Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Tác động của hiệp định đối tác xuyên thái bình dƣơng (TPP) đối với ngành dệt may việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 73 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI
---------

LÊ THANH HÀ

TÁC ĐỘNG CỦA
HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC XUYÊN THÁI BÌNH DƢƠNG (TPP)
ĐỐI VỚI NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM
CHUYÊN NGÀNH LUẬT THƢƠNG MẠI

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2016


TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT THƢƠNG MẠI
---------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

TÁC ĐỘNG CỦA
HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC XUYÊN THÁI BÌNH DƢƠNG (TPP)
ĐỐI VỚI NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM

SINH VIÊN THỰC HIỆN: LÊ THANH HÀ
Khóa: 37

MSSV: 1253801011572

GIẢNG VIÊN HƢỚNG DẪN: Ths. NGUYỄN VĂN HÙNG



TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan: Khố luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi,
đƣợc thực hiện dƣới sự hƣớng dẫn khoa học của Thạc sĩ Nguyễn Văn Hùng – Giảng
viên Tổ Luật Thƣơng mại, Khoa Luật Thƣơng mại, Trƣờng Đại học Luật thành phố
Hồ Chí Minh, đảm bảo tính trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú
thích tài liệu tham khảo. Tơi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả

Lê Thanh Hà


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
NỘI DUNG ĐƢỢC VIẾT TẮT

CHỮ VIẾT TẮT
APEC

Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á – Thái Bình Dƣơng
(Asia-Pacific Economic Cooperation)

ASEAN

Hiệp Hội các quốc gia Đơng Nam Á (Association of
Southeast Asian Nations)

ATC


Hiệp định về hàng Dệt may (Agreement on Textile and
Clothing)

CMT

Cut – Make – Trim

CNHT

Công nghiệp hỗ trợ

DNNVV

Doanh nghiệp nhỏ và vừa

EU

Liên minh Châu Âu (European Union)

EVFTA

Hiệp định Thƣơng mại tự do EU - Việt Nam

VKFTA

Hiệp định Thƣơng mại tự do Việt Nam – Hàn Quốc

VJEPA


Hiệp định Đối tác Kinh tế Việt Nam – Nhật Bản

FOB

Original Equipment Manufacturing

FTA

Hiệp định Thƣơng mại tự do (Free Trade Agreement)

GATT 1994

Hiệp định chung về Thuế quan và Thƣơng mại năm
1994 (General Agreement on Tariffs and Trade)

Hiệp định TPP/ TPP

Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dƣơng (TransPacific Partnership Agreement)

Hiệp định TBT

Hiệp định về Hàng rào Kỹ thuật trong Thƣơng mại

MFN

Nguyên tắc Đãi ngộ tối huệ quốc (Most – Favoured –
nation Treatment)

NT


Nguyên tắc Đãi ngộ quốc gia (National Treatment)

OBM

Original Brand Manufacturing

ODM

Original Design Manufacturing

VITAS

Hiệp Hội Dệt may Việt Nam

WTO

Tổ chức Thƣơng mại thế giới (World Trade
Organization)


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC
XUYÊN THÁI BÌNH DƢƠNG (TPP) VÀ NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM .....6
1.1 Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dƣơng (TPP)...........................................6
1.1.1 Khái quát về Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dƣơng (TPP) ................6
1.1.2 Những vấn đề liên quan đến Dệt may trong Hiệp định Đối tác xuyên Thái
Bình Dƣơng (TPP) ..............................................................................................15
1.2 Ngành Dệt may Việt Nam trƣớc ngƣỡng cửa hội nhập ................................19
1.2.1 Khái quát về ngành Dệt may Việt Nam.....................................................19

1.2.2 Một số Hiệp định thƣơng mại tự do khác điều chỉnh hoạt động của ngành
Dệt may...............................................................................................................21
1.2.3 Một số quy định pháp luật Việt Nam liên quan đến Dệt may ...................24
1.2.4 Những điều chỉnh theo cam kết gia nhập Hiệp định Đối tác xuyên Thái
Bình Dƣơng ........................................................................................................27
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ........................................................................................30
CHƢƠNG 2. TÁC ĐỘNG CỦA HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC XUYÊN THÁI BÌNH
DƢƠNG (TPP) ĐỐI VỚI NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM ..............................31
2.1 Sự điều chỉnh của Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dƣơng (TPP) đối với
ngành Dệt may Việt Nam .......................................................................................31
2.1.1 Mở cửa thị trƣờng ......................................................................................31
2.1.2 Quy tắc xuất xứ và rào cản kỹ thuật ..........................................................35
2.2 Một số giải pháp phát triển ngành Dệt may khi Việt Nam gia nhập Hiệp
định Đối tác xuyên Thái Bình Dƣơng ....................................................................48
2.2.1 Giải pháp từ phía Nhà nƣớc.......................................................................48
2.2.2 Giải pháp từ phía doanh nghiệp.................................................................52
2.2.3 Giải pháp từ phía ngƣời tiêu dùng .............................................................54
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ........................................................................................55
KẾT LUẬN ..............................................................................................................56
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế tồn cầu, mở rộng tự do hố thƣơng mại, làn
sóng ký kết các Hiệp định thƣơng mại tự do (Free Trade Agreement - FTA) đang
dấy lên mạnh mẽ trên thế giới, trở thành một xu thế mới trong quan hệ kinh tế quốc

tế. Khơng nằm ngồi xu thế đó, nhiều năm qua Việt Nam đã nỗ lực tham gia ký kết
nhiều Hiệp định thƣơng mại tự do ở cấp độ song phƣơng, đa phƣơng và khu vực,
mở ra nhiều cơ hội phát triển kinh tế - xã hội. Từ năm 2007, Việt Nam đã trở thành
thành viên của Tổ chức thƣơng mại thế giới WTO. Bên cạnh đó, vì là thành viên
của ASEAN từ tháng 7/1996 và chính thức tham gia Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN (AFTA) vào tháng 01/1996, Việt Nam đã tham gia các thoả thuận thƣơng
mại giữa ASEAN với Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Australia/New
Zealand. Những năm gần đây, Việt Nam cũng đã tích cực đẩy mạnh đàm phán và
ký kết hàng loạt các hiệp định quan trọng nhƣ Hiệp định thƣơng mại với Mỹ, Hiệp
định Đối tác Kinh tế với Nhật Bản (VJEPA), Hiệp định thƣơng mại tự do Việt Nam
– EU (EVFTA), Hiệp định FTA Việt Nam – Hàn Quốc (VKFTA), Hiệp định Đối
tác xuyên Thái Bình Dƣơng (TPP)... Trong số đó, Hiệp định Đối tác xun Thái
Bình Dƣơng (Trans-Pacific Partnership Agreement - TPP) đƣợc nhận định là Hiệp
định tiêu biểu của các Hiệp định thƣơng mại tự do thế hệ mới, có sức tác động sâu
rộng đến sự phát triển của các quốc gia thành viên.
Mục tiêu chính của Hiệp định TPP là giảm thuế và những rào cản đối với hàng
hoá và dịch vụ, hƣớng đến tự do hoá thƣơng mại. Gia nhập vào hệ thống kinh tế
khổng lồ này sẽ giúp Việt Nam gia tăng đáng kể các mặt hàng xuất khẩu, vốn là cốt
lõi và là thế mạnh của mình nhƣ Dệt may, da giày vào các thị trƣờng lớn. Đồng
thời, đƣa nguồn hàng hoá chất lƣợng cao với giá cả phải chăng đến với ngƣời tiêu
dùng trong nƣớc, qua đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Trong Hiệp định TPP, Dệt may đƣợc quy định thành một chƣơng riêng biệt,
bởi quy mô và tầm quan trọng của ngành này đối với nền kinh tế của các nƣớc
thành viên. Đối với Việt Nam, Dệt may là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn
nhất vào TPP đạt 11,2 tỷ USD năm 2014 (chiếm 20% tổng kim ngạch xuất khẩu của
ta sang các nƣớc TPP), trong đó xuất khẩu sang Hoa Kỳ đạt 9,8 tỷ USD. Đây là một
trong những mặt hàng đƣợc kỳ vọng sẽ hƣởng lợi nhiều nhất từ Hiệp định TPP vì ta
có lợi thế cạnh tranh và thuế suất tối huệ quốc của các nƣớc thành viên TPP mà Việt

1



Nam chƣa ký FTA đang ở mức khá cao nhƣ Hoa Kỳ 17,5%, Canada 17%, Mexico
30% và Peru 17%1.
Song song với những cơ hội mà Hiệp định TPP mang lại thì thách thức mà
ngành Dệt may Việt Nam phải đối đầu cũng khơng ít. Trong điều kiện là nƣớc thu
nhập trung bình, trình độ nền kinh tế phát triển ở mức thấp nhất trong 12 nƣớc thành
viên TPP. Đa phần các doanh nghiệp Dệt may của ta là doanh nghiệp nhỏ và vừa
(DNNVV), chất lƣợng nguồn nhân lực thấp, tiềm lực về tài chính cịn hạn chế.
Đồng thời, nguồn ngun liệu sử dụng trong ngành Dệt may hiện nay chủ yếu nhập
khẩu từ các nƣớc bên ngoài TPP nhƣ Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan. Do đó, nếu
doanh nghiệp khơng chủ động chuyển đổi đƣợc vùng nguyên liệu, hàng xuất khẩu
của Việt Nam sẽ không đƣợc hƣởng ƣu đãi thuế theo điều khoản về xuất xứ trong
Hiệp định TPP. Bên cạnh đó, quy định pháp luật và chính sách hỗ trợ của Nhà nƣớc
đối với Dệt may còn khá nhiều bất cập. Vì vậy, làm thế nào để tận dụng đƣợc cơ hội
và vƣợt qua thách thức khi tham gia vào Hiệp định TPP là một vấn đề cấp thiết đặt
ra đối với ngành Dệt may Việt Nam.
Thiết nghĩ, để nắm bắt đƣợc những cơ hội và vƣợt qua đƣợc những trở ngại,
địi hỏi phải có một sự nhìn nhận đúng đắn và toàn diện về tác động của Hiệp định
TPP đối với ngành Dệt may Việt Nam. Đó khơng chỉ là yêu cầu có ý nghĩa riêng
biệt đối với ngành Dệt may mà cịn có sức ảnh hƣởng quan trọng đến nền kinh tế.
Xuất phát từ vấn đề thời sự này, tác giả quyết định chọn đề tài “Tác động của Hiệp
định Đối tác xuyên Thái Bình Dƣơng (TPP) đối với ngành Dệt may Việt Nam”
làm đề tài khoá luận của mình.
2.

