Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

Phê chuẩn của VKS trong tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (554.48 KB, 69 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

PHẠM CƠNG MINH

PHÊ CHUẨN CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG TỐ
TỤNG HÌNH SỰ
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2011


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

PHẠM CƠNG MINH

PHÊ CHUẨN CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành: Luật hình sự. Mã số: 60 38 40

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Duy Thuân

TP HỒ CHÍ MINH, NĂM 2011


MỤC LỤC
Trang


MỞ ĐẦU

1

Chương 1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ PHÊ CHUẨN TRONG TỐ TỤNG
HÌNH SỰ

5

1.1 Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát trong
tố tụng hình sự Việt Nam.
1.2 Những vấn đề lý luận cơ bản về phê chuẩn trong tố tụng hình sự

5
12

Chương 2. THỰC TRẠNG CỦA QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀ ÁP DỤNG
PHÁP LUẬT VỀ PHÊ CHUẨN

34

2.1 Quy định của pháp luật hiện hành về phê chuẩn trong tố tụng
hình sự
2.2 Thực trạng áp dụng pháp luật tố tụng hình sự về phê chuẩn

34
43

Chương 3. DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
VỀ PHÊ CHUẨN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ


3.1 Dự báo

51
51

3.2 Giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về
phê chuẩn
KẾT LUẬN

55
68


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi.
Những số liệu, tài liệu được sử dụng trong luận văn là trung thực, phản
ánh đúng tình hình thực tế đang diễn ra tại địa bàn nghiên cứu.
Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được cơng bố
trong bất cứ cơng trình khoa học nào.
Tác giả luận văn

Phạm Công Minh


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 của Bộ Chính trị về một
số nhiệm vụ của công tác tư pháp trong thời gian tới, đã mở đầu cho công cuộc cải
cách tư pháp toàn diện ở nước ta nhằm đáp ứng cho nhu cầu xây dựng thành công

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Một trong những hoạt động có ý nghĩa to lớn
cho việc đáp ứng nhu cầu của công cuộc cải cách tư pháp là việc ban hành Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003 của Quốc hội Khóa XI trên cơ sở sửa đổi một cách tồn diện
Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 (Bộ luật đã qua 3 lần sửa đổi, bổ sung vào các năm
1990, 1992 và năm 2000). Bộ luật TTHS năm 2003 đã thể hiện rõ hơn về các mục
đích như: Nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp đáp ứng yêu cầu
của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình mới; nêu cao trách nhiệm
của các cơ quan nhà nước, bảo đảm quyền tự do dân chủ của công dân; đề cao trách
nhiệm, xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các cơ
quan và người tiến hành tố tụng, xác định rõ hơn quyền và nghĩa vụ của người tham
gia tố tụng; quy định rõ hơn về trình tự, thủ tục tố tụng để người tiến hành tố tụng
cũng như người tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ quyền và trách nhiệm của mình.
Cùng với việc ban hành Bộ luật tố tụng hình sự là việc ban hành Luật tổ chức
VKS nhân dân năm 2002, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 và Pháp lệnh tổ
chức điều tra hình sự năm 2004, nhằm bảo đảm sự vận hành của các cơ quan tư pháp
trong tình hình mới của đất nước.
Phê chuẩn của VKS trong tố tụng hình sự chính là thẩm quyền phê chuẩn
hoặc khơng phê chuẩn đối với các lệnh và quyết định của CQĐT và các cơ quan khác
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, thẩm quyền hủy bỏ đối với
các quyết định khơng có căn cứ và trái pháp luật của CQĐT và các cơ quan khác được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Thẩm quyền phê chuẩn như là
biện pháp thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp của VKS trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự (chức năng tố tụng hình sự của
VKS). Thẩm quyền này nhằm kiểm sát các hoạt động điều tra của CQĐT sao cho
đúng trình tự, thủ tục mà Bộ luật tố tụng hình sự quy định, bảo đảm quyền con người
trong tố tụng hình sự, làm cơ sở cho sự đúng đắn của hoạt động truy tố của VKS cũng

1



như bảo đảm khơng bỏ sót tội phạm và khơng làm oan người vơ tội như mục đích mà
Bộ luật tố tụng hình sự đặt ra.
Qua các điều luật trong Bộ luật tố tụng hình sự quy định liên quan đến thẩm
quyền phê chuẩn của VKS thì thẩm quyền này hướng đến các hoạt động điều tra có
liên quan đến hạn chế các quyền tự do cơ bản của công dân được Hiến pháp và pháp
luật quy định như bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố bị can...nhằm bảo đảm các hoạt
động này thật sự cần thiết, chính xác và đúng pháp luật, bảo đảm về quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân.
Thực tiễn áp dụng Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 trong nhiều năm qua về
cơ bản đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm nhưng bên
cạnh đó vẫn cịn nhiều tồn tại nên chưa được nhận thức một cách thống nhất, nhiều
lúc, nhiều nơi vẫn cịn gặp những khó khăn, bất cập như phê chuẩn khơng kịp thời gây
khó khăn cho hoạt động điều tra hoặc thực lực của VKS khơng đáp ứng được mục
đích u cầu của điều luật dẫn tới việc thực hiện qua loa, đại khái, như là một sự hợp
pháp hóa cho hoạt động của CQĐT, dẫn đến xảy ra nhiều vi phạm tố tụng hoặc hiệu
quả đấu tranh phịng ngừa tội phạm thấp khơng đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn.
Để thực hiện tốt yêu cầu của Nghị quyết 08 đã nêu và đáp ứng yêu cầu của
Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư
pháp đến năm 2020 là đẩy mạnh công cuộc cải cách tư pháp với định hướng chuyển
VKS nhân dân thành Viện Công tố thực hiện nhiệm vụ tố tụng hình sự là chỉ đạo điều
tra thì thẩm quyền phê chuẩn cần được điều chỉnh cho phù hợp, có thể loại bỏ một số
do không khả thi hoặc mở rộng thêm một số nữa, cũng như điều chỉnh về thời hạn phê
chuẩn, thẩm quyền phê chuẩn cho phù hợp với thực tiễn, đồng thời luật cũng phải quy
định về cơ chế bảo đảm thực thi thẩm quyền này của VKS. Vì những lý do trên, tác
giả chọn vấn đề “Phê chuẩn của VKS trong tố tụng hình sự Việt Nam” làm đề tài luận
văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Thẩm quyền phê chuẩn của VKS trong tố tụng hình sự nhiều năm qua cũng
đã có những ý kiến phản ánh, những bài nghiên cứu được đăng tải trên các ấn phẩm
báo chí như tạp chí Dân chủ và Pháp luật, tạp chí Tịa án, tạp chí Kiểm sát... nhưng

chỉ ở mức độ đơn lẻ, như bàn về thủ tục, tài liệu gửi kèm khi CQĐT đề nghị phê
chuẩn, hoặc về thời hạn phê chuẩn, về sự có hiệu lực hay chưa khi lệnh, quyết định

