Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

Người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự việt nam (2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (979.19 KB, 61 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN NHẬT TÂN

NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN CỬ NHÂN LUẬT HỌC
Chuyên ngành Luật Dân sự

Người hướng dẫn khoa học: GV. NGUYỄN THỊ HỒI TRÂM

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan đây là công trình khoa học do tác giả tự viết trên cơ sở
các kiến thức đã được học, qua quá trình nghiên cứu của bản thân và sự hướng dẫn
của GV. Nguyễn Thị Hoài Trâm. Tác giả xin chịu mọi trách nhiệm về tính trung
thực của Luận văn này.


LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành gửi lời cảm ơn đến các quý thầy cô của trường Đại học
Luật thành phố Hồ Chí Minh đã nhiệt tình giảng dạy, chỉ dẫn em trong quá trình
học tập tại trường.
Em xin chân thành gửi lời cảm ơn đến cơ Nguyễn Thị Hồi Trâm đã tận tình
giúp đỡ, hướng dẫn em hồn thành Luận văn này.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè đã ln động viên, hỗ trợ
em trong suốt quá trình học tập.




DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 sửa
đổi, bổ sung năm 2011
Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa
án nhân dân năm 2002 sửa đổi, bổ sung
năm 2011
Pháp lệnh Kiểm sát viên Viện kiểm sát
nhân dân năm 2002 sửa đổi, bổ sung
năm 2011
Tòa án nhân dân
Tòa án nhân dân tối cao
Viện kiểm sát nhân dân
Viện kiểm sát nhân dân tối cao

BLTTDS
Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm
TAND
Pháp lệnh Kiểm sát viên VKSND

TAND
TANDTC
VKSND
VKSNDTC


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ

TỤNG ......................................................................................................................... 3
1.1. Khái niệm người tiến hành tố tụng....................................................................... 3
1.2. Vị trí của người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự ở các mơ hình tố tụng ... 4
1.2.1. Mơ hình tố tụng tranh tụng................................................................................ 4
1.2.2. Mơ hình tố tụng thẩm vấn ................................................................................. 5
1.3. Đặc trưng, địa vị pháp lý của người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự ....... 6
1.4. Sự khác nhau về người tiến hành tố tụng giữa ngành luật tố tụng dân sự và các
ngành luật tố tụng khác ở Việt Nam ........................................................................... 8
1.4.1. Ngành luật tố tụng dân sự và luật tố tụng hình sự ............................................ 8
1.4.2. Ngành luật tố tụng dân sự và luật tố tụng hành chính....................................... 8
1.5. Quy định về người tiến hành tố tụng trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam .. 9
1.5.1. Quy định về người tiến hành tố tụng trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam
trước 01/01/2005 ......................................................................................................... 9
1.5.2. Quy định về người tiến hành tố tụng trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam
sau 01/01/2005 .......................................................................................................... 12
CHƯƠNG 2: NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG TRONG PHÁP LUẬT TỐ
TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH ......................................................... 15
2.1. Người tiến hành tố tụng trong hoạt động tố tụng dân sự của Tòa án nhân dân . 15
2.1.1. Chánh án Tòa án.............................................................................................. 15
2.1.2. Thẩm phán ....................................................................................................... 17
2.1.3. Hội thẩm nhân dân .......................................................................................... 24
2.1.4. Thư ký Tòa án ................................................................................................. 26
2.2. Người tiến hành tố tụng trong hoạt động tố tụng dân sự của Viện kiểm sát nhân
dân ............................................................................................................................. 27
2.2.1. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân .............................................................. 27
2.2.2. Kiểm sát viên................................................................................................... 28
2.3. Thay đổi người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự ...................................... 31
2.3.1. Khái niệm và ý nghĩa ...................................................................................... 31
2.3.2. Những trường hợp phải từ chối hoặc thay đổi người tiến hành tố tụng.......... 31
2.3.3. Thủ tục thay đổi người tiến hành tố tụng ........................................................ 33

2.4. Chế tài đối với người tiến hành tố tụng.............................................................. 35


CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ
NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ....................... 37
3.1. Thực trạng áp dụng những quy định pháp luật về người tiến hành tố tụng trong
tố tụng dân sự hiện nay ............................................................................................. 37
3.2. Một số kiến nghị về người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự .................... 43
3.2.1. Kiến nghị về các quy định pháp luật liên quan đến người tiến hành tố tụng .. 43
3.2.2. Kiến nghị về phát triển đội ngũ người tiến hành tố tụng ................................ 47
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 51


1

PHẦN MỞ ĐẦU
 Lý do chọn đề tài: Quan hệ pháp luật dân sự là một quan hệ pháp luật phổ
biến trong đời sống hàng ngày. Cũng vì thế, nhiều tranh chấp đã xảy ra từ những
quan hệ đó địi hỏi Nhà nước phải đứng ra giải quyết khi các cá nhân, cơ quan, tổ
chức có yêu cầu. Do đó, ngành luật tố tụng dân sự với đối tượng điều chỉnh là
những quan hệ pháp luật tố tụng phát sinh trong quá trình các vụ việc dân sự được
giải quyết đã trở thành một ngành luật quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt
Nam. Trong đó, cơ quan tiến hành tố tụng là những cơ quan Nhà nước được trao
quyền tiến hành các hoạt động tố tụng trong tố tụng dân sự. Tuy nhiên, những người
tiến hành tố tụng – người đại diện cho các cơ quan đó – mới thật sự đóng vai trị
quan trọng khi là người trực tiếp giải quyết các vụ việc dân sự. Chính vì thế, tác giả
đã chọn đề tài “Người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự Việt Nam” để
nghiên cứu sâu hơn chế định này.
 Tình hình nghiên cứu của đề tài: Hiện nay, có nhiều cơng trình nghiên cứu
đã nghiên cứu về những người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự Việt Nam.

Trong đó, có thể kể ra một số cơng trình như: Nguyễn Văn Tồn, Chế định Hội
thẩm nhân dân trong tố tụng dân sự - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, TP. HCM,
2009; Trần Ngọc Mai Phương, Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng
dân sự, TP. HCM, 2013; Bùi Thị Mai, Người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân
sự, TP. HCM, 2011;…
Như vậy, các cơng trình nghiên cứu này có thể nghiên cứu về tất cả những
người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự như đề tài tác giả đang nghiên cứu
hoặc chỉ về một nhóm người hay một người tiến hành tố tụng cụ thể. Các cơng trình
nghiên cứu này là nguồn tư liệu q giá cho tác giả cũng như những người nghiên
cứu khác. Tuy nhiên, các cơng trình này có một số hạn chế nhỏ như chưa thật sự
tồn diện vì chỉ nghiên cứu chuyên sâu một số người tiến hành tố tụng hoặc các bất
cập trong quy định của pháp luật chỉ mới được khái quát. Vì vậy, ở Luận văn này,
tác giả đã nghiên cứu tất cả những người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự
nhằm có sự tồn diện, đồng thời so sánh với tình hình thực tiễn hiện nay nhằm làm
rõ những bất cập và từ đó đưa ra những kiến nghị cụ thể.
 Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu, đánh giá các quy định của pháp luật về
người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự Việt Nam. Qua đó, phát hiện những
điểm chưa thật sự phù hợp thực tiễn và đưa ra một số kiến nghị để góp phần hồn
thiện chế định này.


