Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Mô hình tổ chức định mức tín nhiệm điển hình của một số quốc gia và bài học kinh nghiệm rút ra cho việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.64 KB, 34 trang )

Học Viện Ngân Hàng
Chương 1
Những vấn đề cơ bản về định mức tín nhiệm và tổ
chức định mức tín nhiệm.
1.1 Định mức tín nhiệm (ĐMTN)
1.1.1 Khái niệm định mức tín nhiệm(ĐMTN).
Định mức là việc đánh giá đối tượng theo một tiêu chuẩn nào đó như định mức
theo tiêu chuẩn về khả năng, giá trị, … Chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp việc
định mức trong các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội.
Định mức tín nhiệm hay "Credit Rating" là một khái niệm lần đầu tiên được đưa
ra vào năm 1909 trong một cuốn sách mang tên "Cẩm nang chứng khoán đường
sắt" của tác giả John Moody. Qua những tìm tòi nghiên cứu, phân tích và sáng
tạo, ông là người đầu tiên công bố bảng ĐMTN cho trái phiếu trên thế giới. Với
cách thức đơn giản, thông qua sự kết hợp một cách có hệ thống giữa 3 chữ cái
chính A ,B ,C và cách sắp xếp theo thứ tự từ Aaa đến C, ông đã đưa ra một cách
thức để định mức tín nhiệm cho trái phiếu của 250 công ty của Mỹ lúc bấy giờ.
Tuy nhiên vào lúc đó thì việc định mức tín nhiệm được rất ít người quan tâm chú
ý vì chưa thể ý thức được tầm quan trọng của công việc định mức tín nhiệm. Lúc
bấy giờ ĐMTN là một việc làm tự phát, còn mang tính chất cá nhân, là một việc
làm theo cảm hứng. Nhưng sau cuộc khủng hoảng kinh tế vào năm 1929-1933 đã
khiến nhiều tổ chức phát hành lâm vào tình trạng phá sản, sự kiện này đã thúc
đẩy hoạt động định mức tín nhiệm phát triển bởi sau đó, do ý thức về mức độ
nguy hiểm cho nền kinh tế từ việc phát hành bừa bãi chứng khoán của các nhà
phát hành chính phủ Mỹ đã đưa ra rất nhiều những quy định chặt chẽ cho việc
phát hành và đầu tư chứng khoán, trong đó có liên quan chặt chẽ đến việc định
mức tín nhiệm.
Vậy định mức tín nhiệm là gì? Tại sao lại có vai trò quan trọng như vậy?
Trải qua một quá trình nghiên cứu lâu dài, đã có rất nhiều nhà kinh tế đưa ra
những khái niệm khác nhau về ĐMTN. Tuy có sự khác nhau do việc đưa ra khái
niệm xuất phát từ nhiều góc độ cũng như quy mô ĐMTN nhưng đa phần những
khái niệm này đều thể hiện được bản chất và nội dung cơ bản của ĐMTN.


Theo cách định nghĩa của Merrill Lynch thì ĐMTN là việc định giá hiện thời của
tổ chức ĐMTN về chất lượng tín dụng của một nhà phát hành chứng khoán đối
với một khoản nợ nhất định, có thể xem nó như là việc đánh giá hiện thời của tổ
Trần Thị Kim Ngân Lớp CKA-K7
1
Học Viện Ngân Hàng
chức ĐMTN về khả năng trả nợ trong tương lai của tổ chức phát hành chứng
khoán. Bên cạnh đó Moody's (một tổ chức ĐMTN lớn và lâu đời của Mỹ) lại cho
rằng ĐMTN là việc đánh giá về khả năng và sự sẵn sàng của nhà phát hành trong
việc thanh toán đúng hạn một khoản nợ nhất định trong khoảng thời gian tồn tại
của nó.
Từ các nhận định trên ta có thể đưa ra một định nghĩa về ĐMTN:
"ĐMTN là sự đánh giá hiện thời của tổ chức ĐMTN về khả năng một tổ chức
phát hành thực hiện thanh toán đúng hạn một nghĩa vụ tài chính nào đó".
Tổ chức ĐMTN (CRA) là tổ chức cung cấp quan điểm của họ về độ tín thác của
một doanh nghiệp trong nghĩa vụ thanh toán tài chính. Các nghĩa vụ tài chính
bao gồm trái phiếu, thương phiếu, cổ phiếu ưu đãi hay chứng chỉ tiền gửi ngân
hàng … Các loại chứng khoán và công cụ cho vay đóng vai trò là những hình
thức huy động vố trên thị trường vốn. Việc ĐMTN là việc đưa ra những ý kiến
đánh giá về khả năng rủi ro tín dụng gắn liền với các loại đầu tư khác nhau. Rủi
ro ở đây là rủi ro vỡ nợ của người phát hành chứng khoán hoặc công cụ huy
động vốn đó do việc đầu tư thất bại gây ra. Không trả được nợ của khoản đầu tư
chủ yếu là do tình trạng phá sản hoặc thiếu khả năng thanh toán đầy đủ nghĩa vụ
vốn gốc và lãi theo nghĩa vụ của nhà phát hành.
ĐMTN có thể làm lên hạng hay xuống hạng vị thế trên thị trường của nhà phát
hành, một công cụ tài chính theo khả năng của nó có đáp ứng được các nghĩa vụ
đối với nhà đầu tư hay không. Điều này phụ thuộc vào hai yếu tố, thứ nhất là vào
khối lượng tiền có sẵn để thanh toán cho các nhà đầu tư và thứ hai là vào khả
năng dễ bị vỡ nợ đến đâu khi các điều kiện kinh doanh thay đổi.
Định mức tín nhiệm đánh giá mức độ rủi ro vỡ nợ cho ba loại chủ thể chính:

