Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Địa vị pháp lí của người bị hại trong tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.45 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU……………………………………………………………………………..1
NỘI DUNG
1. Khái niệm người bị hại và địa vị pháp lý của người bị hại……………………….....1
2. Quyền và nghĩa vụ của người bị hại theo quy định của pháp luật TTHS Việt Nam
hiện hành………………………………………………………………………………….2
2.1 Quyền của người bị hại………………………………………………………………2
2.1.1 Quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;……………………………………………………2
2.1.2 Quyền được thông báo về kết quả điều tra………………………………………...……...3
2.1.3 Quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng,người giám định, người phiên dịch.3
2.1.4 Quyền đề nghị mức bồi thường và các biện pháp bảo đảm bồi thường……………….4
2.1.5 Quyền tham gia phiên toà; trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên toà…………………4
2.1.6 Quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng…………………………………………………………………………………….…….5
2.1.7 Quyền kháng cáo:………………………………………………………………………..……
6
2.1.8 Quyền đối với kết quả giám định……………………………………………………………6
2.1.9 Quyền nhờ luật sư, bào chữa viên nhân dân hoặc người khác bảo vệ quyền lợi cho
mình…………………………………………………………………………………………………...7
2.1.10 Quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự……………………………………………………..7
2.1.11 Quyền rút yêu cầu khởi tố………………………………………………………………….8
2.1.12 Quyền trình bày lời buộc tội……………………………………………………………….8
2.2 Nghĩa vụ của người bị hại…………………………………………………………….9
2.2.1 Nghĩa vụ có mặt tại theo giấy triệu tập của cơ quan điều tra,Viện kiểm sát, Tòa án.9
2.2.2 Nghĩa vụ khai báo…………………………………………………………………………..10
II. Việc hoàn thiện pháp luật nhằm bảo vệ quyền lợi của người bị hại………………11
1. Vấn đề liên quan đến đại diện hợp pháp của người bị hại:…………………………..11
2. Vấn đề liên quan đến việc quy định và thực hiện các quyền của người bị hại……...12
3. Vấn đề liên quan đến chế định khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại……….14
Sinh viên: Hoàng Thị Vân MSSV: 351759


1


KẾT LUẬN……………………………………………………………………………….15

LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay số lượng các vụ án xâm phạm tài sản, thể chất và tinh thần của con người
đang ngày càng gia tăng. Song thực tiễn xét xử thì quyền và lợi ích hợp pháp của người
bị hại vẫn chưa được đảm bảo vì nhiều nguyên nhân khác nhau, Người bị hại là người
bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do hành vi phạm tội gây ra. Do họ bị xâm hại
đến quyền lợi hợp pháp nên việc truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội cũng
phải nhằm mục đích khắc phục hậu quả của tội phạm. Xuất phát từ yêu cầu đó, luật
TTHS đã quy định quyền và nghĩa vụ của người bị hại khi tham gia tố tụng. Hiện nay,
vấn đề địa vị pháp lý của người bị hại là vấn đề không còn mới mẻ nhưng lại được
nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Thực tế hiên nay pháp luật cũng đã quy định khá rõ
ràng về địa vị pháp lí của người bị hại nhưng do nhiều lí do khác nhau mà những người
tiến hành tố tụng chưa quan tâm đúng mức đến người bị hại và trong quá trình tố tụng
chưa thực sự xem người bị hại là một bên của quá trình tố tụng. Bởi vậy trong bài tiểu
luận này em xin tìm hiểu đề tài “ Địa vị pháp lí của người bị hại trong tố tụng hình sự”
NỘI DUNG
1. Khái niệm người bị hại và địa vị pháp lý của người bị hại
Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do hành vi cấu thành
tội phạm trực tiếp gây ra và được cơ quan tiến hành tố tụng công nhận là người bị hại.
Theo Đại từ điển Tiếng Việt: “ Điạ vị pháp lý là vị trí, số đứng của các nhân trong
xã hội”. Hiện nay, khái niệm địa vị pháp lí chưa được chuẩn hóa vào văn bản pháp luật
nhưng có thể hiểu rằng nói về địa vị pháp lí là nói đến tổng thể các quyền và nghĩa vụ
của chủ thể đó. Muốn tìm hiểu địa vị pháp lí của người bị hại thì phải dựa vào vai trò.
Vị trí của họ trong quan hệ pháp luật TTHS. Người bị hại tham gia tố tụng là để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình vì họ bị tội phạm xâm hại thể chất, tinh thần, tài
sản mà những thứ này lại được Nhà nước và pháp luật bảo vệ. Tuy nhiên, để bảo đảm

quyền và lợi ích của mình, đồng thời cũng là bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của
người khác thì pháp luật cũng đặt ra cho người bị hại những nghĩa vụ nhất định.
Sinh viên: Hoàng Thị Vân MSSV: 351759

