Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Thẩm quyền điều tra của cơ quan điều tra thuộc viện kiểm sát nhân dân tối cao trong tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 86 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

PHẠM THẾ KHOA

THẨM QUYỀN ĐIỀU TRA CỦA CƠ QUAN ĐIỀU
TRA THUỘC VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI
CAO TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành: Luật Hình sự &Tố tụng Hình sự Mã số:60380104

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:TS.TRẦN THỊ QUANG VINH

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan luận văn thạc sỹ “Thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra
thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong tố tụng hình sự Việt Nam” là cơng trình
nghiên cứu khoa học do bản thân tôi tự thực hiện. Kết quả nghiên cứu trong luận
văn là trung thực và chƣa đƣợc công bố trong bất kỳ cơng trình khoa học nào.


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS



Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT

Cơ quan điều tra

HĐTP

Hoạt động tƣ pháp

PGS

Phó giáo sƣ

ThS

Thạc sỹ

TS

Tiến sỹ

TTHS

Tố tụng hình sự

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân


VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1. Số liệu thông tin về tội phạm xâm phạm hoạt động tƣ pháp đã tiếp nhận từ
năm 2008 đến 2014
Biểu đồ 1A. số liệu thông tin tội phạm xâm phạm hoạt động tƣ pháp Cơ quan điều
tra VKSNDTC đã tiếp nhận
Bảng 2. Số liệu thông tin về tội phạm xâm phạm hoạt động tƣ pháp thuộc thẩm
quyền giải quyết của Cơ quan điều tra VKSNDTC
Biểu đồ 2A. Tỷ lệ thơng tin trung bình từ năm 2008 đến năm 2014 đã xác minh giải
quyết và còn đang xác minh giải quyết
Biểu đồ 2B. Tỷ lệ thông tin đã xác minh hàng năm
Bảng 3. Số liệu án Cơ quan điều tra VKSNDTC đã khởi tố, điều tra từ năm 2008
đến năm 2014
Biểu đồ 3A. Số vụ án Cơ quan điều tra VKSNDTC đã khởi tố, điều tra từ năm 2008
đến năm 2014
Bảng số 4.Tỷ lệ Án xâm phạm hoạt động tƣ pháp mà Cơ quan điều tra VKSNDTC
khởi tố, điều tra so với số án xâm phạm hoạt động tƣ pháp trên toàn quốc
Biểu đồ 4A. Tỷ lệ hành năm án xâm phạm HĐTP thuộc thẩm quyền Cơ quan điều
tra VKSNDTC (so với tổng số án xâm phạm HĐTP trên địa bàn cả nƣớc)
Bảng 5 Số liệu án xâm phạm HĐTP đã và đang giải quyết từ năm 2008 đến 2014
Biểu đồ 5A. Tỷ lệ trung bình án xâm phạm hoạt động tƣ pháp đã và đang giải quyết
từ năm 2008 đến 2014
Biểu đồ 5B. Tỷ lệ án đã giải quyết hàng năm
Bảng 6. Cơ cấu tội phạm các vụ án Cơ quan điều tra VKSNDTC đã khởi tố, điều tra
từ 2008 đến 2014

Biểu đồ 6A. Tỷ lệ trung bình loại tội phạm
Bảng 7. Số liệu các tội phạm cụ thể
Bảng 8. Số liệu cơ cấu đối tƣợng phạm tội
Biểu đồ 8A. Tỷ lệ cơ cấu đối tƣợng phạm tội


MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU

1

CHƢƠNG 1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ THẨM QUYỀN ĐIỀU TRA
CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA THUỘC VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TỐI CAO

8

1.1 Thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra thuộc Viện khiểm sát
nhân dân tối cao

8

1.2 Vị trí thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm
sát nhân dân tối cao trong hoạt động điều tra vụ án hình sự

16

1.3 Lịch sử hình thành và phát triển quy định về thẩm quyền điều tra
của Cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao


18

1.3.1. Quy định về thẩm quyền điều tra của Viện kiểm sát trong Pháp luật
Tố tụng hình sự Việt Nam giai đoạn 1945 -1959

19

1.3.2 Quy định về thẩm quyền điều tra của Viện kiểm sát trong Pháp luật
Tố tụng hình sự Việt Nam giai đoạn từ năm 1960 đến trước khi có Bộ luật
Tố tụng hình sự năm 1988

21

1.3.3 Quy định về thẩm quyền điều tra của Viện kiểm sát trong Pháp luật
Tố tụng hình sự Vệt Nam giai đoạn từ năm 1988 đến năm 2003

23

CHƢƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ THẨM QUYỀN ĐIỀU TRA CỦA CƠ
QUAN ĐIỀU TRA THUỘC VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG

29

2.1 Quy định pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về thẩm
quyền điều tra của Cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối
cao


29


2.2 Thực tiễn thực hiện thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra
thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao

35

2.2.1 Thực trạng tiến hành các hoạt động thực hiện thẩm quyền điều tra
của Cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao

36

2.2.1.1 Thực trạng công tác tiếp nhận, phân loại và giải quyết các tố giác,
tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố

36

2.2.1.2 Thực trạng điều tra các vụ án hình sự thuộc thẩm quyền điều tra
của Cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao

38

2.2.1.3 Thực trạng các hoạt động khác

42

2.2.2 Những hạn chế, vướng mắc trong việc thực hiện thẩm quyền điều tra
của Cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao


43

2.2.3 Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc

44

CHƢƠNG 3. HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ
TỤNG HÌNH SỰ VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP
DỤNG QUY ĐỊNH VỀ THẨM QUYỀN ĐIỀU TRA CỦA CƠ QUAN
ĐIỀU TRA THUỘC VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO

49

3.1 Yêu cầu cải cách tƣ pháp về hoàn thiện thẩm quyền điều tra của
Cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao

49

3.2 Hoàn thiện pháp luật Tố tụng hình sự về thẩm quyền điều tra của
Cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao theo tinh thần
Cải cách tƣ pháp

51

3.2.1 Mở rộng thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm
sát nhân dân tối cao đối với các tội phạm về chức vụ mà người phạm tội là
cán bộ tư pháp.

52


3.2.2 Mở rộng thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm
sát nhân dân tối cao đối với các tội phạm xâm phạm quyền tự do, dân chủ
của công dân mà người phạm tội là cán bộ tư pháp.

55


3.3 Các giải pháp khác nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của pháp
luật TTHS về thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra thuộc Viện
kiểm sát nhân dân tối cao

58

3.3.1 Giải thích pháp luật theo hướng rõ ràng, cụ thể

58

3.3.2 Giải pháp củng cố, kiện toàn và đổi mới về tổ chức của Cơ quan điều
tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao

59

3.3.3 Giải pháp đổi mới về hoạt động của Cơ quan điều tra thuộc Viện
kiểm sát nhân dân tối cao

60

KẾT LUẬN

65



1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Điều tra vụ án hình là một hoạt động tố tụng vơ cùng quan trọng. Nhiệm vụ
của hoạt động điều tra là nặng nề nhất so với các hoạt động truy tố, xét xử. Thông
qua hoạt động điều tra, cơ quan điều tra sẽ tìm ra chứng cứ để xác định tội phạm và
ngƣời phạm tội, các chúng cứ khác làm cơ sở cho hoạt động truy tố, xét xử. Ngoài
ra, hoạt động điều tra cũng chính là hoạt động đấu tranh trực tiếp với tội phạm xâm
phạm các quan hệ xã hội đƣợc pháp luật bảo vệ. Vì tầm quan trọng của hoạt động
này nên Đảng và Nhà nƣớc ta luôn quan tâm đến việc nâng cao hiệu quả hoạt động
của các cơ quan điều tra. Trong số các biện pháp đó, có việc phân chia thẩm quyền
một cách khoa học cho các cơ quan điều tra để tạo sự chuyên môn hoá trong hoạt
động điều tra, nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra, tận dụng đƣợc các ƣu thế sẵn
có.
Cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao là một hệ thống cơ
quan điều tra hình sự ở nƣớc ta. Hiện nay, Pháp luật tố tụng hình sự giao thẩm
quyền điều tra một số loại tội phạm xâm phạm hoạt động tƣ pháp mà ngƣời phạm
tội là cán bộ tƣ pháp cho Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Đây là
một chức năng, nhiệm vụ phù hợp với ngành Kiểm sát nói chung, Cơ quan điều tra
Viện kiểm sát nhân dân tối cao nói riêng, trải qua q trình hình thành phát triển,
mỗi thời kỳ đều có sự thay đổi về tổ chức và thẩm quyền, hoạt động của Cơ quan
điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao vẫn luôn đƣợc củng cố và hoàn thiện hơn.
Tuy nhiên, trong thực tiễn hoạt động vẫn còn những hạn chế ảnh hƣởng đến chất
lƣợng hoạt động điều tra vụ án hình sự trong lĩnh vực tƣ pháp, ảnh hƣởng hoạt động
đấu tranh phòng chống tội phạm xâm phạm hoạt động tƣ pháp. Việc tồn tại những
hạn chế có nguyên nhân chủ yếu là các quy định của pháp luật chƣa thật sự phù
hợp, cụ thể, các văn bản hƣớng dẫn chƣa giải thích đƣợc rõ ràng kịp thời các vấn đề

phát sinh…Về lý luận vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau liên quan đến quy định
thẩm quyền của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhƣ có nên giao
thẩm quyền điều tra cho Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao nên giới
hạn thẩm quyền điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối cao để tập trung đấu tranh
tội phạm đặc thù hay mở rộng để phù hợp với lĩnh vực hoạt động cũng nhƣ tận dụng
đƣợc các lợi thế khi tiến hành điều tra, góp phần bảo vệ nền tƣ pháp… Nghị quyết
số 08-NQ/TW ngày 02 tháng 01 năm 2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ
trọng tâm của Công tác tƣ pháp trong thời gian tới chỉ rõ: “Ở ngành kiểm sát chỉ tổ
chức cơ quan điều tra tại Viện kiểm sát nhân dân tối cao để điều tra một số loại tội


2

xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư
pháp.” Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 06 năm 2005 của Bộ Chính trị về
chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020 đã nêu nhiệm vụ: “Xác định rõ chức
năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức, bộ máy các cơ quan tư pháp.”
và “nghiên cứu và chuẩn bị mọi điều kiện để tiến tới tổ chức lại các cơ quan điều
tra theo hướng thu gọn đầu mối, kết hợp chặt chẽ giữa công tác trinh sát và hoạt
động điều tra tố tụng hình sự.”
Có thể thấy rất nhiều vấn đề liên quan đến thẩm quyền điều tra của Cơ quan
điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao đặt ra đòi hởi phải giải quyết một cách đầy
đủ và toàn diện. Đặc biệt, trong thời điểm chúng ta đang trải qua giai đoạn pháp
điển hoá mạnh mẽ, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 vừa có hiệu lực thi
hành ngày 01 tháng 6 năm 2015 cũng có những thay đổi về thẩm quyền điều tra của
Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao so với luật tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân 2002 và chúng ta đang sửa đổi Bộ luật Tố tụng hình sự hứa hẹn sẽ có
những sửa đổi bổ sung mới quy định về thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra
Viện kiểm sát nhân dân tối cao . Việc nghiên cứu hoàn thiện về thẩm quyền điều tra
của Cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao là hết sức cần thiết cả về

phƣơng diện lý luận và thực tiễn, đáp ứng đƣợc các yêu cầu của Đảng về cải cách tƣ
pháp, đồng thời tiếp thu những tinh hoa của pháp luật thế giới nhằm đáp ứng tình
hình mới.
Từ những lý do trên, tác gỉa chọn đề tài: “Thẩm quyền điều tra của Cơ quan
điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong tố tụng hình sự Việt Nam” làm
đề tài nghiên cứu luật văn Thạc sỹ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong thời gian qua, hoạt động điều tra nói chung và thẩm quyền điều tra của
các Cơ quan điều tra khác nhau đã đƣợc các tác giả chọn làm đề tài nghiên cứu, tuy
nhiên thẩm quyền điều tra của Cơ quan Điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối
cao thì chƣa đƣợc nghiên cứu một cách có hệ thống, cũng nhƣ chƣa tập trung phân
tích các vấn đề liên quan đến lý luận và thực tiễn về thẩm quyền điều tra của Cơ
quan Điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao, một số cơng trình nghiên cứu
nhƣ sau:
- Về luận văn thạc sĩ có các đề tài: Một số định hướng hoàn thiện cơ quan
điều tra trong bối cảnh cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay của tác giả Nguyễn
Trọng Nghĩa (2007); Các hoạt động điều tra trong Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam


3

của tác giả Nguyễn Viết Hoạt (2002); Giai đoạn điều tra và hình thức của giai đoạn
điều tra của tác giả Đinh Thị Chiến (2002).
- Về các bài viết đăng trên các tạp chí: Trên các tạp chí chuyên ngành luật
có nhiều bài viết nghiên cứu về một hoặc một số nội dung của thẩm quyền điều tra
của Cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong tố tụng hình sự
Việt Nam: Nguyễn Đức Lực (2014), “Đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống
cơ quan điều tra đáp ứng yêu cầu cải cách tƣ pháp”, Tạp chí Nghề luật, (Số 3); Đỗ
Văn Đƣơng (2014), “Sự cần thiết và định hƣớng sửa đổi tổ chức và hoạt động điều
tra của cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân”, Tạp chí Khoa học Kiểm sát,

(Số 01/2014); Mai Đắc Biên (2014), “Tổ chức và thẩm quyền của cơ quan điều tra
Liên bang Nga”, Tạp chí Khoa học Kiểm sát, (Số 02); Lại Viết Quang (2013), “Đổi
mới tổ chức và hoạt động của cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân đáp ứng yêu
cầu cải cách tƣ pháp”, Tạp chí Kiểm sát, (Số 11); Nguyễn Mai Bộ (2013), “Kiến
nghị hồn thiện mơ hình tổ chức của cơ quan điều tra hình sự”, Tạp chí Nghiên cứu
lập pháp, (Số 24(255)); Nguyễn Duy Giảng (2013), “Một số đề xuất hoàn thiện quy
định của pháp luật tố tụng hình sự về cơ quan điều tra và những ngƣời tiến hành tố
tụng thuộc Cơ quan điều tra”, Tạp chí Kiểm sát, (Số 5); Trần Đình Nhã (2013),
“Một số vấn đề quyền tƣ pháp, hoạt động tƣ pháp, cơ quan tƣ pháp, kiểm sát hoạt
động tƣ pháp”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (Số 16(248)); Mai Văn Minh (2013),
“Sự cần thiết phải tiếp tục tổ chức cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân theo
yêu cầu cải cách tƣ pháp”, Tạp chí Kiểm sát, (Số 19); Nguyễn Thái Phúc (2013),
“Sửa đổi, bổ sung bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về việc phân định thẩm quyền
điều tra”, Tạp chí Kiểm sát, (Số 1); Lê Hồng Thanh (2012), “Địa vị pháp lý và thẩm
quyền của cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao”, Tạp chí Kiểm sát, (Số
11); Nguyễn Hải Phong (2012), “Đổi mới tổ chức và hoạt động của Cơ quan điều
tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao đáp ứng yêu cầu cải cách tƣ pháp”, Tạp chí
Kiểm sát, (Số 1); Trần Ngọc Đƣờng (2014), “Đổi mới cơ quan điều tra của Viện
kiểm sát trong tiến trình cải cách tƣ pháp ở nƣớc ta”, Tạp chí Kiểm sát, (Số 4);
Nguyễn Văn Hải (2012), “Một số kinh nghiệm điều tra các tội xâm phạm hoạt động
tƣ pháp mà ngƣời phạm tội là cán bộ thuộc các cơ quan tƣ pháp”, Tạp chí Kiểm sát,
(Số 11); Hoàng Nghĩa Mai (2012), “Quan điểm chỉ đạo và phƣơng hƣớng đổi mới
tổ chức, hoạt động của cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao đáp ứng yêu
cầu cải cách tƣ pháp” Tạp chí Kiểm sát, (Số 11); Hà Nhƣ Khuê (2012), “Tăng
cƣờng phối hợp phân loại, xử lý thông tin về xâm phạm hoạt động tƣ pháp thuộc
thẩm quyền của cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao”, Tạp chí Kiểm sát,
(Số 11); Mai Văn Lƣ (2008), “Về tổ chức bộ máy cơ quan điều tra và Viện kiểm sát