 Người phát hành hay còn gọi là người có nghĩa vụ(công ty, ngân hàng, các
định chế tài chính).
 Một loại hình chứng khoán nào đó.
 Một quốc gia.
Việc ĐMTN không phải là việc đưa ra giá trị thị trường, hay sự biến động trong
tương của bất kì một loại chứng khoán nào đó. ĐMTN chỉ là việc đưa ra ý kiến
dựa trên các nhân tố rủi ro chứ không phải là một lời khuyên nên hay không nên
mua, bán, hay giữ lại một khoản đầu tư nào. Quyết định đầu tư hay không hoàn
toàn chủ động vào nhà đầu tư, kết quả của việc ĐMTN chỉ nhằm giúp nhà đầu tư
có được một quyết định đầu tư đúng đắn, an toàn và phù hợp.
Trần Thị Kim Ngân Lớp CKA-K7
2
Học Viện Ngân Hàng
Kết quả của công việc ĐMTN có một ý nghĩa vô cùng lớn đối với nhà đầu tư nói
riêng và nền kinh tế nói chung. Do đó việc ĐMTN không thể tiến hành một cách
tùy tiện không có tổ chức bởi vì điều này có thể dẫn đến một hậu quả nghiêm
trọng cho nền kinh tế, tổ chức phát hành, nhà đầu tư … Để tránh hậu quả trên thì
việc ĐMTN phải quán triệt đầy đủ các nguyên tắc sau:
 Phân tích tín nhiệm trên cơ sở từng đợt phát hành và định hướng khách
hàng.
 Đánh giá rủi ro dài hạn dựa trên ảnh hưởng của chu kỳ kinh doanh và kèm
theo xu hướng một nhà phát hành có trả được nợ trong tương lai hay
không.
 Đánh giá rủi ro một cách toàn diện và thống nhất dựa vào một hệ thống
các kí hiệu xếp hạng.
 Tính toán về khả năng sinh lời của khoản đầu tư được đo bằng các nhân tố
thúc đẩy hoặc kiềm chế các nghĩa vụ tài chính của một nhà phát hành.
 Thực hiện tốt các nguyên tắc trên sẽ đảm bảo sự tin cậy cho những đối
tượng sử dụng những thông tin từ kết quả ĐMTN, góp phần đảm bảo lợi
ích của các nhà đầu tư nói riêng cũng như của cả hệ thống nói chung.

Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng ĐMTN chính là thước đo về tình hình kinh
tế của các đơn vị kinh tế. Rõ ràng việc ĐMTN đã phát huy vai trò to lớn của nó
trên thị trường vốn, thị trường chứng khoán. Việc thiếu vắng một tổ chức ĐMTN
tại bất kì một thị trường chứng khoán nào cũng đều là hạn chế, thiếu sót. Ngày
nay, ĐMTN được coi như là một công cụ hữu ích trong việc phát triển ổn định
của thị trường chứng khoán tại mỗi quôc gia vì ý nghĩa to lớn của nó là không
thể phủ nhận.
1.1.2 Vai trò của định mức tín nhiệm.
ĐMTN phát sinh từ nhu cầu cung cấp thông tin về sự đáng tin cậy trong khả
năng trả nợ của tổ chức phát hành cho nhà đầu tư trong những lĩnh vực mà ở đó
họ thiếu cả nguồn lẫn kỹ năng xử lý thông tin tài chính và các nhân tố thị trường
gắn liền với rủi ro để ra quyết định đầu tư.
Do đó ĐMTN không chỉ có vai trò quan trọng đối với các nhà đầu tư trên thị
trường mà nó còn có ý nghĩa to lớn đối với tổ chức phát hành chứng khoán, các
tổ chức trung gian tài chính và các cơ quan quản lý nhà nước trên thị trường.
Đối với nhà đầu tư: kết quả của việc ĐMTN giúp cho nhà đầu tư có thể đưa ra
quyết định định đầu tư đúng đắn hơn. Nó đưa ra một cái nhìn tổng thể, toàn vẹn
cho nhà đầu tư về tình hình kinh doanh và khả năng trả nợ của tổ chức phát hành
chứng khoán. Bên cạnh đó ĐMTN cũng cho phép nhà đầu tư có thể lựa chọn các
Trần Thị Kim Ngân Lớp CKA-K7
3
Học Viện Ngân Hàng
chứng khoán khác nhau dựa trên rủi ro và lợi nhuận. Từ đó có thể xây dựng cho
mình một danh mục đầu tư phù hợp với các chứng khoán có ĐMTN khác nhau
tương ứng với thu nhập khác nhau giữa chúng.
Đối với nhà phát hành chứng khoán: Rõ ràng rằng vai trò của ĐMTN với tổ
chức phát hành chứng khoán là rất to lớn. Bất kỳ một kết quả nào của ĐMTN
cũng làm ảnh hưởng đến sự tham gia vào thị trường vốn của họ. Nếu một kết quả
ĐMTN ở mức cao thì sự tham gia này là rất thuận lợi, nhưng ngược lại nếu như
kết quả thấp thì sẽ là một rào cản to lớn ngăn cản sự gia nhập thị trường vốn của