2


Tóm lại địa vị pháp lí của người bị hại là tổng thể các quyền và nghĩa v ụ của người
bị hại khi tham gia vào quan hệ pháp luật TTHS và được quy phạm pháp luật điều chỉnh
2. Quyền và nghĩa vụ của người bị hại theo quy định của pháp luật TTHS Việt
Nam hiện hành.
2.1 Quyền của người bị hại
BLTTHS năm 2003 đã quy định cho người bị hại một số quyền tại khoản 2 Điều 51.
“Nguyên đơn dân sự hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền:
a) Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
b) Được thông báo về kết quả điều tra;
c) Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo
quy định của Bộ luật này;
d) Đề nghị mức bồi thường và các biện pháp bảo đảm bồi thường;
đ) Tham gia phiên toà; trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên toà để bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của nguyên đơn;
e) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng;
g) Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án về phần bồi thường thiệt hại.”
Ngoài các quyền trên thì người bị hại có quyền đặc thù là quyền yêu cầu khởi tố vụ
án hình sự và rút yêu cầu khởi tố điều 105 BLTTHS.Trong trường hợp vụ án được khởi
tố theo yêu cầu của người bị hại thì người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của họ trình
bày lời buộc tội tại phiên tòa khoản 3 Điều 51 BLTTHS: “ Trong trường hợp vụ án
được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại quy định tại Điều 105 của Bộ luật này thì
người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày lời buộc tội tại phiên toà”.

2.1.1 Quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu.
Đây là một quyền cơ bản của người bị hại với mục đích bảo đảm quyền và lợi ích
hợp pháp cho người bị hại. Đưa ra tài liệu, đồ vật là để chứng minh thiệt hại do người
phạm tội gây ra. Các tài liệu và đồ vật có thể là giấy khám sức khỏe, hóa đơn tiền viện
phí và tiền thuốc…Yêu cầu của người bị hại có thể là: mời thêm người làm chứng, yêu
Sinh viên: Hoàng Thị Vân MSSV: 351759

3


cầu giám định tỉ lệ thương tật…Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, hồ sơ, chứng
cứ được xác lập trong giai đoạn điều tra là rất quan trọng cho việc xét xử tại phiên tòa.
Tuy nhiên các chứng cứ trong hồ sơ là do cơ quan tiến hành tố tụng thu thập, nhiều
trường hợp chưa đầy đủ và không loại trừ việc thiếu khác quan. Đặc biệt, đối với vụ án
hình sự, trách nhiệm chứng minh tội phạm về các cơ quan tiến hành tố tụng, cho nên đa
số các trường hợp cơ quan điều tra, Viện Kiểm Sát chỉ thu thập chứng cứ buộc tội. Vì
vậy, pháp luật TTHS quy định cho người bị hại có quyền được đưa ra tài liệu, đồ vật, để
giúp cho việc giải quyết vụ án được đúng đắn, khách quan.
2.1.2 Quyền được thông báo về kết quả điều tra
Trong giai đoạn điều tra, cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp theo quy
định của pháp luật để xác định tội phạm, hành vi phạm tội, thiệt hại do tội phạm gây
ra… Các quyết định khi kết thúc giai đoạn điều tra ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi
của người bị hại, vì vậy người bị hại có quyền được biết về kết quả điều tra. Khi được
thông báo về kết quả điều tra, người bị hại sẽ được biết những vấn đề thuộc nội dung vụ
án, trên cơ sở đó chuẩn bị những chứng cứ, lí lẽ hoặc yêu cầu để buộc tội bị cáo hoặc
chứng minh thiệt hại của mình.
Điểm b khoản 2 điều 51 BLTTHS 2003 quy định người bị hại hoặc người đại diện
hợp pháp của họ có quyền được thông báo kết quả điều tra. Tuy nhiên quy định của luật
lại quá chung chung nên việc áp dụng cũng gây ra một số khó khăn nhất định. Việc
thông báo kết quả điều tra theo nhiều hình thức khác nhau là vấn đề cần phải nói đến vì

pháp luật không có hướng dẫn cụ thể.
2.1.3 Quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người
phiên dịch
Đây là một quyền khá phổ biến cho những người tham gia tố tụng để bảo đảm sự
công bằng và nghiêm minh của pháp luật. Quyền này được quy định tại điểm c khoản 2
điều 51 BLTTHS.
Đối với vụ án hình sự thì quyền lợi của người bị hại luôn đối lập với quyền lợi của
người phạm tội. Vì vậy, họ cần người tiến hành tố tụng phải thật sự khác quan và vô tư
Sinh viên: Hoàng Thị Vân MSSV: 351759

4


mới đảm bảo được quyền lợi của họ. Khi có căn cứ cho rằng người tiến hành tố tụng,
người giám định, người phiên dịch không vô tư trong khi giải quyết vụ án thì người bị
hại có quyền đề nghị thay đổi họ. Điều 42 BLTTHS quy định về những trường hợp
người tiến hành tố tụng phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi Điều tra viên,
Kiểm sát viên, Thẩm phán, Thư kí Tòa án. Điều 60 và điều 61 BLTTHS quy định về
các trường hợp người giám định, người phiên dịch phải từ chối tham gia tố tụng.
2.1.4 Quyền đề nghị mức bồi thường và các biện pháp bảo đảm bồi thường
Người bị hại quan tâm đến việc quyền lợi của họ được giải quyết như thế nào vì họ
là những người bị thiệt hại về tinh thần, thể chất, tài sản do hành vi phạm tội gây
ra.Việc bồi thường thiệt hại để bù đắp thiệt hại bị xâm hại của người bị hại là rất cần
thiết. Vì vậy, điểm d khoản 2 điều 51 BLTTHS đã quy định cho người bị hại hoặc đại
diện hợp pháp của họ có quyền “đề nghị mức bồi thường và các biện pháp bảo đảm bồi
thường”. Tuy vậy, thiệt hại do người phạm tội gây ra cho người bị hại nhiều lúc không
thể khôi phục được hoàn toàn mà chỉ có thể khắc phục được phần nào. Do đó, pháp luật
quy định cho người bị hại có quyền đề nghị mức bồi thường để bù bắp những mất mát
của mình.
Người bị hại và người đại diện hợp pháp của người bị hại còn có quyền đề nghị các

cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo đảm bồi thường như
kê biên tài sản ( Điều 146 ). Việc bảo đảm bồi thường thiệt hại rất quan trọng vì đảm
bảo được khả năng thực tế mà người phạm tội có thể bồi thường cho người bị hại.
2.1.5 Quyền tham gia phiên toà; trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên toà
Quyền này được ghi nhận tại điểm đ khoản 2 điều 51 BLTTHS. Việc theo dõi diễn
biến của phiên tòa thông qua việc tham gia phiên tòa tạo điều kiện thuận lợi cho người
bị hại đưa ra các yêu cầu, các tài liệu để chứng minh với các quyết định của tòa án đó là
cơ sở để đề nghị mức bồi thường. Việc tham gia phiên tòa cũng đảm bảo cho người bị
hại biết được các quyết định của Tòa án để xem xét có nên kháng cáo và thời hạn kháng
cáo. Người bị hại có thể tham gia phiên tòa để thực hiện các quyền của mình. Tại phiên
tòa họ có thể đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên
Sinh viên: Hoàng Thị Vân MSSV: 351759

5


dịch, đưa đồ vật, tài liệu, yêu cầu, được trình bày ý kiến, tham gia tranh luận tại phiên
tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Việc tham gia phiên tòa và trình bày
ý kiến, tranh luận là một quyền thể hiện tính dân chủ, ngoài ra “các đánh giá khách
nhau, phản biện nhau của các bên tham gia tố tụng tại phiên tòa sẽ giúp cho tòa án
khách quan hơn, toàn diện hơn, thận trọng hơn khi đánh giá để ra phán quyết”. Tòa án
phải trao giấy triệu tập cho người bị hại để họ có mặt tại phiên tòa. Trong nhiều trường
hợp việc có tham gia phiên tòa của người bị của người bị hại hay không là căn cứ để
hoãn phiên tòa
2.1.6 Quyền khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng
Trong quá trình tiến hành tố tụng, dù ở giai đoạn tố tụng nào, người bị hại nếu phát
hiện thấy quyết định hoặc hành vi của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
có những điểm bất hợp lý, vi phạm pháp luật thì họ có quyền khiếu nại những quyết
định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng theo trình tự,

thủ tục quy định tại chương XXXV của BLTTHS năm 2003 quy định: khiếu nại, tố cáo
trong TTHS. Thông tư liên tịch số 02/2005/TTLT-VKSTC-TATC-BCA-BQP-BTP
ngày 10/8/2005 quy định: “Khiếu nại trong tố tụng hình sự là việc cá nhân, cơ quan ,
tổ chức đề nghị cơ quan, cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định tố tụng, hành vi
tố tụng khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm
quyền, lợi ích hợp pháp của mình”.
BLTTHS 2003 cũng quy định chi tiết về quyền và nghĩa vị của người khiếu nại,
người bị khiếu nại. Đó là phương tiện pháp lý cần thiết để qua đó quyền này của người
bị hại sẽ được đảm bảo thực hiện và có hiệu quả hơn.
Thời hạn khiếu nại đối với quyết định, hành vi tố tụng mà người bị hại cho là có vi
phạm là 15 ngày, kể từ ngày nhận hoặc được quyết định, hành vi tố tụng đó. Trong một
số trường hợp do trở ngại khách quan mà người bị hại không thực hiện được quyền
khiếu nại theo đúng thời hiệu thì thời gian có trở ngại đó không được tính vào thời điểm
khiếu nại.
Sinh viên: Hoàng Thị Vân MSSV: 351759

6


2.1.7 Quyền kháng cáo:
Quyền kháng cáo là một quyền quan trọng của người bị hại. Theo quy định tại khoản
2 điều 51 BLTTHS, người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của họ có quyền “ Kháng cáo
bản án, quyết định của Toà án về phần bồi thường thiệt hại”. Theo hướng dẫn của Hội
đồng thẩm phán TANDTC trong nghị quyết số 05 ngày 08/12/2005 về phần những chủ
thể được quyền kháng cáo thì không chỉ người bị hại và đại diện hợp pháp của người bị
hại có quyền kháng cáo mà người được người bị hại ủy quyền cũng có quyền kháng
cáo.
Khi phạm tội xảy ra thì quan hệ pháp luật hình sự xuất hiện là quan hệ giữa cơ quan
nhà nước và chủ thể của tội phạm. Mỗi quan hệ giữa bị can, bị cáo và người bị hại là
mối quan hệ dân sự trong việc bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật gây ra. Dù