2

 Đối tượng nghiên cứu: Những quy định của pháp luật Việt Nam về người
tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự.
 Giới hạn phạm vi nghiên cứu: Trong Luận văn này tác giả nghiên cứu về
các điều kiện để trở thành những người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự và
nhiệm vụ, quyền hạn của họ trong hoạt động tố tụng dân sự.
 Phương pháp tiến hành nghiên cứu: Tác giả đã sử dụng các phương pháp
phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh,… trên cơ sở phương pháp

luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để nghiên cứu đề tài.
 Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài: Việc nghiên cứu đề tài
này giúp làm rõ các quy định trong pháp luật Việt Nam về người tiến hành tố tụng
trong tố tụng dân sự. Đồng thời, những kiến nghị được đề xuất có thể ứng dụng vào
thực tiễn nhằm góp phần hồn thiện pháp luật tố tụng dân sự.
 Bố cục của Luận văn: Luận văn gồm có 03 chương:
 Chương 1: Một số vấn đề lý luận về người tiến hành tố tụng.
 Chương 2: Người tiến hành tố tụng trong pháp luật tố tụng dân sự Việt
Nam hiện hành.
 Chương 3: Thực trạng áp dụng và một số kiến nghị về người tiến hành
tố tụng trong tố tụng dân sự.


3

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG
1.1. Khái niệm người tiến hành tố tụng
Pháp luật ra đời từ sự xuất hiện của Nhà nước nhằm mục đích giúp Nhà nước
duy trì trật tự xã hội, bảo vệ địa vị của giai cấp thống trị bằng những quy tắc mang
tính xử sự chung mà mọi người trong xã hội bắt buộc phải tuân theo, được gọi là
các quy phạm pháp luật. Quy phạm pháp luật có thể phân loại thành quy phạm nội
dung và quy phạm hình thức. Quy phạm pháp luật nội dung là những quy phạm xác
định các quyền, nghĩa vụ hay trách nhiệm của các chủ thể pháp luật. Và quy phạm
pháp luật tố tụng là những quy phạm xác định trình tự, thủ tục để các chủ thể thực
hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình.
Nói cách khác, quy phạm pháp luật tố tụng là cách thức để các chủ thể bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình được quy phạm pháp luật nội dung quy định
khi họ cho rằng những quyền và lợi ích này bị xâm phạm. Vì vậy, những văn bản
pháp luật tố tụng sẽ quy định tồn bộ trình tự, thủ tục cho việc giải quyết các vụ

việc dân sự, vụ án hành chính, vụ án hình sự từ khi bắt đầu q trình tố tụng cho
đến khi kết thúc bằng việc thi hành án. Ngồi ra, luật cịn quy định các quyền và
nghĩa vụ của các chủ thể của các quan hệ pháp luật tố tụng trong q trình đó.
Trong một vụ việc, bên cạnh sự tham gia của các cá nhân, cơ quan, tổ chức
có liên quan thì phải có sự tham gia của Nhà nước để thực hiện quyền lực Nhà nước
trong lĩnh vực tư pháp. Do đó, một số cơ quan Nhà nước được trao quyền tham gia
vào quá trình tố tụng với các chức năng khác nhau nhằm đi đến mục đích cuối cùng
là giải quyết vụ việc một cách tồn diện, chính xác, khách quan, nhanh chóng và
đúng pháp luật. Những cơ quan này được gọi là cơ quan tiến hành tố tụng.
Trong quá trình thực hiện chức năng của mình, do là một tổ chức nên các cơ
quan này khơng thể tự mình tiến hành các thủ tục tố tụng mà phải thông qua những
cá nhân, con người cụ thể và những người này được gọi là người tiến hành tố tụng.
Tuy nhiên, cũng như cơ quan tiến hành tố tụng, các văn bản pháp luật tố tụng hiện
nay và trong quá khứ đều không đưa ra định nghĩa thế nào là người tiến hành tố
tụng mà chỉ dừng lại ở việc liệt kê. Do đó, người tiến hành tố tụng có thể hiểu là
những người đại diện cho các cơ quan tiến hành tố tụng, cho Nhà nước để thực thi
quyền lực Nhà nước trong tố tụng. Vì vậy, họ được Nhà nước trao cho các quyền
hạn để thực hiện nhiệm vụ của mình.
Người tiến hành tố tụng là những người có nghĩa vụ bảo vệ pháp luật, quyền
và lợi ích hợp pháp của mỗi cá nhân, cơ quan, tổ chức trong xã hội. Cũng vì thế,


4

mỗi người tiến hành tố tụng phải là những người có đủ trình độ, kiến thức pháp luật
và kinh nghiệm nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ của mình. Bên cạnh đó, họ cịn phải là
những người có phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức tốt, tinh thần kiên quyết
bảo vệ cơng bằng, lẽ phải để có thể đưa ra mọi quyết định trên cơ sở pháp luật, đánh
giá vụ việc một cách khách quan, cơng tâm, khơng có sự chủ quan, định kiến cá
nhân hay thiên vị cho bất kì bên nào.

Ngồi ra, nhằm đảm bảo pháp luật được các cơ quan tiến hành tố tụng cũng
như người tiến hành tố tụng tuân theo trong khi thực hiện nhiệm vụ, việc kiểm tra,
giám sát cũng được đặt ra. Điều này được thể hiện qua các quyền yêu cầu, kiến
nghị, kháng nghị của VKSND; giám đốc việc xét xử của TANDTC đối với TAND
các cấp, của TAND cấp trên đối với TAND cấp dưới. Đây chính là những cơ chế tự
kiểm tra cũng như kiểm tra chéo nhằm bảo đảm hoạt động tố tụng diễn ra đúng
pháp luật. Bên cạnh đó, cịn có sự giám sát của cơ quan quyền lực Nhà nước và của
nhân dân đối với hoạt động của những người tiến hành tố tụng.
Như vậy, có thể thấy người tiến hành tố tụng có vai trị rất quan trọng, trực
tiếp thực hiện quyền lực Nhà nước trong lĩnh vực tư pháp, gìn giữ trật tự trong đời
sống xã hội, bảo vệ cơng lý, lẽ phải. Qua đó, góp phần hồn thành những mục tiêu
mà Đảng và Nhà nước hướng tới.
1.2. Vị trí của người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự ở các mơ hình tố
tụng
Hệ thống pháp luật thế giới được phân chia thành các nhóm khác nhau, trong
đó có 02 hệ thống phổ biến, đó là hệ thống pháp luật Anh – Mỹ (Common Law) và
hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa (Civil Law). Pháp luật tố tụng nói chung hay
mơ hình tố tụng nói riêng cũng được phân loại dựa theo các thủ tục tố tụng mà mơ
hình đó thể hiện. Theo đó, hiện nay cũng có 02 mơ hình tố tụng cơ bản: tố tụng
tranh tụng và tố tụng thẩm vấn.
1.2.1. Mơ hình tố tụng tranh tụng
Tố tụng tranh tụng là mơ hình mà vị trí trung tâm ở phiên tòa thuộc về những
người tham gia tố tụng, các bên đương sự sẽ tự thu thập chứng cứ, tìm kiếm người
làm chứng, người giám định,… để đưa ra tại phiên tịa và chứng minh cho u cầu
của mình bằng việc tranh luận với đương sự bên kia để bảo vệ quan điểm. Việc hỏi
các đương sự khác, người làm chứng, người giám định,… cũng thuộc quyền của
mỗi đương sự. Và các đương sự thường sẽ ủy quyền cho luật sư thực hiện những
quyền này của mình ở Tịa án.
Ở mơ hình tố tụng này, lời khai, chứng cứ và sự tranh luận của các bên tại
Tòa án mới được xem là cơ sở để ra phán quyết. Do đó, khơng tồn tại việc lấy lời