4


nhân dân trong tiến trình cải cách tƣ pháp”, Tạp chí Kiểm sát, (Số 14-16); Nguyễn
Thị Bắc (2005) , “Tổ chức cơ quan điều tra hình sự: quá trình hình thành, phát
triển”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (Số 9(59));- Phạm Văn Tỉnh (2002), “Quá
trình hình thành và phát triển của pháp luật về tổ chức và hoạt động của cơ quan
điều tra hình sự”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (Số 169). Các bài viết này chỉ
nghiên cứu một phần hoặc một số nội dung của thẩm quyền điều tra của Cơ quan
điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Những nội dung khác của thẩm
quyền điều tra của Cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao chƣa
đƣợc các tác giả quan tâm nghiên cứu.
Nhìn chung, các cơng trình trên hoặc là nghiên cứu toàn bộ hoạt động điều
tra chứ chƣa đi sâu nghiên cứu thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra thuộc Viện
kiểm sát nhân dân tối cao hoặc chỉ nghiên cứu các vấn đề riêng lẻ có liên quan đến
thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao mà
chƣa có tính hệ thống. Do đó, việc nghiên cứu thẩm quyền điều tra của Cơ quan
điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong Tố tụng hình sự Việt Nam có ý
nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích nghiên cứu, đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu nhằm mục đích:
Thứ nhất, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực trạng thực hiện thẩm
quyền điều tra của Cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong Tố
tụng hình sự Việt Nam.
Thứ hai, đề xuất các giải pháp để hoàn thiện quy định của pháp luật về thẩm
quyền điều tra của Cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong Tố
tụng hình sự Việt Nam đồng thời đƣa ra các giải pháp khác nâng cao hiệu quả thực
hiện thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối
cao.
3.2 Đối tượng nghiên cứu
- Làm rõ khái niệm, cơ sở lý luận, đặc điểm, vị trí thẩm quyền điều tra của cơ

quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong hoạt động điều tra vụ án hình sự,
lịch sử hình thành và phát triển quy định về thẩm quyền điều tra của cơ quan điều
tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao.


5

- Pháp luật hiện hành về thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra thuộc
Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong Tố tụng hình sự Việt Nam.
- Nghiên cứu các giải pháp về hoàn thiện pháp luật để hoàn thiện quy định
của pháp luật về thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân
dân tối cao trong Tố tụng hình sự Việt Nam đồng thời nghiên cứu về áp dụng pháp
luật, đƣa ra các giải pháp khác nâng cao hiệu quả thực hiện thẩm quyền điều tra của
Cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
3.3 Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Về nội dụng: Luận văn nghiên cứu thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều
tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Do khó khăn trong việc khảo sát, mặt khác với yêu cầu của một luận văn
thạc sỹ nên tác giả chỉ khảo sát việc áp dụng thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều
tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
- Về không gian: Luận văn khảo sát thực trạng áp dụng thẩm quyền điều tra
của Cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao trên phạm vi toàn quốc.
- Về thời gian: Luận văn khảo sát thực trạng áp dụng thẩm quyền điều tra của
Cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao từ năm 2008 đến năm 2014.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở phƣơng pháp luận của việc nghiên cứu đề tài là phƣơng pháp duy vật
biện chứng của Triết học Mác – Lê nin, Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, quan điểm của
Đảng và Nhà nƣớc về hoạt động điều tra và đấu tranh phịng, chống tội phạm.
Ngồi ra, để phục vụ cho việc nghiên cứu, tác giả còn sử dụng các phƣơng pháp
nghiên cứu cụ thể nhƣ:

- Phƣơng pháp phân tích, tồng hợp: Để phân tích, giải thích và đánh giá nội
dung quy định của pháp luật, những quan điểm khoa học pháp lý, thực trạng của
thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
đồng thời hệ thống hóa những vấn đề đã phân tích, đánh giá thành những tiêu chí
nghiên cứu có tính khái qt cao.
- Phƣơng pháp thống kê: Sử dụng để minh họa về số liệu cho những nhận
định, đánh giá vấn đề nghiên cứu theo từng tiêu chí nhất định.
- Phƣơng pháp lịch sử: Nhằm làm rõ những điều kiện, hoàn cảnh khách quan
của việc ban hành và sự kế thừa của những quy định pháp luật, quan điểm lập pháp


6

về thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao
trong tố tụng hình sự Việt Nam.
5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Đề tài nghiên cứu tƣơng đối toàn diện những vần đề lý luận về thẩm quyền
điều tra của Cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong tố tụng
hình sự Việt Nam. So với các quan điểm và cơng trình đã đƣợc nghiên cứu của
nhiều tác giả, đề tài góp phần làm phong phú thêm lý luận về thẩm quyền điều tra
của Cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong tố tụng hình sự
Việt Nam, phân tích, làm rõ căn cứ nào để phân chia thẩm quyền điều tra cho Cơ
quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao, qua đó khẳng định sự tồn tại khách
qua của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Đề tài đã đánh giá khách quan về thực trạng thực hiện thẩm quyền điều tra
của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Đồng thời phát hiện những
vƣớng mắc, bất cập khi áp dụng các quy định của pháp luật trong việc thực hiện
thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Qua đó
làm rõ nguyên nhân của những hạn chế bất cập.
Đề tài đƣa ra đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định về thẩm quyền điều tra

của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhằm hoàn thiện pháp luật tố
tụng hình sự trong việc quy định thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện
kiểm sát nhân dân tối cao. Đề tài cũng đƣa ra các giải pháp thực tiễn mang tính thiết
thực nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thực hiện thẩm quyền điều tra của Cơ quan
điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Luận văn có thể đƣợc dùng làm tài liệu ứng dụng trong thực tiễn hoặc làm tài
liệu nghiên cứu để phát triển thêm lý luận về thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều
tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
6. Bố cục của luận văn
Đƣợc xây dựng phù hợp với với mục đích, phạm vi nghiên cứu, ngồi phần
mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba chƣơng:
- Chƣơng 1. Nhận thức chung về thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra
thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao
- Chƣơng 2. Quy định của Pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về
thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao và
thực tiễn áp dụng


7

- Chƣơng 3. Hoàn thiện quy định của pháp luật Tố tụng hình sự và các giải
pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều
tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao.