Tình hình nghiên cứu đề tài

Hiệp định TPP vừa hoàn thành đàm phán vào cuối năm 2015 nên các cơng
trình nghiên cứu về Hiệp định và đặc biệt về sự tác động của Hiệp định đối với

ngành Dệt may này khơng nhiều. Các cơng trình nghiên cứu liên quan đến đề tài
này thƣờng tập trung phân tích một cách tổng quan về Hiệp định TPP, đánh giá
những cơ hội và thách thức đối với tất cả lĩnh vực thƣơng mại hàng hố. Hoặc cũng
có một số cơng trình nghiên cứu cụ thể về tác động của Hiệp định TPP đối với Dệt
may, tuy nhiên, đa phần các công trình là các bài viết trên tạp chí. Do vậy, vấn đề
chỉ đƣợc đề cập ở mức độ khái quát về những cơ hội và trở ngại của của Hiệp định
TPP đối với ngành Dệt may Việt Nam mà chƣa có điều kiện phân tích sâu. Có thể
kể đến một số cơng trình tiêu biểu nhƣ:
1

Đỗ Thu Hƣơng , Tóm tắt kết quả đàm phán TPP về Dệt may,
/>%20trong%20TPP.pdf, truy cập ngày 18/4/2016

2


Cơng trình của tác giả Đỗ Cao Ngọc Hân (2014), Hiệp định Đối tác xuyên
Thái Bình Dương và những tác động đối với thương mại hàng hoá của Việt Nam,
Khoá luận tốt nghiệp, Trƣờng Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh. Nhận thấy,
khố luận và đề tài của tác giả đều có đối tƣợng nghiên cứu là quy định của Hiệp
định TPP. Tuy nhiên, phạm vi của cơng trình rộng hơn rất nhiều so với cơng trình
của tác giả nghiên cứu. Do vậy, những quy định của Hiệp định TPP về Dệt may chỉ
là một lĩnh vực nhỏ đƣợc đề cập đến trong khố luận này.
Cơng trình của Nguyễn Anh Tuấn (2015), Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình
Dương (TPP) và tác động tới Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. Trong
cơng trình này, tác giả nghiên cứu một cách tổng quan các nội dung đàm phán chính
của hiệp định TPP và những tác động đến nền kinh tế. Qua đó, tác giả đƣa ra đánh
giá về tác động của TPP đối với khu vực thế giới nói chung, đối với Việt Nam nói
riêng và qua đó, dự báo tiến trình phát triển kinh tế của Việt Nam trong thời gian tới
Quy định về Dệt may trong hiệp định TPP, tác động của TPP đối với Dệt may Việt

Nam và những giải pháp trong quá trình hội nhập của ngành Dệt may cũng chỉ là
một vấn đề nghiên cứu đƣợc đề cập trong cơng trình của tác giả.
Bài viết của Nguyễn Thuỳ Dung (2015), “Cơ hội và thách thức cho các doanh
nghiệp Dệt may khi Việt Nam gia nhập Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lƣợc xun
Thái Bình Dƣơng”, Tạp chí Dân chủ & Pháp luật, số 7 (280)/2015. Bài viết mô tả
khái quát về Hiệp định TPP, chỉ rõ những cơ hội, thách thức và đề xuất một số giải
pháp của việc gia nhập Hiệp định đối với doanh nghiệp Dệt may Việt Nam. Phải nói
rằng, bài viết chủ yếu dừng lại ở việc đề cập một cách khái quát về tác động của
Hiệp định TPP đối với Dệt may mà chƣa đi sâu nghiên cứu và đánh giá những tác
động trên cơ sở những quy định của Hiệp định. Đồng thời, bài viết cũng chỉ đƣa ra
những giải pháp dƣới góc độ kinh tế cho doanh nghiệp Dệt may mà chƣa giải quyết
đƣợc vấn đề làm thế nào để doanh nghiệp thực hiện đƣợc những giải pháp đó.
Bài viết của Nguyễn Thị Kim Thoa (2015), “Hiệp định TPP và cơ hội bứt phá
cho ngành Dệt may Việt Nam”, Tạp chí Tài chính, số 2 (604), đề cập đến tình hình
xuất khẩu, cũng nhƣ những lợi thế và bất lợi về xuất khẩu Dệt may Việt Nam. Qua
đó, phân tích và đánh giá sự quan trọng của việc tăng tỷ lệ nội địa hố, hình thành
chuỗi cung ứng hồn chỉnh của ngành Dệt may. Cơng trình chỉ đƣợc nghiên cứu
dƣới dạng bài viết tạp chí nên chƣa có điều kiện phân tích một cách cụ thể và
chuyên sâu.
Nhìn chung, các tài liệu nghiên cứu đƣợc đề cập ở trên đều có giá trị tham
khảo đối với đề tài mà tác giả nghiên cứu. Tuy nhiên, phần lớn cơng trình đều đƣợc
3


nghiên cứu, phân tích chủ yếu dƣới góc độ kinh tế. Những quy định của Hiệp định
TPP về Dệt may, sự tác động của nó đối với doanh nghiệp, cũng nhƣ các giải pháp
mà doanh nghiệp Dệt may phải triển khai để đón nhận Hiệp định chƣa đƣợc phân
tích một cách cụ thể. Đồng thời, sự điều chỉnh của các quy định pháp luật Việt
Nam, các chính sách phát triển ngành Dệt may để đáp ứng những cam kết của Hiệp
định TPP đƣợc đề cập khá hạn chế trong các cơng trình nghiên cứu. Vì vậy, tác giả

cho rằng việc phân tích cụ thể những tác động của TPP đối với Dệt may Việt Nam
dựa trên cơ sở những quy định và chính sách pháp luật là điều cần thiết.
3.

Mục đích nghiên cứu đề tài

Tác giả nghiên cứu đề tài này nhằm chỉ ra những cam kết cụ thể về Dệt may
trong Hiệp định TPP và những quy định pháp luật liên quan đến ngành Dệt may. Từ
đó, khố luận tiến hành phân tích, đánh giá một số tác động cụ thể của Hiệp định
TPP ảnh hƣởng trực tiếp đến ngành Dệt may Việt Nam và đƣa ra những kiến nghị
cho việc phát huy cơ hội, hạn chế thách thức mà Dệt may đón nhận từ TPP.
4.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài

Đối tƣợng nghiên cứu: Trong khoá luận, tác giả tập trung nghiên cứu những
tác động đối với Dệt may dựa trên những cam kết theo Hiệp định TPP. Bên cạnh
đó, tác giả cũng đề cập đến một số Hiệp định thƣơng mại tự do khác điều chỉnh đối
với hoạt động của ngành Dệt may. Đồng thời, thực trạng cũng nhƣ những chính
sách pháp luật hiện hành liên quan đến ngành Dệt may cũng đƣợc tác giả đề cập,
phân tích để nhận định và đánh giá những cơ hội và thách thức mà Dệt may Việt
Nam có đƣợc khi Hiệp định TPP có hiệu lực thực thi trong thời gian tới.
Phạm vi nghiên cứu đề tài: Những điều chỉnh của Hiệp định TPP đối với Dệt
may đƣợc đề cập trong phạm vi nghiên cứu của khoá luận là những cam kết tại
Chƣơng 2 về mở cửa thị trƣờng và đối xử quốc gia; Chƣơng 3 Quy tắc xuất xứ và
các thủ tục chứng nhận xuất xứ; Chƣơng 4 về Dệt may và Phụ lục 4A; Chƣơng 8 về
rào cản kỹ thuật (TBT). Cụ thể, những tác động của Hiệp định TPP đối với Dệt may
sẽ đƣợc phân tích thơng qua hai nội dung chính:
i)


Mở cửa thị trƣờng; và

ii) Yêu cầu về xuất xứ hàng hoá và rào cản kỹ thuật;
5.