5

khai trước phiên tịa. Vì vậy, Thẩm phán chỉ giữ vai trị điều khiển cho q trình tố
tụng diễn ra theo đúng trình tự, thủ tục, ra các phán quyết miệng trước những yêu
cầu và phản đối của luật sư các bên1. Bên cạnh đó, phiên tịa của mơ hình này trong
một số trường hợp có sự tham gia của Bồi thẩm đoàn thay cho chế định Hội thẩm
nhân dân sẽ cùng với Thẩm phán ra phán quyết. Tuy nhiên, chính vì những đặc
điểm này mà mơ hình này cũng tồn tại những bất cập. Đó chính là do phụ thuộc chủ
yếu vào hoạt động thu thập chứng cứ và chứng minh của các đương sự nên sẽ dễ có
sự thiếu sót. Từ đó dẫn đến tình trạng phán quyết được đưa ra khơng trên cơ sở
đánh giá tồn diện vụ việc.
1.2.2. Mơ hình tố tụng thẩm vấn
Đối với mơ hình tố tụng thẩm vấn thì ngược lại, vai trị trung tâm lại thuộc về
Tịa án. Theo đó, Thẩm phán được quyền tiến hành các hoạt động thu thập chứng
cứ, xét hỏi tại phiên tòa, triệu tập người làm chứng, người giám định,… Vì vậy, các
chứng cứ thường đã thu thập khá đầy đủ trước khi mở phiên tòa. Phiên tịa ở mơ
hình tố tụng này có thể nói chỉ là việc những người tiến hành tố tụng đối chiếu,
kiểm tra, làm rõ những chứng cứ này trước khi Hội đồng xét xử ra phán quyết. Điều
này đã dẫn đến tình trạng “án tại hồ sơ”, trọng chứng cứ “viết” hơn chứng cứ “nói”,
ảnh hưởng từ sự tranh luận của các bên cũng như vai trò của những người tham gia
tố tụng tại phiên tòa đối với phán quyết cuối cùng là khá mờ nhạt.
Chính vì hai mơ hình tố tụng cịn có những bất cập nên cả hai mơ hình tố
tụng này đang có xu hướng xích lại gần nhau, ví dụ như ở Pháp, Brazil,… tạo nên
một mơ hình tố tụng hỗn hợp. Chẳng hạn như theo quy định của Bộ luật Tố tụng
dân sự Pháp năm 1975: có Thẩm phán điều tra để thu thập chứng cứ độc lập với
Thẩm phán xét xử); có sự trao đổi tài liệu, chứng cứ giữa các luật sư;… Hay như
Luật Tố tụng dân sự Brazil năm 1973 có quy định: Trong một phạm vi giới hạn, đưa
ra những chứng cứ, phản biện và tranh luận bằng miệng trong một phiên tịa tập

trung duy nhất2.
Về mơ hình tố tụng ở Việt Nam, theo các quy định của BLTTDS thì có thể
thấy Việt Nam có mơ hình tố tụng hỗn hợp. Điều này được thể hiện qua các hoạt
động như: thu thập chứng cứ, thủ tục hỏi, tranh luận tại phiên tòa,… Ví dụ: Đương
sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ còn Thẩm phán chỉ được tiến hành thu
thập chứng cứ trong các trường hợp được luật cho phép. Hay tại phiên tòa, bên cạnh
việc hỏi của Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên thì đương sự cũng có quyền hỏi các
1

Phan Hữu Thư (2001), Xây dựng Bộ luật Tố tụng dân sự: Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, tr. 106 - 107.
2
Phan Hữu Thư (2001), Xây dựng Bộ luật Tố tụng dân sự: Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, tr. 108 - 109.


6

đương sự khác, người tham gia tố tụng. Ngoài ra, không chỉ các chứng cứ đã được
thu thập trong hồ sơ mà tranh luận tại phiên tòa của các đương sự đóng vai trị quan
trọng để Hội đồng xét xử ra phán quyết.
1.3. Đặc trưng, địa vị pháp lý của người tiến hành tố tụng trong tố tụng dân sự
Người tiến hành tố tụng là chủ thể xuất hiện ở tất cả các ngành luật tố tụng.
Do đó, mặc dù có những điểm khác nhau nhưng nhìn chung trong tố tụng dân sự,
người tiến hành tố tụng cũng có những đặc trưng và địa vị pháp lý sau:
Thứ nhất, đại diện cho Nhà nước và có chức năng riêng biệt trong bộ máy
Nhà nước
Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng và phối hợp giữa các cơ
quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Trong
đó, TAND và VKSND là những cơ quan tư pháp được trao quyền tiến hành tố tụng

trong hoạt động tố tụng dân sự. Và những người tiến hành tố tụng chính là những
người đại diện cho TAND, VKSND trực tiếp thực hiện các chức năng của 02 cơ
quan này trong hoạt động tố tụng. Hay cũng có thể nói, họ là những người đại diện
cho Nhà nước và mang quyền lực Nhà nước trong việc giải quyết các vụ việc dân
sự.
Bên cạnh đó, theo quy định của Hiến pháp chỉ có TAND có chức năng xét
xử, VKSND có chức năng thực hành quyền cơng tố và kiểm sát hoạt động tư pháp.
Như vậy, trong tố tụng dân sự, khi thực hiện công tác xét xử cũng như kiểm sát việc
tuân theo pháp luật, chỉ có những người tiến hành tố tụng của TAND, VKSND mới
có nhiệm vụ, quyền hạn để thay mặt Nhà nước giải quyết các vụ việc dân sự. Do đó,
khơng có cơ quan hay cá nhân nào khác trong bộ máy Nhà nước có chức năng cũng
như những quyền hạn này.
Thứ hai, bảo vệ và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa
Các văn bản pháp luật được ban hành là cơ sở quan trọng để xây dựng một
Nhà nước pháp quyền, một xã hội thượng tôn pháp luật. Tuy nhiên, để pháp luật đi
vào cuộc sống phải có cơ chế thi hành cũng như bảo đảm những quy định đó được
thực hiện một cách đúng đắn.
Thông qua công tác xét xử, TAND đã sử dụng và giải thích pháp luật để giải
quyết những mâu thuẫn phát sinh trong giao lưu dân sự mà người dân đã yêu cầu
Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Bên cạnh đó, VKSND kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong tố tụng, bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm
chỉnh và thống nhất, là một thiết chế hữu hiệu để bảo vệ pháp chế và chế độ xã hội
chủ nghĩa, quyền lợi của mọi tổ chức, cá nhân trong xã hội. Hoạt động của TAND