8

CHƢƠNG 1. NHẬN THỨC CHUNG VỀ THẨM QUYỀN ĐIỀU TRA
CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA THUỘC VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TỐI CAO

1.1 Thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân
tối cao
Theo từ điển tiếng Việt thì thẩm quyền là quyền xem xét để kết luận và
định đoạt vấn đề theo pháp luật 1. Định nghĩa này là khái quát chung nhất về thẩm
quyền.
So sánh với một số thuật ngữ nƣớc ngoài tƣơng ứng, thuật ngữ thẩm quyền
đƣợc sử dụng trong tiếng Việt cũng có những điểm tƣơng đồng và khác biệt nhất
định. Từ điển Black's Law Dictionary"2 ngƣời ta dùng thuật ngữ "authority", hoặc
competence để chỉ thẩm quyền nói chung, tức là một khả năng cơ bản và tối thiểu
để cơ quan công quyền xem xét và giải quyết một việc theo pháp luật. Theo Từ điển
luật Nhật - Anh, thuật ngữ Kengen cũng đƣợc dùng để chỉ thẩm quyền, trong đó
Ken là quyền xem xét giải quyết vụ việc, Gen là sự giới hạn, có nghĩa là sự giới
hạn quyền lực đƣợc trao để xem xét, giải quyết một vụ việc nào đó theo quy định
của pháp luật.3 Những khái niệm nói trên tuy tiếp cận vấn đề thẩm quyền ở nhiều
góc độ khác nhau nhƣng nội dung cơ bản đều nhấn mạnh: thẩm quyền là khả năng
của chủ thể trong việc xem xét và giải quyết hay định đoạt công việc nào đó trên cơ
sở các chuẩn mực pháp luật đã định trƣớc. Nhƣ vậy có thể hiểu thẩm quyền là tổng
hợp các quyền mà pháp luật quy định cho cơ quan, tổ chức, cá nhân giữ chức vụ
nhất định thuộc hệ thống bộ máy Nhà nước được thực hiện những hành vi và ra
những quyết định pháp lý nhất định trong phạm vi luật định.
Thẩm quyền có mối quan hệ chặt chẽ với chức năng và nhiệm vụ của mỗi cơ
quan, chức năng của mỗi cơ quan nhà nƣớc là phƣơng diện (mặt) hoạt động chủ
yếu, riêng của cơ quan ấy nhằm thực hiện chức năng chung của bộ máy nhà nƣớc,
nhiệm vụ của cơ quan Nhà nƣớc là những công việc cơ quan Nhà nƣớc đó phải thực
hiện, thẩm quyền nhà nƣớc là phƣơng tiện để các cơ quan nhà nƣớc thực hiện chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình đã đƣợc pháp luật quy định. Hay nói cách
khác, chức năng nhiệm vụ quyết định thẩm quyền, chỉ ra giới hạn của thẩm quyền
và nội dung của thẩm quyền nhƣ thế nào.

1


Trung tâm Từ điển học (2002), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng , Hà Nội - Đà Nẵng, tr.922
Black's Law Dictionary (1999) , Nxb Offord, tr. 298
3
English- Japanese Dictionary and Hanbook (1995), Nxb Cassell, tr.288
2


9

Theo từ điển tiếng Việt, “điều tra” là “hoạt động tìm tịi, xem xét để biết rõ
sự thật”. Cịn Từ điển Luật học giải thích rằng, “Điều tra là cơng tác trong tố tụng
hình sự đƣợc tiến hành nhằm xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn
diện và đầy đủ”4. Hoạt động điều tra trong Tố tụng hình sự cũng mang bản chất nhƣ
vậy, theo đó, điều tra vụ án hình sự là hoạt động của Cơ quan điều tra và các Cơ
quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra áp dụng những
biện pháp điều tra do pháp luật TTHS quy định để xác định tội phạm và người
phạm tội làm cơ sở cho việc truy tố của Viện kiểm sát và xét xử của Toà án.
Pháp luật TTHS Việt Nam quy định chức năng điều tra vụ án hình sự thuộc
về Cơ quan điều tra và Cơ quan đƣợc giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra. Cơ quan điều tra bao gồm các Cơ quan điều tra trong Công an nhân dân,
các Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân và Cơ quan điều tra VKSNDTC, đây
là những cơ quan điều tra chuyên trách. Mặc dù không phải là Cơ quan tiến hành tố
tụng tuy nhiên Pháp luật vẫn giao cho một số Cơ quan có chức năng điều tra bao
gồm: Bộ đội biên phịng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lƣợng Cảnh sát biển, các cơ quan
khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân, đây là những cơ quan điều tra
không chuyên trách. Pháp luật quy định nhƣ vậy bởi tính chất đặc biệt trong hoạt
động của các cơ quan này là thƣờng xuyên đấu tranh, thƣờng xuyên phát hiện các vi
phạm trong lĩnh vực mình quản lý, do đó để đảm bảo tính kịp thời ngăn chặn tội
phạm thì Pháp luật quy định cho các cơ quan này đƣợc điều tra trong giới hạn “điều

tra ban đầu”. Trong giới hạn mà Pháp luật đã quy định, các cơ quan này sẽ đƣợc
thực hiện các hoạt động, ra các quyết định để nhằm đạt đƣợc mục đích tìm ra sự thật
vụ án, đồng thời ngăn chặn phòng ngừa các vi phạm trong lĩnh vực mình quản lý.
Nhƣ vậy, thẩm quyền điều tra vụ án hình sự là quyền của Cơ quan điều tra
và Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra được thực hiện
các hoạt động điều tra theo sự phân định của pháp luật tố tụng hình sự.
Thẩm quyền điều tra vụ án hình sự ở nƣớc ta không tập trung vào một cơ
quan mà phân chia thẩm quyền điều tra vụ án hình sự cho nhiều cơ quan khác nhau.
Cơ sở lý luận cho việc phân chia thẩm quyền điều tra cũng chỉ ở mức tƣơng đối, ở
mỗi quốc gia lại phân chia khác nhau, tuỳ thuộc vào tổ chức bộ máy nhà nƣớc, điều
kiện kinh tế - chính trị - xã hội, lịch sử hình thành các cơ quan… Theo PGS, Ts.
Trần Đình Nhã, có thể nói rằng, tính rành mạch, khoa học trong tổ chức CQĐT và
phân chia thẩm quyền điều tra giữa các cơ quan này trong TTHS hiện hành còn ở

4

Từ điển Luật học (1999), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.


10

mức tƣơng đối5. Việc phân chia thẩm quyền điều tra dựa vào nhiều căn cứ khác
nhau nhƣng đều nhằm tổ chức hoạt động điều tra khoa học và phân chia làm sao để
khi các cơ quan này tiến hành điều tra đƣợc thuận tiện, dễ dàng, hiệu quả. Theo
PGS, Ts. Nguyễn Thái Phúc, thẩm quyền điều tra các vụ án hình sự đƣợc phân định
theo những tiêu chí sau đây6 : Phân chia Thẩm quyền điều tra theo tính chất của Cơ
quan điều tra (phân thành CQĐT chuyên trách và không chuyên trách); Phân chia
thẩm quyền điều tra theo lãnh thổ; Phân chia thẩm quyền điều tra theo chủ thể; Phân
chia thẩm quyền điều tra theo loại tội. Trong số các tiêu chí vừa nêu thì tiêu chí
phân chia thẩm quyền theo loại tội ảnh hƣởng sâu sắc nhất đến sự phân chia thẩm