2


chưa được phê chuẩn hoặc đan xen từng nội dung phê chuẩn với các hoạt động thực
hiện chức năng khác của VKS... Về luận văn Thạc sĩ Luật học, có một số nghiên cứu
về chức năng của VKS và các hoạt động thực hiện chức năng có phân tích thêm về
thẩm quyền phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, thẩm quyền hủy bỏ quyết định
không khởi tố vụ án hình sự...Chưa có tài liệu hoặc tác giả nào nghiên cứu chuyên sâu
hoặc đút kết thực tiễn ở tầm quốc gia hay ở một địa phương nào đó để thấy hết sự bất
cập hoặc nhận thức được tầm ảnh hưởng quan trọng của thẩm quyền này trong thực
hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của VKS
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự nên chưa thấy có kiến giải nào để tăng cường
hơn nữa vai trò của VKS trong thời điểm bản lề chuyển dịch chức năng sang chỉ đạo
điều tra như định hướng của Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở làm rõ thực trạng hoạt động phê chuẩn,
luận văn đưa ra hệ thống giải pháp nhằm góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt
động phê chuẩn của VKS.
- Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ
chủ yếu sau:
+ Hệ thống, làm rõ những vấn đề lý luận về phê chuẩn trong tố tụng hình sự
Việt Nam.
+ Phân tích làm rõ quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về phê chuẩn.
+ Khảo sát làm rõ thực trạng hoạt động phê chuẩn trong tố tụng hình sự.
+ Nghiên cứu đưa ra các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động phê
chuẩn trong tố tụng hình sự.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: Phê chuẩn của VKS trong tố tụng
hình sự Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về nội dung: luận văn nghiên cứu toàn diện về phê chuẩn trong TTHS Việt
Nam.
+ Về không gian, luận văn khảo sát thực trạng hoạt động phê chuẩn của VKS
trong phạm vi tồn quốc, trong đó có tập trung ở các đơn vị địa phương điển hình.

3


+ Về thời gian, luận văn tập trung khảo sát thực trạng công tác phê chuẩn của
VKS từ năm 2006 cho đến nay.
5. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin và hệ thống các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về đấu tranh phòng chống
tội phạm.
Để giải quyết nhiệm vụ đặt ra, luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu của
chuyên ngành luật tố tụng hình sự và các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân
tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, hệ thống và phương pháp chuyên gia.
6. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và mục lục, nội
dung luận văn được bố cục như sau:
Chương 1. Nhận thức chung về phê chuẩn trong tố tụng hình sự
Chương 2. Quy định của pháp luật và thực trạng áp dụng pháp luật về phê chuẩn
Chương 3. Dự báo và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động phê chuẩn trong
tố tụng hình sự

4



Chương 1
NHẬN THỨC CHUNG VỀ PHÊ CHUẨN
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1 Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát trong tố tụng
hình sự Việt Nam.
1.1.1 Chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự
Trong lịch sử hình thành và phát triển của nhà nước, mỗi nhà nước đều có hệ
thống cơ quan nhà nước, mỗi cơ quan nhà nước đều có những phương diện hoạt động
cụ thể để thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn nhất định, VKS nhân dân là hệ thống
cơ quan nhà nước trong bộ máy nhà nước của nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam nên VKS có chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn do Hiến pháp và pháp luật quy
định. Trong tố tụng hình sự, VKS cùng với CQĐT và Tòa án là cơ quan tiến hành tố
tụng.
Chức năng là khái niệm nói đến những phương diện hoạt động cơ bản, lâu
dài, xuất phát từ bản chất của sự vật hiện tượng, từ mục đích, ý nghĩa xã hội của việc
giải quyết các nhiệm vụ đặt ra.
Trong khoa học pháp lý chức năng tố tụng hình sự là một trong những vấn đề
cịn đang được nhìn nhận ở nhiều gốc độ khác nhau. Để làm rõ chức năng tố tụng hình
sự của VKS, trước hết cần phải hiểu thế nào là chức năng, thế nào là chức năng của
Nhà nước, của cơ quan nhà nước.
Theo Từ điển Tiếng Việt thì “chức năng là tồn bộ những việc thường xuyên
mà một đoàn thể, một tổ chức, cá nhân phải thực hiện vì nhiệm vụ của mình để giữ
một vai trị trong xã hội”1; Theo giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam của Trường Đại
học Luật Hà Nội thì “chức năng là phương diện hoạt động cơ bản có tính định hướng
lâu dài, phù hợp với sự vận động, phát triển của sự vật hiện tượng trong thế giới
khách quan”2.
Như vậy, nói đến chức năng bao giờ cũng gắn với một chủ thể nhất định (như
chức năng của nhà nước, chức năng của Tòa án…), hoặc với một lĩnh vực cụ thể (như
chức năng đối nội, chức năng đối ngoại, chức năng tố tụng…) khơng thể có khái niệm

chức năng chung chung.

1
2

Từ điển Tiếng Việt, NXB Khoa học xã hội.
Giáo trình luật Hiến pháp Việt Nam, Trường đại học luật Hà Nội

5


Chức năng của Nhà nước là những phương diện hoạt động chủ yếu của Nhà
nước nhằm thực hiện những nhiệm vụ có tính ổn định, lâu dài và thống nhất, được
thực hiện bởi một hệ thống các cơ quan nhà nước. Một chức năng chung của Nhà
nước có thể do nhiều loại cơ quan nhà nước với các loại chức năng và nhiệm vụ cụ
thể khác nhau thực hiện. Còn chức năng của các cơ quan nhà nước là những mặt hoạt
động cụ thể và bao giờ cũng phụ thuộc vào chức năng của Nhà nước nói chung. Khái
niệm chức năng của Nhà nước và chức năng của cơ quan nhà nước là hai khái niệm
khác nhau nhưng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Việc thực hiện chức năng của
các cơ quan nhà nước mục đích cuối cùng là để thực hiện chức năng của Nhà nước
nói chung.
Từ những nhận thức chung về chức năng như trên, chúng ta có thể hiểu chức
năng tố tụng hình sự là một bộ phận của chức năng nhà nước được gắn với các chủ
thể tiến hành tố tụng hình sự là CQĐT, VKS và Tòa án. Thực hiện chức năng tố tụng
hình sự chính là việc thực hiện chức năng nhà nước của các chủ thể này. Hiện nay
theo quan điểm chung của các nhà khoa học pháp lý thì tố tụng hình sự có ba chức
năng cơ bản đó là chức năng buộc tội, chức năng bào chữa và chức năng xét xử. VKS
thực hiện chức năng cơ bản của tố tụng hình sự là chức năng buộc tội (mà trong đó
biểu hiện tập trung là thực hành quyền cơng tố) và một số chức năng có thể gọi là
chức năng không cơ bản như chức năng kiểm tra thông tin tội phạm (trách nhiệm

kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo tội phạm, kiến nghị khởi tố) chức năng điều
tra, chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự...
Khi nói đến chức năng cơ bản hay chức năng không cơ bản trong tố tụng hình
sự cũng cịn nhiều quan điểm khác nhau; tuy nhiên đa số đều thừa nhận, để được coi
là chức năng cơ bản của tố tụng hình sự phải là chức năng có những đặc trưng như:
- Là những hoạt động có tính chất định hướng làm xuất hiện, vận động hay
chấm dứt quá trình tố tụng.
- Phải tồn tại trong quá trình giải quyết bất cứ vụ án hình sự nào.
- Phải là cơ sở cho sự tồn tại và vận động của chức năng cơ bản khác.
- Giữa các chức năng cơ bản phải có mối quan hệ tương hỗ và đối trọng lẫn nhau.
- Hoạt động thực hiện chức năng cơ bản đó vừa có mục đích riêng nhưng
đồng thời cũng là thực hiện mục đích chung của tố tụng hình sự.