7

và VKSND đã góp phần quan trọng vào việc bảo vệ pháp luật, xây dựng niềm tin
của nhân dân vào công lý cũng như đưa những văn bản pháp luật đi vào thực tiễn.
Qua việc thực hiện nhiệm vụ của mình, những người tiến hành tố tụng đã có

những đóng góp vào việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Đường lối, chủ
trương do Đảng đề ra đã được TAND, VKSND thực hiện thông qua công tác xét xử
và kiểm sát. Bên cạnh đó, người tiến hành tố tụng khơng chỉ là người bảo vệ luật
pháp mà cịn là người đại diện cho công lý và là tấm gương, hình mẫu cho các cá
nhân khác học tập, từ đó nâng cao ý thức pháp luật của toàn xã hội.
Ngoài ra, khi tiến hành tố tụng, tiếp xúc với vô số những vấn đề xảy ra trong
đời sống dân sự hàng ngày, họ cịn góp phần vào việc xây dựng pháp luật. Những
bất cập, chưa hợp lý của các quy định trong pháp luật dân sự nói chung cũng như tố
tụng dân sự nói riêng sẽ được phát hiện và kiến nghị để sửa đổi, qua đó góp phần
vào việc hoàn thiện hệ thống pháp luật của Việt Nam.
Thứ ba, độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong khi thực hiện nhiệm vụ
TAND, VKSND là 02 hệ thống cơ quan độc lập trong bộ máy Nhà nước, do
đó khơng chịu sự ràng buộc cũng như ảnh hưởng từ quyền lực của bất kì cơ quan
Nhà nước hay cá nhân nào trong khi thực hiện nhiệm vụ của mình. Việc tổ chức này
nhằm giúp TAND, VKSND được độc lập khi thực hiện cơng tác xét xử, kiểm sát,
có sự khách quan trong việc giải quyết các vụ việc dân sự, ln đứng về phía cơng
lý và lẽ phải.
Bên cạnh đó, sự độc lập này cũng thể hiện ở mỗi người tiến hành tố tụng.
Theo đó, khi xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Điều
này được thể hiện ở việc họ độc lập trong nghiên cứu hồ sơ, đánh giá chứng cứ,
nghị án,… để tự mình đưa ra những nhận định về việc giải quyết vụ việc theo quy
định của pháp luật. Ngoài ra, Chánh án Tòa án, Viện trưởng VKSND tuy là người
đứng đầu mỗi cơ quan nhưng không được áp đặt các Thẩm phán, Hội thẩm hay
Kiểm sát viên khi những người tiến hành tố tụng này thực hiện nhiệm vụ của họ
theo quy định của pháp luật. Đồng thời, chính Chánh án Tịa án và Viện trưởng
VKSND cũng khơng chịu sự chỉ đạo từ cấp trên khi tiến hành tố tụng.
Thứ tư, có vai trị đảm bảo cho q trình giải quyết vụ việc dân sự được diễn
ra theo đúng quy định của pháp luật
Pháp luật dân sự điều chỉnh các quan hệ xã hội trong giao lưu dân sự giữa
các cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác nên Nhà nước không can thiệp sâu vào

các quan hệ này. Vì vậy, ngành luật tố tụng dân sự cũng tuân theo tư tưởng đó. Cụ
thể, TAND chỉ làm nhiệm vụ xét xử, việc đưa ra các chứng cứ và chứng minh là
quyền và nghĩa vụ của các đương sự, Thẩm phán chỉ được thu thập chứng cứ trong


8

những trường hợp luật định. Kiểm sát viên khi tiến hành tố tụng cũng chỉ làm nhiệm
vụ kiểm sát, không tranh luận với người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các
đương sự. Bên cạnh đó, hoạt động yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị của VKSND;
kháng nghị của Chánh án Tịa án có thẩm quyền cũng thể hiện đặc trưng này.
1.4. Sự khác nhau về người tiến hành tố tụng giữa ngành luật tố tụng dân sự và
các ngành luật tố tụng khác ở Việt Nam
Người tiến hành tố tụng trong ngành luật tố tụng dân sự và các ngành luật tố
tụng khác mặc dù có những điểm khác nhau nhưng đồng thời cũng có những điểm
tương đồng. Về những điểm giống nhau, đó là việc Hội đồng xét xử với chức năng
xét xử sẽ đánh giá các chứng cứ để nhân danh Nhà nước ra phán quyết một cách
cơng minh, tồn diện, khách quan và chính xác nhằm bảo vệ cho cơng lý, lẽ phải.
Ngồi ra, VKSND với chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp sẽ kiểm sát việc xét
xử của Tòa án và thi hành án nhằm bảo đảm pháp luật của Nhà nước được thi hành
đúng đắn. Bên cạnh đó, người tiến hành tố tụng ở các ngành luật có những điểm
khác nhau như sau:
1.4.1. Ngành luật tố tụng dân sự và luật tố tụng hình sự
Nếu như trong tố tụng dân sự, người tiến hành tố tụng không can thiệp sâu
vào hoạt động tố tụng thì tố tụng hình sự khơng như vậy. Tội phạm là hành vi có
tính chất nguy hiểm cho xã hội mà người phạm tội đã thực hiện nên phải chịu trách
nhiệm trước Nhà nước vì hành vi đó. Vì vậy, nghĩa vụ chứng minh sẽ thuộc về Nhà
nước. Theo đó, một cơ quan Nhà nước được trao quyền là Cơ quan điều tra sẽ tiến
hành các hoạt động khởi tố, điều tra nhằm mục đích chứng minh một người đã thực
hiện tội phạm, việc này sẽ do Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Phó Thủ trưởng Cơ

quan điều tra và Điều tra viên trực tiếp tiến hành. Đây cũng là cơ quan mà chỉ trong
tố tụng hình sự mới có. Trong q trình này, VKSND sẽ kiểm sát hoạt động của Cơ
quan điều tra. Ngoài ra, VKSND với chức năng thực hành quyền công tố sẽ truy tố
người phạm tội trước TAND và bảo vệ quan điểm của mình tại phiên tịa.
1.4.2. Ngành luật tố tụng dân sự và luật tố tụng hành chính
Người tiến hành tố tụng trong ngành luật tố tụng dân sự và tố tụng hành
chính về cơ bản khơng có nhiều sự khác biệt. Điều này thể hiện ở số lượng cũng
như chức năng, vị trí của các cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành tố
tụng. Sự khác nhau chỉ được thể hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của người
tiến hành tố tụng, các trường hợp phải từ chối hoặc thay đổi,… do đặc thù của hai
ngành luật. Điều này có thể thấy qua các hoạt động tố tụng như đối thoại, việc xác
định vấn đề cần chứng minh,…


9

1.5. Quy định về người tiến hành tố tụng trong pháp luật tố tụng dân sự Việt
Nam
1.5.1. Quy định về người tiến hành tố tụng trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam
trước 01/01/2005
 Giai đoạn 1945 – 1960: Cách mạng tháng Tám thành cơng, đất nước ta
thốt khỏi ách thống trị của thực dân, đế quốc trở thành một quốc gia độc lập, tự do.
Để xây dựng và củng cố bộ máy Nhà nước, hàng loạt văn bản pháp luật đã được
ban hành, trong đó có những văn bản về tố tụng nói chung và người tiến hành tố
tụng trong tố tụng dân sự nói riêng. Trước hết là Sắc lệnh số 32 ngày 13/9/1945 bãi
bỏ hai ngạch quan hành chính và quan tư pháp, Sắc lệnh số 47 ngày 10/10/1945 quy
định về việc tạm thời giữ nguyên như cũ các luật lệ hiện hành ở Bắc, Trung, Nam
cho đến khi ban hành những bộ luật pháp duy nhất cho tồn quốc nếu những luật lệ
đó khơng trái với nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng
hịa.