quyền điều tra ở nƣớc hiện nay. Quy định về thẩm quyền điều tra theo loại tội căn
cứ vào chức năng, nhiệm vụ của cơ quan Nhà nƣớc mà Cơ quan điều tra là bộ phận
cấu thành của cơ quan nhà nƣớc đó, căn cứ vào tổ chức hành chính của bộ máy nhà
nƣớc và các yếu tố khác nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất trong việc tiến hành diều
tra các vụ án hình sự, thực hiện hiệu quả nhiệm vụ của hoạt động tố tụng, bảo đảm
quyền con ngƣời của ngƣời tham gia tố tụng. Thẩm quyền điều tra theo loại tội
đƣợc xác định theo loại tội phạm, theo đặc điểm về khách thể xâm phạm và theo
tính chất nguy hiểm của tội phạm sẽ “phân định thẩm quyền điều tra vụ án hình sự
giữa các Cơ quan điều tra khác nhau thuộc các hệ thống cơ quan khác nhau hoặc
giữa các cấp khác nhau của cơ quan điều tra trong cùng một hệ thống”7. Tiêu chí
này có sự xuất phát, dẫn chiếu từ việc phân chia thẩm quyền xét xử theo việc8 của
toà án, nghĩa là kết quả của hoạt động điều tra là nhằm làm cơ sở cho việc xét xử
của toà án, do đó phân chia thẩm quyền điều tra phải có sự phù hợp với thẩm quyền
xét xử của toà án, đây là sự tƣơng thích của thẩm quyền điều tra với thẩm quyền xét
xử của toà án xuất hiện trong Tố tụng hình sự nƣớc ta. Căn cứ phân chia thẩm
quyền điều tra theo loại tội đƣợc xem là cơ sở để phân chia thẩm quyền điều tra cho
các ngành Qn đội, ngành Kiểm sát, ngành Cơng an. Có sự phân chia thẩm quyền
điều tra theo loại tội, theo lĩnh vực hoạt động của từng ngành nhƣ vậy là bởi:
Hoạt động điều tra hình sự là một hoạt động mang tính chất nghiệp vụ cao,
địi hỏi sự chun sâu và phạm vi rộng, chuyên sâu bởi đòi hỏi phải hiểu rõ đối
tƣợng, lĩnh vực điều tra thì mới tìm ra sự thật khách bởi sự thật khách quan này
thƣờng bị che giấu bằng các thủ đoạn tinh vi hoặc bị mất dần đi do các điều kiện về
5

Trần Đình Nhã (2012) , “Về chế định điều tra tội phạm trong Bộ luật Tố tụng hình sự”, Tạp chí Kiểm sát
(số 21tháng 11), tr.8.
6
Nguyễn Thái Phúc (2013), “Sửa đổi, bổ sung bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về việc phân định thẩm
quyền điều tra”, Tạp chí Kiểm sát (số 01), tr.38-39.
7

Nguyễn Thái Phúc (2013), “Sửa đổi, bổ sung bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về việc phân định thẩm
quyền điều tra”, Tạp chí Kiểm sát (số 01), tr.38-39.
8
Dựa vào tính nghiêm trọng, phức tạp của loại tội phạm mà phân chia thẩm quyền xét xử theo việc.


11

vật lý, hố học, điều kiện về mơi trƣờng…ngồi ra phải tìm ra cả nguyên nhân và
điều kiện phạm tội, phạm vi của hoạt động điều tra rộng bởi tội phạm có thể diễn ra
ở bất kì lĩnh vực nào của đời sống kinh tế - chính trị - văn hố xã hội, có thể diễn ra
ở bất cứ tỉnh thành nào trong cả nƣớc. Nếu chỉ giao hoạt động điều tra cho một cơ
quan thì muốn hoạt động điều tra có hiệu quả địi hỏi Cơ quan đó phải nắm đƣợc
tình hình của tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, phải am hiểu chuyên sâu tất cả
các lĩnh vực này, nghĩa là phải tổ chức hệ thống gần nhƣ tƣơng ứng với các lĩnh vực
hoạt động của hệ thống cơ quan Nhà nƣớc để nắm bắt thông tin điều tra, đồng thời
phải đào tạo cán bộ cũng nhƣ cơ sở vật chất đi kèm để có thể phát hiện tội phạm
trong từng lĩnh vực, nếu nhƣ vậy thì quy mơ là cực kỳ lớn, cồng kềnh và tốn kém.
Do đó để hoạt động điều tra các vụ án hình sự đƣợc hiệu quả và tối ƣu, Nhà nƣớc ta
không tập trung thẩm quyền điều tra vào một cơ quan mà phân chia một cách khoa
học hợp lý đó là tổ chức hệ thống cơ quan điều tra và phân chia thẩm quyền điều tra
theo loại tội. Bởi chúng ta có sẵn những cơ quan hoạt động trong lĩnh vực chuyên
môn, trong hoạt động hàng ngày vẫn có khả năng phát hiện tội phạm. Đây chính sự
phân chia thẩm quyền điều tra theo loại tội, nghĩa là “căn cứ vào chức năng, nhiệm
vụ của các cơ quan nhà nƣớc mà Cơ quan điều tra là bộ phận cấu thành của cơ quan
nhà nƣớc đó, căn cứ vào tổ chức hành chính của bộ máy nhà nƣớc và các yếu tố
khác nhằm tạo những điều kiện thuận lợi nhất trong việc tiến hành điều tra các vụ
án hình sự, thực hiện hiệu quả nhiệm vụ của hoạt động tố tụng”9. Chính lĩnh vực
hoạt động riêng tạo nên các ƣu thế hơn khi tiến hành điều tra so với việc để các
ngành khác điều tra, các ƣu thế này gồm: Trình độ chun mơn, nghiệp vụ, điều

kiện con ngƣời, kinh nghiệm, kiến thức, sự am hiểu, điều kiện về cơ sở vật chất,
máy móc, phƣơng tiện kĩ thuật, hệ thống tổ chức nghiệp vụ, hệ thống cơ quan giúp
việc. Việc tận dụng ƣu thế này vừa đạt hiệu quả trong hoạt động điều tra, lại vừa
tránh đƣợc lãng phí khơng cần thiết. Vì thế căn cứ vào lĩnh vực hoạt động riêng biệt
đặc thù mà Nhà nƣớc đã phân chia thẩm quyền điều tra cho các ngành tƣơng ứng.
Điều 110 BLTTHS 2003 quy định: Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân điều
tra các tội phạm thuộc lĩnh vực quốc phòng; Cơ quan điều tra VKSNDTC điều tra
các tội phạm xâm phạm hoạt động tƣ pháp; Cơ quan điều tra của Bộ Công an điều
tra tất cả các loại tội phạm còn lại.
Quân đội nhân dân là lực lƣợng vũ trang có nhiệm vụ bảo vệ sự thống nhất
và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, xây dựng lực lƣợng vũ trang chính quy, tinh
nhuệ. Do đặc thù của nhiệm vụ trên mà Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân
9

Nguyễn Thái Phúc (2013), “Sửa đổi, bổ sung bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về việc phân định thẩm
quyền điều tra”, Tạp chí Kiểm sát (số 01), tr.38.


12

có thẩm quyền điều tra những tội phạm thuộc lĩnh vực quốc phòng mà bị can là
quân nhân tại ngũ, cơng chức, cơng nhân quốc phịng, qn nhân dự bị trong thời
gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu, phục vụ
chiến đấu và những ngƣời đƣợc trƣng tập làm nhiệm vụ quân sự do các đơn vị quân
đội trực tiếp quản lý; hoặc bị can không là những đối tƣợng nêu trên nhƣng phạm
tội có liên quan đến bí mật qn sự hoặc gây thiệt hại cho Qn đội.
Cịn lực lƣợng Cơng an nhân dân là lực đơng đảo có chức năng quản lý Nhà
nƣớc về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; trực tiếp đấu tranh phòng, chống
tội phạm và các vi phạm pháp luật khác về an ninh quốc gia, trật tự an tồn xã hội.
Từ đó pháp luật quy định cho Cơ quan điều tra trong Công an nhân dân có thẩm