Phƣơng pháp tiến hành nghiên cứu

Đề tài sẽ sử dụng phối hợp các phƣơng pháp chủ yếu sau:

4


- Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, bình luận: Đây là phƣơng pháp đƣợc sử
dụng chủ yếu và xuyên suốt trong bài nghiên cứu. Sự kết hợp của các phƣơng pháp
này giúp hiểu rõ những cam kết của TPP điều chỉnh đến hoạt động ngành Dệt may.
Trên cơ sở đó, những cơ hội và thách thức mà TPP mang đến cho Dệt may đƣợc
đánh giá thơng qua thực trạng tình hình hoạt động và những chính sách pháp lý điều
chỉnh đến ngành. Qua đó, đề tài đề xuất những giải pháp mà Nhà nƣớc, doanh
nghiệp Dệt may sử dụng để đón nhận Hiệp định TPP.
- Phƣơng pháp lịch sử: đƣợc sử dụng để chỉ ra các điều ƣớc quốc tế và các
quy định pháp luật quốc gia điều chỉnh đối với ngành Dệt may qua các giai đoạn từ
trƣớc khi Việt Nam gia nhập WTO, sau khi gia nhập WTO cho đến trƣớc khi tham
gia đàm phán, ký kết Hiệp định TPP đƣợc sử dụng chủ yếu trong chƣơng 1. Từ đó
chỉ ra xu hƣớng của tình hình ngành Dệt may hiện tại và những giải pháp của Nhà
nƣớc đối với ngành Dệt may trong giai đoạn chuẩn bị cho Hiệp định TPP có hiệu
lực.
- Phƣơng pháp so sánh: nhằm nhận biết những quy định mâu thuẫn nhau
giữa Hiệp định TPP và WTO đƣợc dẫn chiếu trong nội dung phân tích về mối quan
hệ của Hiệp định TPP và các hiệp định khác tại chƣơng 1. Đồng thời, phƣơng pháp
cũng đƣợc sử dụng ở chƣơng 2 để đánh giá sự khác biệt trong các quy định của

Hiệp định TPP so với các Hiệp định thƣơng mại tự do khác điều chỉnh đối với hàng
Dệt may tạo điều kiện để phân tích cụ thể những tác động của Hiệp định.
-

Phƣơng pháp quy nạp: trên cơ sở phân tích, đánh giá những tác động của

Hiệp định TPP đối với ngành Dệt may, đề tài sẽ rút ra những kết luận cụ thể, đƣa ra
những nhận định về cơ hội và giải pháp vƣợt qua thách thức của các doanh nghiệp
Dệt may Việt Nam khi gia nhập Hiệp định.
6.

Bố cục tổng quát của khố luận

Ngồi phần lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài đƣợc
chia làm hai chƣơng. Bao gồm:
Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình
Dƣơng (TPP) và ngành Dệt may Việt Nam.
Chƣơng 2: Tác động của Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dƣơng (TPP) đối
với ngành Dệt may Việt Nam.

5


CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC XUYÊN THÁI
BÌNH DƢƠNG (TPP) VÀ NGÀNH DỆT MAY VIỆT NAM
1.1 Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dƣơng (TPP)
1.1.1 Khái quát về Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dƣơng (TPP)
Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dƣơng hay còn gọi là Hiệp định Đối tác
kinh tế chiến lƣợc xuyên Thái Bình Dƣơng – sau đây viết tắt là “Hiệp định TPP” là

một điều ƣớc quốc tế nhiều bên, đƣợc ký kết với mục tiêu thiết lập một mặt bằng
thƣơng mại tự do chung cho các nƣớc khu vực châu Á – Thái Bình Dƣơng. Quy mơ
GDP của tất cả thành viên trong TPP ƣớc tính khoảng 26.000 tỷ USD, chiếm 40%
GDP toàn cầu và đạt khoảng 1/3 kim ngạch thƣơng mại thế giới2. Về địa lý, Hiệp
định TPP góp mặt của 12 quốc gia, bao gồm Chile, New Zealand, Singapore,
Brunei, Hoa Kỳ, Peru, Australia, Việt Nam, Mexico, Canada, Malaysia và Nhật
Bản.
Hiệp định TPP bao gồm 30 chƣơng điều chỉnh thƣơng mại và các vấn đề liên
quan đến thƣơng mại, bắt đầu từ thƣơng mại hàng hoá và tiếp tục với hải quan và
thuận lợi hoá thƣơng mại; vệ sinh kiểm dịch động thực vật; hàng rào kỹ thuật đối
với thƣơng mại; quy định về phòng vệ thƣơng mại; đầu tƣ, dịch vụ; thƣơng mại
điện tử; sở hữu trí tuệ; lao động; mơi trƣờng; các chƣơng về “Các vấn đề xuyên
suốt” nhằm bảo đảm Hiệp định TPP đạt đƣợc tiềm năng của mình về phát triển, tính
cạnh tranh và tính bao hàm; giải quyết tranh chấp; ngoại lệ và các điều khoản về thể
chế. Với phạm vi đa biên nhƣ vậy, các cam kết thực hiện TPP phải thực sự bình
đẳng, khơng phân biệt trình độ phát triển và xuất phát điểm của mỗi nƣớc. Về mức
độ cam kết, TPP sẽ có mức độ tự do hố thƣơng mại mạnh mẽ, đảm bảo cơ chế thị
trƣờng toàn diện thông qua việc cắt giảm ngay và phần lớn số dịng thuế nhập khẩu
trong thƣơng mại hàng hố, thƣơng mại dịch vụ trừ những biện pháp đƣợc bảo lƣu
(nguyên tắc chọn – bỏ với danh sách các biện pháp không tƣơng thích) và nguyên
tắc chỉ tạo thuận lợi hơn, tự do hơn (nguyên tắc ratchet)3.
Sau hơn 5 năm với gần 30 vòng đàm phán, ngày 4/2/2016 tại Auckland, New
Zealand, 12 Bộ trƣởng các quốc gia thành viên TPP đã chính thức ký kết Hiệp định
2

Brock R. Williams (2013), Trans-Pacific Partnership (TPP) Countries: Comparative Trade and
Economic Analysis, Congressional Research Service (CRS), tr. 7. Số liệu đƣợc phân tích từ the World
Bank World Development Indicators and International Monetary Fund (IMF) World Economic Outlook,
April 2013
3

Hoàng Văn Châu (2014), Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương – TPP và vấn đề tham gia của Việt
Nam, Nhà xuất bản Bách Khoa – Hà Nội, tr. 1

6


quan trọng này. Tuy nhiên, để thoả thuận có hiệu lực thì cần phải đƣợc Quốc Hội 12
nƣớc tham gia phê chuẩn và lãnh đạo các nƣớc ký chính thức. Mặc dù, trƣớc mắt
TPP sẽ phải trải qua các khâu phê chuẩn và đƣa vào thực thi đầy phức tạp và cam
go nhƣng hoàn thành đàm phán Hiệp định TPP đánh một dấu mốc quan trọng trong
hội nhập kinh tế quốc tế. Bởi lẽ, TPP đƣợc đánh giá là một Hiệp định Thƣơng mại
tự do thế hệ mới lớn nhất từng đƣợc thông qua trong suốt hơn 20 năm qua, kể từ
thời điểm ra đời Tổ chức Thƣơng mại Thế giới (WTO). Vì vậy, TPP cịn đƣợc gọi
là Hiệp định Thƣơng mại của Thế kỷ 21 (21st century Agreement)4. Không những
thế, do mức độ tự do thƣơng mại sâu rộng, tầm quan trọng và sức ảnh hƣởng lớn
của TPP đến nền kinh tế toàn cầu, hiện nay, các nƣớc nhƣ Hàn Quốc, Thái Lan, Đài
Loan, Philippines, Lào, Colombia, Costa Rica, Indonesia và nhiều nƣớc khác cũng
đang có ý định tham gia vào TPP.
Trong quá trình đàm phán TPP, các nƣớc dành riêng một chƣơng quy định về
Dệt may (Textile and Apparel Good) trong số vơ vàn chủng loại hàng hố đƣợc sản
xuất và trao đổi thƣơng mại trong khu vực. Chƣơng Dệt may đƣợc xếp tại chƣơng 4
ngay sau những chƣơng quan trọng bậc nhất trong thoả thuận TPP. Lý giải cho điều
này là do tầm quan trọng và sự tác động sâu rộng của Dệt may đối với nền kinh tế
của một số nƣớc thành viên. Bên cạnh đó, ngành này cũng là một mỏ vàng cho Việt
Nam, và cũng là một trong những lý do chính để Việt Nam quyết tâm đàm phán và
gia nhập TPP5.
1.1.1.1 Quá trình hình thành Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP)
TPP bắt nguồn từ Hiệp định ba đối tác kinh tế thân cận Thái Bình Dƣơng (The
Pacific Three Closer Economic Partnership) do nguyên thủ của 3 nƣớc: Chile, Niu
Zealand và Singapore phát động đàm phán bên lề Hội nghị Cấp cao Diễn đàn hợp

tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dƣơng (APEC) năm 2002 tổ chức ở Mexico. Tiếp
đó, Brunei cũng nhanh chóng xin gia nhập, với tƣ cách thành viên sáng lập trƣớc
vòng đàm phán thứ năm, biến P3 thành P4. Hiệp định chính thức đƣợc 4 nƣớc ký
kết ngày 3/6/2005 tại Wellington, New Zealand, và có hiệu lực vào ngày 28/5/2006.
Mục tiêu của các nƣớc là kết nối với nhau, ủng hộ và thúc đẩy hơn nữa tiến trình tự
do hố thƣơng mại và đầu tƣ trong khuôn khổ APEC6.