tổ chức phát hành. Điều này cũng ảnh hưởng đến chi phí phát hành trong những
đợt phát hành, bởi vì nếu ĐMTN thấp nó sẽ kéo theo việc nhà phát hành phải
mất nhiều chi phí hơn trong việc huy động vốn, do chứng khoán của họ ít hấp
dẫn nhà đầu tư. Nhưng nếu kết quả ĐMTN là cao thì chi phí huy động vốn sẽ
giảm.
Đối với các tổ chức trung gian tài chính: Các trung gian tài chính như công ty
bảo hiểm, các ngân hàng, quỹ đầu tư thì ĐMTN giúp cho họ có cơ sở để định giá
và tư vấn khách hàng trong trường hợp các tổ chức này chuyên làm nghiệp vụ
bảo lãnh và môi giới.
Đối với các cơ quan quản lý nhà nước trên thị trường: Thông qua ĐMTN các
nhà quản lý có thể biết được tình hình tài chính của nhà phát hành có lành mạnh
hay không, từ đó ra quyết định để cấp phép phát hành chứng khoán. Bên cạnh đó
ĐMTN cũng có thể coi là một trong những công cụ để giám sát thị trường giảm
rủi ro xảy ra cho cả hệ thống lẫn nhà đầu tư.

1.1.3 Phân loại định mức tín nhiệm.
Định mức tín nhiêm nợ: là việc định mức tín nhiệm cho các khoản đầu tư dài hạn
như trái phiếu hoặc cổ phiếu ưu đãi.
Định mức tín nhiệm các nhà phát hành: là việc ĐMTN của các công ty tư nhân,
các tổ chức bảo hiểm, các quỹ đầu tư trong việc thanh toán các nghĩa vụ tài chính
cho các nhà đầu tư.
Định mức tín nhiệm ngân hàng: là việc đánh giá khả năng của các ngân hàng cho
việc thanh toán các nghĩa vụ về tiền lãi và vốn gốc đối với các khoản tiền gửi của
khách hàng. Đó chính là việc đánh giá mức độ an toàn trong hoạt động của ngân
hàng.
Trần Thị Kim Ngân Lớp CKA-K7
4
Học Viện Ngân Hàng
Định mức tín nhiệm quốc gia: là việc đánh giá khả năng tín dụng của một quốc
gia cụ thể. Nó cho biết ý kiến về rủi ro quốc gia, cho biết quốc gia đó có khả