vậy, người bị hại là nạn nhân của hành vi phạm tội, những thiệt hại mà người bị hại
gánh chịu không chỉ thiệt hại về thể chất mà còn là những tổn hại khác về mặt tinh thần
vì vậy bồi thường về vật chất không thể giải quyết được hết. Vì vậy ngoài quyền kháng
cáo về mức bồi thường, pháp luật còn quy định cho người bị hại có quyền kháng cáo cả
phần hình phạt, được thể hiện ý chí nguyện vọng của mình trong việc yêu cầu Nhà nước
xử lí thỏa đáng về hình sự đối với bị cáo.
Về thời hạn kháng cáo thì điều 234, Điều 235 BLTTHS đã có quy định khá cụ thể và
rõ ràng. Việc kháng cáo có thể được thực hiện dưới hình thức là gửi đơn đến tòa án cấp
sơ thẩm hay trình bày trực tiếp với tòa án đã xử sơ thẩm. Hậu quả pháp lý của việc
kháng cáo là những phần của bản án đã kháng cáo thì chưa được đưa ra thi hành và toà
án cấp sơ thẩm phải gửi hồ sơ vụ án và kháng cáo cho cấp phúc thẩm trong thời hạn 7
ngày, kể từ ngày hết hạn kháng cáo.
2.1.8 Quyền đối với kết quả giám định
Đây là một quyền mới của người bị hại. Kết luận giám định là một phương tiện
chứng minh quan trọng, là một trong những chứng cứ giúp cơ quan điều tra tiến hành tố
tụng xác minh sự thật khác quan của vụ án. Nếu các kết luận giám định không chính
xác, không phản ánh đúng sự thật thì sẽ ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án và ảnh
Sinh viên: Hoàng Thị Vân MSSV: 351759

7


hưởng đến quyền lợi của người bị hại. Vì thế nên người bị hại có quyền được biết về
nội dung kết quả giám định. Tại khoản 1 điều 158 BLTTHS 2003 đã quy định: “ Sau
khi đã tiến hành giám định, nếu bị can, những người tham gia tố tụng khác yêu cầu thì
cơ quan đã trưng cầu giám định phải thông báo cho họ về nội dung kết luận giám định.
Bị can, những người tham gia tố tụng khác được trình bày những ý kiến của mình về
kết luận giám định, yêu cầu giám định bổ sung hoặc giám định lại”
Kết quả giám định có vai trò rất lớn trong việc giải quyết vụ án, là cơ sở để xác định
mức bồi thường thiệt hại hoặc xác định trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Vì thế,

việc quy định cho người bị hại có quyền được biết về kết luận giám định, được trình
bày ý kiến về kết luận giám định, được yêu cầu giám định bổ sung hoặc giám định lại là
cần thiết để bảo đảm quyền lợi cho người bị hại.
2.1.9 Quyền nhờ luật sư, bào chữa viên nhân dân hoặc người khác bảo vệ quyền
lợi cho mình.
Người bị hại là người đã bị gây thiệt hại vì vậy họ tham gia tố tụng là bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình. Pháp luật quy định cho họ có quyền tự mình bảo vệ
quyền lợi cho mình hoặc có thể nhờ luật sư, bào chữa viên nhân dân hoặc người khác
nhưng phải được cơ quan tiến hành tố tụng chấp nhận. Tuy nhiên, “ hiện nay chưa có
quy định cụ thể về bào chữa viên nhân dân và trong thực tiễn hoạt động của người bào
chữa viên nhân dân cũng không được tổ chức thành một hệ thống, điều kiện trở thành
bào chữa viên nhân dân cũng không được quy định” trong khi đó luật sư khá phổ biến
và đã có cả văn bản pháp lí riêng điều chỉnh là luật sư nên người dân chủ yếu nhờ luật
sư bào chữa cho mình.
2.1.10 Quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự
Quyền yêu cầu khởi tố vụ án là quyền đăc thù của người bị hại. Khởi tố vụ án hình
sự theo yêu cầu của người bị hại là trường hợp do tính chất của vụ án và vì quyền lợi
của người bị hại nên các cơ quan có thẩm quyền không tự mình khởi tố mà việc khởi tố
chỉ được thực hiện khi có yêu cầu của người bị hại.

Sinh viên: Hoàng Thị Vân MSSV: 351759

8


Khi hành vi phạm tội gây nguy hại không lớn cho xã hội và việc giải quyết vụ án
trên thực tế có thể mang lại những hậu quả bất lợi gây tổn hại thêm cho người bị hại thì
pháp luật cho phép người bị hại quyết định có hay không có yêu cầu khởi tố vụ án.
Khoản 1 điều 105 BLTTHS 2003 quy định: “Những vụ án về các tội phạm được quy
định tại khoản 1 các điều 104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122, 131 và 171 của

