Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (786.11 KB, 101 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

ĐẶNG VĂN HÙNG
NGUN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ
TẠM GIỮ, BỊ CAN, BỊ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2012


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

ĐẶNG VĂN HÙNG
NGUN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ
TẠM GIỮ, BỊ CAN, BỊ CÁO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự - Mã số: 60380104

Người hướng dẫn khoa học: TS. Phan Trung Hồi

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2012


LỜI CAM ĐOAN


Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi, bằng công
sức của bản thân với sự giúp đỡ của giáo viên hướng dẫn. Những thông tin, số
liệu thu thập của cá nhân bảo đảm tính khách quan và trung thực.
Tác giả

Đặng Văn Hùng


MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU.................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHẬN THỨC CHUNG VÀ NỘI DUNG CỦA
NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ TẠM
GIỮ, BỊ CAN, BỊ CÁO TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT
NAM ................................................................................................................. 5
1.1. Một số khái niệm cơ bản....................................................................... 5
1.1.1. Khái niệm người bị tạm giữ, bị can, bị cáo .......................................... 5
1.1.2. Khái niệm về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo ....................................................................................................... 7
1.2. Cơ sở của việc quy định nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo ............................................................................... 9
1.2.1. Nguyên tắc “Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo’’ đáp ứng yêu cầu bảo vệ quyền con người ........................................................ 9
1.2.2. Nguyên tắc “Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo’’ thể hiện bản chất của Nhà nước ta ................................................................. 11
1.2.3. Nguyên tắc “Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo’’ đáp ứng yêu cầu thực tiễn của tố tụng hình sự ............................................... 12
1.3. Lịch sử hình thành và phát triển của nguyên tắc bảo đảm quyền bào
chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam ...... 13
1.3.1. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa thể hiện qua giai đoạn từ sau

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến trước khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988
có hiệu lực thi hành .................................................................................................. 13
1.3.2. Giai đoạn từ khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 có hiệu lực thi hành
đến năm 20003 ......................................................................................................... 18
1.3.3. Giai đoạn từ khi có Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đến nay ......... 19
1.3.4. Vài nét về lịch sử hình thành và phát triển nguyên tắc bảo đảm quyền
bào chữa của người bị tình nghi phạm tội một số nước trên thế giới ..................... 20
1.4. Nội dung nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo ........................................................................................................... 22
1.4.1. Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa...................... 23


1.4.2. Bảo đảm quyền nhờ người khác bào chữa.......................................... 31

1.4.3. Trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng trong việc bảo đảm
quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo..................................... 40
CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM
QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ, BỊ CAN, BỊ CÁO .. 46
2.1. Nội dung pháp luật thực định có liên quan đến nguyên tắc bảo đảm
quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo .......................................... 46
2.1.1. Những quy định trong Hiến pháp và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
.................................................................................................................................. 46
2.1.2. Những quy định trong các văn bản dưới luật, các Nghị quyết của Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao .............................................................. 47
2.2. Những kết quả đạt được ...................................................................... 49
2.2.1. Những kết quả đạt được trong việc bảo đảm quyền tự bào chữa của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo ............................................................................... 49
2.2.2. Những kết quả đạt được trong việc bảo đảm quyền nhờ người khác
bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo ........................................................ 50
2.3. Một số bất cập trong việc thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào

chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo ............................................................ 53
2.3.1. Những bất cập từ phía cơ quan, người tiến hành tố tụng ................... 53
2.3.2. Những bất cập từ phía người bào chữa .............................................. 61
2.3.3. Những bất cập từ phía người bị tạm giữ, bị can, bị cáo ..................... 63
2.4. Nguyên nhân của những bất cập trên ................................................ 64
2.4.1. Nguyên nhân về pháp luật ................................................................... 64
2.4.2. Nguyên nhân về nhận thức .................................................................. 70
2.4.3. Nguyên nhân từ cơ chế và mơ hình tố tụng hình sự ............................ 71
CHƯƠNG 3. ĐỊNH HƯỚNG HỒN THIỆN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
GĨP PHẦN THỰC HIỆN CÓ HIỆU QUẢ NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM
QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ, BỊ CAN, BỊ CÁO ........... 74
3.1. Nhu cầu hoàn thiện các quy định liên quan nguyên tắc bảo đảm
quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo .......................................... 74
3.1.1. Xuất phát từ chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và cải
cách tư pháp do Đảng khởi xướng ........................................................................... 74
3.1.2. Xuất phát từ nhu cầu bảo đảm quyền con người ................................ 76


3.1.3. Xuất phát từ nhu cầu dân chủ hóa hoạt động tố tụng hình sự ............ 77
3.2. Định hướng hồn thiện, cụ thể hóa các quy định trong Bộ luật tố
tụng hình sự nhằm thực thi nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo ............................................................................................ 78
3.2.1. Định hướng chung............................................................................... 78
3.2.2. Định hướng về mặt lập quy ................................................................. 79
3.2.3. Định hướng về hoàn thiện các thể chế và cơ chế phối hợp ................ 79
3.3. Một số giải pháp góp phần thực hiện có hiệu quả nguyên tắc bảo
đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo ................................. 81
3.3.1. Các yêu cầu của giải pháp góp phần thực hiện có hiệu quả nguyên tắc
bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo ............................... 81
3.3.2. Các giải pháp góp phần thực hiện có hiệu quả nguyên tắc bảo đảm

quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo .............................................. 82