quyền rộng nhất, điều tra tất cả các tội phạm cịn lại khơng thuộc thẩm quyền điều
tra của Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân và Cơ quan điều tra trong
VKSND.
Hiện nay, có nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề giao thẩm quyền điều tra cho
Viện kiểm sát, cụ thể là Cơ quan điều tra VKSNDTC. Có nhiều quan điểm đồng ý
giao thẩm quyền điều tra các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp nhƣ Ts. Đỗ Văn
Đƣơng10, tác giả Mai Văn Minh11, Lê Hồng Thanh12. Đa số các tác giả này đều
khẳng định việc giao thẩm quyền điều tra cho Cơ quan điều tra VKSNDTC là phù
hợp với lý luận và đáp ứng yêu cầu thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm xâm
phạm hoạt động tƣ pháp. Các tác giả này cho rằng: Quyền điều tra của Viện kiểm
sát xuất phát từ chức năng công tố mà Nhà nƣớc đã giao cho Viện kiểm sát, và Viện
kiểm sát có lĩnh vực hoạt động riêng đó là kiểm sát hoạt động tƣ pháp vì thế giao
thẩm quyền điều tra trong lĩnh vực tƣ pháp là phù hợp. Pháp luật nƣớc ta quy định
chức năng nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công
tố và kiểm sát hoạt động tƣ pháp. Kiểm sát tƣ pháp là hoạt động kiểm sát tính hợp
pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức cá nhân trong hoạt động tƣ
pháp. Hoạt động này là hoạt động trực tiếp phát hiện ra các vi phạm trong lĩnh vực
tƣ pháp, hoạt động này là hoạt động mang tính chun mơn, chun trách, thƣờng
xuyên, liên tục, diễn ra hàng ngày của Viện kiểm sát. Hay nói cách khác, kiểm sát
hoạt động tƣ pháp là hoạt động đặc thù của Viện kiểm sát nhân dân trong lĩnh vực
TTHS. Thông qua hoạt động kiểm sát tƣ pháp, Viện kiểm sát là chủ thể phát hiện vi
10

Đỗ Văn Đƣơng (2014), “Sự cần thiết và định hƣớng sửa đổi tổ chức và hoạt động điều tra của cơ quan điều
tra của Viện kiểm sát nhân dân” , Tạp chí Khoa học Kiểm sát, (số 01), tr.44.
11
Mai Văn Minh (2013), “Sự cần thiết phải tiếp tục tổ chức cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân theo
yêu cầu cải cách tƣ pháp”, Tạp chí Kiểm sát, (số 19), tr.16.
12
Lê Hồng Thanh (2012), “Địa vị pháp lý và thẩm quyền của cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối

cao”, Tạp chí Kiểm sát, (số 11), tr.17.


13

phạm pháp luật trong đó có cả tội phạm trong hoạt động tƣ pháp. Vì vậy, khi Viện
kiểm sát nhân dân điều tra trong lĩnh vực hoạt động của mình sẽ có các ƣu thế sau :
Ƣu thế về con ngƣời khi cán bộ kiểm sát có trình độ chun môn riêng của
ngành, đƣợc đào tạo nghiệp vụ kiểm sát bài bản, có kinh nghiệm, kiến thức, sự am
hiểu về pháp luật để phát hiện ra các vi phạm tƣ pháp mà ngành khác khơng có.
Hoạt động tƣ pháp là một hoạt động rất rộng, chủ yếu vi phạm tập trung ở quá trình
tố tụng bởi đây là một hoạt động rất phức tạp, mặc dù quy định chặt chẽ nhƣng tính
tuỳ nghi vẫn cịn, hoạt động này lại kéo dài, trải quan nhiều giai đoạn, nhiều cơ
quan tiến hành, thực hiện nhiều quyết định tố tụng nên dễ bị lợi dụng để xảy ra các
vi phạm. Ví dụ nhƣ việc quyết định có tạm giam hay khơng? nếu khơng là cán bộ tƣ
pháp thì rất khó để hiểu các hoạt động tố tụng chứ chƣa nói đến việc phát hiện vi
phạm. Mặt khác có nhiều vụ án phức tạp, để nhận thức, đánh giá vụ án là rất khó,
nên nếu không đủ năng lực để nhận thức vụ án sẽ dẫn đến bỏ lọt tội phạm, làm oan
ngƣời vô tội, không biết đƣợc vi phạm nằm ở khâu nào, giai đoạn nào, hoạt động
nào là bất thƣờng…
Ƣu thế về cơ sở vật chất khi Viện kiểm sát có đầy đủ cơ sở vật chất để thực
hiện nhiệm vụ phát hiện vi phạm trong hoạt động tƣ pháp, có phƣơng tiện, máy
móc, có hệ thống thống kê, hồ sơ kiểm sát để nắm nội dung từng vụ việc cụ thể mà
các cơ quan tƣ pháp khác đang tiến hành tố tụng, hệ thống tổ chức của Viện kiểm
sát nhân dân cũng rất rộng, tƣơng ứng với hệ thống Toà án, CQĐT, thi hành án. Do
đó giao thẩm quyền điều tra các tội xâm phạm hoạt động cho Viện kiểm sát là hợp
lý tối ƣu nhất so với các cơ quan khác, đảm bảo số lƣợng, chất lƣợng, không bỏ lọt
tội phạm, nhanh chóng, kip thời và khách quan hơn so với việc giao cho các cơ
quan tƣ pháp khác. Ngoài ra, số lƣợng đối tƣợng phạm tội trong lĩnh vực tƣ pháp
phần lớn là Cơ quan điều tra trong lực lƣợng cơng an, những ngày khác nhƣ Thi

hành án, Tồ án, Viện kiểm sát chiếm rất ít. Vì vậy nếu để Cơ quan điều tra trong
lực lƣợng Công an điều tra các tội phạm xâm phạm hoạt động tƣ pháp sẽ ảnh hƣởng
đến tính khách quan trong q trình điều tra, do đó khi giao thẩm quyền điều tra các
hành vi xâm phạm tƣ pháp cho một cơ quan có thẩm quyền kiểm sát hoạt động tƣ
pháp sẽ đảm bảo tính độc lập, khách quan hơn. Từ những phân tích nêu trên có thể
thấy việc phân định thẩm quyền điều tra các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp mà
ngƣời phạm tội là cán bộ của các cơ quan tƣ pháp cho Cơ quan điều tra thuộc Viện
kiểm sát nhân dân tối cao là phù hợp, sự tồn tại của Cơ quan điều tra thuộc Viện
kiểm sát nhân dân tối cao là khách quan, mang lại hiệu quả cho hoạt động đấu tranh
tội phạm nói chung và tội phạm tƣ pháp nói riêng, phục vụ cho hoạt động bảo vệ
pháp luật, đảm bảo cho việc xây dựng pháp chế Xã hội chủ nghĩa.


14

Một số nhà nghiên cứu không đồng ý với việc giao thẩm quyền điều tra cho
Viện kiểm sát nhƣ tác giả Nguyễn Đức Lực13, Nguyễn Mai Bộ14. Các tác giả này
cho rằng, không tổ chức cơ quan điều tra ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao là bởi vì:
Điều tra án hình sự khơng phải là chức năng của Viện kiểm sát. Chức năng của
Viện kiểm sát là thực hành công tố và kiểm sát hoạt động tƣ pháp. Mặt khác, Viện
kiểm sát vừa điều tra vừa kiểm sát điều tra là đang “vừa đá bóng, vừa thổi cịi”15
Quan điểm cá nhân ủng hộ việc giao thẩm quyền điều tra các tội phạm xâm
phạm hoạt động tƣ pháp cho Cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
bởi:
Thứ nhất, quyền Công tố Nhà nƣớc mà Viện kiểm sát đang đƣợc giao về bản
chất là quyền của Nhà nƣớc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với ngƣời phạm tội.
Điều tra tội phạm để tìm ra chứng cứ buộc tội phục vụ truy tố, nhƣ vậy có thể thấy
cả hai hoạt động công tố và hoạt động điều tra đều có chung nhiệm vụ làm sáng tỏ
sự thật vụ án, cùng thực hiện chức năng buộc tội ngay từ thời điểm bắt giữ ngƣời
phạm tội, khởi tố bị can và trong suốt quá trình điều tra mà không phải chờ đến xét