năng trả nợ khi phát hành trái phiếu trên thị trường quốc tế hay không.
1.1.4 Phương pháp định mức tín nhiệm:
1.1.4.1 Đối tượng và nguyên tắc xây dựng hệ thống đánh giá định mức
tín nhiệm:
Để tiến hành việc ĐMTN được chính xác, đáp ứng được yêu cầu từ các phía sử
dụng thông tin của ĐMTN,thì ĐMTN phải xác định đối tượng định mức. Đây là
một công việc rất quan trọng, tác động trực tiếp đến việc thành công hay thất bại
trong viêc xây dựng hệ thống chỉ tiêu xếp hạng cũng như phương pháp ĐMTN
cho phù hợp.
Khi xác định đối tượng ĐMTN cần phải lưu ý rằng:
 Thứ nhất, đối tượng của ĐMTN không được quá hẹp, vì như thế sẽ có rất
ít đối tượng để tổ chức ĐMTN có thể phục vụ và dẫn đến hiệu quả kinh tế
không như mong muốn.
 Thứ hai, đối tượng xếp hạng không được quá rộng,bởi vì đối tượng của
ĐMTN quá lớn sẽ vượt ra khỏi khả năng của tổ chức ĐMTN, dẫn đến mất
uy tín. Đây là điều tối kị của tổ chức ĐMTN trong hoạt động của mình.
 Thứ ba, ĐMTN phải được tiến hành từ đơn giản đến phức tạp,từ dài hạn
đến ngắn hạn.
 Thứ tư, việc ĐMTN phải phục vụ được cho sự phát triển của thi trường
nợ,trong đó thời gian đầu phải tập trung vào trái phiếu niêm yết.
Việc xếp hạng của các tổ chức ĐMTN thường được trình bày dưới dạng biểu
tượng giúp cho các phía sử dụng thông tin dễ hiểu, dễ nhận rõ.
Dưới đây là bảng kí hiệu và minh hoạ của một số tổ chức định mức trên thế giới:
Bảng 1 – Bảng kí hiệu và minh họa của một số tổ chức định mức tín nhiệm.
STT S&P Moody's Duff &
Phelps
Fitch's Tris(Th
ái lan)
Ram
(Malaysia)

1 AAA Aaa AAA AAA AAA AAA
2 AA Aa AA AA AA AA(1,2,3)
3 A A A A A A(1,2,3)
4 BBB Baa BBB BBB BBB BBB(1,2,3)
5 BB Ba BB BB BB BB(1,2,3)
Trần Thị Kim Ngân Lớp CKA-K7
5
Học Viện Ngân Hàng
6 B B B B B B
7 CCC Caa CCC CCC CCC CCC
8 CC Ca CC CC CC
9 C C C C C
10 D D D DDD,DD,
D
D D
Trong đó:
 Aaa,AAA: Công ty được xếp hạng ở mức chất lượng cao nhất tương ứng
với mức độ rủi ro trong đầu tư vào chứng khoán này là thấp nhất. Điều
này cũng cho thấy hoạt động kinh doanh của các công ty này ít bị ảnh
hưởng khi điều kiện kinh doanh hay các điều kiện bên ngoài khác thay đổi
theo hướng bất lợi.
 AA: Những công ty này có chất lượng rất cao, mức rủi ro cũng rất thấp
nhưng vẫn tồn tại những bất lợi khi mà các điều kiện kinh doanh thay đổi.
 A : Công ty có chất lượng cao, khả năng thanh toán nợ gốc và lãi cho nhà
đầu tư vẫn cao, nhưng các công ty này có thể bị ảnh hưởng khi các điều
kiện kinh doanh thay đổi theo chiều hướng xấu. Các công ty được đánh
giá tín nhiệm ở mức này thì khả năng thanh toán nợ gốc và lãi là thấp hơn
hai trường hợp trên.
 Baa,BBB: Công ty có chất lượng trung bình, vẫn có đủ khả năng thanh
toán nợ gốc và lãi đúng hạn nhưng hoạt động kinh doanh có thể gặp phải

khó khăn khi mà điều kiện kinh doanh cũng như các điều kiện bên ngoài
khác thay đổi theo chiều hướng bất lợi. Trường hợp này khả năng thanh
toán lãi vay và nợ gốc là thấp hơn A.
 Ba,BB: Công ty có chất lượng dưới trung bình, rủi ro trong đầu tư cao,
khả năng thanh toán nợ gốc và lãi vay là thấp hơn mức trung bình. Loại
này có mức độ đầu cơ thấp.
 B: Công ty có chất lượng thấp, rủi ro trong đầu tư là rất cao, khả năng
thanh toán nợ gốc và lãi vay đúng hạn của công ty thấp. khi việc kinh
doanh của công ty gặp phải khó khăn bất lợi do sự thay đổi của điều kiện
kinh doanh cũng như điều kiện bên ngoài sẽ làm công ty mất khả năng
thanh toán lãi và gốc. Loại này có mức độ đầu cơ trung bình.
 Caa,CCC: Công ty có chất lượng rất thấp. Loại này có mức độ đầu cơ cao.
 Ca,CC: Công ty có khả năng thanh toán nợ gốc và lãi là thấp nhất. Loại
này có mức độ đầu cơ cao nhất.
 C: Công ty bị đánh giá là mất khả năng thanh toán rất cao, việc thanh toán
lãi đang bị đình trệ.
Trần Thị Kim Ngân Lớp CKA-K7
6
Học Viện Ngân Hàng
 D: Công ty có rủi ro vỡ nợ, báo hiệu công ty mất khả năng thanh toán cả
lãi và nợ gốc.
Việc thêm con số 1, 2, 3 hoặc dấu cộng và dấu trừ để tăng thêm tính chính xác
của ĐMTN.
Như trên đã dẫn chứng các tổ chức ĐMTN thường sử dụng các chữ cái Latin để
kí hiệu mức độ tín nhiệm của chứng khoán được xếp hạng. Điều này tạo ra một
sự thống nhất, giúp các nhà đầu tư dễ hiểu cũng như dễ so sánh các kết quả của
ĐMTN.
Nguyên tắc trong việc xây dựng hệ thống đánh giá xếp hạng là phải đảm bảo:
Đơn giản: Đây là nguyên tắc đặc biệt quan trọng. Bởi vì mục đích của việc xếp
hạng đó là nhằm cung cấp cho người sử dụng thông tin một chỉ báo dễ hiểu, dễ