KẾT LUẬN .......................................................................................... 91


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Con người không chỉ là một thực thể tự nhiên mà còn là thực thể của xã
hội. Con người là vốn quý của xã hội, là động cơ mục đích của sự phát triển
xã hội. Do vậy, con người cho dù bị luật pháp buộc tội, họ vẫn cần được đánh
giá và nhìn nhận đúng, được giáo dục để khôi phục lại giá trị của mình. Bảo
vệ quyền con người nói chung và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
bị buộc tội trong tố tụng hình sự nói riêng ln được xem là nhiệm vụ trọng
tâm của Nhà nước ta.
Quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là một quyền quan
trọng của công dân khi tham gia tố tụng với tư cách là người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa là nguyên tắc Hiến định
được ghi nhận trong tất cả các bản Hiến pháp đã ban hành của nước ta, đồng
thời đây cũng là một trong những nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự.
Việc thực hiện ngun tắc này trên thực tế đã góp phần khơng nhỏ vào việc
bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo;
giúp Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án giải quyết vụ án một cách
khách quan, toàn diện và đầy đủ.
Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng cho thấy “Nguyên tắc bảo đảm
quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo’’ chưa được nhận thức và
thực hiện triệt để trong quá trình tố tụng, các cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng vẫn còn xem nhẹ nguyên tắc này,

tình trạng vi phạm các quyền tố tụng của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vẫn
còn xảy ra. Có nhiều nguyên nhân dẫn đế thực trạng trên như: Do cơ chế pháp
lý quy định trong luật tố tụng hình sự để bảo đảm quyền bào chữa của người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo chưa đầy đủ và rõ ràng; nhận thức chưa đúng của
người tiến hành tố tụng về việc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo chưa cao; nhận thức về pháp luật của bản thân người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo chưa cao; nhận thức chưa đúng của người bào chữa về
quyền được bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo…


2

Với những lý do trên, học viên chọn đề tài “Nguyên tắc bảo đảm quyền
bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt
Nam’’ làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Trong thời gian qua, đã có một số cơng trình nghiên cứu có liên quan
về đề tài “Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo’’ như:
- Luận văn cử nhân về “Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị
can, bị cáo trong tố tụng hình sự’’ của tác giả Mai Thị Mỹ Hạnh, năm 1999.
- Luận văn thạc sĩ về “Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam và Thụy Điển’’ của
tác giả Lương Thị Mỹ Huỳnh, năm 2004.
Các cơng trình nghiên cứu trên cũng đã bàn luận, làm rõ và giải quyết
nhiều vấn đề về mặt lý luận và thực tiễn về nguyên tắc bảo đảm quyền bào
chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Tuy nhiên, nhiều vấn đề bất cập
quy định trong luật tố tụng hình sự cũng như thực tiễn áp dụng, cần tiếp tục
nghiên cứu để có những kiến nghị và giải pháp nhằm làm cho “Nguyên tắc

bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo’’ được thực hiện
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự một cách triệt để. Điều này nhằm đáp
ứng tinh thần cải cách tư pháp theo Nghị quyết 08/NQ - TW của Bộ chính trị
về Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị
quyết 49/NQ-TW của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020.
3. Mục đích, đối tượng nghiên cứu, giới hạn phạm vi nghiên cứu đề tài

- Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn thực hiện
nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, tác
giả nêu lên những bất cập, đề xuất một số kiến nghị và những giải pháp cụ thể
nhằm bảo đảm cho nguyên tắc được thực hiện.
- Đối tượng nghiên cứu


3

Luận văn nghiên cứu nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam.
- Giới hạn phạm vi nghiên cứu đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn thực hiện nguyên
tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng
hình sự Việt Nam, từ đó tìm hiểu những bất cập trong q trình thực hiện
nguyên tắc, đề xuất một số kiến nghị và giải pháp nhằm góp phần nâng cao
hiệu quả trong việc thực hiện nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong quá trình tố tụng.
4. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp luận

Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở quan điểm duy vật biện chứng chủ
nghĩa Mác – Lê nin; quan điểm đường lối chính sách của Đảng, pháp luật Nhà
nước.
- Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh.
5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài

Việc nghiên cứu về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn, kết quả nghiên
cứu có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và học tập của sinh
viên Trường Luật, những người hành nghề luật, đồng thời cũng có thể là cơ
sở tham khảo cho việc hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự.
6. Bố cục của luận văn

Luận văn ngoài phần mở đầu và phần kết luận, mục lục, danh mục tài
liệu tham khảo, nội dung chính gồm có ba chương:
- Chương 1: Nhận thức chung và nội dung của nguyên tắc bảo đảm
quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong luật tố tụng hình sự
Việt Nam.
- Chương 2: Thực tiễn áp dụng nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa
của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.


4

- Chương 3: Định hướng hoàn thiện và một số giải pháp góp phần thực
hiện có hiệu quả nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo.



5

CHƯƠNG 1
NHẬN THỨC CHUNG VÀ NỘI DUNG CỦA NGUYÊN TẮC BẢO
ĐẢM QUYỀN BÀO CHỮA CỦA NGƯỜI BỊ TẠM GIỮ, BỊ CAN, BỊ
CÁO TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm người bị tạm giữ, bị can, bị cáo

Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người bị tình nghi thực hiện hành vi
bị coi là tội phạm trong vụ án hình sự. Họ chỉ là người bị tình nghi thực hiện
tội phạm nên pháp luật quy định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có những
quyền và nghĩa vụ nhất định trong quá trình giải quyết vụ án và một trong
những quyền quan trọng đó là quyền tự bào chữa và nhờ người khác bào
chữa. Do đó việc xác định rõ tư cách pháp lý của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo là yêu cầu thiết yếu phục vụ cho việc nghiên cứu nguyên tắc bảo đảm
quyền bào chữa.
* Người bị tạm giữ
Theo khoản 1 Điều 48 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định:
“Người bị tạm giữ là người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả
tang, người bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu
thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ’’.
Người bị tạm giữ có thể là người chưa bị khởi tố về hình sự, họ bị bắt
trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, kể cả trường hợp người
phạm tội tự thú trước khi hành vi phạm tội bị phát hiện và khởi tố, đã có quyết
định bị tạm giữ. Mặc dù họ chưa bị khởi tố về hình sự nhưng trên thực tế họ
vẫn phải chịu sự cưỡng chế của cơ quan đã tạm giữ. Họ bị hạn chế quyền tự
do và có trách nhiệm khai báo hoặc trả lời các câu hỏi của cán bộ điều tra.
Chính vì lẽ đó, pháp luật coi người bị tạm giữ là người tham gia tố tụng, có
các quyền và nghĩa vụ nhất định.