Hiến pháp năm 1946 – bản Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam độc
lập - đã có những quy định mới về cơ quan tư pháp. Cụ thể hóa những quy định đó,
Chính phủ đã ban hành Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946 quy định tổ chức các Tòa
án và các ngạch Thẩm phán, Sắc lệnh số 51 ngày 17/4/1946 ấn định thẩm quyền các
Tịa án,… Theo đó, các cơ quan tư pháp là Tòa Thượng thẩm, Tòa án đệ nhị cấp,
Tòa án sơ cấp và Ban tư pháp xã. Tuy nhiên, các văn bản này không thể hiện ai
được xem là người tiến hành tố tụng. Vì vậy, chỉ có thể xác định những người tiến
hành tố tụng qua chức năng và nhiệm vụ, quyền hạn của họ, gồm có: Thẩm phán Sơ
cấp, Thẩm phán Đệ nhị cấp (gồm Thẩm phán xử án và Thẩm phán buộc tội)3, Lục
sự và các ủy viên của Ban tư pháp4. Trong đó, Ban tư pháp xã có quyền hịa giải tất
cả các việc dân sự và thương sự. Và nếu hòa giải được, Ban tư pháp có thể lập biên
bản hịa giải có các ủy viên và những người đương sự ký5.
Về hệ thống Tòa án, Thẩm phán xử án, Thẩm phán buộc tội có các ngạch,
bậc khác nhau và gắn với nhiệm vụ, quyền hạn ở mỗi cấp Tịa án6. Ngồi ra, các
Thẩm phán buộc tội trong quản hạt một Tòa Thượng thẩm họp thành một đồn thể
độc lập gọi là Cơng tố viện trực thuộc Bộ Tư pháp7. Thẩm phán xử án có nhiệm vụ

3

Điều thứ 48, 49 Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946.
Điều thứ 2 Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946.
5
Khoản 1 Điều thứ 3 Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946.
6
Điều thứ 52 Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946.
7
Điều thứ 51 Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946.
4



10

chính là xét xử nhưng có thể kiêm thêm chức vụ khác8, Thẩm phán buộc tội có
nhiệm vụ tư pháp cảnh sát và cơng tố, cịn Lục sự giữ vai trò là Thư ký Tòa án.
Cụ thể, Thẩm phán xử án bậc Chánh án có quyền điều khiển và kiểm sốt tất
cả nhân viên khác trong Tịa án trừ các Thẩm phán buộc tội9. Thẩm phán buộc tội
phải tham gia các phiên tịa về việc hộ, có nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi của các vị
thành niên, của các người bị cấm quyền cùng của các pháp nhân hành chính; phải
can thiệp vào những việc quan hệ đến thân phân và căn cước cùng vào những việc
mà pháp luật bắt buộc phải có ý kiến; có quyền quản trị Tịa án, điều khiển và kiểm
sốt cơng việc của tất cả các nhân viên trong tòa trừ các Thẩm phán xử án10;…
Một người để được bổ nhiệm ngạch Thẩm phán Sơ cấp phải ít nhất 21 tuổi,
có bằng Tú tài và trúng tuyển một kỳ thi; người có bằng Luật khoa Tú tài có thể
được bổ nhiệm thẳng vào hạng ba khơng phải thi, nếu có bằng Luật khoa Cử nhân
thì có thể được bổ nhiệm hạng nhất. Bên cạnh đó, để được bổ nhiệm ngạch Thẩm
phán Đệ nhị cấp hạng bảy phải ít nhất 24 tuổi, có bằng Luật khoa Cử nhân và trúng
tuyển một kỳ thi. Những Thẩm phán Sơ cấp hạng nhất tuy khơng có bằng Cử nhân
luật cũng có thể dự kỳ thi để lên ngạch Thẩm phán Đệ nhị cấp nhưng chỉ tuyển vào
một phần năm số khuyết. Các Thẩm phán Đệ nhị cấp sẽ do một sắc lệnh của Chủ
tịch nước Việt Nam bổ nhiệm còn các Thẩm phán Sơ cấp sẽ do nghị định Bộ trưởng
Bộ Tư pháp bổ nhiệm11.
Ngày 22/5/1950, Chính phủ đã ban hành Sắc lệnh số 85 ngày 22/5/1950 quy
định về tổ chức và hoạt động của các cơ quan Tòa án, Ban Tư pháp đã có một số cải
cách trong hoạt động tố tụng dân sự. Theo đó, có thêm sự tham gia của Hội thẩm
nhân dân - do Hội đồng nhân dân bầu ra - khi xét xử việc hộ ở các cấp Tịa án, có
quyền xem hồ sơ và biểu quyết khi xét xử12.
 Giai đoạn 1960 – 1989: Sau chiến thắng 07/5/1954, miền Bắc đã hoàn toàn
giải phóng, đi lên chủ nghĩa xã hội nhưng miền Nam vẫn còn chịu ách thống trị của
đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai. Hiến pháp năm 1959, Luật Tổ chức TAND năm
1960, Luật Tổ chức VKSND năm 1960 cùng hàng loạt văn bản dưới luật được ban

hành đã xây dựng một trình tự, thủ tục tương đối hồn chỉnh trong hoạt động tố
tụng, trong đó có tố tụng dân sự. Sự ra đời của VKSND cùng với việc hoàn thiện
TAND đã đặt nền móng cho việc phát triển các cơ quan tiến hành tố tụng sau này.

8

Điều thứ 34, 35 Sắc lệnh số 51 ngày 17/4/1946.
Điều thứ 17, 36 Sắc lệnh số 51 ngày 17/4/1946.
10
Điều thứ 26, 30, 31, 40 Sắc lệnh số 51 ngày 17/4/1946.
11
Điều thứ 54, 55, 57 Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946.
12
Điều 3, 4, 5, 6 Sắc lệnh số 85 ngày 22/5/1950.
9


11

Trong tố tụng dân sự, TAND là cơ quan xét xử đồng thời tổ chức thi hành
án , VKSND kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử của TAND và chấp
hành các bản án, có quyền khởi tố hoặc tham gia tố tụng trong những vụ án dân sự
quan trọng liên quan đến lợi ích của Nhà nước và của nhân dân14. Người tiến hành
tố tụng trong tố tụng dân sự theo đó gồm có: Chánh án Tịa án, Thẩm phán, Hội
thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án thuộc TAND và Viện trưởng VKSND, Kiểm sát
viên thuộc VKSND.
Viện trưởng VKSNDTC, Chánh án TANDTC do Quốc hội bầu và bãi miễn;
Kiểm sát viên VKSNDTC, Thẩm phán TANDTC do Ủy ban thường vụ Quốc hội
bổ nhiệm và bãi miễn15. Ngoài ra, Viện trưởng, Kiểm sát viên VKSND địa phương
do VKSNDTC bổ nhiệm và bãi miễn nhưng Chánh án, Thẩm phán TAND địa

phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra và bãi miễn16.
 Giai đoạn 1989 đến trước 01/01/2005: Ngày 30/4/1975, nhân dân ta đã
giải phóng hồn tồn miền Nam, thống nhất đất nước. Năm 1980, Quốc hội mới đã
ban hành Hiến pháp năm 1980, là cơ sở cho việc tiếp tục hoàn thiện các cơ quan tư
pháp. Sau đó, các văn bản cụ thể hóa Hiến pháp đã ra đời như: Luật Tổ chức TAND
năm 1981, Luật Tổ chức VKSND năm 1981; Thông tư số 01/TTLN ngày
01/02/1982 của TANDTC, VKSNDTC và Bộ Tư pháp hướng dẫn về thủ tục tái
thẩm hình sự, dân sự ở TAND cấp tỉnh; Thông tư số 82/TATC ngày 07/01/1982 của
TANDTC tạm thời quy định về thẩm quyền của TAND; Thông tư số 83/TATC
ngày 02/8/1982 của TANDTC hướng dẫn thủ tục giám đốc thẩm ở TANDTC;
Thông tư số 02/TTLN ngày 02/10/1985 của TANDTC, VKSNDTC, Bộ Tư pháp và
Tổng cục dạy nghề hướng dẫn thực hiện thẩm quyền xét xử của TAND,…
Theo đó, điểm đáng chú ý là nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân
khi xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật đã được ghi nhận chính thức trong
Hiến pháp17. Ngồi ra, việc thi hành án dân sự khơng cịn do TAND tiến hành mà
được chuyển qua cơ quan thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp chính thức từ ngày
01/01/1990. Chế độ bầu, bổ nhiệm người tiến hành tố tụng có một số thay đổi như:
Thẩm phán TANDTC, Kiểm sát viên VKSNDTC do Hội đồng Nhà nước cử18.
Năm 1989, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự được ban hành và
có hiệu lực từ ngày 01/01/1990 đã đánh dấu bước phát triển mới của ngành luật tố
13