4

Ian F. Fergusson, Mark A. Mc Minimy, Brock R.Williams (2015), The Trans-Pacific Partnership
(TPP) Negotiations and Issues for Congress, Congresional Research Service (CRS), tr. 6
5
Phan Minh Ngọc, “Tác động của TPP nhìn từ chƣơng Dệt may”, truy cập ngày 08/5//2016
6
Nguyễn Anh Tuấn (2015), Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và tác động đến Việt Nam,
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia – Sự thật, tr. 15

7


Bắt đầu từ tháng 9/2008, quá trình đàm phán nhận đƣợc sự quan tâm đặc biệt
của nhiều bên hơn, nhờ vào sự kiện Mỹ chính thức bày tỏ ý định tham gia đàm phán
mở rộng hiệp định, đặc biệt ở các lĩnh vực dịch vụ tài chính và kêu gọi nhiều nƣớc
khác tham gia quá trình đàm phán mở rộng. Cũng từ thời điểm này, đàm phán P4
mở rộng chính thức đƣợc đặt tên là Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dƣơng –
(Trans – Pacific Partnership Agreement - TPP). Kể từ đây, nói đến Hiệp định TPP
là nói đến đàm phán mới chứ không phải Hiệp định P4 đƣợc ký kết vào ngày
3/6/2005.
Về phía Việt Nam, năm 2009, Việt Nam tham gia đàm phán với tƣ cách là
thành viên liên kết đƣợc hƣởng quy chế quan sát viên. Sau ba phiên tham dự đàm

phán, ngày 13/11/2010 Việt Nam chính thức tham gia đàm phán Hiệp định TPP.
Đây là bƣớc đi quan trọng trong quá trình hội nhập quốc tế và tạo một động lực thúc
đẩy Việt Nam cải cách những thể chế trong nƣớc và giải quyết những vấn đề nội tại.
Tính đến tháng 12/2014, Hiệp định TPP chính thức có 12 nƣớc tham gia đàm
phán. Sau hơn 5 năm đàm phán với hơn 30 phiên làm việc ở cấp kỹ thuật và 10
cuộc đàm phán ở cấp Bộ trƣởng, cuối cùng 12 nƣớc đã kết thúc đàm phán trong
vòng đàm phán 5 ngày tại Atlanta, Hoa Kỳ từ ngày 30/9 đến 5/10/2015. Và vào
ngày 4/2/2016 tại Auckland, New Zealand, mƣời hai Bộ trƣởng các quốc gia thành
viên TPP đã chính thức ký kết Hiệp định quan trọng này. Bên cạnh đó, các quốc gia
cũng đã có rất nhiều cuộc gặp song phƣơng, là cơ hội để các nền kinh tế TPP đạt
đƣợc những thoả thuận hỗ trợ song phƣơng giúp thực thi TPP và dành cho nhau
những cơ hội hợp tác.
Cuối cùng, theo quy định tại Điều 30.5 Chương 30 Hiệp định TPP, TPP sẽ có
hiệu lực 60 ngày kể từ khi tất cả các nƣớc thành viên đã thông qua TPP. Nếu việc
thông qua không đƣợc thực hiện bởi tất cả các thành viên trong vòng 2 năm kể từ
ngày ký, thì Hiệp định sẽ có hiệu lực 60 ngày sau khi hết thời hạn 2 năm đó, nếu có
ít nhất 6 nƣớc thành viên có Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) chiếm trên 85% tổng
GDP của tất cả 12 nƣớc TPP đã thông qua. Điều này có nghĩa là thoả thuận phải
đƣợc Quốc hội của hai nƣớc có nền kinh tế lớn nhất trong TPP là Mỹ và Nhật Bản
thơng qua thì TPP mới có hiệu lực thực thi.
1.1.1.2 Nguyên tắc, nội dung, đặc điểm cơ bản của Hiệp định Đối tác xuyên Thái
Bình Dương (TPP)
a. Nguyên tắc của Hiệp định

8


Dựa trên các nguyên tắc cơ bản của thƣơng mại quốc tế, Hiệp định TPP thiết
lập một khung pháp lý chung cho các hoạt động thƣơng mại giữa các nƣớc thành
viên. Những mục tiêu thƣơng mại của TPP đƣợc quy định chi tiết cụ thể thông qua

những nguyên tắc cơ bản của nó, trong đó bao gồm những nguyên tắc chủ yếu nhƣ
Nguyên tắc không phân biệt đối xử thông qua hai quy chế Đối xử quốc gia
(National Treatment – “NT”), Đối xử Tối huệ quốc (Most – Favoured – nation
Treatment – “MFN”) và nguyên tắc minh bạch. Đây cũng những nguyên tắc nền
tảng, xuyên suốt của luật thƣơng mại quốc tế hiện đại. Theo đó, với nguyên tắc NT
theo quy định tại Điều 2.3 Phần B Chương 2 Hiệp định TPP yêu cầu quốc gia thành
viên phải dành cho hàng hoá của các thành viên khác đối xử quốc gia phù hợp với
Điều III của Hiệp định chung về thuế quan và thƣơng mại năm 1994 (GATT 1994).
Điều này có nghĩa là quốc gia phải đảm bảo dành cho hàng hoá nhập khẩu của các
thành viên khác (sau khi đã qua hải quan) chế độ đãi ngộ thƣơng mại (ƣu đãi, miễn
trừ) nhƣ chế độ mà họ áp dụng cho hàng hố của nƣớc mình. Với ngun tắc MFN
trong thƣơng mại quốc tế yêu cầu một quốc gia không đƣợc đối xử kém phần thuận
lợi hơn đối với các quốc gia khác những lợi ích mà mình đã dành cho một nƣớc thứ
ba. Bên cạnh đó, nguyên tắc minh bạch yêu cầu mọi quy định có liên quan đến
thƣơng mại (chính sách thƣơng mại, nguyên tắc tiếp cận thị trƣờng) của một quốc
gia phải đƣợc công bố công khai, dễ tiếp cận, phù hợp pháp luật và đƣợc áp dụng
thống nhất trên tồn lãnh thổ quốc gia đó.
b. Nội dung của Hiệp định TPP
Theo ghi nhận tại Lời mở đầu của Hiệp định, TPP ra đời nhằm thiết lập một
Hiệp định khu vực tồn diện có thể thúc đẩy hội nhập kinh tế nhằm tự do hoá
thƣơng mại và đầu tƣ kinh tế đem lại tăng trƣởng kinh tế và lợi ích xã hội, tạo ra
những cơ hội mới cho lao động và doanh nghiệp, góp phần nâng cao mức sống,
mang lại lợi ích cho ngƣời tiêu dùng, giảm nghèo và thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế.
Hiệp định TPP đƣợc mở rộng hơn so với các FTA khác bởi TPP không chỉ
bao gồm các vấn đề thƣơng mại (hàng hố, dịch vụ, sở hữu trí tuệ...) mà cịn là các
vấn đề “phi thƣơng mại” (môi trƣờng, lao động...), không chỉ là các vấn đề “tại biên
giới” (thuế quan, hàng rào kỹ thuật...), mà còn là các vấn đề “bên trong biên giới”
(doanh nghiệp nhà nƣớc, cơng đồn...). Cụ thể, Hiệp định TPP bao gồm các quy
định và cam kết thƣơng mại truyền thống và phi truyền thống, tại đó các nội dung
về thƣơng mại truyền thống nhƣ mở cửa thị trƣờng hàng hóa, xuất nhập khẩu, thuế

quan, phi thuế quan và các biện pháp tại biên giới vẫn tiếp tục duy trì và thực hiện
tự do hóa ở cấp độ sâu rộng hơn. Hiệp định sẽ điều chỉnh các nội dung thƣơng mại
9


phi truyền thống, trực tiếp gắn với hoạt động kinh doanh đầu tƣ, cũng nhƣ hình
thành thị trƣờng trao đổi các yếu tố của quá trình sản xuất nhƣ lao động, đất đai,
môi trƣờng, vốn, khoa học công nghệ, sở hữu trí tuệ… Vì vậy, có thể khẳng định
các cam kết trong TPP có mức độ cam kết sâu rộng hơn so với những cam kết trong
Hiệp định thƣơng mại song phƣơng mà Việt Nam đã ký kết với các quốc gia khác
hay trong WTO7.
c. Một số đặc điểm cơ bản của Hiệp định TPP
Với mục đích thiết lập một tiêu chuẩn mới cho thƣơng mại toàn cầu và đƣa ra
những vấn đề thuộc thế hệ mới có khả năng tăng cƣờng năng lực cạnh tranh của các
nƣớc thành viên, có năm đặc điểm cơ bản làm TPP trở thành một Hiệp định mang
tính bƣớc ngoặt của thế kỷ XXI, bao gồm:
Thứ nhất, cho phép các nƣớc thành viên đƣợc tiếp cận thị trƣờng của các nƣớc
thành viên khác trong nội khối TPP một cách toàn diện trên tất cả các lĩnh vực.
Theo quy định chung của Hiệp định, khi hiệp định có hiệu lực, về cơ bản, tất cả các
loại hàng hoá nhập khẩu của các nền kinh tế thành viên sẽ có thuế suất bằng 0%
(chỉ trừ một số mặt hàng đặc biệt mang tính an ninh quốc gia). Các quốc gia phải
tuân thủ triệt để và không trì hồn. Nhìn chung, các điều kiện để tn thủ ở mức
trung bình, mọi quốc gia đều có thể thực hiện. Nếu là các điều kiện quá cao thì các
quốc gia sẽ hỗ trợ để các quốc gia đang phát triển thực hiện.
Thứ hai, tiếp cận mang tính khu vực trong việc đƣa ra các cam kết. Ở đây,
TPP tạo thuận lợi cho việc phát triển sản xuất và dây chuyền cung ứng, cũng nhƣ
thƣơng mại không gián đoạn, cụ thể thông qua việc xây dựng một biểu thuế thống
nhất và các quy tắc xuất xứ chung. Từ đó, đẩy mạnh tính hiệu quả trong việc thực
thi TPP, thúc đẩy mạng lƣới thƣơng mại khu vực và khuyến khích sử dụng các sản
phẩm đầu vào của các nƣớc trong TPP; nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh

nghiệp; góp phần tạo việc làm, cải thiện đời sống và tăng cƣờng phát triển bền vững
ở các nƣớc thành viên.
Thứ ba, bên cạnh những vấn đề thƣơng mại đã đƣợc cam kết và thực hiện
trong khuôn khổ APEC và các diễn đàn khác, TPP giải quyết các thách thức mới
đối với thƣơng mại. Hiệp định TPP thúc đẩy việc đổi mới năng suất và tính cạnh
tranh thơng qua việc giải quyết các vấn đề mới, trong đó bao gồm việc phát triển