Người bị tạm giữ cũng có thể là người bị khởi tố về hình sự. Bị can, bị
cáo, người bị kết án, người đang chấp hành án, nếu bị bắt theo quyết định truy
nã hoặc ra đầu thú và đã có quyết định tạm giữ đối với họ thì cũng là người bị


6

tạm giữ. Trong thời gian tạm giữ, họ cũng có các quyền và nghĩa vụ của
người bị tạm giữ. Quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ được quy định cụ
thể tại Điều 48 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
* Bị can
Theo khoản 1 Điều 49 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định:
“Bị can là người đã bị khởi tố về hình sự’’. Bị can tham gia vào giai đoạn
điều tra, truy tố và một phần giai đoạn xét xử sơ thẩm. Tư cách tố tụng của bị
can sẽ chấm dứt khi Cơ quan điều tra đình chỉ điều tra; Viện kiểm sát đình chỉ
vụ án; Tịa án đình chỉ vụ án (trong giai đoạn chuẩn bị xét xử) đối với bị can;
hoặc Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử. Khi một người bị khởi tố về hình
sự (khởi tố bị can), họ trở thành đối tượng bị buộc tội trong vụ án, nhưng điều
đó khơng đồng nghĩa với việc xác định họ là người có tội.
Đây là vấn đề có tính ngun tắc. Điều 9 của Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003 quy định: “Khơng ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi
chưa có bản án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật’’. Các cơ quan
tiến hành tố tụng chỉ được phép tiến hành các biện pháp tố tụng nhất định đối
với họ để xác định sự thật vụ án. Bên cạnh các nghĩa vụ, bị can còn được
pháp luật quy định cho các quyền để họ có thể tự bảo vệ mình trước các cơ
quan tiến hành tố tụng, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình khơng
bị xâm phạm. Các quyền và nghĩa vụ của bị can được quy định tại Điều 49
của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
* Bị cáo
Theo khoản 1 Điều 50 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định:

“Bị cáo là người đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử’’. Bị cáo tham gia tố
tụng từ khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử đến khi bản án hoặc quyết định
của Tịa án có hiệu lực pháp luật. Cũng như khái niệm bị can, bị cáo cũng là
khái niệm mang tính hình thức, căn cứ vào quyết định tố tụng được áp dụng
đối với người đó. Một người sẽ trở thành bị cáo khi có quyết định đưa ra xét
xử của Tịa án.
Vì vậy, bị cáo khơng đồng nghĩa với chủ thể của tội phạm. Trên thực tế
bị cáo cũng có thể không phải là chủ thể của tội phạm, bị cáo chỉ trở thành


7

người có tội nếu sau khi xét xử họ bị Tòa án ra bản án kết tội và bản án đã có
hiệu lực pháp luật. Bị cáo cũng có một số quyền và nghĩa vụ được pháp luật
quy định tại Điều 50 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
1.1.2. Khái niệm về nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo

Trong khoa học luật tố tụng hình sự ở nước ta, quan điểm phổ biến khi
nói về nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự thường xuất phát từ nhận
thức cho rằng nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự là những tư tưởng,
quan điểm chỉ đạo quá trình nhận thức, xây dựng và áp dụng pháp luật tố tụng
hình sự hoặc là những phương châm, định hướng chi phối tất cả hoặc một số
hoạt động tố tụng hình sự, được các văn bản pháp luật ghi nhận. Nhận thức
như vậy hồn tồn khơng sai nhưng khơng đầy đủ và dễ làm cho chúng ta ngộ
nhận rằng các nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng là do các nhà làm luật nghĩ
ra, phát minh ra hay đặt ra. Nói một cách khác, dường như các nhà nghiên
cứu mới chỉ nhấn mạnh tính chủ quan khi nói về những nguyên tắc cơ bản của
luật tố tụng hình sự. Phải thấy rằng các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự
trước hết ln là những quy luật khách quan tồn tại khơng phụ thuộc vào ý chí

chủ quan của con người. Các quy luật khách quan này luôn phản ánh và phù
hợp với điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể mà nó tồn tại trong đó. Các quy luật
khách quan tồn tại tự thân nó khơng phụ thuộc vào ý chí chủ quan của chúng
ta, cũng như việc có nhận thức được những quy luật khách quan này hay
khơng, nhận thức về chúng có đầy đủ hay khơng lại là chuyện khác. Vì vậy,
ngun tắc cơ bản của tố tụng hình sự cịn là sản phẩm của hoạt động nhận
thức, phản ánh quy luật khách quan trong hoạt động lập pháp của nhà làm
luật. Đây chính là một trong những thuộc tính quan trọng - thuộc tính chủ
quan của nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự. Nếu như kết quả nhận thức
về những quy luật khách quan mới chỉ tồn tại dưới dạng các học thuyết, các
quan điểm khoa học thì cũng chưa thể được xem là những nguyên tắc cơ bản
của tố tụng hình sự. Kết quả của nhận thức này phải được thể hiện trong các
quy phạm pháp luật tố tụng hình sự. Chỉ lúc đó chúng mới được xem là những
nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự, mới thực sự có vai trị là những tư


8

tưởng pháp lý - chính trị chủ đạo, là xuất phát điểm, nền tảng có ý nghĩa định
hướng cho hoạt động của các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng
hình sự. Được ghi nhận trong luật – có tính quy phạm thì các ngun tắc cơ
bản của tố tụng hình sự mới có hiệu lực bắt buộc chung đối với các chủ thể
tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng hình sự và được bảo đảm tuân thủ1.
Như vậy khi nói về nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự, nó phải bảo đảm
ba yếu tố tồn tại trong nó là tính khách quan, tính chủ quan và tính quy phạm.
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo cũng là một trong những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự nên nó
cũng có đầy đủ ba yếu tố trên. Đó chính là kết quả nhận thức của các nhà làm
luật về sự tồn tại khách quan trong hoạt động tố tụng hình sự, bởi khi xuất
hiện chức năng buộc tội thì kéo theo sự xuất hiện của chức năng bào chữa.