6


- Một chức năng cơ bản có thể do nhiều chủ thể thực hiện nhưng một chủ thể
không thể cùng lúc thực hiện nhiều chức năng cơ bản của tố tụng hình sự.3
Các chức năng của VKS được quy định cụ thể ở Hiến pháp và pháp luật của
nước ta4
Theo quy định này thì chức năng Hiến pháp của VKS là thực hành quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Tuy nhiên hiểu như thế nào là thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp, đâu là chức năng tố tụng cũng còn
là vấn đề đang tranh cãi do luật chưa quy định cụ thể. Nhưng theo quy định của Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2003 và Luật tổ chức VKS nhân dân năm 2002 thì chức năng
tố tụng hình sự của VKS là thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong tố tụng hình sự. Theo quy định Khoản 1 Điều 3 Luật tổ chức VKS nhân dân
năm 2002, VKS nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong việc điều tra các vụ án hình sự của các CQĐT và các cơ quan khác được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;

Theo quy định tại Điều 12 Luật tổ chức VKS nhân dân năm 2002 quy định:
VKS nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong việc điều tra các vụ án hình sự.5
Như vậy chức năng tố tụng hình sự của VKS là thực hành quyền công tố và
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự. VKS có thẩm quyền quyết
định việc truy tố, kiểm sát hoạt động của chủ thể tiến hành tố tụng, chủ thể tham gia
tố tụng; kịp thời phát hiện và loại trừ vi phạm pháp luật trong tố tụng hình sự.
Theo các quy định của Hiến pháp, Luật tổ chức VKS nhân dân, Bộ luật tố
tụng hình sự thì VKS nhân dân là cơ quan duy nhất được giao trách nhiệm thực hành
quyền cơng tố trong tố tụng hình sự. Phạm vi của thẩm quyền này là cả quá trình khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Nói cách khác quyền cơng tố bắt
đầu từ khi có sự kiện phạm tội xảy ra và kết thúc khi bản án của Tịa án có hiệu lực.
Để hiểu rõ về chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong tố tụng hình sự của VKS, cần thiết phải làm rõ khái niệm quyền công
tố, phân biệt quyền công tố và thực hành quyền công tố cũng như kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong tố tụng hình sự.
3

Võ Phước Long(2007), Chức năng của VKSND trong TTHS, Luận văn Thạc sĩ luật học, tr 25 .
Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (được sửa đổi, bổ sung năm 2001).
5
Bộ luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2003.
4

7


Trước hết, về quyền cơng tố, tuy cịn nhiều quan điểm khác nhau nhưng tựu
chung lại các nhà khoa học đều thừa nhận quyền công tố phát triển cùng với việc hoàn
thiện bộ máy nhà nước và hệ thống pháp luật. Ở nước ta, thuật ngữ “thực hành quyền

công tố” xuất hiện lần đầu tiên trong Hiến pháp năm 1980 về chức năng của VKS
nhân dân (Điều 138). Đây là nhiệm vụ quan trọng của hệ thống cơ quan VKS, nhưng
cho đến nay về mặt lý luận chưa có một sự giải thích chính thống nào từ cơ quan có
thẩm quyền về quyền công tố.
Theo tác giả Lê Hữu Thể thì: “Quyền cơng tố là quyền nhân danh nhà nước
thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội”6
Với quan điểm này thì quyền cơng tố là quyền lực nhà nước. Nhà nước cho
VKS thực hiện để buộc tội người đã thực hiện hành vi phạm tội trước Tịa án. Theo
đó thì chủ thể của quyền công tố là VKS, đối tượng bị truy cứu là người phạm tội;
phạm vi bao gồm cả giai đoạn khởi tố điều tra, truy tố xét xử.
Thứ hai, về thực hành quyền cơng tố, như đã phân tích VKS thực hiện chức
năng buộc tội. Để thực hiện chức năng này, VKS phải tiến hành các hoạt động để tiến
hành quá trình buộc tội đối với người có hành vi phạm tội trước Tòa án. VKS phải
chịu trách nhiệm từ việc khởi tố hình sự, áp dụng các biện pháp ngăn chặn… đối với
người phạm tội qua hoạt động kiểm sát điều tra mà biểu hiện tập trung nhất là hoạt
động phê chuẩn và đây chính là thực hành quyền cơng tố.
Cũng theo tác giả Lê Hữu Thể: “Thực hành quyền công tố là việc sử dụng
tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để thực hiện việc truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố
và xét xử”7. Quan điểm này thừa nhận thực hành quyền công tố là hoạt động của
VKS, dựa trên cơ sở sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền
công tố để thực hiện chức năng buộc tội.
Chúng tơi hồn tồn thống nhất với các khái niệm nêu trên của tác giả Lê Hữu
Thể. Tuy nhiên, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 cịn quy định một số biện pháp tố
tụng được thực hiện trước khi khởi tố vụ án hình sự như giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm, khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi… hoạt động này phải có sự

6

Lê Hữu Thể (2008), Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra,

NXB Tư pháp, tr.21-51.
7
Lê Hữu Thể (2008), Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra,
NXB Tư pháp, tr.21.

8


kiểm sát của VKS để bảo đảm tính có căn cứ và đúng pháp luật của các hoạt động này
và để quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn một số biện pháp tố
tụng của CQĐT ở giai đoạn tiếp theo. Theo tác giả thì phạm vi kiểm sát mở rộng ra cả
ở giai đoạn trước khi có quyết định khởi tố vụ án, tức là từ khi xác định có sự kiện
phạm tội xảy ra.
Thứ ba, về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, đây cũng
chính là kiểm sát các hoạt động tư pháp hình sự. Hoạt động tư pháp hình sự là hoạt
động của các chủ thể trong các giai đoạn tố tụng hình sự, là hoạt động chỉ do các cơ
quan tư pháp và các cơ quan được giao thực hiện một số thẩm quyền về tư pháp thực
hiện. Như trên đã nói chức năng của VKS là thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp. Vì vậy có thể nói kiểm sát các hoạt động tư pháp là một dạng giám
sát nhà nước về tư pháp, đây là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước của VKS.
Mục đích của kiểm sát các hoạt động tư pháp hình sự là nhằm bảo đảm cho pháp luật
được áp dụng nghiêm chỉnh và thống nhất trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và
thi hành án hình sự. VKS có trách nhiệm áp dụng những biện pháp do Bộ luật tố tụng
hình sự quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật của bất kỳ cơ quan tư pháp hoặc
cán bộ tư pháp nào.
Tóm lại, VKS có hai chức năng tố tụng hình sự là thực hành quyền công tố và
kiểm sát hoạt động tư pháp hình sự. Đây là hai chức năng độc lập, nhưng có quan hệ
mật thiết, gắn bó hữu cơ khơng thể tách rời với nhau. Thực hành quyền công tố là việc
sử dụng các biện pháp luật định để truy tố người có hành vi phạm tội ra trước Tịa án;
cịn kiểm sát hoạt động tư pháp hình sự là bảo đảm cho pháp luật được áp dụng

nghiêm chỉnh và thống nhất trong tố tụng đối với các vụ án hình sự.
1.1.2 Quyền hạn của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự
Với chức năng và nhiệm vụ như đã phân tích ở trên, để thực thi nhiệm vụ chức
năng đó, pháp luật tố tụng hình sự đã quy định quyền hạn của VKS trong tố tụng hình sự.
Để hiểu về quyền hạn tố tụng hình sự, trước hết cần biết quyền hạn là gì.
Theo Từ điển luật học thì: “Quyền hạn của một chủ thể được pháp luật quy
định đồng thời cũng là nhiệm vụ của chủ thể đó được sử dụng để thực hiện chức năng,
trách nhiệm nhất định của chủ thể đó”.8

8

Từ điển Luật học (2006), NXB Khoa học xã hội, NXB Tư pháp, Hà Nội, tr 651.