13

Điều 24 Luật Tổ chức TAND năm 1960.
Điều 3 Luật Tổ chức VKSND năm 1960.
15
Điều 23 Luật Tổ chức VKSND năm 1960, Điều 26 Luật Tổ chức TAND năm 1960.
16
Điều 24 Luật Tổ chức VKSND năm 1960; Điều 27, 28 Luật Tổ chức TAND năm 1960.

17
Điều 131 Hiến pháp năm 1980.
18
Điều 42 Luật Tổ chức TAND năm 1981, Điều 6 Nghị quyết số 451/NQ-HĐNN7 ngày 29/09/1983 phê
chuẩn Quy chế Ngạch Kiểm sát viên VKSND.
14


12

tụng dân sự Việt Nam. Lần đầu tiên từ năm 1945 đã có một văn bản pháp luật riêng
biệt về tố tụng dân sự tập hợp, hệ thống hóa các quy định về trình tự, thủ tục tố
tụng, góp phần cho việc giải quyết tốt hơn các vụ án dân sự tại TAND. Tuy nhiên,
theo quy định của Pháp lệnh này, VKSND chỉ được xem là cơ quan tham gia tố
tụng19. Điều này cũng đồng nghĩa với việc Viện trưởng VKSND, Kiểm sát viên chỉ
là người tham gia tố tụng.
Sau đó, nhiều văn bản pháp luật liên quan đến tố tụng dân sự khác đã được
ban hành như: Luật Tổ chức TAND năm 1992, Luật Tổ chức VKSND năm 1992,
Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án
kinh tế năm 1994, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động năm
1996,… Chế độ bầu, cử Thẩm phán, Kiểm sát viên đã được thay đổi theo hướng trở
lại chế độ bổ nhiệm: Thẩm phán TANDTC, Chánh án, Thẩm phán TAND địa
phương, Kiểm sát viên VKSNDTC do Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách
chức20.
Đến năm 2002, Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001, Luật Tổ
chức TAND năm 2002, Luật Tổ chức VKSND năm 2002 được ban hành. Trong đó,
đã có những sự thay đổi về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong tố tụng dân sự
theo hướng hoàn thiện và tăng quyền như: kiểm sát việc thụ lý vụ án, tự mình xác
minh những vấn đề cần làm sáng tỏ nhằm giải quyết đúng đắn vụ án, tham gia các
phiên tòa và phát biểu quan điểm của VKSND về việc giải quyết vụ án21,… Ngoài

ra, chế độ Hội thẩm nhân dân ở TANDTC đã bị bãi bỏ, chế độ bổ nhiệm Chánh án,
Thẩm phán cũng được thay đổi22. Vì vậy, cơng việc của Chủ tịch nước được giảm
đi, phân cấp quản lý cho Chánh án TANDTC qua đó cũng giúp tăng cường mối
quan hệ gắn bó giữa người đứng đầu ngành Tòa án với cấp dưới của mình.
1.5.2. Quy định về người tiến hành tố tụng trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam
sau 01/01/2005
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 được ban hành và có hiệu lực từ ngày
01/01/2005 là bước phát triển lớn tiếp theo của ngành luật tố tụng dân sự Việt Nam.
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 đã thống nhất các quy phạm tố tụng dân sự nằm ở
các Pháp lệnh khác nhau, cách hiểu về tố tụng dân sự được mở rộng (bao gồm cả tố
tụng kinh tế và tố tụng lao động), hoàn thiện các nguyên tắc, trình tự, thủ tục tố
tụng.

19

Điều 28 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989.
Điều 38 Luật Tổ chức TAND năm 1992, Điều 17 Pháp lệnh về Kiểm sát viên VKSND ngày 12/5/1993.
21
Điều 21 Luật Tổ chức VKSND năm 2002.
22
Điều 40, 41 Luật Tổ chức TAND năm 2002.
20


13

Ngoài ra, thay đổi đáng kể của VKSND là về thẩm quyền của VKSND:
VKSND kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện các quyền
yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm việc giải
quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật; tham gia phiên tòa đối với những vụ

án do Tòa án thu thập chứng cứ mà đương sự có khiếu nại, các việc dân sự thuộc
thẩm quyền giải quyết của Tòa án, các vụ việc dân sự mà Viện kiểm sát kháng nghị
bản án, quyết định của Tịa án. Như vậy, VKSND khơng cịn quyền khởi tố vụ án
dân sự, điều này xuất phát từ việc Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung đã bỏ chức
năng kiểm sát chung của VKSND. Bên cạnh đó, những người tiến hành tố tụng
được xác định là: Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án,
Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên23.
Trong quá trình thực hiện, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 đã phát sinh
những những vấn đề đòi hỏi phải có sự sửa đổi, bổ sung Bộ luật. Do đó, Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 đã được thông qua
ngày 29/3/2011 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2012. Trong đó, sự thay đổi
lớn là về vai trị của VKSND trong tố tụng dân sự theo hướng tăng quyền giám
sát24, bảo đảm pháp luật được thi hành đúng đắn. Vì vậy, nhiệm vụ, quyền hạn của
Kiểm sát viên cũng có một số sự thay đổi25.
Ngày 28/11/2013, Hiến pháp năm 2013 sửa đổi Hiến pháp năm 1992 được
thông qua và có hiệu lực từ ngày 01/01/2014 – bản Hiến pháp của thời kỳ đổi mới
toàn diện đất nước – đã khẳng định rõ hơn vị trí, nhiệm vụ của TAND và VKSND
cũng như những người tiến hành tố tụng. Theo đó, TAND có nhiệm vụ bảo vệ cơng
lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân26. VKSND có
nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống
nhất27. Ngoài ra, một số nguyên tắc được quy định rõ như: Nghiêm cấm cơ quan, tổ
chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm; nguyên tắc tranh
tụng trong xét xử được bảo đảm; quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được
bảo đảm; khi thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, Kiểm sát viên
tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo của Viện trưởng VKSND28;… Đây chính là
23


Khoản 2 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004.
Điều 21 BLTTDS.
25
Điều 234, 262, 271, 273a BLTTDS.
26
Khoản 3 Điều 102 Hiến pháp năm 2013.
27
Khoản 3 Điều 107 Hiến pháp năm 2013.
28
Khoản 2, 5, 7 Điều 103; khoản 2 Điều 109 Hiến pháp năm 2013.
24


14

những cơ sở để xây dựng các văn bản pháp luật mới theo tinh thần Hiến pháp năm
2013 liên quan đến tổ chức, hoạt động của TAND và VKSND, các văn bản luật tố
tụng,…