Giữa chúng có một mối liên kết chặt chẽ, chức năng bào chữa tồn tại song
song với chức năng buộc tội như một tất yếu khách quan. Nguyên tắc này
thừa nhận mối quan hệ giữa các chủ thể có quyền bào chữa (người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo) với các cơ quan thực hiện chức năng buộc tội, trong đó quyền
và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được bảo vệ. Hay nói
cách khác, phải bảo đảm quyền bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Điều này là cơ sở để các nhà làm luật nước ta nhìn nhận việc bảo đảm quyền
bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là một nguyên tắc cơ bản quan
trọng trong tố tụng hình sự, định hướng hoạt động tố tụng hình sự phải được
vận hành trên tinh thần bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị
buộc tội.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm nguyên tắc bảo đảm
quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo như sau: Nguyên tắc bảo
đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là những quy luật
khách quan của hoạt động tố tụng hình sự, được ghi nhận trong các quy
phạm pháp luật tố tụng hình sự, có ý nghĩa chỉ đạo, bảo đảm tất cả các quyền

1

Nguyễn Thái Phúc (2008), “Hoàn thiện hệ thống các nguyên tắc cơ bản trong Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003”, Tạp chí khoa học pháp lý, (02), tr. 46 – 47.


9

mà pháp luật dành cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo sử dụng để chống lại
sự buộc tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho họ.
1.2. Cơ sở của việc quy định nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
1.2.1. Nguyên tắc “Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị

cáo’’ đáp ứng yêu cầu bảo vệ quyền con người

Ý thức về quyền con người và thực hiện quyền con người có một q
trình lịch sử lâu dài gắn với lịch sử loài người và giải phóng con người qua
các hình thái kinh tế xã hội và các giai đoạn đấu tranh giai cấp, qua đó quyền
con người trở thành giá trị chung của nhân loại. Quyền con người vừa mang
tính tự nhiên vừa mang tính xã hội. Với tư cách là một thực thể sinh học và là
thực thể xã hội con người cần được bảo đảm về quyền ăn, ở, mặc, đi lại để tồn
tại. Mặt khác, con người cần phải có quyền được học tập, hoạt động xã hội, tự
do cá nhân và được pháp luật bảo vệ. Nội dung và tiêu chuẩn của quyền con
người được quyết định bởi chế độ kinh tế - chính trị của một xã hội nhất định
nào đó, đồng thời cũng chịu ảnh hưởng của quan niệm văn hóa và giá trị
truyền thống của một quốc gia và dân tộc. Mỗi Nhà nước phải có trách nhiệm
ghi nhận và bảo đảm quyền con người bằng những quy định của pháp luật,
mức độ ghi nhận và bảo đảm tùy thuộc vào bản chất của nhà nước đó.
Dưới chế độ chiếm hữu nô lệ, người nô lệ không được coi là con người,
khơng có và khơng được thừa nhận các quyền con người ấy. Đến chế độ
phong kiến, so với chế độ chiếm hữu nô lệ đã tiến bộ hơn trong việc giành lại
tự do và giải phóng con người, nhưng quyền con người trong chế độ phong
kiến chưa được nhắc đến và được bảo vệ. Giai cấp tư sản là những người đầu
tiên nêu cao ngọn cờ nhân quyền, biết lợi dụng những tư tưởng tự do, bình
đẳng, bác ái, vốn là yêu cầu bức thiết của nhân dân lao động, tuyệt đối hóa tự
do cá nhân, nhấn mạnh các yếu tố cá nhân trong khái niệm quyền con người
“quyền tư hữu thiêng liêng’’. Lần đầu tiên các quyền con người được ghi
nhận trong bản Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776: “Tất cả mọi người
sinh ra đều có quyền bình đẳng, tạo hóa cho họ những quyền khơng ai có thể
xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và


10


quyền mưu cầu hạnh phúc...’’. Khi Cách mạng tư sản Pháp thành công năm
1791, bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền Pháp cũng đã khẳng định:
“Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải ln được tự do và
bình đẳng về quyền lợi’’. Tuy nhiên, giai cấp tư sản chỉ công nhận và bảo vệ
quyền con người cho giai cấp mình, một giai cấp chiếm thiểu số đang thống
trị và bóc lột các tầng lớp nhân dân lao động.
Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền con người được ghi nhận và bảo
đảm trong tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội và cho mọi tầng lớp nhân dân
lao động. Ở nước ta, việc tôn trọng và bảo vệ quyền con người luôn là vấn đề
được quan tâm hàng đầu bên cạnh công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Quyền con người được Nhà nước tôn trọng và bảo vệ, được ghi nhận trong
các bản Hiến pháp của nước ta. Trong đó, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 – Hiến pháp của thời kỳ đổi mới của nước ta
đã khẳng định tại Điều 50 như sau: “Ở nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội
được tơn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến
pháp và luật’’.
Quyền con người, trong đó có quyền bào chữa đã trở thành một giá trị
pháp lý được quốc tế hóa khi Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thơng qua bản
Tuyên ngôn về nhân quyền ngày 10/12/1948. Khoản 1 Điều 11 Tuyên ngôn
này khẳng định: “Mọi người, nếu bị quy tội hình sự, đều có quyền được coi là
vơ tội cho đến khi một Tịa án cơng khai, nơi người đó có được tất cả những
đảm bảo cần thiết để bào chữa cho mình, chứng minh được tội trạng của
người đó dựa trên cơ sở luật pháp’’2.
Quyền con người và bảo vệ quyền con người luôn là vấn đế quan tâm
hàng đầu của mỗi quốc gia. Trong lĩnh vực pháp luật, vấn đề quyền con người
là nền tảng trong việc nghiên cứu và ban hành các quy phạm. Trong tố tụng
hình sự cũng vậy, việc giải quyết vụ án hình sự không thể tách rời vấn đề bảo
đảm quyền con người, đặc biệt là quyền của người bị buộc tội. Bởi vì khi