Bộ luật hình sự chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại
diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm
thần hoặc thể chất”.
Trong đơn yêu cầu khởi tố thì người bị hại phải nêu rõ các yêu cầu khởi tố về tội
danh cụ thể hay chỉ cần yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền giải quyết vụ án. Yêu cầu
khởi tố vụ án của người bị hại có thể bằng văn bản hoặc bằng lời trình bày tại cơ quan
điều tra. Khi đó người có thẩm quyền phải ghi lại và yêu cầu người bị hại kí vào văn
bản đó. Về thời hạn giải quyết các yêu cầu khởi tố vụ án hình sự theo thông tư liên tịch
số 05/2005/TTLT-VKSTC-BTC-BQP ngày 07/09/2005 thì thời hạn giải quyết là 20
ngày, trường hợp có nhiều tình tiết phức tạp thì thời hạn tối đa không quá 2 tháng.
2.1.11 Quyền rút yêu cầu khởi tố
Đây là quyền gắn liền với quyền yêu cầu khởi tố vụ án của người bi hại. Tại khoản 2
điều 105 BLTTHS quy định: “Trong trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu
trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì vụ án phải được đình chỉ.Trong trường hợp có căn
cứ để xác định người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do
bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Tòa án vẫn có thể tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án. Người bị hại
đã rút yêu cầu khởi tố thì không có quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị
ép buộc, cưỡng bức” Đây là quyền thể hiện sự quan tâm đến tâm tư tình cảm và nguyện
vọng của người bị hại. Tuy nhiên điều luật vô tình hay cố ý đã bỏ xót người đại diện
hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần
hoặc thể chất mà chỉ kể đến người bị hại vì họ cũng có quyền yêu cầu và rút yêu cầu.
2.1.12 Quyền trình bày lời buộc tội
Sinh viên: Hoàng Thị Vân MSSV: 351759

9


Quyền trình bày lời buộc tội được ghi nhận tại khoản 3 điều 51 BLTTHS: ‘Trong
trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại quy định tại Điều 105 của

Bộ luật này thì người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày lời buộc tội
tại phiên toà”. Quy định này thể hiện sự quan tâm tới tâm tư, tình cảm của người bị hại.
Do người bị hại là người phải chịu hậu quả hành vi phạm tội gây ra nên pháp luật để
cho người bị hại có quyền pháp quyết hành vi phạm tội. Hiện nay pháp luật quy định
cho người bị hại có quyền trình bày lời buộc tội tại phiên toad nhưng chưa có quy định
cụ thể về hình thức, nội dung của lời buộc tội vì vậy người bị hại chưa thực hiện tốt
quyền này.
2.2 Nghĩa vụ của người bị hại
Bên cạnh các quyền cơ bản nêu trên thì pháp luật TTHS quy định những nghĩa vụ
mà người bị hại phải thực hiện nhằm mục đích giải quyết vụ án hình sự một cách có
hiệu quả. Theo quy định tại khoản 4 điêu 51 BLTTHS 2003 thì người bị hại có nghĩa vụ
có mặt tại theo giấy triệu tập của cơ quan tố tụng và phải có nghĩa vụ khai báo.
2.2.1 Nghĩa vụ có mặt tại theo giấy triệu tập của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,
Tòa án.
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, sự có mặt của người bị hại là rất cần thiết.
Sự tham gia tố tụng của người bị hại vừa là quyền đồng thời là nghĩa vụ, không những
bảo đảm được quyền lợi của họ mà còn góp phần giải quyết vụ án nhanh chóng và
chính xác. Nghĩa vụ có mặt phải của người bị hại được quy định tại khoản 4 Điều 51
BLTTHS “ người bị hại phải có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Tòa án”. Tại cơ quan tiến hành tố tụng người bị hại sẽ được giả quyết về
quyền và nghĩa vụ của mình từ đó giúp họ thực hiện tốt quyền lợi và nghĩa vụ của mình
theo pháp luật. Theo quy định của BLTTHS thì khi nhận được giấy triệu tập của cơ
quan tiến hành tố tụng thì người bị hại phải có mặt để trình bày những vấn đề liên quan
đến vụ án. Tại đây, người bị hại phải khai báo những tình tiết của vụ án mà họ biết được
để cơ quan tiến hành tố tụng hoàn thêm hồ sơ vụ án. Các cơ quan tiến hành tố tụng triệu

Sinh viên: Hoàng Thị Vân MSSV: 351759

10



tập người bị hại bằng cách gửi giấy triệu tập thông qua đường bưu điện hoặc thông qua
UBND xã nơi cư trú của người bị hại.
Sự có mặt của người bị hại có vai trò rất quan trọng nhất là đối với những vụ án
khởi tố theo yêu cầu của người bị hại nếu người bị hại và người đaị diện hợp pháp của
họ vắng mặt thì phiên tòa sơ thẩm đó phải hoãn lại. Trong phiên tòa phúc thẩm nếu
người bị hại kháng cáo hoặc người bị hại kháng cáo hoặc có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đến việc kháng cáo, kháng nghị thì được triệu tập. Nếu vắng mặt không có lí do
chính đáng thì Hội đồng xét xử có thể vẫn tiến hành xét xử nhưng không được ra quyết
định không có lợi cho người bị hại, trong những trường hợp khác thì phải hoãn phiên
tòa.
Nhìn chung nghĩa vụ có mặt của người bị hại theo sự triệu tập của cơ quan tiến hành
tố tụng là một nghĩa vụ bắt buộc đối với người bị hại. Vì khi có mặt thì người bị hại
mới có thể thực hiện quyền của mình và bảo vệ những lợi ích hợp pháp của mình. Đồng
thời, người bị hại khi có mặt sẽ giúp cơ quan tiến hành tố tụng trong việc xác minh các
tài liệu, chứng cứ còn nghi ngờ hoặc mâu thuẫn để từ dó có kết luân chính xác về sự
thật khách quan của vụ án để bảo đảm xét xử đúng người đúng tội, không làm oan cho
người vô tội nhưng cũng không bỏ lọt tội phạm.
2.2.2 Nghĩa vụ khai báo.
Để làm rõ sự thật khách quan của vụ án và bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật
cũng như bảo vệ quyền lợi cho công dân thì người bị hại phải có nghĩa vụ khai báo.
Người bị hại là người bị thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra vì thế họ là người hiểu rõ
hơn ai hết về hành vi phạm tội với bản thân mình. Nghĩa vụ khai báo trung thực được
đặt ra với tất cả những người tham gia tố tụng khác nhưng đối với người bị hại thì có ý
nghĩa đặc biệt vì thái độ và tình cảm của người bị hại với tội phạm thường làm cho lời
khai của họ theo hướng chủ quan. Điều này cũng dễ hiểu vì người bị hại là người bị tội
phạm gây thiệt hại nên luôn bị chi phối bởi các yếu tố tâm lí. Để chứng minh hành vi
phạm tội, chứng minh những thiệt hại mà mình đã phải chịu do hành vi phạm tội gây ra,