so sánh giữa mức độ thu nhập và mức độ tổn thất có thể xảy ra cho nhà đầu tư.
Chính vì vậy các tổ chức ĐMTN phải xây dựng và duy trì hệ thống biếu tượng
xếp hạng của mình càng đơn giản, càng dễ hiểu càng tốt.
Khả năng so sánh được một cách rộng rãi: đảm bảo nguyên tắc này có nghĩa là
hệ thống xếp hạng của các tổ chức ĐMTN được áp dụng một cách thống nhất để
tạo điều kiện thuận lợi cho việc đối chiếu trực tiếp các rủi ro của các chứng
khoán được xếp hạng. Như vậy, hệ thống xếp hạng của các tổ chức ĐMTN phải
có cùng một cách diễn giải, cùng ý nghĩa đối với tất cả các chứng khoán thuộc
cùng một chủng loại, bất kể chứng khoán đó do ai phát hành hoặc phát hành
bằng đồng tiền nào. Ngoài ra nguyên tắc này còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc
so sánh các loại chứng khoán với nhau. Tóm lại nguyên tắc này đảm bảo cho nhà
đầu tư khi lựa chọn chứng khoán để đầu tư.
Xây dựng hệ thống xếp hạng dài hạn và ngắn hạn riêng, trong đó cần xây dựng
hệ thống dài hạn trước và có xu hướng phát triển, mở rộng trước.
1.1.4.2 Các phương pháp định mức tín nhiệm.
Có nhiều phương pháp để ĐMTN, nhưng dựa vào điểm chung giữa chúng ta có
thể chia làm ba phương pháp ĐMTM như sau:
Thứ nhất: Phương pháp truyền thống.
Đa số các tổ chức ĐMTN trong việc đánh giá xếp hạng tín nhiệm. Nguyên tắc cơ
bản của phương pháp này là dự đoán khả năng vỡ nợ (giảm hạng) và dự đoán giá
trị khoản đầu tư tại những thời điểm có khả năng vỡ nợ bằng việc phân tích các
yếu tố định tính và định lượng. Ta có thể xem xét mô hình của một số công ty
định mức tín nhiệm như sau:
Trần Thị Kim Ngân Lớp CKA-K7
7
Học Viện Ngân Hàng
 S&P chia lĩnh vực phân tích thành loại chính là rủi ro kinh doanh bao gồm
đặc tính nghành, vị thế cạnh tranh, quản lý và rủi ro tài chính bao gồm tình
hình, chính sách tài chính, lợi nhuận, cấu trúc vốn, dòng tiền mặt…
 Moody 's: việc đánh giá khả năng trả nợ của công ty được phân chia theo

một số yếu tố chính như:
 Chất lượng quản lý và thái độ của nhà quản lý đối với rủi ro.
 Các hoạt động chủ yếu và vị thế cạnh tranh của công ty.
 Tình hình tài chính và các nguồn tiền mặt.
 Cơ cấu của công ty.
 Các cam kết hỗ trợ tài chính của công ty mẹ(nếu có).
 Khuynh hướng phát triển của nghành,của quốc gia.
 Các biến cố đặc biệt.
 Một số công ty khác phân tích nghành, phân tích tài chính (giai đoạn 1
gồm hoạt động phân tích các chỉ số truyền thống đối với trái phiếu, giai
đoạn 2 thường được kết hợp nghiên cứu với các cổ phiếu phổ thông bao
gồm việc phân tích chỉ số thu nhập trên vốn cổ phần ROE của công ty và
phân tích), xem xét những yếu tố phi tài chính như quản lý, ảnh hưởng từ
nước ngoài và các ràng buộc khác.
Thứ hai : Xây dựng bảng điểm(thang điểm).
Các tổ chức ĐMTN sử dụng bảng cho điểm chia các yếu tố phân tích thành
nhiều hạng mục khác nhau, cung cấp một khung mô hình cho tất cả các chỉ tiêu
mà tổ chức quan tâm,xem xét khi xếp hạng một đối tượng nhất định. Tuy nhiên
không có một công thức chung để có thể kết hợp các yếu tố này lại để đi đến kết
luận xếp hạng. Qua đó ta có thể thấy hệ thống cho điểm trên hệ thống biếu tượng
xếp hạng nhằm phân biệt từng hạng mục về khả năng thanh toán và mức độ tín
nhiệm của nhà phát hành.
Thứ ba: phương pháp xếp hạng.
Đây là một công viêc phức tạp, các loại hình công ty khác nhau đòi hỏi phải có
những hệ thống chỉ tiêu khác nhau. Các chỉ tiêu này luôn có xu hướng chú trọng
phân tích năm yếu tố sau:
 Khả năng thanh khoản.
 Chất lượng tài sản.
 Lợi nhuận.
 Đòn bẩy tài chính.