tham gia vào tố tụng hình sự với tư cách là người bị buộc tội, người bị tạm
2

/>

11

giữ, bị can, bị cáo vẫn là một con người, một công dân. Để bảo đảm quyền
con người của họ, pháp luật tố tụng hình sự phải ghi nhận cho họ một số
quyền nhất định, trong đó có quyền tự bào chữa và nhờ người khác bào chữa
(gọi chung là quyền bào chữa). Quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo là sự tự do bác bỏ các chứng cứ buộc tội và các cơ quan, người tiến
hành tố tụng phải có trách nhiệm tạo những điều kiện cần thiết để người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo thực thi sự tự do đó. Như vậy, để bảo đảm quyền và lợi
ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nói riêng và quyền con
người nói chung, pháp luật tố tụng hình sự đã quy định những người này có
quyền bào chữa. Việc thực hiện quy định này một mặt bảo vệ những quyền và
lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, mặt khác giúp cơ quan tiến hành tố
tụng giải quyết vụ án một cách khách quan, đúng pháp luật.
Có thể thấy rằng, quyền bào chữa là một nội dung cơ bản thể hiện
quyền con người và quyền con người là cơ sở lý luận hình thành nên nguyên
tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam.
1.2.2. Nguyên tắc “Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo’’ thể hiện bản chất của Nhà nước ta

Điều 2 Hiến pháp năm 1992 của nước ta quy định: “Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về
nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nơng
dân và đội ngũ trí thức...’’. Ở nước ta, nhân dân là người chủ của đất nước,

mọi quyền lực thuộc về nhân dân. Mọi chủ trương, chính sách, pháp luật của
nhà nước đều do nhân dân quyết định. Đảng và Nhà nước ta quyết tâm xây
dựng một xã hội dân chủ, công bằng, phát huy quyền lực của nhân dân. Mọi
hoạt động của Nhà nước đều nhằm phục vụ cho lợi ích của nhân dân.
Pháp luật do Nhà nước ban hành nên pháp luật luôn thể hiện bản chất
của Nhà nước tạo ra nó. Chính vì vậy pháp luật Nhà nước ta nói chung, pháp
luật tố tụng hình sự nói riêng ln bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân
dân lao động, bảo vệ công bằng xã hội. Trong tố tụng hình sự của nước ta
quyền của người dân luôn được bảo vệ khi tham gia tố tụng, đặc biệt là quyền


12

của người bị buộc tội. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc
tội, pháp luật tố tụng hình sự nước ta quy định cho người bị buộc tội có các
quyền để bảo vệ quyền lợi của mình khi tham gia tố tụng, trong đó có một
quyền đặc biệt quan trọng là quyền bào chữa. Quyền bào chữa của người bị
buộc tội được ghi nhận là một nguyên tắc Hiến định và là nguyên tắc cơ bản
trong tố tụng hình sự. Tại Điều 11 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy
định: “Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người
khác bào chữa. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tịa án có nhiệm vụ bảo đảm
cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo
quy định của Bộ luật này’’. Như vậy người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền
bào chữa trong mọi giai đoạn tố tụng nhằm chứng minh sự vô tội hoặc làm
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho mình. Mặt khác quyền bào chữa của người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo là điều kiện để giám sát hoạt động của các cơ quan,
người tiến hành tố tụng, góp phần bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hình sự
được khách quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa đã góp phần thực hiện mục đích,
nhiệm vụ của luật hình sự và tố tụng hình sự nước ta: Bảo vệ chế độ xã hội

chủ nghĩa, quyền làm chủ tập thể của nhân dân, quyền bình đẳng giữa đồng
bào các dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, xử lý nghiêm mọi
hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
Như vậy, một trong những cơ sở của việc quy định nguyên tắc bảo đảm
quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo xuất phát từ bản chất của
Nhà nước ta: “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân...’’.
1.2.3. Nguyên tắc “Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo’’ đáp ứng yêu cầu thực tiễn của tố tụng hình sự

Trong tố tụng hình sự, chức năng bào chữa tồn tại song song với chức
năng buộc tội như một nhu cầu tất yếu khách quan. Nó xuất phát từ mục đích,
nhiệm vụ của tố tụng hình sự được đặt ra đối với tất cả các cơ quan, người
tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng. Sẽ không xuất hiện sự
tranh tụng nếu tố tụng hình sự chỉ đơn thuần là buộc tội. Nếu quan niệm buộc