9


Theo cách hiểu này thì quyền hạn của VKS trong tố tụng hình sự do pháp luật
tố tụng hình sự quy định. VKS là một chủ thể tiến hành tố tụng, quá trình thực hiện
nhiệm vụ chức năng của mình, VKS có những quyền hạn cụ thể trong từng giai đoạn
tố tụng.
Theo tác giả Lê Cảm thì có các giai đoạn tố tụng như sau: Giai đoạn khởi tố,
giai đoạn điều tra, giai đoạn truy tố, giai đoạn xét xử 9
Quá trình giải quyết vụ án hình sự, trong mỗi giai đoạn tố tụng, VKS đều có
nhiệm vụ, quyền hạn nhất định. Trong phạm vi luận văn này tác giả chỉ xem xét
những giai đoạn tố tụng mà VKS thực hiện quyền phê chuẩn. Đó là giai đoạn khởi tố
vụ án hình sự và giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
Điều 112, Điều 113 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 Điều 13, Điều 14 Luật
Tổ chức VKS nhân dân năm 2002 quy định nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi thực
hành quyền công tố và kiểm sát điều tra trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự.
Các điều luật nêu trên quy định nội dung của thực hành quyền công tố và kiểm sát các

hoạt động tư pháp. Thẩm quyền phê chuẩn của VKS được xem như là một biện pháp
thực hiện chức năng tố tụng hình sự của VKS. Đây cũng chính là nhiệm vụ, quyền
hạn và trách nhiệm của VKS trong tố tụng hình sự. Bởi vì, theo Bộ luật tố tụng hình
sự thì CQĐT là cơ quan được giao nhiệm vụ điều tra các vụ án hình sự. Hoạt động
điều tra của CQĐT là hoạt động thu thập, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ để tìm ra sự
thật của vụ án, sự thật của hành vi phạm tội và xác định người đã thực hiện hành vi
phạm tội đó. Trong q trình điều tra, CQĐT có quyền áp dụng các biện pháp tố tụng
hình sự; song nhiều biện pháp tố tụng đó có liên quan đến quyền cơ bản của cơng dân
như bắt người, tạm giữ, tạm giam, khám xét, thu giữ đồ vật, tài liệu v.v…, cần thiết
phải có sự phê chuẩn của VKS. Đây chính là quyền hạn của VKS trong tố tụng hình
sự.
Như vậy, trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự chức năng thực hành quyền
cơng tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của VKS được Bộ luật tố tụng hình sự quy định
cụ thể riêng trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, luật không quy định việc phê chuẩn
của VKS đối với quyết định khởi tố vụ án hình sự nhưng quy định trách nhiệm kiểm sát
việc giải quyết của CQĐT đối với tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Đây
là giai đoạn, xác định căn cứ để phát động điều tra. Để bắt đầu giai đoạn điều tra phải
9

Lê Cảm, “Một số vấn đề lý luận chung về giai đoạn tố tụng hình sự”, www.tapchikiemsat.org.vn.

10


có quyết định khởi tố vụ án hình sự mà những căn cứ này là cơ sở cho việc thực hiện
thẩm quyền phê chuẩn sau đó của VKS nên nhất thiết phải có sự kiểm sát của VKS. Có
thể nói việc kiểm sát việc tiếp nhận, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi
tố của CQĐT là tiền đề cơ sở cho sự phê chuẩn nên đây cũng chính là quyền hạn của
VKS trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự.
Tóm lại, phê chuẩn của VKS trong tố tụng hình sự Việt Nam được Bộ luật

tố tụng hình sự năm 2003 quy định là quyền hạn (gắn với trách nhiệm) của VKS
được biểu hiện qua nhiệm vụ và quyền hạn của Viện trưởng, Phó Viện trưởng và
Kiểm sát viên nhằm thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự ở giai đoạn khởi tố và điều tra vụ án hình
sự.
1.2 Những vấn đề lý luận cơ bản về phê chuẩn trong tố tụng hình sự
1.2.1 Khái niệm vai trị của phê chuẩn
Phê chuẩn nói chung, theo Từ điển luật học là “Xét duyệt để cho phép sử
dụng hoặc thực hiện một văn bản, cơng việc, vấn đề hay lĩnh vực nào đó”, khác với
phê duyệt là “Xem xét, đồng ý cho ban hành một văn bản hoặc cho phép thực hiện
một công việc theo yêu cầu, đề nghị của một tổ chức, cá nhân khác” 10. Như vậy phê
chuẩn và phê duyệt phải gắn với một thẩm quyền nhất định tức là phải gắn với quyền
hạn, nhiệm vụ của một chủ thể được pháp luật quy định.
Trong Từ điển Tiếng Việt, phê chuẩn được giải thích là “tỏ sự bằng lịng,
chấp thuận” . Có thể hiểu đây là sự đồng ý của chủ thể này đối với một chủ thể khác
làm một việc gì đó và giữa hai chủ thể có sự ràng buộc với nhau là chủ thể đề nghị
phê chuẩn (hay phê duyệt) có sự lệ thuộc vào chủ thể kia. Ví dụ như thủ trưởng của
một đơn vị, tổ chức phê chuẩn (phê duyệt) báo cáo, đề xuất của nhân viên.11
Cũng có quan điểm cho rằng phê chuẩn là đồng ý cùng thực hiện một việc gì
đó, nghĩa là hai chủ thể khơng có quan hệ lệ thuộc gì nhau và chủ thể này đồng ý với
chủ thể kia về một hoặc một số vấn đề để cùng thực hiện và biểu hiện bằng sự cam
kết với nhau. Ví dụ như các quốc gia phê chuẩn công ước quốc tế hay ký kết các hiệp
định song phương, đa phương….12

10

Từ điển Luật học (2006), NXB Khoa học xã hội, NXB Tư pháp, Hà Nội, tr.616.
Từ điển Tiếng Việt (2008), NXB Văn hóa thơng tin, tr.1140.
12
Theo Bách khoa Tồn thư mở Wikipedia.