Sinh viên: Hoàng Thị Vân MSSV: 351759


11


người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ phải phối hợp với cơ quan tiến hành
tố tụng thông qua việc khai báo.
Tại khoản 4 điều 51 BLTTHS quy định: “ nếu từ chối khai báo mà không có lí do
chính đáng thì có thể phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại điều 308 của bộ
luật hình sự”. Hành vi từ chối khai báo thể hiện dưới dạng không chấp nhận yêu cầu
của cơ quan tiến hành tố tụng về việc khai báo, trốn tránh việc khai báo thông qua các
hành vi như: không đến theo giấy triệu tập hoặc đến nhưng không chịu khai báo dù
không có lí do chính đáng. Nói cách khác người bị hại được cho là từ chối khai báo khi
họ biết những thông tin, tình tiết liên quan đến vụ án…nhưng họ không chịu khai mà
không có lí do chính đáng. Người bị hại là một “ nhân chứng” quan trọng của vụ án vì
vậy việc bảo đảm để người bị hại khai báo trung thực cũng là đảm bảo để họ thực hiện
quyền lợi của mình.
II. Việc hoàn thiện pháp luật nhằm bảo vệ quyền lợi của người bị hại
1. Vấn đề liên quan đến đại diện hợp pháp của người bị hại:
- Thứ nhất, khoản 5 Điều 51 BLTTHS quy định: “Trong trường hợp người bị hại
chết thì người đại diện hợp pháp của họ có những quyền được quy định tại điều này”.
Như vậy trường hợp người bị hại là người chưa thành niên, người có nhược điểm về
tâm thần, thể chất khi tham gia tố tụng thì đại diện hợp pháp của họ có được tham gia
tố tụng và có được hưởng các quyền của người bị hại không? Theo tinh thần nội dung
Điều 51 BLTTHS thì người đại diện hợp pháp của người bị hại trong trường hợp này
được tham gia tố tụng nhưng không được thực hiện các quyền của người bị hại. Tuy
nhiên, theo tinh thần của Điều 59 Bộ luật tố BLTTHS thì người bảo vệ quyền lợi cho
người bị hại được tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích của người bị hại. Nội
dung các quyền của người này không khác nhiều so với nội dung các quyền quy định
cho người bị hại (Điều 51). Để khắc phục bất cập này, các nhà làm luật cần thiết phải
bổ sung nội dung này vào Điều 51 BLTTHS.

- Thứ hai, BLTTHS chỉ quy định trường hợp người bị hại chết mà chưa quy định
trường hợp người bị hại mất tích. Vậy trường hợp người bị hại được xác định là mất
Sinh viên: Hoàng Thị Vân MSSV: 351759

12


tích thì vấn đề người đại diện hợp pháp của họ được quy định và giải quyết như thế
nào? Họ có được phép tham gia tố tụng và được thực hiện các quyền của người bị hại
không? Thực tiễn giải quyết vụ án cho thấy cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết không
thống nhất với nhau. Vì vậy, BLTTHS cần bổ sung trường hợp trên theo hướng thừa
nhận người đại diện hợp pháp của người bị hại mất tích được tham gia tố tụng và được
thực hiện các quyền của người bị hại.
- Thứ ba, trong hai trường hợp nêu trên cơ quan tiến hành tố tụng không xác định
được ai là người đại diện hợp pháp, hoặc người bị hại thực tế cũng không còn ai là
người đại diện hợp pháp thì giải quyết như thế nào? Người thân của người bị hại có
được tham gia tố tụng không và với tư cách gì? Đây là vấn đề cần được nghiên cứu bổ
sung vào Bộ luật để đảm bảo sự thống nhất trong quá trình áp dụng cũng như đảm bảo
các quyền của người bị hại. Pháp luật cần có quy định cụ thể trường hợp người bị hại
không còn ai là người thân thì cơ quan tiến hành tố tụng yêu cầu đoàn luật sư phân công
văn phòng luật sư cử người bảo vệ quyền lợi cho họ.
Thứ tư, trong trường hợp người đại diện hợp pháp của người bị hại có quyền và
nghĩa vụ mâu thuẫn với nhau thì giải quyết như thế nào? Cho đến nay vấn đề này chưa
được cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn cụ thể mà chỉ được thể hiện trong kết luận của
Chánh án Tòa án Nhân dân tối cao tại hội nghị tổng kết ngành năm 1990.
2. Vấn đề liên quan đến việc quy định và thực hiện các quyền của người bị hại
Thứ nhất, phạm vi thực hiện quyền kháng cáo của người bị hại. Tại điểm e khoản 2
Điều 51 quy định này chỉ cho phép người bị hại kháng cáo trong phạm vi phần bồi
thường và phần hình phạt, những phần khác trong bản án như: phần dân sự cũng như
vấn đề liên quan đến tội danh, đến khung hình phạt... nếu không đồng tình với bản án