13

tội là chức năng duy nhất của tố tụng hình sự thì sẽ dẫn đến sai lầm là người
ta chỉ chú ý tới các chứng cứ buộc tội mà không chú ý đến những chứng cứ
gỡ tội. Điều này đến lượt nó gây ra các hiện tượng tiêu cực có thể có như
mớm cung, bức cung, dùng nhục hình..., hậu quả tai hại là truy tố, xét xử, làm
oan người vơ tội. Vì vậy để vụ án hình sự được giải quyết khách quan, đúng
pháp luật thì địi hỏi phải duy trì hai chức năng buộc tội và bào chữa. Hai
chức năng này tồn tại song song ở tất cả các giai đoạn của hoạt động tố tụng
hình sự. Nếu không thừa nhận hoặc tước bỏ chức năng bào chữa ở bất kỳ một
giai đoạn nào của tố tụng hình sự đều đi ngược với mục đích hoặc làm giảm
hiệu quả của hoạt động tố tụng hình sự.
Chính vì xuất phát từ thực tiễn của tố tụng hình sự, khi xuất hiện chức

năng buộc tội thì kéo theo sự xuất hiện chức năng bào chữa, khi chức năng
buộc tội kết thúc thì tất yếu kéo theo sự kết thúc của chức năng bào chữa. Do
vậy, quyền bào chữa trong tố tụng hình sự là một nhu cầu khách quan, việc
quy định quyền bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là một sự cần
thiết, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn tố tụng.
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo chính là kết quả nhận thức của các nhà làm luật về sự tồn tại khách quan
trong hoạt động tố tụng hình sự về mối quan hệ giữ quyền của người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo với nghĩa vụ của cơ quan, người tiến hành tố tụng. Từ đó,
đóng vai trò là tư tưởng chỉ đạo đòi hỏi các cơ quan, người tiến hành tố tụng
có thẩm quyền khi giải quyết vụ án hình sự phải áp dụng một cách đầy đủ và
đúng đắn những quy định của pháp luật nhằm bảo đảm cho người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ có hiệu quả.
1.3. Lịch sử hình thành và phát triển của nguyên tắc bảo đảm quyền bào
chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam
1.3.1. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa thể hiện qua giai đoạn từ sau
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến trước khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988
có hiệu lực thi hành

Trước bối cảnh thế giới thuận lợi, cùng với sự lãnh đạo tài tình của
Đảng Cộng sản Việt Nam, Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã thành công và
Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hịa - Nhà nước đầu tiên của giai cấp cơng


14

nhân và nông dân ở Đông Nam Á được thành lập. Nhiệm vụ của Nhà nước
non trẻ lúc này là củng cố chính quyền, kịp thời ban hành pháp luật cách
mạng làm vũ khí chống lại thù trong, giặc ngồi, xây dựng xã hội mới. Mặc
dù trong những ngày đầu khi cách mạng mới thành cơng, có biết bao nhiệm

vụ cần giải quyết, trong đó có nhiệm vụ đấu tranh chống các loại tội phạm
nhưng chính quyền dân chủ nhân dân vẫn rất quan tâm tới nhiệm vụ bảo vệ
các quyền dân chủ của cơng dân trong đó có quyền bào chữa trước Tòa án.
Ngày 13/9/1945, Nhà nước đã ban hành Sắc lệnh 33C về việc thiết lập
các Tòa án quân sự. Đoạn 4 Điều V Sắc lệnh này quy định: “Bị cáo có thể tự
bào chữa hay nhờ một người khác bênh vực cho’’. Ngày 10/10/1945, Sắc lệnh
số 46 - SL về việc quy định tổ chức các đoàn thể luật sư ra đời. Theo Điều thứ
2 Sắc lệnh này quy định: “Các luật sư có quyền bào chữa ở tất cả các Tòa án
hàng tỉnh trở lên và trước các Tòa án quân sự’’.
Ngày 23/11/1945, Nhà nước ban hành Sắc lệnh số 64 - SL, thiết lập
một ban thanh tra đặc biệt, trong đó quy định một Tịa án đặc biệt được thành
lập để xử những nhân viên của Ủy ban nhân dân hay các cơ quan của Chính
phủ bị ban thanh tra truy tố (Điều III). Trước các Tịa án này “Bị cáo có thể tự
bào chữa lấy hay nhờ luật sư bênh vực. Ông Hội thẩm thuyết trình có thể cử
một luật sư ra bào chữa không cho bị cáo’’(Điều V).
Sắc lệnh số 13 - SL ngày 24/01/1946 về tổ chức Tòa án và các ngạch
Thẩm phán, tại Điều thứ 44 quy định: “Trong việc đại hình, nếu trước Tịa
Thượng thẩm một bị can khơng có ai bênh vực, ông Chánh án sẽ cử một luật
sư để bào chữa cho hắn’’. Tại Điều thứ 46 quy định: “Các luật sư có quyền
biện hộ trước tất cả các Tòa án trừ những Tòa án sơ cấp’’.
Ngày 23/8/1946, Nhà nước ban hành Sắc lệnh số 163- SL về việc tổ
chức Tòa án binh lâm thời đặt tại Hà Nội. Điều thứ 10 Sắc lệnh này quy định:
“... Bị can có thể tự bênh vực lấy hay nhờ một luật sư hoặc một người khác
bào chữa cho. Đối với những tội có thể phạt trên năm năm tù mà bị can
khơng có luật sư bào chữa cho thì Tịa sẽ yêu cầu hội đồng luật sư chỉ định
một luật sư bào chữa cho hắn’’.