11

11


Chúng tôi cho rằng, phê duyệt là sự xem xét, đồng ý cho ban hành một văn
bản hoặc cho phép thực hiện một công việc theo yêu cầu, đề nghị của một tổ chức, cá
nhân khác có quan hệ phụ thuộc (cấp dưới với cấp trên). Ví dụ như phê duyệt công
văn, báo cáo trước khi ban hành của thủ trưởng các đơn vị, cơ quan, tổ chức… Còn
phê chuẩn là việc một chủ thể này xem xét một công việc và quyết định đồng ý hay
không đồng ý cho một chủ thể khác thực hiện. Hai chủ thể naỳ khơng có mối quan hệ
ràng buộc trên dưới, nó mang tính kiểm tra, giám sát hơn là cho phép hay không giữa
cấp trên và cấp dưới như phê duyệt.
Phê chuẩn trong tố tụng hình sự, như phần trên đã nói đây là quyền hạn của
VKS. Bộ luật tố tụng hình sự giao quyền phê chuẩn duy nhất cho VKS. Phê chuẩn
trong tố tụng hình sự, khơng phải là sự phê duyệt cho phép hay không cho phép thực
hiện mà là sự cân nhắc về sự cần thiết, sự xem xét các căn cứ áp dụng có đầy đủ hay
khơng trước khi áp dụng. Quyết định không phê chuẩn, VKS phải nêu rõ lý do. Nếu
không đồng ý, CQĐT tuy phải chấp hành nhưng vẫn có quyền đề nghị VKS cấp trên
xem xét lại.
Phê chuẩn là một biện pháp thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự. Qua hoạt động phê chuẩn,
VKS kiểm sát được hoạt động điều tra của CQĐT, kịp thời phát hiện những vi phạm
pháp luật để hạn chế và chấn chỉnh. Như vậy phê chuẩn có vai trị rất quan trọng, thể
hiện ở sự bảo đảm tính có căn cứ và đúng pháp luật bảo đảm về quyền con người
trong hoạt động tố tụng hình sự.
Vai trị của phê chuẩn thể hiện:
- Thứ nhất, vì phê chuẩn là sự chế ước của VKS đối với CQĐT khi áp dụng các
biện pháp tố tụng trong quá trình điều tra vụ án hình sự. Một số hoạt động của CQĐT
chỉ được tiến hành khi có sự đồng ý của VKS. CQĐT khơng thể muốn làm gì thì làm vì

có sự giám sát chặt chẽ của VKS. Những hoạt động của CQĐT mà luật tố tụng quy
định phải có sự phê chuẩn của VKS, nếu VKS khơng phê chuẩn mà CQĐT vẫn tiến
hành thì hoạt động đó là vi phạm pháp luật và khơng có giá trị pháp lý.
Các biện pháp mà luật buộc phải có sự phê chuẩn của VKS đều thường là
những biện pháp mang tính cưỡng chế cao, ảnh hưởng trực tiếp đến nhân thân người
phạm tội, liên quan trực tiếp đến quyền con người. Tuy nhiên, nếu quy định hợp lý thì
là sự bảo đảm cho các biện pháp tố tụng được áp dụng một cách chính xác, cần thiết

12


và đúng pháp luật, bảo đảm cho quá trình điều tra diễn ra thuận lợi, nhưng nếu quy
định không hợp lý, khơng khả thi chỉ là quy định mang tính hình thức, thậm chí gây
khó khăn cho q trình điều tra dẫn đến hiệu quả phòng ngừa tội phạm thấp.
- Thứ hai, phê chuẩn là sự bảo đảm cho tính có căn cứ và hợp pháp của hoạt
động tố tụng hình sự, thể hiện như sau:
+ Phê chuẩn của VKS là sự bảo đảm cho tính có căn cứ của hoạt động tố tụng
hình sự. Các biện pháp tố tụng mà Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định phải có
sự phê chuẩn của VKS đều có quy định căn cứ áp dụng. CQĐT phải thu thập cho đầy
đủ những căn cứ mới ra văn bản đề nghị phê chuẩn và VKS xem xét những căn cứ đó
là có hay khơng, là đủ hay chưa, mới quyết định phê chuẩn hay quyết định không phê
chuẩn. Như vậy sự cân nhắc về tính có căn cứ của hoạt động điều tra được VKS xem
xét một lần nữa. Nên hoàn tồn có thể nói phê chuẩn của VKS là sự bảo đảm cho tính
có căn cứ của hoạt động tố tụng hình sự.
+ Phê chuẩn của VKS là sự bảo đảm cho tính hợp pháp của hoạt động tố tụng
hình sự, VKS kiểm tra tính hợp pháp của các tài liệu, chứng cứ và các lệnh, quyết
định của CQĐT. Cụ thể là kiểm tra việc chấp hành các thủ tục, trình tự tố tụng mà
pháp luật đã quy định để xác minh, thu thập các tài liệu, chứng cứ; thẩm quyền của
người ra lệnh, quyết định, hình thức và nội dung của lệnh, quyết định. Đây chính là sự
bảo đảm cho tính hợp pháp của hoạt động tố tụng hình sự.

Sự phân biết tính có căn cứ và tính hợp của hoạt động tố tụng là để thuận lợi
trong nghiên cứu. Trong thực tiễn áp dụng pháp luật thì tính có căn cứ và tính hợp
pháp ln ln gắn liền nhau. Khơng thể có một quyết định tố tụng hợp pháp nếu như
khơng có căn cứ để ra quyết định cũng như không thể là một quyết định hợp pháp khi
khơng đúng trình tự, thủ tục hay thẩm quyền theo quy định.
- Thứ ba là sự bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự:
Quyền con người, đó là quyền được tạo hóa ban cho và khơng thể tước bỏ
như quyền sống, quyền tự do, quyền được mưu cầu hạnh phúc, đó là những giá trị cao
quý nhất được thừa nhận chung của nền văn minh nhân loại.13
Ở nước ta, Đảng ta chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa. Nhà nước Việt Nam luôn tôn trọng những giá trị đích thực và bảo vệ các quyền
13

Lê Văn Cảm (2010), “Những vấn đề chung về bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật trong lĩnh vực tư
pháp hình sự” Kỷ yếu hội thảo “Bảo vệ quyền con người trong tư pháp hình sự Việt Nam” của trường Đại học
Luật TP Hồ Chí Minh, tháng 10/2010, tr.3-21.

13


con người. Hiến pháp và pháp luật nước ta đều ghi nhận về quyền con người, quyền
công dân. Điều 71, Điều 72 Hiến pháp 1992 ghi nhận:
Cơng dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về
tính mạng, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm. Khơng ai bị bắt nếu khơng có quyết định
của Tòa án, quyết định họăc phê chuẩn của VKS nhân dân, trừ trường hợp phạm tội
quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật…
…Người làm trái pháp luật trong việc bắt, giam giữ, truy tố, xét xử gây thiệt
hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm minh.14
Những quy định trên của Hiến pháp làm cơ sở cho việc xây dựng Bộ luật tố
tụng hình sự, thể hiện sự bảo vệ quyền con người, bảo vệ quyền công dân; bằng pháp

luật ngăn ngừa sự vi phạm về quyền con người, quyền bất khả xâm phạm về thân thể,
quyền được bảo vệ nhân phẩm và danh dự của cơng dân.
Ở góc độ này, tác giả Trần Văn Độ viết:
Tố tụng hình sự là lĩnh vực hoạt động nhà nước nhạy cảm, liên quan nhiều
nhất đến quyền con người. Hơn ở đâu hết, quyền con người trong tố tụng hình sự,
nhất là của bị can, bị cáo, dễ bị xâm phạm nhất và hậu quả của sự xâm phạm đó
thường là rất nghiêm trọng cả về vật chất, thể chất và tinh thần.15
Về ý nghĩa của việc bảo vệ quyền con người bằng pháp luật tố tụng hình sự,
tác giả Lê Văn Cảm viết:
Trong bất kỳ một Nhà nước pháp quyền đích thực nào, các quy định của pháp
luật tố tụng hình sự đều có ý nghĩa thực tiễn rất quan trọng là nhằm bảo vệ các quyền
tự do của con người và của công dân với tư cách là những giá trị xã hội cao quý nhất
được thừa nhận chung của nền văn minh nhân loại, tránh được sự tùy tiện của một số
quan chức trong các cơ quan tiến hành tố tụng…16
Như vậy, có thể nói rằng, lĩnh vực tố tụng hình sự ảnh hưởng rất lớn đến
quyền con người, Bộ luật tố tụng hình sự lấy quyền con người làm cơ sở cho việc xây
dựng các chế định, trong đó phê chuẩn của VKS là một trong những biểu hiện rõ nét
về sự bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự. VKS sử dụng quyền phê chuẩn
để giám sát chặt chẽ những hành vi tố tụng của CQĐT. Mục đích của phê chuẩn là
14