15

CHƯƠNG 2: NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG
TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH
Theo quy định của BLTTDS, TAND và VKSND được Nhà nước trao quyền,
được gọi tên là cơ quan tiến hành tố tụng29 để thay mặt Nhà nước giải quyết những
vụ việc dân sự khi cơ quan, tổ chức, cá nhân yêu cầu Nhà nước bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình. Bên cạnh đó, TAND và VKSND là những cơ quan Nhà
nước, không thể trực tiếp giải quyết vụ việc mà phải thông qua những con người cụ
thể, đại diện cho cơ quan tiến hành tố tụng, những người này được gọi là người tiến

hành tố tụng.
Như vậy, với việc có 02 cơ quan tiến hành tố tụng trong hoạt động tố tụng
dân sự nên chúng ta có thể phân chia họ thành 02 nhóm: người tiến hành tố tụng
trong hoạt động tố tụng của TAND và của VKSND.
2.1. Người tiến hành tố tụng trong hoạt động tố tụng dân sự của Tòa án nhân
dân
Theo quy định của Hiến pháp30, Luật Tổ chức TAND31, BLTTDS32 trong
hoạt động tố tụng dân sự của TAND có sự tham gia của Chánh án Tịa án, Thẩm
phán, Hội thẩm nhân dân và Thư ký Tòa án. Họ là những người được bổ nhiệm,
được bầu hoặc tuyển dụng theo quy định của pháp luật và có chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn riêng khi tiến hành tố tụng và trong mỗi giai đoạn tố tụng.
2.1.1. Chánh án Tòa án
Chánh án Tòa án là chức vụ của người đứng đầu một cấp Tịa án, có chức
năng quản lý Tịa án mà mình phụ trách và có những nhiệm vụ, quyền hạn trong
hoạt động tố tụng nói chung và tố tụng dân sự nói riêng33.
Chánh án TANDTC do Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị
của Chủ tịch nước; chịu sự giám sát của Quốc hội, chịu trách nhiệm và báo cáo
công tác trước Quốc hội; Chánh án TAND cấp tỉnh, cấp huyện do Chánh án
TANDTC bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức34. Bên cạnh đó, người được bổ nhiệm
chức vụ Chánh án Tòa án phải đáp ứng các tiêu chuẩn chung của cán bộ lãnh đạo,
quản lý và tiêu chuẩn cụ thể của chức vụ Chánh án Tòa án các cấp.

29

Khoản 1 Điều 39 BLTTDS.
Điều 129 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001; khoản 1 Điều 103 Hiến pháp năm 2013.
31
Điều 4 Luật Tổ chức TAND năm 2002.
32
Điểm a khoản 2 Điều 39 BLTTDS.

33
Điều 40 BLTTDS.
34
Điều 40 Luật Tổ chức TAND năm 2002.
30


16

Tiêu chuẩn chung của cán bộ lãnh đạo, quản lý được quy định tại Nghị quyết
số 42-NQ/TW ngày 30 tháng 11 năm 2004 của Bộ Chính trị về cơng tác quy hoạch
cán bộ lãnh đạo, quản lý thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước:
 Có tinh thần yêu nước sâu sắc, tận tụy phục vụ nhân dân, kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phấn đấu thực hiện có kết quả đường lối
của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.
 Cần kiệm, liêm chính, chí cơng vơ tư. Không tham nhũng và kiên quyết
đấu tranh chống tham nhũng. Có ý thức tổ chức kỷ luật. Trung thực, khơng cơ hội,
gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm.
 Có trình độ hiểu biết về lý luận chính trị, quan điểm, đường lối của Đảng,
chính sách và pháp luật của Nhà nước; có trình độ văn hóa, chun mơn, đủ năng
lực và sức khoẻ để làm việc có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
 Có bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở lập trường giai cấp công nhân,
tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách mạng, với chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh. Có năng lực dự báo và định hướng sự phát triển, tổng kết thực tiễn,
tham gia xây dựng đường lối, chính sách, pháp luật; thuyết phục và tổ chức nhân
dân thực hiện. Có ý thức và khả năng đấu tranh bảo vệ quan điểm, đường lối của
Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.
 Gương mẫu về đạo đức, lối sống. Có tác phong dân chủ, khoa học, có khả
năng tập hợp quần chúng, đồn kết cán bộ.
 Có kiến thức về khoa học lãnh đạo và quản lý. Đã học tập có hệ thống ở

các trường của Đảng, Nhà nước và đoàn thể nhân dân; trải qua hoạt động thực tiễn
có hiệu quả.
Tiêu chuẩn cụ thể của chức vụ Chánh án Tòa án các cấp được quy định trên
cơ sở các tiêu chuẩn chung, phù hợp với Ngành, địa phương và do Ban Cán sự
Đảng TAND cấp tỉnh ban hành. Theo đó, ngồi các tiêu chuẩn chung để được bổ
nhiệm làm Chánh án TAND cấp tỉnh cịn phải am hiểu tình hình địa phương; có
năng lực tham mưu, đề xuất và cụ thể hóa các nghị quyết, chủ trương của Tỉnh ủy,
HĐND cấp tỉnh và của Tịa án cấp trên; có kiến thức chuyên sâu về pháp luật và
lĩnh vực công tác xét xử, nắm vững nguyên tắc nghiệp vụ, thực hiện có hiệu quả
công tác xét xử; đã kinh qua chức vụ chủ chốt ở cấp dưới, có trình độ lý luận chính
trị cao cấp, đã được đào tạo, bồi dưỡng về cơng tác quản lý ngành Tịa án hoặc quản
lý hành chính Nhà nước;… Về Chánh án TAND cấp huyện thì các tiêu chuẩn cũng
tương tự nhưng sẽ hoạt động gắn bó với cấp ủy huyện, quận, thị xã, thành phố trực
thuộc tỉnh, HĐND cấp huyện và khơng có u cầu đã kinh qua chức vụ chủ chốt ở
cấp dưới.


17

Cơng tác quản lý của Chánh án Tịa án được thể hiện qua những công việc
như quản lý nhân sự, giải quyết khiếu nại, tố cáo; tổ chức công tác giải quyết các vụ
việc dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án;… Còn trong hoạt động tố tụng dân sự,
Chánh án Tịa án có những nhiệm vụ, quyền hạn như phân công Thẩm phán giải
quyết vụ việc dân sự, Hội thẩm nhân dân tham gia Hội đồng xét xử vụ án dân sự;
quyết định phân cơng Thư ký Tịa án tiến hành tố tụng đối với vụ việc dân sự; thay
đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án trước khi mở phiên tịa;… Bên
cạnh đó, Chánh án TAND cấp tỉnh, Chánh án TANDTC cịn có một quyền riêng
biệt theo quy định của pháp luật tố tụng nói chung và tố tụng dân sự nói riêng là
kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật của Tịa án35. Đây là một đặc quyền mà chỉ có những người này và Viện