 Dòng ngân lưu.
Trần Thị Kim Ngân Lớp CKA-K7
8
Học Viện Ngân Hàng
Mỗi yếu tố trên có thể được xem xét khác nhau tùy thuộc công ty đó thuộc lĩnh
vực tài chính hay các khu vực kinh tế khác.
1.2 Tổ chức định mức tín nhiệm.
1.2.1 Lịch sử ra đời và phát triển của tổ chức định mức tín nhiệm.
1.2.1.1 Sự hình thành của các tổ chức ĐMTN.
Sự ra đời của các tổ chức ĐMTN thời bấy giờ nảy sinh từ nhu cầu của các nhà
đầu tư, họ cần những thông tin chính xác về tổ chức phát hành chứng khoán để
có thể đưa ra quyết định đầu tư đúng đắn, nhưng ĐMTN không chỉ đáp ứng nhu
cầu của nhà đầu tư mà còn giúp cho nhà phát hành có thể chứng minh năng lực
của mình từ đó có thể thu hút được nguồn vốn đầu tư trên thị trường một cách
thuận lợi.
Các tổ chức ĐMTN ra được ra đời từ đầu thế kỷ 20. Năm 1909, công ty Moody
của Mỹ đã khởi đầu cho việc xếp hạng tín nhiệm chứng khoán. Ban đầu công ty
này chuyên xếp hạng trái phiếu đường sắt, sau đó công ty này tiếp tục xếp hạng
trái phiếu công nghiệp và các tiện ích công cộng khác. Đến năm 1922, công ty
Standard & Poor's ra đời và tiến hành việc xếp hạng các trái phiếu công ty, sau
đó tiến tới xếp hạng các trái phiếu chính quyền địa phương vào năm 1940, xếp
hạng các thương phiếu từ năm 1960 và đến năm 1984 thì xếp hạng các quỹ trái
phiếu và thị trường tiền tệ.
Những tổ chức ĐMTN được thành lập trong thế kỷ 20 là sự kế thừa và phát
triển của ba tổ chức tiền thân đã có từ trước đó rất lâu. Các tổ chức hoạt động đó
là: Tổ chức thông báo tín nhiệm (Credit Reporting Agency), Tổ chức kinh doanh
thông tin bằng các ấn phẩm chuyên ngành và các ấn phẩm tài chính (Credit
Information Services) và các ngân hàng đầu tư (Investment Bankers).
Các tổ chức thông báo tín nhiệm: Hình thức này ra đời từ rất sớm, cùng với sự
phát triển của các giao dịch phương xa vào thế kỉ 17. Khi nhu cầu giao dịch giữa

những người cách xa nhau về mặt địa lý càng tăng thì nhu cầu thông tin về phía
đối tác ngày càng trở nên cấp thiết. Hình thức thông báo tín nhiệm sơ khai chính
là các thư giới thiệu từ một số người có tiếng tăm, hoặc là người mà cả hai bên
đều biết. Nhưng khi khối lượng giao dịch ngày càng tăng thì đã phát sinh một
loại hình dịch vụ mới, đó là các tổ chức thông báo tín nhiệm với công ty đầu tiên
là Mercantile Agency do một thương gia buôn lụa và hàng khô Lewis Tappan
thành lập vào năm 1841, chuyên cung cấp thông tin về tình hình kinh doanh và
mức độ tín nhiệm của rất nhiều các doanh nghiệp khác nhau, thông qua một đội
ngũ đại lý đông đảo tại nhiều nơi.
Trần Thị Kim Ngân Lớp CKA-K7
9
Học Viện Ngân Hàng
Tổ chức kinh doanh thông tin bằng các ấn phẩm chuyên nghành và ấn phẩm tài
chính: Đối tượng đầu tiên của các tổ chức kinh doanh thông tin phải kể đến là
các công ty hỏa xa của Mỹ bởi sự hoạt động rộng rãi và thu hút nhiều nhân công
của các công ty này. Công ty kinh doanh thông tin đầu tiên là Baltimore & Ohio,
bắt đầu hoạt động vào năm 1828. Công ty này chuyên cung cấp các thông tin về
các công ty xe lửa trên toàn nước Mỹ lúc bấy giờ trên tờ “ Nhật báo hỏa xa Mỹ
”cho các nhà đầu tư. Tuy nhiên việc kinh doanh dịch vụ cung cấp thông tin mới
chỉ thực sự bắt đầu khi ông Henry Varnum Poor, tổng biên tập của tờ báo trên
cùng con trai đã thành lập công ty kinh doanh thông tin và xuất bản cuốn sách “
Cẩm nang đường sắt Mỹ ”. Cuốn sách này đã trở thành một ấn phẩm được xuất
bản hàng năm, bắt đầu từ năm 1868. Trong cuốn sách này có các thông tin về các
chỉ số tài chính và tình hình hoạt động trong nhiều năm của các công ty đường
sắt lớn nhất. Ấn phẩm này được coi là một nguồn cung cấp thông tin rất đáng tin
cậy trong nhiều năm.
Năm 1916, công ty Poor tham gia nghiệp vụ xếp hạng tín nhiệm. Đây là một sự
phát triển tất yếu của nghiệp vụ cung cấp thông tin tài chính và hoạt động của
nghành đường sắt mà nó thực hiện trong nhiều năm qua.
Đến năm 1941, công ty này đã sáp nhập với công ty Standard Statistic – một