Hiến pháp năm 1992 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, được sửa đổi, bổ sung năm 2001.
Trần Văn Độ (2010). “Bảo vệ quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự đáp
ứng yêu cầu cải cách tư pháp” Kỷ yếu hội thảo “Bảo vệ quyền con người trong tư pháp hình sự Việt Nam” của
trường Đại học Luật TP Hồ Chí Minh, tháng 10/2010, tr.84-103.
16
Lê Văn Cảm, tlđd số 14.
15

14



nhằm hạn chế tối đa hướng đến mức loại trừ việc vi phạm quyền con người trong hoạt
động điều tra vụ án hình sự. Vì vậy hồn tồn có thể nói rằng phê chuẩn của VKS là
một sự bảo đảm về quyền con người trong tố tụng hình sự.
1.2.2 Nguyên tắc phối hợp và chế ước trong hoạt động phê chuẩn
1.2.2.1 Nguyên tắc phối hợp trong hoạt động phê chuẩn

Như chúng ta đều biết, bất cứ hoạt động xã hội nào cũng cần phải có sự phối
hợp. VKS được giao quyền phê chuẩn trong tố tụng hình sự khơng có nghĩa là tự thân
VKS quyết định mọi thứ. Quá trình thực hiện nhiệm vụ chức năng, VKS ln có sự
phối hợp, đó là phối hợp giữa các bộ phận trong nội bộ ngành Kiểm sát với nhau, phối
hợp với các tổ chức chính trị xã hội, với cơ quan chính quyền nhà nước, với các cơ
quan đề nghị phê chuẩn. Có phối hợp tốt mới thực hiện phê chuẩn tốt, đáp ứng được
yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm. Sau đây là một số mối quan hệ phối hợp cơ
bản:
- Phối hợp trong nội bộ ngành Kiểm sát với nhau
Như trên đã nói, phê chuẩn là quyền hạn của VKS trong giai đoạn khởi tố,
điều tra vụ án hình sự. Trên lý thuyết, công tác này thuộc bộ phận Thực hành quyền
công tố thực hiện mà chức năng tố tụng của VKS là thực hành quyền công tố và kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự và hai chức năng này là không thể
tách rời nhau nên phải luôn phối hợp với bộ phận Kiểm sát điều tra án hình sự. Thực
hành quyền cơng tố là việc thực hiện các biện pháp pháp luật, quyết định các vấn đề
tố tụng trong giai đoạn điều tra nhằm mục đích chứng minh tội phạm và người phạm
tội, trong đó có hoạt động phê chuẩn. Cịn Kiểm sát điều tra là thực hiện các biện
pháp giám sát nhằm bảo đảm cho các hoạt động điều tra được tiến hành một cách
đúng đắn, đúng trình tự, thủ tục luật định. Hai nhiệm vụ chức năng này của VKS luôn
song song tồn tại, tuy độc lập nhưng ln gắn bó, hỗ trợ lẫn nhau, nên mối quan hệ
phối hợp giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra ln tồn tại. Ngồi ra cịn
phải phối hợp với bộ phận Thống kê tội phạm để nắm về thông tin tội phạm, dự báo

tội phạm; phối hợp với Văn phòng để điều phối công cụ, phương tiện kỹ thuật… mới
làm tốt được công tác phê chuẩn.
Trong trực nghiệp vụ, phải có sự phối hợp giữa lãnh đạo (Viện trưởng, Phó
Viện trưởng) với Kiểm sát viên. Do luật định thời hạn phê chuẩn là khá ngắn đồng
thời trên thực tế sự kiện phạm tội xảy ra là bất cứ lúc nào nên việc trực nghiệp vụ của

15


bộ phận Thực hành quyền công tố và lãnh đạo VKS phải bảo đảm hai mươi bốn trên
hai mươi bốn giờ. Mỗi đơn vị VKS chỉ có một Viện trưởng và chỉ từ một đến ba Phó
Viện trưởng nên lãnh đạo VKS sẽ khơng có mặt thường xun trong khi trực, vì vậy
Kiểm sát viên phải kịp thời báo cáo, xin ý kiến chỉ đạo đồng thời phải đề xuất, trình
ký các quyết định phê chuẩn, quyết định khơng phê chuẩn. Công tác này ảnh hưởng
trực tiếp đến các quyền cơ bản của cơng dân nên địi hỏi người trực nghiệp vụ phải có
trình độ theo quy định (phải có bằng cử nhân luật trở lên) đồng thời phải có kinh
nghiệm chuyên sâu mới bảo đảm sự nhanh chóng, đúng thời hạn luật định và chính
xác, đúng pháp luật.
Phối hợp trên - dưới trong nội bộ ngành Kiểm sát cũng thường xuyên diễn ra.
Đó là việc thỉnh thị hoặc trong giải quyết kiến nghị của CQĐT cấp dưới đối với
những trường hợp VKS cùng cấp quyết định không phê chuẩn hay hủy bỏ các biện
pháp mà CQĐT đề nghị mà lý do không thuyết phục. Thỉnh thị là việc VKS cấp dưới
đề nghị VKS cấp trên hướng dẫn áp dụng pháp luật hoặc xin ý kiến về một vấn đề,
một vụ việc cụ thể. Trong hoạt động phê chuẩn thường không đủ thời gian để thỉnh
thị. Tuy nhiên sau những vụ việc khó khăn, phức tạp, thường cũng có sự phản ánh,
xin ý kiến để rút kinh nghiệm. Việc giải quyết kiến nghị của CQĐT cấp dưới, VKS
phải có sự phối hợp trên – dưới để VKS cấp trên nắm rõ vụ việc mà xử lý cho thỏa
đáng. Ngoài ra VKS cấp trên cịn thường xun thơng tin về tình hình tội phạm, thơng
báo rút kinh nghiệm chung về các vụ việc phức tạp diễn ra phổ biến và đặc biệt là cập
nhật văn bản quy phạm pháp luật cũng như hướng dẫn áp dụng pháp luật cho VKS

cấp dưới.
- Phối hợp ngoài ngành
Phê chuẩn là nhiệm vụ chức năng riêng có của VKS nhưng khơng phải chỉ có
sự phối hợp trong ngành như đã phân tích ở trên mà VKS còn phải phối hợp với các
cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội khác trong quá trình
thực hiện nhiệm vụ. Sự phối hợp ngồi ngành nhằm nắm bắt thơng tin về tội phạm
(với Mặt trận Tổ quốc và các đơn vị thành viên của Mặt trận), nhằm thực hiện sự chỉ
đạo phục vụ tình hình chính trị địa phương (với cấp ủy, ủy ban nhân dân), nhưng quan
trọng nhất là phối hợp trực tiếp với các CQĐT trong việc phê chuẩn. Sau đây là mối
quan hệ phối hợp với các CQĐT:

16


Điều 110, 111 của Bộ luật tố tụng hình sự 2003 quy định các CQĐT bao
gồm: CQĐT trong Công an nhân dân, CQĐT trong Quân đội nhân dân, CQĐT của
VKS nhân dân tối cao và các cơ quan khác trong Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm
lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội
nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra là những cơ quan
đề nghị VKS phê chuẩn một số biện pháp tố tụng trong hoạt động điều tra. Các cơ
quan này đều có trách nhiệm bảo đảm mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện kịp
thời và xử lý nghiêm minh, không để lọt tội phạm và người phạm tôi, không làm oan
người vơ tội, các quyền và lợi ích của công dân đều phải được tôn trọng và bảo vệ.
Đây là mục đích chung tạo nên mối quan hệ gắn kết giữa các cơ quan này với VKS
trong quá trình điều tra.
Mối quan hệ giữa VKS và các CQĐT trong tố tụng hình sự là mối quan hệ tố
tụng. VKS và CQĐT thuộc hệ thống cơ quan nhà nước khác nhau, độc lập với nhau,
khơng có sự ràng buộc trong quan hệ hành chính nên sự phối hợp với nhau luôn cần
thiết và không thể thiếu được. Đây là mối quan hệ phát sinh trong quá trình thực hiện
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cơ quan theo luật định để hỗ trợ lẫn nhau,

tạo điều kiện cho nhau cùng giải quyết các vụ án hình sự một cách đúng đắn, cùng
nhau thúc đẩy tiến trình giải quyết án, vì sự nghiệp đấu tranh phịng, chống tội phạm
đạt hiệu quả, bảo vệ cuộc sống an bình cho nhân dân. Biểu hiện cụ thể của tính chất
này là mỗi bên đều phải tác động vào đối tác của mình theo hướng tích cực để nhận
sự đáp ứng tích cực trở lại, nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ tố tụng được giao. Thông
tư liên ngành số 05/2005/TTLN ngày 07/09/2005 của VKS nhân dân tối cao, Bộ Cơng
an, Bộ Quốc phịng quy định cụ thể về mối quan hệ phối hợp giữa VKS và các CQĐT
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
Hoạt động đề nghị phê chuẩn của các CQĐT và hoạt động phê chuẩn của
VKS là những hoạt động tố tụng hình sự, bị chi phối bởi Bộ luật tố tụng hình sự, nên
các Thơng tư liên tịch, Quy chế phối hợp được ký kết giữa các bộ, ngành liên quan,
Chỉ thị của từng ngành…phải bảo đảm những nguyên tắc của tố tụng hình sự.
1.2.2.2 Quan hệ chế ước
Như trên đã nói, quan hệ phối hợp là rất quan trọng và luôn tồn tại trong hoạt
động phê chuẩn. Nhưng khơng chỉ có mối quan hệ phối hợp, phê chuẩn còn đòi hỏi
mối quan hệ chế ước.

17


Sự chế ước được biểu hiện bằng sự tác động qua lại giữa các bên theo hướng
khống chế lẫn nhau và kiềm chế sự vận động của nhau nhằm hạn chế và loại trừ vi
phạm. Nghiên cứu mối quan hệ giữa VKS và CQĐT cho thấy ngoài việc phối hợp cịn
có sự chế ước lẫn nhau. Tuy nhiên giữa sự phối hợp và sự chế ước khơng có sự loại
trừ nhau mà đan xen, bổ sung cho nhau, khơng có sự cản trở, hạn chế lẫn nhau mà
cùng nhau hướng tới mục đích giải quyết đúng đắn vụ án.
Sự chế ước giữa VKS với CQĐT trong quá trình hoạt động tố tụng nhằm
khắc phục những sai sót, vi phạm trong hoạt động điều tra vụ án, nó xuất phát từ đặc
điểm quan hệ tố tụng hình sự do pháp luật quy định, thể hiện sự bảo đảm về mặt pháp
lý, làm cho hoạt động tố tụng đạt được mục đich, giúp các cơ quan tố tụng thực hiện

đúng các quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. Sự chế ước thể hiện uy quyền giữa
cơ quan thực hiện quyền giám sát và cơ quan bị chế ước. Điều 141 Bộ luật tố tụng
hình sự 2003 quy định CQĐT có trách nhiệm thực hiện các yêu cầu và quyết định của
VKS, đối với những yêu cầu quy định tại các điểm 4, 5, 6 Điều 112 (có quyết định
phê chuẩn, quyết định khơng phê chuẩn), nếu khơng nhất trí CQĐT vẫn phải chấp
hành, nhưng có quyền kiến nghị với VKS cấp trên trực tiếp. Vì vậy sự chế ước này
chính là mối quan hệ quyết định – chấp hành.
Tính quyết định-chấp hành của mối quan hệ giữa VKS với các CQĐT trong
giai đoạn điều tra sẽ được thấy rõ hơn khi đem so sánh với mối quan hệ giữa VKS và
Tòa án trong giai đoạn xét xử. Tòa án là cơ quan giữ vai trò chủ đạo trong việc xét xử,
VKS giữ vai trị cơng tố, hai cơ quan hồn toàn độc lập với nhau, mỗi cơ quan tự chịu
trách nhiệm về cơng việc của mình. Tịa án khơng làm thay hay can thiệp vào công
việc của VKS và ngược lại, mặc dù VKS có quyền kiểm sát hoạt động xét xử của Tịa
án. Khi Tịa án có vi phạm pháp luật, thì VKS chỉ có quyền kiến nghị, kháng nghị,
yêu cầu khắc phục, sửa chữa vi phạm. Trong khi đó, mối quan hệ giữa VKS và CQĐT
thì khác hẳn về chất. Tuy CQĐT có quyền độc lập khi tiến hành điều tra, có quyền
hoạch định phương hướng, kế hoạch điều tra, đề ra các chiến thuật điều tra cụ thể và
có cả các quyền quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra… nhưng VKS có quyền
can thiệp trực tiếp vào quá trình điều tra của CQĐT. Trong trường hợp cần thiết, VKS
ra các quyết định tố tụng và yêu cầu CQĐT phải thực hiện. Nhưng ngược lại, CQĐT
không có quyền can thiệp vào hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra
của VKS. Các kiến nghị của CQĐT đối với hoạt động của VKS thì cũng do VKS cấp

18


trên giải quyết. Và trong khi chờ quyết định của VKS cấp trên, thì CQĐT vẫn phải
chấp hành quyết định, yêu cầu bị kiến nghị đó. Cụ thể hơn, trong q trình điều tra,
CQĐT có quyền ban hành các quyết định, các lệnh về tố tụng hình sự liên quan đến
hoạt động điều tra. Nhưng các lệnh, quyết định đó đều nằm dưới sự kiểm sát chặt chẽ

của VKS. VKS có quyền phê chuẩn, khơng phê chuẩn hay hủy bỏ các lệnh, quyết
định tố tụng của CQĐT, nếu các lệnh, quyết định đó khơng có căn cứ và trái pháp
luật. Đồng thời, VKS cịn có quyền ra lệnh, quyết định tố tụng giao cho CQĐT thực
hiện. CQĐT có trách nhiệm chấp hành và thực hiện nghiêm chỉnh những lệnh, quyết
định, yêu cầu về điều tra của VKS. Trong một số trường hợp nhất định như các phần
trên đã nói, những lệnh, quyết định của CQĐT mà luật buộc phải có sự phê chuẩn của
VKS nếu những lệnh, quyết định đó mà khơng được VKS phê chuẩn thì khơng có giá
trị thi hành. Sự phê chuẩn này khơng có nghĩa là sự chứng thực mà là sự thể hiện vai
trò quyết định của VKS, tức là mối quan hệ nêu trên mang tính quyết định - chấp
hành. Đây cịn được coi là nguyên tắc chế ước trong hoạt động tố tụng hình sự.17
1.2.3 Những biện pháp tố tụng cần phê chuẩn