xử sơ thẩm, hoạt động điều tra lại phục vụ cho hoạt động truy tố, tác giả Đỗ Văn
Đƣơng nhận xét16: “Trong TTHS việc phân công trách nhiệm điều tra hay công tố
chỉ là tƣơng đối” vì thế “hoạt động điều tra bao giờ cũng là bộ phận hợp thành của
hoạt động công tố”. Cụ thể hơn, trong qua trình tố tụng hình sự, Cơ quan cơng tố có
thể gián tiếp điều tra thơng qua hoạt động của Cơ quan điều tra, hoặc các hoạt động
nhƣ chỉ đạo điều tra, đề ra yêu cầu điều tra, phúc cung…hoặc Cơ quan công tố sẽ
trực tiếp điều tra để gắn trách nhiệm của cơ quan thực hành công tố, kiểm sát việc
tuân theo pháp luật với việc đấu tranh chống bỏ lọt tội phạm. Do đó, tác giả cho
rằng, bản chất hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân bao gồm cả hoạt động điều tra,
cũng bởi vậy mà ngay từ khi Viện kiểm sát đƣợc thành lập năm 1960 đến nay, cơng
tác điều tra hình sự ln đƣợc xác định là một công tác quan trọng để thực hiện
chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật.
Thứ hai, Viện kiểm sát trong việc thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình có
quyền điều tra, nhƣng phạm vi thẩm quyền điều tra nhƣ thế nào lại phải có sự phân
13

Nguyễn Đức Lực (2014), “Đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan điều tra đáp ứng yêu cầu
cải cách tƣ pháp”, Tạp chí Nghề luật, (số 3 tháng 5), tr.7.
14
Nguyễn Mai Bộ (2008), “Cần hoàn thiện tổ chức cơ quan điều tra hình sự trong quân đội và ngành kiểm
sát theo tinh thần cải cách tƣ pháp”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (số 5), tr.59.
15
Nguyễn Mai Bộ (2013), “Kiến nghị hồn thiện mơ hình tổ chức của cơ quan điều tra hình sự”, Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp, (số 24(256)), tr.14.
16
Đỗ Văn Đƣơng (2014), “Sự cần thiết và định hƣớng sửa đổi tổ chức và hoạt động điều tra của cơ quan điều
tra của Viện kiểm sát nhân dân” , Tạp chí Khoa học Kiểm sát, (số 01), tr.46.


15


chia thẩm quyền cho phù hợp để điều tra tội phạm gì thì hiệu quả hơn. Nhƣ đã phân
tích ở trên, do lĩnh vực hoạt động là kiểm sát hoạt động tƣ pháp nên giao thẩm
quyền điều tra các tội phạm xâm phạm hoạt động tƣ pháp cho Viện kiểm sát là phù
hợp.
Thứ ba, những tồn tại hạn chế nhƣ Viện kiểm sát vừa điều tra vừa kiểm sát
điều tra là đang “vừa đá bóng, vừa thổi cịi”, hay tổ chức Cơ quan điều tra
VKSNDTC thì khơng thể “Kết hợp chặt chẽ trinh sát với hoạt động của Cơ quan
điều tra” khiến cho hoạt động điều tra khó phát huy đƣợc hiệu quả. Tác giả cho
rằng, đây là những tồn tại, hạn chế phát sinh mà khi giao thẩm quyền cho bất cứ cơ
quan nào cũng đều có thể mắc phải, tuy nhiên, những tồn tại này không phải là vấn
đề chính và có thể khắc phục bằng các biện pháp nhƣ tăng cƣờng chế ƣớc đối với
hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra VKSNDTC (chế ƣớc trong nội bộ ngành,
báo cáo hoạt động cho cơ quan dân cử...) và các biện pháp khác nhƣ tổ chức các lực
lƣợng hỗ trợ đề tăng cƣờng hiệu quả hoạt động, phù hợp với yêu cầu cải cách tƣ
pháp (trinh sát, kỹ thuật hình sự, cảnh sát hỗ trợ tƣ pháp…).
Từ những phân tích trên có thể đƣa ra khái niệm thẩm quyền điều tra của Cơ
quan điều tra VKSNDTC nhƣ sau: Thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra
VKSNDTC là phạm vi tiến hành các hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra
VKSNDTC đối với những vụ án hình sự xảy ra trong lĩnh vực hoạt động tư pháp mà
người phạm tội là cán bộ của các cơ quan tư pháp thuộc thẩm quyền xét xử của Toà
án nhân dân.
Từ khái niệm và những phân tích nêu trên, có thể làm rõ đặc điểm thẩm
quyền điều tra VKSNDTC nhƣ sau:
Thứ nhất: Cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thẩm
quyền điều tra chuyên trách đối với một số loại tội phạm xâm phạm hoạt động tƣ
pháp. Đây là các tội phạm về mặt khách thể là các quan hệ xã hội phát sinh trong
quá trình tố tụng hình sự, dân sự, kinh tế…trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét
xử, thi hành án; có đối tƣợng tác động là hoạt động bình thƣờng của các cơ quan tƣ
pháp, uy tín, chất lƣợng, hiệu quả việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các cơ

quan tƣ pháp. Để đảm bảo đấu tranh tội phạm tƣ pháp đƣợc hiệu quả, tồn diện thì
Cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao không chỉ điều tra các tội
quy định trong Chƣơng XXII BLHS 1999 mà còn điều tra cả các hành vi phạm tội
tại các chƣơng khác khi các hành vi này xâm phạm đến khách thể trực tiếp là hoạt
động đúng đắn của Cơ quan tƣ pháp. Thực tế cho thấy các hành vi này có thể là
hành vi tham ơ, nhận hối lộ để làm sai lệch hồ sơ vụ án hoặc không truy cứu trách


16

nhiệm hình sự ngƣời có tội…tuy rằng các hành vi tham ơ, nhận hối lộ này thuộc
nhóm các tội phạm về chức vụ nhƣng khách thể xâm phạm trực tiếp lại là trật tự tƣ
pháp.
Thứ hai: Chủ thể của tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của VKSND TC
phải là cán bộ trong hoạt động tƣ pháp. Theo quy định của BLHS về các tội xâm
phạm hoạt động tƣ pháp, cán bộ tƣ pháp đƣợc hiểu là ngƣời thực hiện nhiệm vụ
công tác trong hoạt động tƣ pháp nhƣ Điều tra viên, Thủ trƣởng Cơ quan điều tra,
Kiểm sát viên, Viện trƣởng VKSNS, Thẩm phán, Hội thẩm, Thƣ ký phiên tòa, Chấp
hành viên, cán bộ quản giáo trong trại giam… và cán bộ khơng có chức danh pháp
lý nhƣng là cán bộ thuộc cơ quan tƣ pháp và cũng đƣợc giao nhiệm vụ hoạt động tƣ
pháp độc lập. Ví dụ cán bộ, chiến sĩ trinh sát trong quá trình thực hiện nhiệm vụ
cũng có thể là chủ thể của tội phạm dùng nhục hình. Ngồi ra cịn có các chủ thể
khác trong trƣờng hợp có đồng phạm.
Thứ ba: Các trƣờng hợp phạm tội nêu trên nếu thuộc thẩm quyền xét xử của
Tồ án nhân dân thì thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra thuộc Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, nếu thuộc thẩm quyền điều tra của Tồ án qn sự thì
thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát Quân sự Trung ƣơng.
Thứ tư : Thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra VKSNDTC không bị giới
hạn bởi địa giới hành chính nhƣ các Cơ quan điều tra khác ở lực lƣợng Công an và
Quân đội. Cơ quan điều tra VKSNDTC đƣợc tổ chức tập trung tại Viện kiểm sát