công ty cũng hoạt động trong nghành ĐMTN để hình thành nên công ty Standard
& Poor’s (S&P).
Các ngân hàng đầu tư: Trước khi các tổ chức thông báo tín nhiệm cũng như các
tổ chức kinh doanh thông tin ra đời, các nhà đầu tư phải dựa vào một tổ chức
trung gian để có thông tin nhằm đưa ra quyết định đầu tư chứng khoán. Tổ chức
trung gian đó chính là các ngân hàng đầu tư. Việc các ngân hàng đầu tư đứng ra
bảo lãnh, mua và phân phối các chứng khoán của các công ty đường sắt cũng
đồng nghĩa với việc họ đã đem đặt cược uy tín của mình vào những việc đó.
Chính vì lẽ, đó các ngân hàng đầu tư yêu cầu các nhà phát hành phải cung cấp
đầy đủ các thông tin có liên quan thậm chí họ còn tham gia vào hội đồng quản trị
hoặc ban điều hành của tổ chức phát hành. Tuy nhiên, khi các ngân hàng đầu tư
càng tham gia sâu vào việc quản lý công ty phát hành, nhà đầu tư lại càng nghi
ngờ về thông tin nội gián mà ngân hàng này có được.Đến năm 1930, khi các quy
định về công bố thông tin ngày càng rõ ràng hơn đã làm giảm vai trò của các
ngân hàng đầu tư. Sự phát triển này đã đánh dấu việc chuyển giao vai trò đánh
giá chất lượng chứng khoán dựa vào uy tín của các ngân hàng đầu tư sang cho
các công ty xếp hạng tín nhiệm. Việc chuyển giao này làm cho việc xếp hạng tín
nhiệm ngày càng chuyên nghiệp hơn và tránh được mâu thuẫn về lợi ích.
Trần Thị Kim Ngân Lớp CKA-K7
10
Học Viện Ngân Hàng
1.2.1.2 Sự phát triển của các tổ chức định mức tín nhiệm.
Thời kỳ từ năm 1909 đến năm 1970.
Sự xuất hiện của các tổ chức ĐMTN vào đầu thế kỷ 20 chủ yếu diễn ra tại Mỹ.
Sở dĩ như vậy là bởi vì các công ty đường sắt lớn mà chủ yếu là các công ty tư
nhân rất phát triển. Chính vì điều này đã tạo ra một thị trường trái phiếu lớn hơn
bất kì nơi nào trên thế giới. Kể từ sau năm 1920, các tổ chức xếp hạng tín nhiệm
hoạt động rất mạnh. Bởi vì thời kì này thị trường nợ có quá nhiều hàng hóa, từ
trái phiếu liên bang, trái phiếu địa phương đến trái phiếu công ty đều rất phát
triển. Tuy nhiên từ năm 1929 đến năm 1937 là thời kỳ khó khăn nhất của các tổ