Phê chuẩn của VKS hướng đến những hoạt động tố tụng mang tính chất
cưỡng chế, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, của người phạm tội. Vì vậy, khơng phải
biện pháp tố tụng nào cũng cần phải phê chuẩn. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy
định một số biện pháp ngăn chặn, một số biện pháp điều tra thu thập chứng cứ và việc
khởi tố bị can là buộc phải có phê chuẩn. đồng thời cũng quy định một số biện pháp
khác tuy không buộc phải phê chuẩn nhưng CQĐT phải báo cho VKS sau khi thực
hiện. Cụ thể như sau:
1.2.3.1 Các biện pháp ngăn chặn

Biện pháp ngăn chặn là một trong những chế định quan trọng nhất của Luật tố
tụng hình sự. Biện pháp ngăn chặn được quy định và áp dụng sẽ có tác động mạnh mẽ
đến các quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân nhưng lại tạo sự
thuận lợi cho các hoạt động tố tụng. Việc quy định và áp dụng biện pháp ngăn chặn
trong tố tụng hình sự có ý nghĩa quan trọng đối với việc đấu tranh phòng chống tội
phạm và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân. Bởi vì
biện pháp ngăn chặn bảo đảm cho các hoạt động tố tụng được tiến hành thuận lợi,
việc chứng minh vụ án đạt kết quả tốt, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động đấu
17


VKS nhân dân tối cao (2006), Sổ tay Kiểm sát viên hình sự (tập 1), tr.46-47.

19


tranh phòng và chống tội phạm; kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp cho những người có nguy cơ bị hành vi phạm tội xâm hại hoặc hành
vi lạm quyền xâm hại.18
Hệ thống các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự Việt Nam bao gồm:
bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bão lĩnh và đặt tiền hoặc tài sản có giá
trị để bảo đảm các biện pháp ngăn chặn áp dụng đối với người chưa thành niên phạm
tội quy định tại Điều 303, Điều 304 và quy định về việc bắt giữ tại Điều 198 Bộ luật
TTHS năm 2003.
Trong hệ thống các biện pháp ngăn chặn nêu trên không phải bất cứ biện pháp
nào luật cũng quy định phải có sự phê chuẩn của VKS. Theo quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự năm 1988, những quyết định của CQĐT phải được VKS xét, phê chuẩn
bao gồm: Lệnh bắt bị can để tạm giam (Điều 62); Việc bắt người trong trường hợp
khẩn cấp (Điều 63); Việc gia hạn tạm giữ (Điều 69); Lệnh tạm giam bị can (Điều 70).
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 có sửa đổi, bổ sung theo hướng quy định cụ
thể hơn về thời gian xét phê chuẩn, như VKS phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết
định không phê chuẩn đối với việc bắt khẩn cấp, việc gia hạn tạm giữ trong thời hạn
mười hai giờ (Điều 81, Điều 87). Riêng việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp, do
tính chất khơng thể trì hoản mà CQĐT thực hiện trước, ngay sau đó mới đề nghị phê
chuẩn. Theo quy định của Bộ luật TTHS năm 2003, việc xét phê chuẩn có hai loại:
Phê chuẩn trước và phê chuẩn sau.
- Các biện pháp tố tụng hình sự cần phải có sự phê chuẩn trước gồm: Bắt bị
can, bị cáo để tạm giam (Điều 80); Gia hạn tạm giữ (Điều 87); Tạm giam (Điều 88);
Đặt tiền và tài sản để bảo đảm (Điều 93); Hủy bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn chặn
(Điều 94)

- Các biện pháp ngăn chặn cần phải có sự phê chuẩn sau khi áp dụng là bắt
người trong trường hợp khẩn cấp (Điều 81)
- Ngoài các quy định về phê chuẩn, Bộ luật TTHS năm 2003 còn quy định
những biện pháp tuy không cần phê chuẩn nhưng phải báo cho VKS đó là việc tạm
giữ (khoản 2, Điều 86). Theo quy định của luật thì quyết định tạm giữ phải gửi cho
VKS cùng cấp. Thực chất đây là phải báo cáo cho VKS.
1.2.3.2 Các biện pháp tố tụng khác cần phải có sự phê chuẩn của VKS
18

Lê Tiến Châu (chủ biên), Luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Trẻ, tr. 182.

20


Các biện pháp tố tụng khác ở đây gồm các biện pháp thu thập chứng cứ và
biện pháp bảo đảm cho việc thi hành án.
- Theo quy định của Bộ luật TTHS năm 2003, các biện pháp tố tụng do CQĐT
áp dụng thuộc nhóm này cần phải có sự phê chuẩn trước là: khám xét (khám người;
khám chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm); Thu giữ thư tín, điện tín bưu điện, bưu phẩm tại
bưu điện.
- Các biện pháp tố tụng tuy không cần phải phê chuẩn nhưng phải báo cho
VKS gồm:
+ Kết quả giải quyết tố giác, thông báo về tội phạm (khoản 3 Điều 103)
+ Quyết định khởi tố vụ án hình sự (khoản 3 Điều 104)
+ Quyết định không khởi tố vụ án, quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án
hình sự (khoản 1 Điều 108)
+ Lệnh khám xét trong trường hợp khơng thể trì hoãn (khoản 2 Điều 141)
+ Lệnh kê biên tài sản (Điều 146). Trường hợp này CQĐT phải thông báo ngay
cho VKS cùng cấp trước khi thi hành.
+ Khám nghiệm hiện trường (khoản 2 Điều 150)

+ Khám nghiệm tử thi (Điều 151). Trường hợp này cũng phải thông báo cho
VKS trước khi thi hành.
+ Tạm đình chỉ điều tra (Điều 160)
+ Quyết định đình chỉ điều tra (Điều 164)
+ Quyết định nhập hoặc tách vụ án hình sự (Điều 117)
- Ngồi ra, theo quy định của luật, những biện pháp thuộc thẩm quyền của
VKS như chuyển vụ án để điều tra theo thẩm quyền (Điều 116); gia hạn điều tra
(Điều 121) v.v… thì CQĐT phải làm văn bản đề nghị VKS xem xét, giải quyết.
Quy trình nghiên cứu hồ sơ và đề nghị lãnh đạo phê chuẩn (hoặc không phê
chuẩn) các biện pháp tố tụng thuộc nhóm này cũng gồm các bước giống như phê
chuẩn việc áp dụng biện pháp ngăn chặn nêu trên. Tuy vậy, việc nghiên cứu hồ sơ,
xác định căn cứ áp dụng các biện pháp này thường ít khó khăn, phức tạp hơn so với
việc nghiên cứu hồ sơ phê chuẩn biện pháp ngăn chặn.
Mặc dù căn cứ khám xét hoặc thu giữ thư tín được Bộ luật quy định rất khái
quát: khi có căn cứ để nhận định trong người, chỗ ở… có cơng cụ, phương tiện phạm
tội, đồ vật… (Điều 140); hoặc khi cần thiết phải thu giữ (Điều 144); nhưng việc xác

21


×