15


Như vậy, pháp luật tố tụng hình sự của Việt Nam sau Cách mạng
Tháng Tám đã là vũ khí, là cơ sở pháp lý để bảo vệ và củng cố các quyền của
cơng dân trong đó có quyền bào chữa trước Tịa án. Có thể thấy rằng, dù chưa
rõ ràng và quy định ở các văn bản pháp luật khác nhau, bước đầu quyền bào
chữa đã được xác định bao hàm quyền tự bào chữa, quyền nhờ người khác
bào chữa và một số trường hợp đã được chỉ định người bào chữa. Tuy nhiên,
bảo đảm quyền bào chữa chưa được quy định như là một nguyên tắc của luật
tố tụng hình sự Việt Nam; việc nhờ người khác bào chữa mới chỉ được quy
định cho một số trường hợp; khái niệm bị can, bị cáo chưa được làm rõ và
chưa được sử dụng một cách thống nhất trong các văn bản pháp luật; các
trường hợp được chỉ định người bào chữa mới bước đầu được đề cập, các quy
định chưa cụ thể và việc chỉ định luật sư bào chữa xem ra phụ thuộc nhiều
vào ý kiến của Tòa án.
Song song với việc ban hành các văn bản pháp luật để điều chỉnh
những quan hệ xã hội trong tất cả các lĩnh vực, Nhà nước đã quan tâm xúc
tiến những công việc cần thiết chuẩn bị cho việc dự thảo và ban hành Hiến
pháp. Ngày 09/11/1946, tại kỳ họp thứ hai, Quốc hội khóa I đã thơng qua bản
Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa. Với ý nghĩa là luật
cơ bản, Hiến pháp năm 1946 đã quy định nhiều nguyên tắc quan trọng trong
đó có nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo. Đoạn 2, Điều 67 Hiến
pháp quy định: “Người bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn luật
sư’’. Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam vấn đề bảo đảm quyền bào
chữa cho bị cáo được quy định là một nguyên tắc Hiến định. Đây là nền móng
cho q trình phát triển và hồn thiện ngun tắc bảo đảm quyền bào chữa
trong luật tố tụng hình sự Việt Nam. Quyền bào chữa được Hiến pháp năm
1946 xác định gồm hai nội dung: Tự bào chữa và nhờ luật sư bào chữa.
Ngày 18/6/1949, Nhà nước ban hành Sắc lệnh số 69 - SL, tại Điều 2
quy định: “Nếu bị can khơng có ai bênh vực, ơng Chánh án có thể tự mình
hay theo lời u cầu của bị can, cử ra một người bào chữa cho bị can’’. Sau
đó, Điều 1 của Sắc lệnh này đã được sửa đổi, bổ sung bởi Điều 1 của Sắc lệnh

số 144- SL ngày 22/12/1949 như sau: “... Từ nay, trước các Tòa án thường và


16

Tịa án đặc biệt xử các việc tiểu hình, đại hình, trừ các Tịa án binh tại mặt
trận,... bị cáo và bị can có thể nhờ một cơng dân khơng phải là luật sư bênh
vực cho mình. Cơng dân đó phải được ơng Chánh án thừa nhận’’. Có thể nói
Sắc lệnh số 69 - SL và Sắc lệnh số 144 - SL đã bước đầu đặt nền móng cho
việc xây dựng chế độ bào chữa viên nhân dân ở nước ta.
Tiếp theo đó, ngày 12/01/1950, Bộ Tư pháp đã ban hành Nghị định số
1/NĐ về việc ấn định điều kiện để làm bào chữa viên. Theo Điều 1 Nghị định
này, những cơng dân sau đây có thể được cử ra hay thừa nhận để bào chữa
trước Tịa án:
- Có quốc tịch Việt Nam, không phân biệt đàn ông hay đàn bà;
- Ít nhất 21 tuổi;
- Hạnh kiểm tốt và chưa can án.
Khi được phép tham gia tố tụng (bắt đầu từ khi hồ sơ vụ án được
chuyển sang Tòa án), bào chữa viên nhân dân cũng có địa vị pháp lý như luật
sư.
Việc thừa nhận khi tham gia tố tụng, bào chữa viên nhân dân có địa vị
pháp lý như luật sư là một trong những điểm mới, tiến bộ nhằm thu hút quần
chúng nhân dân tham gia vào việc đấu tranh phòng chống tội phạm, đặc biệt
là xác định sự thật khách quan của vụ án cũng như bảo vệ các quyền và lợi ích
hợp pháp của bị cáo.
Để tạo điều kiện cho bị cáo có đủ thời gian chuẩn bị bào chữa tại phiên
tòa, ngày 24/10/1956 Bộ Tư pháp đã ban hành Thơng tư số 2225/HCTP trong
đó quy định “việc giao bản cáo trạng cho bị cáo chậm nhất là ba ngày trước
khi mở phiên tòa’’. Đây là quy định rất cần thiết để bị cáo và người bào chữa
của họ có thể nghiên cứu, chuẩn bị trước những tình tiết, những chứng cứ có

lợi khi tham gia phiên tòa.
Hiến pháp năm 1959 ra đời, quyền bào chữa của bị cáo một lần nữa
được ghi nhận tại Điều 101 với nội dung: “Quyền bào chữa của người bị cáo
được bảo đảm’’. Như vậy, nếu Hiếp pháp năm 1946 chỉ dừng lại ở việc quy
định quyền bào chữa cho bị cáo thì Hiến pháp năm 1959 đã tiến bộ hơn,
khẳng định cả cơ chế bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo.


17

Cùng với sự ra đời của Hiến pháp năm 1959, ngày 15/7/1960 Quốc hội
ban hành Luật Tổ chức Tòa án nhân dân quy định cụ thể hơn quyền bào chữa
của bị cáo, tại Điều 7 quy định: “Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm,
ngoài việc tự bào chữa ra, bị cáo có thể nhờ luật sư bào chữa cho mình. Bị
cáo cũng có thể nhờ một cơng dân được đồn thể nhân dân giới thiệu hoặc
được Tịa án nhân dân chấp nhận bào chữa cho mình. Khi cần thiết, Tòa án
nhân dân chỉ định người bào chữa cho bị cáo’’.
Hiến pháp năm 1980 ra đời, tiếp tục khẳng định quyền bào chữa của bị
cáo tại Điều 133: “Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm, tổ chức luật sư
được thành lập để giúp bị cáo và các đương sự về mặt pháp lý’’.
Ngày 18/12/1987, một văn bản pháp luật quan trọng về công tác bào
chữa được ban hành, đó là Pháp lệnh tổ chức luật sư và tiếp theo đó là Quy
chế Đồn luật sư ban hành kèm theo Nghị định 15- HĐBT ngày 21/02/1989
đã giải thích cụ thể quyền, nghĩa vụ, cơ chế hoạt động của luật sư và tổ chức
luật sư.
Như vậy, giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, thành lập nên
Nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa đến trước khi Bộ luật tố tụng hình sự năm
1988 có hiệu lực thi hành là giai đoạn rất khó khăn của lịch sử, vừa chống thù
trong giặc ngoài, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa tiến hành cách
mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, đấu tranh giành độc lập dân tộc và thống