và quyết định của Tòa án thì người bị hại không có quyền kháng cáo. Trong khi đó tại
Điều 231 Bộ luật TTHS lại quy định: “ Người bị hại và người đại diện hợp pháp của
họ có quyền kháng cáo bản án và quyết định của Tòa án” Như vậy theo quy định này
thì người bị hại có quyền kháng cáo toàn bộ bản án hoặc quyết định sơ thẩm. Điều luật
không thể hiện bất cứ sự giới hạn nào như tinh thần của Điều 51 Bộ luật TTHS. Như
Sinh viên: Hoàng Thị Vân MSSV: 351759

13


vậy phải chăng nội dung hai điều luật lại mâu thuẫn với nhau và khi gặp trường hợp
trên Tòa án sẽ giải quyết như thế nào? Cho đến nay chưa có văn bản nào của cơ quan có
thẩm quyền hướng dẫn áp dụng hai điều luật trên, vì vậy mỗi nơi áp theo cách hiểu
riêng của mình. Để khắc phục sự mâu thuẫn, đảm bảo sự thống nhất trong quá trình áp
dụng, cũng như để bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích của người bị hại theo chúng tôi cần
thiết phải sửa lại nội dung Điều 51 Bộ luật TTHS theo hướng cho phép người bị hại
hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo toàn bộ bản án hoặc quyết
định của tòa án cấp sơ thẩm.
Thứ hai, nghiên cứu các quy định trong Bộ luật TTHS hiện hành cho thấy pháp luật
TTHS chưa khẳng định người bị hại là một bên trong tranh tụng, thực hiện chức năng
buộc tội. Theo chúng tôi có lẽ đây cũng là một khiếm khuyết của các quy định pháp
luật, thực chất cùng với các chủ thể khác như kiểm sát viên, nguyên đơn dân
sự..., người bị hại cũng là một bên trong tranh tụng, hành vi tố tụng của người bị hại
góp phần quan trọng trong tiến trình đi tìm sự thật của vụ án, công lý và sự công bằng
của pháp luật, đặc biệt là trong những vụ án mà việc khởi tố phải do người bị hại yêu
cầu. Do vậy, để khẳng định vị trí, vai trò và đảm bảo có hiệu quả các quyền của người
bị hại chúng tôi đề nghị:
+ Sửa lại Điều 191 Bộ luật TTHS theo hướng khẳng định: trường hợp tại phiên
tòa người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ vắng mặt thì phải hoãn phiên tòa,
trừ trường hợp những người này yêu cầu hoặc đồng ý để Tòa án xét xử vắng mặt họ. Sự

tham gia phiên tòa của người bị hại có mục đích hoàn toàn khác với nguyên đơn và bị
đơn dân sự vì vậy không thể đồng nhất sự tham gia phiên tòa của nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự với người bị hại như tinh thần của Điều luật này.
+ Thực tiễn xử lý vụ án hình sự cho thấy không ít trường hợp người bị hại hoặc
người đại diện hợp pháp của họ bị kẻ phạm tội hoặc những người thân của người này
khống chế, đe dọa, mua chuộc, lừa dối hoặc có những thủ đoạn khác... làm cho người bị
hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ không thể tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và
lợi ích của mình, không thể có mặt để thực hiện việc khai báo theo yêu cầu của cơ quan
Sinh viên: Hoàng Thị Vân MSSV: 351759

14


tiến hành tố tụng và vô hình chung họ lại phạm vào tội từ chối khai báo theo Điều 308
BLHS. Để khắc phục tình trạng trên, bên cạnh quy định về bảo vệ người làm chứng,
cũng cần bổ sung quy định về bảo vệ người bị hại khi người bị hại yêu cầu và cơ
quan tiến hành tố tụng có cơ sở cho rằng người bị hại bị đe dọa.
+ Tại khoản 4 Điều 51 Bộ luật TTHS quy định. Theo quan sát thực tế, cho đến nay
chưa có người bị hại nào bị truy cứu trách nhiệm về tội “từ chối khai báo” theo Điều
308 BLHS; chưa có hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền về trường hợp từ chối khai
báo có lý do chính đáng và cũng chính vì vậy có nhiều ý kiến cho rằng quy định này là
không thực tế. Mặt khác, đã là người bị hại lại còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự chỉ
vì họ từ chối khai báo, trong khi đó bị can, bị cáo là người bị buộc tội từ chối khai báo
lại không phải chịu trách nhiệm gì, như vậy liệu có công bằng? Như vậy quyền công
dân bao giờ cũng đi đôi với nghĩa vụ công dân, việc khai báo của người bị hại sẽ góp
phần tìm ra sự thật của vụ án vì vậy khó có thể loại bỏ quy định này. Tuy nhiên, làm thế
nào để một tội danh được quy định có phải tính khả thi? Vì vậy, cơ quan có thẩm
quyền cần hướng dẫn để khắc phục những bất cập như đã nêu.
- Thứ ba, cơ chế thỏa thuận nhận tội và bồi thường thiệt hại giữa người bị hại và bị
can, bị cáo trong một số trường hợp là vấn đề được áp dụng khá phổ biến ở các nước.