nhân dân tối cao, chỉ tổ chức một đơn vị tập trung duy nhất tại Trung Ƣơng và sẽ
tiến hành hoạt động điều tra vụ án hình sự trên địa bàn cả nƣớc chứ không tổ chức
phân cấp theo đơn vị hành chính nhƣ các Cơ quan điều tra trong lực lƣợng Công an
nhân dân, hay theo phạm vi quân khu nhƣ Cơ quan điều tra trong lực lƣợng Quân
đội nhân dân. Đây là kết quả của việc thu gọn đấu mối cơ quan điều tra, chỉ tổ chức
Cơ quan điều tra Viện kiểm sát tại Viện kiểm sát nhân dân tối cao chứ không tổ
chức Cơ quan điều tra tại các địa bàn tỉnh thành để tối ƣu hoạt động, tránh thất
thốt, lãng phí.
1.2 Vị trí thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát
nhân dân tối cao trong hoạt động điều tra vụ án hình sự
Có thể thấy rằng, hệ thống tổ chức Cơ quan điều tra ở nƣớc ta tƣơng đối
khoa học, Cơ quan điều tra ở nƣớc ta bao gồm Cơ quan điều tra trong Công an nhân
dân, Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân và Cơ quan điều tra thuộc Viện
kiểm sát nhân dân tối cao. Mỗi hệ thống cơ quan điều tra lại có thẩm quyền điều tra


17

riêng biệt, đặc thù, sự phân nhánh trong thẩm quyền điều tra của mỗi cơ quan là
tƣơng đối rõ ràng.
Theo đó, Cơ quan điều tra trong lực lƣợng Cơng an nhân dân điều tra tất cả
các loại tội phạm trừ những tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của hai Cơ quan
điều tra còn lại. Nghĩa là Cơ quan điều tra trong Cơng an nhân dân sẽ chịu trách
nhiệm chính điều tra tội phạm ở nƣớc ta, chỉ trừ một số loại tội phạm đặc thù sẽ do
Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân và Cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát
nhân dân tối cao tiến hành điều tra.
Do có nhiệm vụ “bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ”17
nên để thực hiện nhiệm vụ này, đồng thời đấu tranh với tội phạm, Thẩm quyền điều
tra của Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân là: Có thẩm quyền điều tra đối với
các chủ thể là :18 “Quân nhân tại ngũ, công chức, cơng nhân quốc phịng, qn nhân

dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến
đấu; dân quân, tự vệ phối thuộc với Quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu và
những ngƣời đƣợc trƣng tập làm nhiệm vụ quân sự do các đơn vị quân đội trực tiếp
quản lý” hoặc “những ngƣời không thuộc các đối tƣợng vừa nêu nhƣng phạm tội có
liên quan đến bí mật qn sự hoặc gây thiệt hại cho Quân đội”. Đây đều là những
chủ thể đặc biệt, có chức năng nhiệm vụ hoặc tham gia vào các hoạt động của quân
đội, hoặc họ có thể nắm đƣợc những bí mật về qn sự. Vì thế, để đảm bảo an ninh
quốc phịng, bí mật qn đội, cũng nhƣ bảo vệ lực lƣợng, đấu tranh với tội phạm, vi
phạm xảy ra trong lĩnh vực quân sự, thẩm quyền điều tra tội phạm do các chủ thể
vừa nêu thực hiện thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra trong Quân đội
nhân dân. Cơ quan điều tra trong quân đội nhân dân bao gồm Cơ quan an ninh điều
tra và Cơ quan điều tra hình sự. Phạm vi thẩm quyền điều tra của hai cơ quan này là
khác nhau. Cơ quan điều tra hình sự điều tra các vụ án hình sự về các tội phạm quy
định tại các Chƣơng từ XII đến Chƣơng XXIV BLHS 1999, trừ các tội phạm thuộc
thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát Quân sự Trung Ƣơng; Cơ
quan An ninh điều tra điều tra các vụ án hình sự về các tội phạm quy định tại hai
chƣơng là Chƣơng XI và Chƣơng XXIV BLHS 1999.
Đối với Cơ quan điều tra VKSNDTC, do ngành Kiểm sát nhân dân có lĩnh
vực hoạt động chính là thực hành quyền cơng tố và kiểm sát hoạt động tƣ pháp với
nhiệm vụ là “ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con ngƣời, quyền cơng dân, bảo vệ
17

Quốc Hội nƣớc Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Điều 65.
18
Uỷ ban thƣờng vụ Quốc Hội (2002), Pháp lệnh tổ chức Toà án quân sự ngày 04/11/2002, Điều 3.


18


chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật đƣợc chấp hành nghiêm chỉnh và
thống nhất”19. Dấu hiệu để xác lập thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra
VKSNDTC là dấu hiệu về chủ thể và loại tội. Về dấu hiệu chủ thể bắt bƣợc phải là
cán bộ tƣ pháp, ngồi ra cịn các chủ thể khác trong trƣờng hợp có đồng phạm. Về
loại tội, Cơ quan điều tra VKSNDTC điều tra các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp,
tuy nhiên, để hoạt động đấu tranh đƣợc toàn diện, đảm bảo hoạt động điều tra đƣợc
khách quan thì thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra VKSNDTC không chỉ giới
hạn các tội trong Chƣơng XXII BLHS 1999, mà còn các tội phạm khác, cụ thể nhƣ
sau: Các tội xâm phạm hoạt động tƣ pháp quy định tại Chƣơng XXII của Bộ luật
hình sự mà ngƣời phạm tội là cán bộ của các cơ quan tƣ pháp khi các tội phạm đó
thuộc thẩm quyền xét xử của Tồ án nhân dân; Các tội phạm có nguồn gốc phát
sinh từ việc thực thi nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ các cơ quan tƣ pháp hoặc liên
quan đến việc thực thi nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ các cơ quan tƣ pháp trong
quá trình tiến hành tố tụng; Hành vi phạm tội hoặc ngƣời thực hiện hành vi phạm
tội có liên quan đến vụ án thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra thuộc
Viện kiểm sát nhân dân tối cao đang khởi tố, điều tra.
Ngoài ra, phạm vi thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát
quân sự Trung ƣơng là tiến hành điều tra đối với các tội phạm xâm phạm hoạt động
tƣ pháp khi chủ thể thực hiện tội phạm là cán bộ tƣ pháp trong Quân đội. Đặc điểm
này có sự giao thoa về đặc điểm chủ thể xác lập thẩm quyền của Cơ quan điều tra
trong quân đội và Cơ quan điều tra VKSNDTC. Phạm vi loại tội của Cơ quan này là
điều tra các tội phạm xâm phạm hoạt động tƣ pháp. Sự giao thoa này xuất phát từ
đặc thù về tổ chức của Cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự Trung Ƣơng vừa
chịu sự quản lý của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, vừa chịu sự quản lý của Bộ
Quốc phịng.
1.3 Lịch sử hình thành và phát triển quy định về thẩm quyền điều tra
của Cơ quan điều tra thuộc Viện kiểm sát nhân dân tối cao
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hoà
đƣợc thành lập, Bộ máy Nhà nƣớc sau đó cũng nhanh chóng hình thành, trong đó

Cơng tố viện là tiền thân của Viện kiểm sát nhân dân ngày nay cũng đƣợc thành lập,
hoạt động điều tra của Công tố Viện đã xuất hiện ngay từ thời kỳ đầu này. Sau khi
hiến pháp 1959 đƣợc thông qua, Viện Kiểm sát nhân dân đƣợc hình thành, trải qua
19

Quốc Hội nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Khoản 3 Điều 107.


×