nhất đất nước. Cùng với q trình đó, mặc dù có rất nhiều khó khăn nhưng
nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự vẫn được thể hiện
theo hướng dân chủ và ngày càng hoàn thiện. Quyền bào chữa của bị cáo đã
được mở rộng, phát triển và được bảo đảm, từng bước thể hiện tính nhân đạo
và dân chủ trong pháp luật tố tụng hình sự nước ta. Tuy nhiên, những quy
định về quyền bào chữa trong thời kỳ này không tránh khỏi những hạn chế
nhất định như quy định quyền bào chữa chỉ thuộc về bị cáo và việc thực hiện
quyền bào chữa chỉ được thực hiện ở giai đoạn xét xử.


18

1.3.2. Giai đoạn từ khi Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 có hiệu lực thi hành
đến năm 2003

Kế thừa và phát triển pháp luật tố tụng hình sự nước ta từ Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 đến năm 1988 và để phù hợp với những đổi mới về
mọi mặt của đời sống xã hội, ngày 20/6/1988, tại kỳ họp thứ ba, Quốc hội
thông qua Bộ luật tố tụng hình sự đầu tiên của nước Cộng hịa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, Bộ luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1989. Đây là
một bước tiến lớn trong lịch sử lập pháp tố tụng hình sự nói chung và chế
định bảo đảm quyền bào chữa nói riêng ở nước ta, đánh dấu sự thay đổi về
chất của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa. Điều 12 Bộ luật tố tụng hình sự
năm 1988 quy định: “Bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người
khác bào chữa. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án có nhiệm vụ bảo
đảm cho bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ’’. Bộ luật tố tụng
hình sự năm 1988 xác định khơng chỉ có bị cáo mà bị can cũng có quyền bào
chữa. Như vậy, nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa trong Bộ luật tố tụng
hình sự năm 1988 đã thể hiện rõ ba nội dung: Thứ nhất, bị can, bị cáo có
quyền tự bào chữa; Thứ hai, bị can, bị cáo có quyền nhờ người khác bào

chữa; Thứ ba, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tịa án có nhiệm vụ bảo
đảm cho bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ.
Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa tiếp tục được khẳng định tại Điều
132 Hiến pháp năm 1992: “Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm. Bị cáo
có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình. Tổ chức luật sư
được thành lập để giúp bị cáo và các đương sự khác bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình và góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa’’.
Từ khi có hiệu lực thi hành, Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 đã qua
ba lần sửa đổi, bổ sung vào các năm 1989, năm 1992 và năm 2000. Các lần
sửa đổi, bổ sung này nhằm làm cho Bộ luật tố tụng hình sự phù hợp hơn với
Hiến pháp năm 1992 và tiến trình phát triển của xã hội. Tuy nhiên, nội dung
nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa tại Điều 12 của Bộ luật vẫn không thay
đổi.


19

Bảo đảm quyền bào chữa cũng được ghi nhận trong Điều 9 Luật tổ
chức Tòa án nhân dân năm 1992 và năm 2002 với nội dung: “Tòa án bảo đảm
quyền bào chữa của bị cáo’’.
1.3.3. Giai đoạn từ khi có Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đến nay

Qua gần mười lăm năm thi hành với ba lần sửa đổi, bổ sung, Bộ luật tố
tụng hình sự năm 1988 đã là một trong những căn cứ pháp lý giúp Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án tiến hành các hoạt động của mình một cách
khách quan, tồn diện, đầy đủ góp phần vào việc bảo đảm phát hiện chính
xác, nhanh chóng và xử lý cơng minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không
để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Tuy nhiên, trong công cuộc đổi
mới toàn diện của đất nước trên tất cả các lĩnh vực trong đó có cải cách tư
pháp, Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 đã khơng cịn phù hợp nữa và bộc lộ

những hạn chế nhất định. Trước tình hình đó, Quốc hội khóa XI, tại kỳ hợp
thứ tư đã thơng qua Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Bộ luật có hiệu lực thi
hành từ ngày 01/7/2004.
Trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, nguyên tắc bảo đảm quyền
bào chữa được quy định theo hướng mở rộng hơn. Điều 11 về bảo đảm quyền
bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo quy định:“Người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát, Tịa án có nhiệm vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ theo quy định của Bộ luật này’’.
Như vậy, theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, chủ thể của quyền bào chữa
được mở rộng bao gồm cả người bị tạm giữ.
Ngoài việc mở rộng quyền bào chữa cho người bị tạm giữ, Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003 cịn có nhiều quy định thể hiện sự tiến bộ và phát triển
của nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa như: Người bào chữa được tham gia
tố tụng sớm hơn so với quy định của Bộ luật hình sự năm 1988; quy định cụ
thể thủ tục chỉ định người bào chữa trong những trường hợp phải chỉ định
người bào chữa cho bị can, bị cáo; mở rộng thêm quyền của người bào chữa,
đặc biệt nhấn mạnh quyền mới của người bào chữa là được thu thập tài liệu,
đồ vật, tình tiết liên quan tới việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo,


×