Nên chăng chúng ta triển khai nghiên cứu cơ chế để tìm kiếm khả năng tiếp thu và vận
dụng cho phù hợp với tình hình thực tiễn ở nước ta.
3. Vấn đề liên quan đến chế định khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại.
Khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại là chế định thể hiện tính dân chủ, sự tôn
trọng và cảm thông trước sự thiệt hại, mất mát, đau đớn của người bị hại. Quá trình áp
dụng cho thấy chế định khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại đã phát huy hiệu
quả, quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại được bảo vệ tốt hơn. Tuy nhiên so với
yêu cầu đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại, chế định này cũng đã bộc
lộ một số bất cập cần hoàn thiện theo hướng sau:
Thứ nhất, nghiên cứu để mở rộng hơn nữa phạm vi các tội mà cơ quan có thẩm
quyền chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại. Theo chúng tôi nên mở rộng
Sinh viên: Hoàng Thị Vân MSSV: 351759

15


đối với các tội xâm phạm sở hữu, các tội xâm phạm danh dự, nhân phẩm và chỉ áp dụng
đối với các tội ít nghiêm trọng.
Thứ hai, nghiên cứu để bổ sung các quyền của người bị hại trong giai đoạn trước xét
xử, theo hướng cho phép người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền
thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến vụ án nếu không thuộc bí mật nhà nước
để phục vụ cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại.
Thứ ba, cần quy định cụ thể thủ tục tố tụng riêng cho trường hợp khởi tố theo yêu
cầu của người bị hại. Theo thủ tục này nên quy định theo hướng chỉ có người bị hại mới
có quyền đưa một người ra xét xử tại phiên tòa, và tất nhiên ở đây quyền công tố không
còn nữa. Sự tham gia phiên tòa của viện kiểm sát lúc này chỉ thực hiện chức năng giám
sát việc tuân theo pháp luật chứ không thực hiện chức năng buộc tội. Tòa án đưa vụ án
ra xét xử trên cơ sở đề nghị của người bị hại. Tại phiên tòa kiểm sát viên không đọc bản
cáo trạng mà người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày lời cáo buộc
của mình trước khi tiến hành xét hỏi. Kiểm sát viên cũng không trình bày lời luận tội

mà sẽ do người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của người bị hại trình bày.
Tất cả những sửa đổi trên đây nếu được chấp nhận sẽ có thể đảm bảo chế định khởi
tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại đi vào thực chất, quyền và lợi ích hợp pháp của
người bị hại mới được đảm bảo.
KẾT LUẬN
Qua đó ta có thể thấy được rằng người bị hại là người mà quyền và lợi ích hợp pháp
của họ bị xâm hại nặng nề nhất, là người chịu thiệt thòi nhiều nhất trong số những
người tham gia tố tụng. Vì vậy, người bị hại cần phải được bảo vệ kịp thời, thậm chí
ngay khi họ bị đe dọa gây thiệt hại. Như vậy chúng ta cần phải có khung pháp lý đúng
mực để có thể bảo về quyền lợi chính đáng của người bị hại. Cần phải đưa ra những
quan điểm đúng đắn về vấn đề này cũng như cần thay đổi bổ sung một số điều trong
BLTTHS để làm sao đảm bảo chế định khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại đi
vào thực chất, quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại mới được đảm bảo.

Sinh viên: Hoàng Thị Vân MSSV: 351759

16


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb.
CAND, Hà Nội, 2009, 2010, 2011
2) Viện khoa học pháp lí, Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003,
Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2005
3) Lê Minh Châu, Người bị hại trong tố tụng hình sự. Tạp chí khoa học pháp lí, số
1, 2007
4) Khóa luận tốt nghiệp,Đinh Thị Thùy Địa vị pháp lý của người bị hại trong pháp
luật tố tụng hình sự Việt Nam, năm 2011
5) Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003
6) Bộ luật tố tụng hình sự năm 21988

7) Bộ luật dân sự 2005
8) Thông tư liên tịch số 02/2005/TTLT-VKSTC-TATC-BCA-BQP-BTP ngày
10/8/2005
9) Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT-VKSTC-BTC-BQP ngày 07/09/2005
10) Nghị quyết số 05/2005 NQ-HĐTP ngày 08/12/2005 của HĐTP TANDTC
11) Website:

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLTTHS 2003: Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.

Sinh viên: Hoàng Thị Vân MSSV: 351759

17



×