7

Đỗ Cao Ngọc Hân (2014), Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương và những tác động đối với thương
mại hàng hoá của Việt Nam, Khoá luận tốt nghiệp, Trƣờng Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, tr. 15

10


nền kinh tế số và vai trò ngày càng tăng của các doanh nghiệp Nhà nƣớc trong nền
kinh tế toàn cầu8.
Thứ tƣ, TPP bao hàm toàn bộ các yếu tố liên quan đến thƣơng mại. Mục tiêu
của TPP là phải đảm bảo nền kinh tế ở tất cả các cấp độ phát triển và doanh nghiệp
thuộc mọi quy mô đều có thể hƣởng lợi từ thƣơng mại. TPP bao gồm các cam kết
nhằm giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiểu rõ về Hiệp định, tận dụng đƣợc những
cơ hội mà Hiệp định mang lại và nêu lên những thách thức tới Chính phủ của các
thành viên. Bên cạnh đó, Hiệp định cũng bao gồm những cam kết cụ thể về phát
triển và nâng cao năng lực thƣơng mại để đảm bảo rằng tất cả các bên đều có thể
đáp ứng đƣợc những cam kết trong Hiệp định và tận dụng đƣợc đầy đủ những lợi
ích của Hiệp định.
Thứ năm, TPP thực hiện cơ chế “mở”, TPP có cơ chế kết nạp thành viên mới
trong tƣơng lai và khác với WTO. TPP cho phép thành viên mới đƣợc đàm phán với
từng đối tác thay vì phải chấp nhận các quy tắc đƣợc thiết lập bởi các thành viên cũ.
Các bên có thể tiếp tục đàm phán những vấn đề phát sinh sau khi Hiệp định có hiệu

lực trong q trình mở rộng Hiệp định khi kết nạp thành viên mới. Trong TPP,
khơng có hai chế độ, lộ trình mở cửa là duy nhất cho mọi thành viên cùng với quy
tắc chung “không gia hạn cho bất kỳ quốc gia nào”. Các quốc gia tham gia TPP
phải thực hiện ngay những cam kết đã đƣợc đàm phán. Nếu không tuân thủ sẽ bị
một cơ quan độc lập xét xử. Điều đó có nghĩa là dù Việt Nam là một nƣớc đang
phát triển, năng lực kinh tế còn hạn chế và yếu kém hơn rất nhiều so với các thành
viên khác, cũng sẽ khơng có đối xử đặc biệt, khác biệt so với các thành viên phát
triển khác.
Nhƣ vậy, có thể thấy, nội dung đàm phán TPP mang tính mở rộng hơn và có
những tiêu chuẩn cao hơn so với các FTA đã ký kết trƣớc đây và cao hơn cả nội
dung của WTO, nên có thể gọi TPP là WTO Plus (WTO+). Các nƣớc thành viên đều
nhận định TPP không thay thế cho WTO mà chỉ bổ sung và thúc đẩy hệ thống
thƣơng mại đa phƣơng. TPP ra đời để tạo ra nền tảng cho việc hội nhập kinh tế khu
vực và đƣợc xây dựng để bao hàm cả những nền kinh tế khác xuyên khu vực châu
Á – Thái Bình Dƣơng9.

8

Chinhphu.vn, “Nội dung cơ bản của Hiệp định TPP”, truy cập ngày 12/5/2016
9
Nhƣ trên

11


1.1.1.3 Mối liên hệ giữa Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và
Hiệp định thương mại tự do khác
Các nƣớc thành viên TPP thực tế đã tồn tại một quan hệ thƣơng mại quốc tế
với nhau vì đều là thành viên của các Hiệp định thƣơng mại đa phƣơng, song
phƣơng và khu vực khác nhau. Biết rằng, tất cả các quốc gia TPP đều là thành viên

của Tổ chức thƣơng mại Thế giới (WTO), trong đó Việt Nam là quốc gia gần nhất
trong số 12 thành viên gia nhập WTO vào năm 2007. Bên cạnh đó, trong số các
hiệp định song phƣơng và khu vực đang có hiệu lực, ở nhiều mức độ khác nhau, các
thành viên TPP cũng đặt mối quan hệ với các nƣớc đối tác trong TPP. Điển hình
nhƣ, Hoa Kỳ có FTA với hơn 20 quốc gia trong đó có 6 nƣớc là thành viên TPP
(Australia, Peru, Singapore, Mexico, Chile, Canada) tham gia10. Hay 4 nƣớc: Việt
Nam, Malaysia, Singapore, Brunei là thành viên của hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á (Association of Southeast Asian Nations - ASEAN) cũng là thành viên của
TPP. Ngoài ra, 12 nƣớc thành viên của TPP cũng là thành viên của APEC. Theo đó,
khi tham gia vào các điều ƣớc quốc tế quốc gia sẽ bị ràng buộc với các nguyên tắc,
quy phạm của tất cả các điều ƣớc quốc tế có liên quan và đều phải có trách nhiệm
bảo đảm pháp luật của nƣớc mình tƣơng thích với các quy định của điều ƣớc quốc
tế đã tham gia. Vì vậy, Hiệp định TPP đã dành một điều khoản cụ thể tại Điều 1.2
Chương 1 về Mối quan hệ giữa TPP với các Hiệp định thương mại tự do khác
(Relation to Other Agreement) để ghi nhận vấn đề pháp lý này.
Một là, theo quy định tại Khoản 1 Điều 1.2 Chương 1, TPP đã thừa nhận rằng
Hiệp định WTO hay tất cả các điều ƣớc quốc tế mà các bên là thành viên vẫn có
hiệu lực và cùng tồn tại với Hiệp định. Quy định này đảm bảo việc tuân thủ các cam
kết của các quốc gia trong khuôn khổ điều ƣớc liên quan trên cơ sở nguyên tắc
Pacta sunt Servanda (tôn trọng cam kết) của công pháp quốc tế theo Điều 2 khoản 2
Hiến chương Liên Hợp Quốc (LHQ) và Điều 26 Công ước Viên về Luật điều ước
quốc tế năm 1969 (CƯ Viên 1969). Nguyên tắc này yêu cầu các quốc gia phải thực
hiện các cam kết quốc tế một cách trọn vẹn, không đƣợc ký kết các điều ƣớc quốc tế
mới mâu thuẫn với nghĩa vụ của mình trong điều ƣớc quốc tế đã ký với quốc gia
khác11. Đồng thời, đây cũng là cách mỗi quốc gia khẳng định tƣ cách thành viên
chính thức và tồn diện của mình tại cộng đồng quốc tế.

10

Brock R. Williams (2013), Trans-Pacific Partnership (TPP) Countries: Comparative Trade and Economic

Analysis, Congressional Research Service (CRS), tr. 8
11
Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2013), Giáo trình Cơng pháp Quốc tế (quyển 1), Nhà xuất bản
Hồng Đức, tr. 86 – 87

12


Căn cứ trên tính chất pháp lý của các điều ƣớc quốc tế trong hoạt động thƣơng
mại, bao gồm hai nhóm: (i) điều ƣớc thiết lập nguyên tắc chung cho hoạt động kinh
doanh quốc tế và (ii) điều ƣớc quốc tế trực tiếp điều chỉnh các vấn đề liên quan tới
quyền và nghĩa vụ của các chủ thể kinh doanh trong giao dịch kinh doanh quốc tế
cụ thể12. Nhóm điều ƣớc thứ nhất có thể là các điều ƣớc nhƣ Hiệp định GATT,
GATS, WTO; Hiệp định khu vực tự do mậu dịch ASEAN (AFTA), Hiệp định
thƣơng mại Việt – Mỹ; Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam – Nhật Bản… và Hiệp
định TPP cũng có thể là Hiệp định đƣợc phân loại vào nhóm này. Cơ bản là vì,
giống nhƣ các Hiệp định đã đƣợc đề cập, TPP cũng không điều chỉnh trực tiếp các
vấn đề quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm của các bên trong một giao dịch kinh doanh
quốc tế, mà chỉ thiết lập nguyên tắc nền tảng cho q trình tự do hố thƣơng mại. Vì
vậy, các chủ thể kinh doanh không thể trực tiếp viện dẫn để điều chỉnh giao dịch
kinh doanh của mình. Khác với TPP, các điều ƣớc quốc tế trong nhóm thứ hai có
thể là Cơng ƣớc Viên 1980 về mua bán hàng hố quốc tế (CISG), Cơng ƣớc New
York năm 1958 về công nhận và thi hành phán quyết của trọng tài nƣớc ngoài. Các
điều ƣớc này trực tiếp điều chỉnh những vấn đề liên quan tới quyền, nghĩa vụ của
các bên trong giao dịch kinh doanh quốc tế cụ thể.
Với tƣ cách là một Hiệp định xây dựng khung pháp lý chung cho khu vực 12
nƣớc thành viên, TPP là khu vực tự do thƣơng mại (FTA) thiết lập dựa trên ngoại lệ
của nguyên tắc MFN của WTO phù hợp với quy định tại Điều XXIV của GATT
1994 và Điều V của GATS. Vì vậy, về nguyên tắc, các quy định trong TPP phải phù
hợp với quy định nền tảng của WTO. Đồng thời, với cam kết tôn trọng các FTA đã