trưởng VKSND cùng cấp mới có do tính chất đặc biệt của 02 thủ tục là yêu cầu xét
lại bản án, quyết định. Ngoài ra, khi Chánh án Tòa án tham gia tố tụng với tư cách
Thẩm phán thì cũng có những nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán. Khi Chánh án
vắng mặt, một Phó Chánh án được Chánh án ủy nhiệm thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn của Chánh án và Phó Chánh án chịu trách nhiệm trước Chánh án về nhiệm vụ
được giao.
2.1.2. Thẩm phán
Thẩm phán là người được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm
nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của
Tòa án36. Với vai trò là người tiến hành tố tụng cũng như là người đóng vai trị quan
trọng trong việc giải quyết vụ việc dân sự được tồn diện, cơng minh, chính xác,
đúng pháp luật, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm TAND quy định những điều
kiện chặt chẽ để bổ nhiệm chức danh Thẩm phán cũng như trình tự, thủ tục bổ
nhiệm, nhiệm kỳ Thẩm phán,…
2.1.2.1. Tiêu chuẩn bổ nhiệm37
Một người chỉ được bổ nhiệm chức danh Thẩm phán khi đáp ứng đủ những
điều kiện về chính trị, đạo đức, trình độ và sức khỏe, đây được coi là những điều
kiện tiên quyết hay điều kiện chung:
Tiêu chuẩn về chính trị: Phải là công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc
và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thẩm phán là người đại
diện cho TAND, thay mặt Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam để xét
xử, thực hiện quyền tư pháp do đó phải là cơng dân Việt Nam. Ngồi ra, Thẩm phán
cịn là biểu tượng của luật pháp, người phổ biến, tuyên truyền pháp luật, định hướng
35

Điều 285 BLTTDS.
Khoản 1 Điều 1 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm TAND.
37
Khoản 1 Điều 5; Điều 20, 21, 22 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm TAND.
36



18

cho nhân dân tuân theo pháp luật của Nhà nước. Vì vậy, địi hỏi Thẩm phán phải có
lịng trung thành và tinh thần kiên quyết bảo vệ Tổ quốc, pháp luật của Nhà nước.
Tiêu chuẩn về đạo đức: Thẩm phán là người đóng vai trị quan trọng trong
việc đưa ra phán quyết có ảnh hưởng đến khơng chỉ những người có liên quan trong
vụ việc mà cịn cả xã hội, dư luận. Để đảm bảo cho một phán quyết là đúng pháp
luật thì Thẩm phán phải ln khách quan, chỉ tuân theo pháp luật, không tư lợi,
thiên vị khi xét xử. Hơn thế nữa, một phán quyết sai lầm có thể làm giảm sút niềm
tin của nhân dân vào Nhà nước và chế độ. Do đó địi hỏi Thẩm phán phải có những
phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và trung thực, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp
chế xã hội chủ nghĩa.
Tiêu chuẩn về trình độ: Khi tham gia xét xử Thẩm phán dựa trên các quy
định của pháp luật mà giải quyết các vụ việc do đó phải có sự am hiểu luật pháp, tư
duy pháp lý nhất định. Bên cạnh đó, yếu tố kinh nghiệm cũng đóng vai trị quan
trọng trong việc xét xử nói chung cũng như trong các nhận định, đánh giá, kĩ năng
hỏi, ra phán quyết,… nói riêng. Vì vậy, địi hỏi phải có trình độ cử nhân luật và đã
được đào tạo về nghiệp vụ xét xử, có thời gian cơng tác thực tiễn, có năng lực làm
cơng tác xét xử theo quy định.
Ngồi ra cũng cần phải có sức khỏe bảo đảm hồn thành nhiệm vụ được giao
thì mới có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán.
Theo Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Thẩm phán và
Hội thẩm TAND năm 2011 chức danh Thẩm phán được chia làm làm 3 ngạch:
Thẩm phán sơ cấp, Thẩm phán trung cấp và Thẩm phán TANDTC. Đây là một
điểm tiến bộ so với Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm TAND năm 2002 vì đã có sự
tách bạch giữa cấp Tòa án và ngạch Thẩm phán. Việc phân chia ngạch Thẩm phán
theo cấp Tòa án trong Pháp lệnh cũ đã gây ra những khó khăn lớn trong công tác
cán bộ, nhất là việc điều động, bổ nhiệm cán bộ. Chẳng hạn, trong trường hợp một

Thẩm phán TAND cấp tỉnh được điểu động về TAND cấp huyện thì để đúng quy
định pháp luật, Thẩm phán này phải được miễn nhiệm rồi bổ nhiệm lại thành Thẩm
phán TAND cấp huyện. Điều này đã tạo sự bất hợp lý lớn do mỗi ngạch Thẩm phán
đòi hỏi tiêu chuẩn khác nhau, có mức lương gắn với ngạch, bậc cũng khác,…
Về tiêu chuẩn của mỗi ngạch, ngoài những điều kiện chung nêu trên, cịn có
những điều kiện riêng đối với mỗi ngạch Thẩm phán38:
Đối với Thẩm phán sơ cấp: có thời gian làm cơng tác pháp luật từ bốn năm
trở lên, có năng lực xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm
quyền của Tòa án theo quy định của pháp luật tố tụng.
38

Điều 20, 21, 22 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm TAND.


19

Đối với Thẩm phán trung cấp: đã là Thẩm phán sơ cấp ít nhất là năm năm, có
năng lực xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của
Tòa án theo quy định của pháp luật tố tụng.
Đối với Thẩm phán TANDTC: đã là Thẩm phán trung cấp ít nhất là năm
năm, có năng lực xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm
quyền của TANDTC.
Đồng thời, Pháp lệnh này cũng quy định những trường hợp đặc biệt do nhu
cầu cán bộ của ngành TAND thì:
Người có thời gian làm cơng tác pháp luật từ mười năm trở lên, có năng lực
xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của Tòa án
theo quy định của pháp luật tố tụng, thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm
Thẩm phán trung cấp thuộc TAND. Người có thời gian làm cơng tác pháp luật từ
mười lăm năm trở lên, có năng lực xét xử những vụ án và giải quyết những việc
khác thuộc thẩm quyền của TANDTC thì có thể được tuyển chọn và bổ nhiệm làm

Thẩm phán TANDTC.
Bên cạnh đó, Pháp lệnh cũng quy định trong trường hợp cần thiết, người
công tác trong ngành TAND hoặc người do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền điều
động đến cơng tác tại ngành TAND tuy chưa có đủ thời gian làm Thẩm phán sơ cấp
hoặc Thẩm phán trung cấp hoặc chưa có đủ thời gian làm cơng tác pháp luật, nhưng
có đủ các tiêu chuẩn khác theo quy định đã nêu trên thì có thể được tuyển chọn và
bổ nhiệm làm Thẩm phán sơ cấp hoặc Thẩm phán trung cấp thuộc TAND hoặc
Thẩm phán TANDTC39.
Ngoài ra, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm TAND cũng quy định về chế độ
cơng vụ, nhiệm vụ, quyền hạn, quy trình tuyển chọn và bổ nhiệm Thẩm phán, việc
miễn nhiệm, cách chức chức danh Thẩm phán.
2.1.2.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong hoạt động tố tụng dân sự
Theo quy định tại Điều 41 BLTTDS, Thẩm phán trong hoạt động tố tụng dân
sự có những nhiệm vụ, quyền hạn sau:
Tiến hành lập hồ sơ vụ án:
Lập hồ sơ vụ án là công việc được tiến hành sau khi đơn khởi kiện được Tịa
án thụ lý40. Theo đó, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án sẽ tập hợp đơn
khởi kiện, tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện, lập thành hồ sơ vụ án dân sự.
Tất cả những văn bản tố tụng, tài liệu, chứng cứ khác được thu thập trong suốt quá
trình giải quyết vụ án đều sẽ được đưa vào hồ sơ theo một trật tự nhất định nhằm
39
40

Điều 23 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm TAND.
Điều 173 BLTTDS.


×