực lượng nghiệp vụ.
Tính kế hoạch hóa của cơng tác khám nghiệm hiện trường vụ việc
mang tính hình sự thể hiện ở những vấn đề sau: Cơ quan điều tra phải xây


21

dựng các phương án tác chiến áp dụng trong điều tra tại hiện trường. Nội
dung của phương án cần thể hiện: Khi nhận tin cần nắm nội dung gì, dự kiến
thành viên hội đồng khám nghiệm hiện trường gồm những lực lượng nào
tham gia, khi tiếp cận hiện trường làm những cơng việc gì, dự kiến các tình
huống có thể xảy ra khi khám nghiệm hiện trường và phương án giải quyết;
tính kế hoạch trong khám nghiệm hiện trường thể hiện trong việc chuẩn bị
nhân lực, phương tiện kỹ thuật và trình tự giải quyết các cơng việc ở hiện
trường của từng lực lượng tham dự khám nghiệm. Đồng thời còn thể hiện ở
sự phối hợp điều động phương tiện giao thông để đưa lực lượng khám nghiệm
đến hiện trường.
- Đảm bảo yêu cầu bí mật: Khám nghiệm hiện trường là cơng tác
nghiệp vụ điều tra, trong q trình thực hiện sử dụng rất nhiều phương pháp,
biện pháp nghiệp vụ chuyên sâu, do vậy, giữ bí mật nghiệp vụ này là vấn đề

có tính ngun tắc. Thơng tin từ kết quả khám nghiệm hiện trường được sử
dụng để đấu tranh với tội phạm và vạch hướng điều tra, áp dụng các biện
pháp nghiệp vụ tiếp theo phải đảm bảo bí mật. Phải triển khai các biện pháp
giữ bí mật trong quá trình khám nghiệm hiện trường. Những người tham dự
khám nghiệm hiện trường không được cung cấp thông tin về hiện trường cho
bất cứ ai khơng có trách nhiệm. Người chỉ huy khám nghiệm phải quán triệt
vấn đề này để người tham dự khám nghiệm biết trước khi triển khai khám
nghiệm hiện trường.
- Đảm bảo phối hợp chặt chẽ giữa các lực lượng nghiệp vụ: Phản ánh
vật chất và phản ánh nhận thức ở hiện trường vụ việc mang tính hình sự có
quan hệ chặt chẽ với nhau. Khám nghiệm hiện trường vụ việc mang tính hình
sự là giai đoạn điều tra ban đầu, các tin tức, tài liệu về vụ việc thường rất hạn
chế cho nên dấu vết, vật chứng, cảnh vật ở hiện trường cần phải nghiên cứu
đánh giá khách quan, tồn diện. Điều đó chỉ đạt hiệu quả cao nếu có sự trao
đổi thơng tin giữa các lực lượng khám nghiệm. Khi tiến hành khám nghiệm
cần có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ của các lực lượng nghiệp vụ như Điều
tra viên, cán bộ Kỹ thuật hình sự, bác sĩ pháp y, các nhà chun mơn và các
lực lượng khác có liên quan. Để thực hiện yêu cầu này, mỗi lực lượng tham


×