ký kết theo quy định tại Khoản 1 Điều 1.2 Chương 1, nhận thấy, giữa TPP và các
Hiệp định song phƣơng, đa phƣơng hay khu vực khác đều có giá trị pháp lý ngang
bằng nhau và khơng có bất kỳ một sự ràng buộc nào nhằm ngăn cản Hiệp định
khác. Việc áp dụng TPP hay các FTA khác tuỳ thuộc vào các chủ thể thực hiện hoạt
động thƣơng mại. Chẳng hạn nhƣ, quan hệ thƣơng mại giữa Việt Nam và Nhật Bản
đang đƣợc điều chỉnh bởi ba hiệp định thƣơng mại tự do (ASEAN – Nhật Bản
(AJFTA); Việt Nam – Nhật Bản (VJEPA) và TPP dự kiến có hiệu lực năm 2018).
Các doanh nghiệp Nhật Bản muốn nhập khẩu hàng hố vào Việt Nam có quyền lựa
chọn bất kỳ một Hiệp định nào để hƣởng ƣu đãi thuế quan, tuy nhiên họ phải đảm
bảo thực hiện đúng các điều kiện và trình giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) cho Hải
quan nƣớc nhập khẩu theo cam kết của Hiệp định. Tuy nhiên, với những cam kết
mở cửa sâu rộng hơn, hƣớng đến xố bỏ hồn tồn thuế quan, TPP chắc hẳn sẽ
12

Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2015), Giáo trình Luật thương mại quốc tế - Phần 2, Nhà xuất bản
Hồng Đức, tr. 46

13


đƣợc ƣu tiên áp dụng hơn so với các FTA khác nhằm giúp các doanh nghiệp tối đa
hoá đƣợc lợi nhuận.
Hai là, dù các Bên tham gia Hiệp định đều cân nhắc đàm phán đảm bảo TPP
sẽ không tạo ra một nghĩa vụ khác nhằm gây ra mâu thuẫn với bất kỳ Hiệp định nào
đang tồn tại, bao gồm cả WTO. Tuy nhiên, theo quy định tại Khoản 2 Điều 1.2
Chương 1 của Hiệp định, một bên là thành viên TPP có thể yêu cầu tham vấn
(consult) với bên khác nếu cho rằng có tồn tại sự mâu thuẫn nhằm tìm ra một cách
giải quyết thoả đáng cho các Bên.
Quy định về tham vấn đƣợc ghi nhận cụ thể tại Điều 28.5 Chương 28 về Giải
quyết tranh chấp. Tham vấn đƣợc xem là một loại hình đàm phán, là cơ hội, điều

kiện thuận lợi nhất để các bên tranh chấp trực tiếp bày tỏ quan điểm, lập trƣờng, yêu
sách của mình về vấn đề tranh chấp và cùng nhau thƣơng lƣợng, nhƣợng bộ để giải
quyết13. Mặt khác, giải quyết những tranh chấp bằng tham vấn sẽ hạn chế đƣợc sự
can thiệp từ bên ngoài cũng nhƣ những khả năng làm phức tạp thêm vấn đề tranh
chấp giữa các bên.
Trong nhiều trƣờng hợp, TPP có những cam kết mở rộng hoặc hồn thiện hơn
so với các hiệp định hiện tại. Ví dụ nhƣ trong các cam kết giữa Mexico, Canada,
Chile, Singapore, Australia, và Peru tại các chƣơng của TPP về Lao động và Mơi
trƣờng đã đƣợc mở rộng và hồn thiện hơn so với Hiệp định thƣơng mại tự do Bắc
Mỹ - North American Free Trade Agreement (NAFTA) và một số FTA trƣớc đây.
Bất chấp các hiệp định khác, vì cam kết mở cửa sâu hơn nên các Bên trong TPP sẽ
bắt buộc phải thi hành các tiêu chuẩn nghiêm ngặt hơn của TPP so với các FTA đã
ký kết14.
Ngoài ra, liên quan đến vấn đề này, điều đáng chú ý là quy định về tự vệ
thƣơng mại ở WTO và TPP. Theo Điều 6.2 Chương 6 về Phòng vệ thương mại,
Hiệp định TPP bổ sung thêm quy định khi một nƣớc thành viên áp dụng biện pháp
tự vệ toàn cầu có thể loại trừ hàng hố nhập khẩu từ một nƣớc thành viên TPP khác.
Tuy nhiên, theo Điều XIX của GATT 1994 và Hiệp định Tự vệ thương mại, biện
pháp tự vệ thƣơng mại này đƣợc áp dụng thống nhất cho hàng nhập khẩu từ tất cả
các nƣớc mà không cần quan tâm đến xuất xứ của sản phẩm nhập khẩu. Về mặt
pháp lý, với quy định mâu thuẫn này TPP đã vi phạm đến nguyên tắc MFN trong
thƣơng mại quốc tế, tạo ra sự phân biệt đối xử giữa thành viên TPP so với các quốc
13

Ngô Hữu Phƣớc (2010), Luật Quốc tế, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia – Hà Nội, tr. 516
United States Trade Representative (USTR), “Initial Provisions and General Definitions”,
/>truy cập ngày 02/6/2016
14

14



gia khác trong khn khổ WTO. Tuy nhiên, vì TPP chƣa có hiệu lực thực thi nên
xung đột giữa hai quy định này chỉ đƣợc xem xét dựa trên những cam kết và nguyên
tắc cơ bản của luật quốc tế. Vấn đề đã đƣợc bình luận và tranh cãi rất nhiều trong
thời gian qua nhƣng vẫn chƣa tìm ra cách lý giải thích đáng.
1.1.2 Những vấn đề liên quan đến Dệt may trong Hiệp định Đối tác xuyên Thái
Bình Dƣơng (TPP)
1.1.2.1 Lý giải sự tồn tại của chương Dệt may trong Hiệp định Đối tác xuyên
Thái Bình Dương (TPP)
Hiệp định TPP là hiệp định thƣơng mại tự do đầu tiên Việt Nam tham gia có
chƣơng riêng về Dệt may. Đây cũng là ngành đƣợc quan tâm nhiều nhất trong TPP
khi mà 12 nƣớc thành viên đã đồng ý dành riêng một chƣơng quy định về Dệt may,
tách ra khỏi chƣơng 3 về mở cửa thị trƣờng đối với hàng hoá nói chung.
Điều đáng nói, một điểm tƣơng đồng rất lớn ở TPP và WTO là có rất nhiều
mặt hàng trong thƣơng mại quốc tế, mà cả WTO lại có riêng một Hiệp định về hàng
Dệt may - Agreement on Textile and Clothing (ATC), còn TPP cũng dành một
chƣơng riêng quy định về mặt hàng này. Bởi lẽ, Dệt và các sản phẩm từ dệt là một
trong những ngành xuất hiện sớm nhất trong lịch sử công nghiệp. Trải qua quá trình
phát triển, thực tế ngày nay, hầu hết những nƣớc có trình độ cơng nghiệp cao đều
khơng mở rộng ngành này và trở thành những nƣớc nhập khẩu sản phẩm Dệt may.
Trong khi đó, tại các nƣớc đang phát triển, đang bƣớc đầu q trình phát triển cơng
nghiệp hố thì đây là một ngành đƣợc chú trọng đầu tƣ vì khơng địi hỏi cơng nghệ
cao và tận dụng đƣợc lợi thế nhân công giá rẻ và dồi dào trong nƣớc. Hầu hết các
nƣớc đang phát triển đều có giai đoạn coi Dệt may là một ngành công nghiệp chủ
chốt của mình15.
Nhƣ đã đề cập, đối với các nƣớc TPP, Dệt may cũng là một ngành có lợi ích
rất lớn. Cụ thể, với Mỹ có kim ngạch nhập khẩu khoảng 100 tỷ USD/năm, Nhật Bản
khoảng 50 tỷ USD/năm16. Về vấn đề này, tuy là một thị trƣờng nhập khẩu Dệt may
lớn nhất thế giới, có sản xuất nội địa tƣơng đối nhỏ nhƣng Mỹ lại có tiếng nói vận

động rất lớn trong quá trình đàm phán. Với quy định áp dụng quy tắc xuất xứ “từ sợ
trở đi” (yarn – forward) đối với hàng Dệt may trong TPP, Mỹ tận dụng đƣợc lợi thế
của ngành này nhằm hƣớng đến tạo hàng trăm nghìn việc làm trong lịng nƣớc Mỹ
với giá trị sản lƣợng lên tới nhiều chục tỷ USD, và đóng góp hàng chục tỷ USD vào
15

Mutrap II - Dự án hỗ trợ thƣơng mại đa biên (2006), Hỏi đáp về WTO, Hà Nội, tr. 52
Tố Uyên, “TPP: Để nắm cơ hôi “vàng” phải gỡ “nút thắt cổ chai””,
truy cập ngày 2/6/2016
16

15


kim ngạch xuất khẩu hàng năm. Đồng thời, Mỹ còn nhắm đến lợi ích mang lại từ
những nƣớc thành viên TPP nhƣ Việt Nam, công xƣởng gia công chủ yếu hàng Dệt
may cho tồn khu vực, thơng qua quy tắc xuất xứ “Từ sợi trở đi” để khuyến khích
Việt Nam nếu muốn gia tăng xuất khẩu hàng Dệt may vào Mỹ và các thị trƣờng
thành viên khác thì phải sử dụng các sản phẩm đầu vào cho ngành Dệt may nhƣ
bơng, sợi, đặc biệt những mặt hàng có cơng nghệ cao (nhƣ vật liệu tổng hợp và sợi
carbon), cũng nhƣ các sản phẩm công nghệ và dịch vụ trong ngành này... vốn là thế
mạnh của Mỹ (nhất là sau khi tính thêm yếu tố thuế suất 0% so với mức thuế nhập
khẩu cao đánh vào các sản phẩm đầu vào nhập khẩu ngoại khối).
Mặt khác, đối với những nƣớc có thu nhập thấp nhƣ Việt Nam thì ngành Dệt
may cũng là một trong những ngành đứng đầu cả nƣớc về kim ngạch xuất khẩu.
Tham gia TPP đƣợc hƣởng ƣu đãi về thuế là yếu tố thuận lợi cho các doanh nghiệp
Dệt may Việt Nam mở rộng thị phần, nhất là thị trƣờng Mỹ (mức thuế sẽ giảm dần
xuống 0% so với 17 – 18% nhƣ hiện nay) mà không phải cạnh tranh với sản phẩm
của một số nƣớc khác.
1.1.2.2 Những nội dung chính của Hiệp định TPP về Dệt may

Ngồi việc áp dụng các quy định chung nhƣ các hàng hóa khác trong các
chƣơng Thƣơng mại Hàng hóa, Quy tắc Xuất Xứ, Phòng vệ Thƣơng mại, Hợp tác
Hải quan, Dệt may có những quy định riêng mang tính đặc thù. Cụ thể, gói Dệt may
trong Hiệp định TPP bao gồm 3 nội dung chính: (i) mở cửa thị trƣờng (lộ trình xóa
bỏ thuế quan); (ii) quy tắc xuất xứ; (iii) biện pháp tự vệ và hợp tác hải quan.
Thứ nhất, Hiệp định TPP quy định xóa bỏ ngay lập tức thuế quan khi TPP có
hiệu lực lên hàng Dệt may nhập khẩu vào một nƣớc thành viên từ các nƣớc thành
viên khác, trừ một số sản phẩm thuộc diện nhạy cảm cần có lộ trình xóa bỏ thuế
theo thỏa thuận giữa các thành viên. Tuy nhiên, hàng hóa xuất khẩu muốn đƣợc
hƣởng thuế suất thuế ƣu đãi theo Hiệp định TPP phải đáp ứng quy tắc xuất xứ của
Hiệp định này.
Thứ hai, đối với Dệt may, quy tắc xuất xứ chủ đạo là “Từ sợi trở đi” (yarn forward) hay đƣợc gọi quy tắc “3 cơng đoạn”, nghĩa là tồn bộ q trình kéo sợi, dệt
vải, nhuộm, hồn tất và may quần áo phải đƣợc thực hiện trong nội khối TPP. Quy
tắc này cũng là một bƣớc cụ thể hóa quy tắc xuất xứ nói chung của TPP nhằm
khuyến khích các nhà sản xuất thiết lập chuỗi cung ứng và sản xuất trong nội khối
để tạo công ăn việc làm và thu nhập cho các chủ thể kinh tế liên quan trong các
nƣớc thành viên. Tuy nhiên, Hiệp định cũng quy định một số trƣờng hợp loại trừ
với quy tắc này khi nguồn cung cho một chủng loại sợi và vải nào đó từ nội khối
16


không đủ cho nhu cầu sản xuất hàng may mặc trong nội khối, nhƣ:

(i)

Ba nhóm hàng may mặc đƣợc áp dụng quy tắc xuất xứ 1 công đoạn, “cắt

và may” (cut and sew), gồm: vali, túi xách, áo ngực phụ nữ, quần áo trẻ em bé bằng
sợi tổng hợp;


(ii) Danh mục nguồn cung thiếu hụt gồm 194 loại sợi, vải đƣợc phép sử
dụng từ ngồi khu vực TPP, trong đó 186 mặt hàng sẽ đƣợc áp dụng vĩnh viễn và 8
mặt hàng chỉ đƣợc áp dụng cơ chế này trong 5 năm;

(iii) Cơ chế 1 đổi 1 áp dụng với quần nam nữ bằng vải bông xuất khẩu sang
Hoa Kỳ. Doanh nghiệp mua 1 đơn vị vải bơng thích hợp làm quần có xuất xứ từ
Hoa Kỳ sẽ đƣợc phép sử dụng 1 đơn vị vải bông nhập khẩu từ ngoài khu vực TPP
để may quần xuất khẩu sang Hoa Kỳ và hƣởng thuế 0%. Tỷ lệ quy đổi giữa vải
bông xuất xứ Hoa Kỳ và vải bông đƣợc phép nhập khẩu ngoài khối TPP khác nhau
giữa quần nam và quần nữ.
Về Quy tắc xuất xứ, đầu tiên cần lƣu ý, để gỡ rối tình trạng gây trở ngại cho
doanh nghiệp trong việc tận dụng các hiệp định thƣơng mại tự do (FTA) trƣớc đó
trong khu vực, thúc đẩy chuỗi cung ứng khu vực, đồng thời bảo đảm các nƣớc thành
viên sẽ là những ngƣời hƣởng lợi chính của Hiệp định hơn là các nƣớc không phải
thành viên, 12 nƣớc đã thống nhất về một bộ quy tắc xuất xứ chung nhằm xác định
một hàng hố cụ thể “có xuất xứ” để đƣợc hƣởng thuế quan ƣu đãi trong TPP. Do
đó, vấn đề xác định xuất xứ hàng Dệt may từ một nƣớc thành viên để đƣợc hƣởng
ƣu đãi của TPP sẽ dẫn chiếu theo quy định tại Chƣơng 3 (Rules of origin and origin
Procedures - Quy tắc xuất xứ và các thủ tục chứng nhận xuất xứ).
Về nguyên tắc, chỉ có những hàng hố có xuất xứ từ, tức là đƣợc sản xuất một
cách thực chất tại các nƣớc thành viên, mới đƣợc hƣởng thuế ƣu đãi TPP. Cụ thể,
hàng hố có xuất xứ theo quy định tại Điều 3.2 Chương 3 là hàng hố (i) thu đƣợc
tồn bộ hoặc đƣợc sản xuất toàn bộ tại lãnh thổ hoặc nhiều bên là thành viên; (ii)
đƣợc sản xuất toàn bộ từ các nguyên phụ liệu có xuất xứ tại lãnh thổ của một hoặc
nhiều bên là thành viên, hoặc (iii) đƣợc sản xuất tồn bộ từ ngun phụ liệu khơng
có xuất xứ với điều kiện hàng hoá thoả mãn Quy tắc xuất xứ cụ thể riêng đối với
mặt hàng Dệt may (Phụ lục 4-A kèm theo Chƣơng 4) tại lãnh thổ của một hoặc
nhiều bên là thành viên. Vì vậy, với quy tắc xuất xứ “Từ sợi trở đi” đối với sản
phẩm Dệt may muốn đƣợc hƣởng ƣu đãi thuế quan thì tất cả các nguyên liệu, bắt
đầu từ sợi đến Dệt, nhuộm và may đều phải đƣợc sản xuất tại các nƣớc TPP.

Khơng những thế, TPP cũng có quy định về “cộng gộp”, có nghĩa là các
17


nguyên liệu đầu vào từ một nƣớc thành viên sẽ đƣợc công nhận và đối xử nhƣ nhau
với các nguyên vật liệu từ các thành viên khác nếu đƣợc dùng để sản xuất hàng hoá
đƣợc hƣởng ƣu đãi thuế quan TPP tại nƣớc nhập khẩu trong khối. Quy định này
đƣợc đánh giá là một trong những điểm mới của Hiệp định TPP so với các FTA
khác, cũng nhƣ có ý nghĩa vô cùng quan trọng không chỉ riêng với hàng Dệt may
mà cịn đối với tất cả hàng hố khác nói chung. Bởi xuất phát từ lý do, quy định này
sẽ khuyến khích và giữ chân nhà sản xuất của các thành viên TPP tổ chức dây
chuyền sản xuất và cung ứng ngay tại khối thay vì sản xuất hoặc nhập khẩu ngun
vật liệu từ bên ngồi khối. Từ đó, tạo công ăn việc làm và thu nhập cho các ngành
sản xuất hàng hoá của các nƣớc thành viên17.
Thứ ba, các nƣớc TPP thống nhất hợp tác chặt chẽ trong lĩnh vực hải quan,
chống gian lận thƣơng mại hàng Dệt may nhƣ buôn lậu, trốn thuế, hay gian lận về
xuất xứ và một số vấn đề khác để hƣởng lợi bất hợp pháp thuế ƣu đãi TPP theo quy
định tại Điều 4 Chương 4 về Hợp tác. Bên cạnh, việc trao quyền cho hải quan của
nƣớc nhập khẩu làm việc với hải quan các nƣớc thành viên đối tác, Hiệp định cịn
quy định những hành động thích ứng, có thể là yêu cầu nƣớc thành viên đối tác
cung cấp thông tin khi hải quan nƣớc nhập khẩu có bằng chứng gian lận thƣơng
mại. Theo đó, yêu cầu này phải đƣợc đáp ứng bởi nƣớc đối tác, hoặc cũng có thể là
cử nhân viên hải quan đến tận cơ sở của nhà xuất khẩu hoặc nhà sản xuất tại nƣớc
thành viên xuất khẩu để kiểm tra xác thực hàng hố đó là hàng TPP để hƣởng ƣu
đãi thuế suất TPP hay khơng.
Ngồi ra, cũng giống nhƣ với mọi hiệp định thƣơng mại tự do khác, TPP cũng
có những quy định về phòng vệ thƣơng mại để một nƣớc thành viên bảo vệ lợi ích
quốc gia khi ngành Dệt may của họ bị đe dọa nghiêm trọng bởi hàng nhập khẩu từ
một nƣớc thành viên theo Điều 3 Chương 4 về Hành động khẩn cấp. Trong những
trƣờng hợp nhƣ vậy thì nƣớc thành viên bị thiệt hại có quyền khơi phục hoặc áp

thuế suất nhập khẩu cao hơn để ngăn chặn hàng nhập khẩu. Cụ thể, theo khoản 1 tại
Điều 3 Chương 4 quy định: “Việc tăng thuế suất đối với hàng hố của một hoặc các
Bên xuất khẩu tới mức khơng vƣợt quá mức nào thấp hơn hai mức sau: (a) thuế suất
tối huệ quốc (MFN) áp dụng tại thời điểm hành động khẩn cấp đƣợc thực hiện; và
(b) thuế suất MFN áp dụng vào ngày ngay sau ngày Hiệp định có hiệu lực cho Bên
đó”. Đồng thời, khi áp dụng biện pháp tự vệ, nƣớc nhập khẩu phải có giải pháp đền
bù thiệt hại về kinh tế mà nƣớc xuất khẩu phải gánh chịu do không đƣợc hƣởng thuế
17

Phan Minh Ngọc, “Tác động của TPP nhìn từ chƣơng Quy tắc xuất xứ và các thủ tục chứng nhận xuất xứ”,
truy cập ngày 15/5/2016

18


ƣu đãi nhƣ cam kết theo quy định tại Khoản 7 Điều 3 Chương 4. Điều khoản này đã
cho thấy một thực tế rằng, những nƣớc thành viên nhập khẩu ròng lớn các sản phẩm
Dệt may, chủ yếu là các nƣớc phát triển nhƣ Mỹ và Nhật sẽ có lợi nhất, trong khi đó
đây sẽ là một mối đe dọa tiềm tàng cho những nƣớc thành viên xuất khẩu ròng chủ
chốt và có tiềm lực kinh tế cịn hạn chế nhƣ Việt Nam.
Nhìn chung, xuất phát từ quy mơ và sức ảnh hƣởng của Dệt may đối với nền
kinh tế của các quốc gia thành viên, việc dành một chƣơng riêng để quy định về Dệt
may trong Hiệp định có ý nghĩa hết sức quan trọng. Trong suốt quá trình đàm phán
về hàng Dệt may, mặc dù đã khá nhiều luồng quan điểm đối lập kiên quyết với
nhau, nhƣng đến cuối cùng các bên cũng hƣớng đến thống nhất những điều khoản
chung dựa trên quy tắc cùng có lợi. Tóm lại, đó là các quy định về việc áp dụng quy
tắc xuất xứ chủ đạo “Từ sợi trở đi” đƣợc thực hiện trong nội khối TPP; và hơn hết
là quy định về “Danh sách nguồn cung thiếu hụt” đƣợc đánh giá là điểm mới của
chƣơng Dệt may, tạo ra sự linh hoạt cần thiết trong đáp ứng quy tắc xuất xứ đồng
thời vẫn thúc đẩy chuỗi sản xuất và cung ứng nội khối. Ngoài ra, dựa trên bài học

rút ra từ các FTA khác, chƣơng Dệt may cũng có những quy định về phòng chống
gian lận thƣơng mại với ý nghĩa tạo điều kiện cho hải quan các nƣớc ngăn chặn hữu
hiệu các hành động trục lợi phi pháp trong ngành Dệt may. Với những quy định nhƣ
trên, TPP đƣợc đánh giá có những tác động đáng kể đối với ngành Dệt may của các
nƣớc thành viên TPP nói riêng, và Dệt may thế giới nói chung.
1.2 Ngành Dệt may Việt Nam trƣớc ngƣỡng cửa hội nhập
1.2.1 Khái quát về ngành Dệt may Việt Nam
Dệt may là ngành kinh tế có thị trƣờng tiêu thụ rộng lớn, sử dụng nhiều lao
động, cơng nghệ khơng phức tạp, thích hợp cho khởi đầu phát triển nền kinh tế quốc
gia. Hiện nay, cả nƣớc có khoảng 6.000 doanh nghiệp Dệt may (năm 2013), thu hút
hơn 2,5 triệu lao động; chiếm khoảng 25% lao động của khu vực kinh tế công
nghiệp Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu hàng Dệt may cả nƣớc năm 2014 đạt trên 21
tỷ USD. Dệt may Việt Nam đã vƣơn lên hàng thứ 5 thế giới về xuất khẩu hàng Dệt
may với thị trƣờng hơn 180 quốc gia và vùng lãnh thổ, trở thành ngành kinh tế mũi
nhọn của quốc gia, đóng góp trên 10,5% GDP và hơn 15% tổng kim ngạch xuất
khẩu18.
Tuy nhiên, ngành công nghiệp Dệt may Việt Nam chỉ tham gia vào phần thứ
ba trong chuỗi cung ứng giá trị Dệt may toàn cầu là Cắt và May (Cut – Make 18

Bùi Văn Tốt (2014), Báo cáo Ngành Dệt may “Cơ hội Bứt phá”, Công ty chứng khoán FPT, tr. 13

19


Trim). Hầu hết các doanh nghiệp Dệt may Việt Nam sản xuất theo phƣơng thức gia
công đơn giản hoặc sản xuất theo chỉ định của doanh nghiệp nƣớc ngoài, thiếu khả
năng cung cấp trọn gói nên mang lại giá trị gia tăng thấp nhất. Đồng thời, Dệt may
Việt Nam còn phụ thuộc quá nhiều vào nguồn nguyên phụ liệu nhập khẩu, đặc biệt
là từ nhiều nƣớc bên ngoài TPP. Cụ thể, khâu cung cấp nguyên phụ liệu đầu vào,
hiện trong nƣớc chỉ đáp ứng đƣợc chƣa tới 1% nhu cầu về bông, 30% nhu cầu về

xơ. Sản lƣợng sợi đạt trên 1 triệu tấn/năm, nhƣng đã có tới 70% là xuất khẩu. Thực
tế, sợi sử dụng trong nƣớc chủ yếu nhập khẩu từ Trung Quốc 43%, Hàn Quốc 20%,
Đài Loan 15% và các nƣớc TPP chỉ có 9,7%19.
Khơng những thế, với các dự án đã đi vào hoạt động của doanh nghiệp có vốn
đầu tƣ nƣớc ngồi (FDI) đang chiếm trên 60% kim ngạch xuất khẩu Dệt may của cả
nƣớc20. Với tiềm lực kinh tế, khoa học kỹ thuật tiến tiến, các doanh nghiệp FDI chủ
yếu hoạt động với phƣơng thức sản xuất xuất khẩu OEM (Original Equipment
Manufacturing), ODM (Original Design Manufacturing) và OBM (Original Brand
Manufacturing) khép kín từ việc tạo nguồn nguyên liệu đến khâu thành phẩm cuối
cùng để xuất khẩu với giá trị gia tăng đạt mức cao nhất. Mặc dù kim ngạch xuất
khẩu Dệt may của Việt Nam mỗi năm đều tăng nhƣng lợi nhuận trong đó là rất ít,
chỉ khoảng 20-30% tồn bộ doanh thu xuất khẩu, bởi nguyên nhân chủ yếu xuất
phát từ gia công. Ngành Dệt may Việt Nam thực chất đang “đi trên đôi chân của
ngƣời khác”21.
Thực tế cho thấy, cũng giống nhƣ khi tham gia WTO và ký kết các FTA, cùng
với các ngành kinh tế khác, TPP sẽ mở ra nhiều cơ hội rất lớn cho Dệt may Việt
Nam. Theo đó sẽ có hơn 90% mặt hàng Dệt may xuất khẩu vào thị trƣờng Hoa Kỳ
đƣợc điều chỉnh thuế suất về mức 0% so với mức trung bình 17% nhƣ hiện nay,
cũng nhƣ cơ hội tiếp cận công nghệ, thông tin, dịch vụ, cũng nhƣ kinh nghiệm quản
lý đƣợc tốt hơn từ các nƣớc phát triển. Vì vậy, Việt Nam đã cố gắng rất nhiều trong
quá trình đàm phán để đảm bảo gia nhập TPP, Dệt may giữ lại ở mức tốt nhất lợi
thế của mình. Tuy nhiên, nếu Việt Nam nhìn thấy đƣợc tiềm năng của việc xuất
khẩu mặt hàng này tại thị trƣờng của các nƣớc thành viên TPP thì họ cũng thấy
đƣợc sự đe doạ của hàng Dệt may Việt Nam đối với mặt hàng tƣơng tự của mình tại
thị trƣờng nội địa. Do đó, trong q trình đàm phán, Dệt may là một trong những
vấn đề mà các nƣớc rất quan tâm, một mặt đƣa ra các điều kiện kìm hãm sự lớn
19

Thời báo kinh tế Sài Gòn, “Dệt may Việt Nam: Ai thực sự hƣởng lợi?”,
truy cập ngày 5/5/2016

20
Nhƣ trên
21
Nguyễn Thị Thu Hằng (2007), Tác động của việc gia nhập WTO đối với hoạt động xuất khẩu Dệt may,
Khoá luận tốt nghiệp, Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, tr. 27

20


×