chức ĐMTN, đó là việc chính quyền địa phương và chính quyền liên bang mất
khả năng chi trả các khoản nợ của mình. Điều này đã khiến cho uy tín cũng như
hoạt động của các tổ chức ĐMTN suy giảm và trở nên khó khăn hơn.
Đến năm 1940,các tổ chức ĐMTN mới hoạt động tương đối ổn định trở lại vì thị
trường nợ đã hoạt động tương đối an toàn và không có bước đột biến. Trong thời
kỳ này, các tổ chức ĐMTN có được thu nhập chủ yếu từ việc bán các ấn phẩm
của họ (trong đó có kết quả xếp hạng), và các tài liệu khác có liên quan. Điều
này có nghĩa là người mua chứng khoán phải chịu các chi phí thông tin.
Thời kỳ từ năm 1970 đến nay.
Có thể nói thời kỳ này sự phát triển của các tổ chức ĐMTN mang tính toàn cầu
hóa.
Từ cuối thập niên 70, sự phát triển của các tổ chức ĐMTN mang tính đột biến.
Nói như vậy là vì thời gian này, các tổ chức ĐMTM gặp được một đợt sóng phát
triển tài chính lớn và các tổ chức này đã tận dụng được điều này. Rất nhiều các
quốc gia đã lần lượt thành lập các tổ chức ĐMTN của nước mình. Cũng thời
điểm này, ngoài việc xếp hạng các chứng khoán thông thường, các tổ chức
ĐMTN còn xếp hạng tín nhiệm cho các quốc gia và các định chế tài chính xuyên
quốc gia. Cũng trong thời kỳ đó, các công ty ĐMTN bắt đầu thu phí từ nhà phát
hành và đây đã trở thành nguồn thu chính của họ.
Trong xu thế phát triển đó, các tổ chức định mức tín nhiệm đã thiết lập hệ thống
chi nhánh của mình ở các thị trường mới nổi – nơi đang cần việc xếp hạng đối
với các tổ chức phát hành chứng khoán quốc tế của các công ty đang thường trú
tại quốc gia đó. Chính phủ của các quốc gia công nghiệp mới NICs và các nước
đang phát triển ngày càng nhận thức được tầm quan trọng của các tổ chức
ĐMTN đối với sự phát triển của thị trường trái phiếu và tiền tệ. Năm 1993, diễn
đàn của các tổ chức ĐMTN ASEAN (AFCRA) được thành lập như là tiền đề cho
việc thúc đẩy các tiêu chuẩn quốc tế của các tổ chức xếp hạng tín nhiệm
Trần Thị Kim Ngân Lớp CKA-K7
11
Học Viện Ngân Hàng

ASEAN, Philipines thành lập năm 1982, Malaysia năm 1991, Thái Lan năm
1993, Indonexia năm 1995.
Các tổ chức ĐMTN ngày càng khẳng định được vai trò quan trọng không thể
thiếu của mình trong sự phát triển của nền kinh tế của các quốc gia nói chung và
thị trường tài chính nói riêng. Đặc biệt là trong xu thế toàn cầu hóa như hiện nay
thì các tổ chức ĐMTN lại càng có điều kiện để phát triển nghiệp vụ chuyên môn
cũng như quy mô tổ chức của mình.
1.2.2 Vai trò của tổ chức định mức tín nhiệm.
Từ sự hình thành và phát triển của tổ chức ĐMTN ta có thể đưa ra một định
nghĩa về tổ chức ĐMTN như sau:
“ Tổ chức ĐMTN hay các công ty đánh giá hệ số tín nhiệm là các tổ chức
chuyên cung cấp dịch vụ đánh giá năng lực thanh toán các khoản vốn gốc và
lãi đúng hạn theo những điều khoản đã cam kết của tổ chức phát hành đối
với một đợt phát hành cụ thể ”.
Chính sự phát sinh nhu cầu thông tin đáng tin cậy về các tổ chức phát hành của
các nhà đầu tư là cơ sở để hình thành nên tổ chức ĐMTN. Qua thời gian,các tổ
chức này đã ngày càng khẳng định tầm quan trọng của mình đối với thị trường
vốn và nền kinh tế.
Tổ chức phát hành đóng vai trò là cầu nối giữa nhà đầu tư và thị trường.
Các nhà phát hành dùng xếp hang tín nhiệm như một chiến lược để huy động
vốn. Bởi vì, khi một nhà phát hành có nhu cầu huy động vốn, thì thông qua việc
xếp hạng đó sẽ giúp cho việc huy động vốn thông qua phát hành chứng khoán dễ
dàng hơn. Hơn nữa thông qua kết quả của việc xếp hạng mà hạng của các nhà
phát hành sẽ khác nhau làm cơ sở cho các nhà đầu tư có thể đưa ra quyết định
đầu tư.
Tổ chức ĐMTN được coi như một công cụ để giám sát thị trường tài chính.
Khi thị trường tài chính và xu hướng toàn cầu hóa ngày càng phát triển thì các tổ
chức ĐMTN ra đời, tồn tại và phát triển nhằm giảm thiểu rủi ro cho các nhà đầu
tư,và rủi ro cho cả hệ thống nói chung. Từ kết quả đánh giá của các tổ chức
ĐMTN, các nhà đầu tư có thể biết được tình hình tài chính của các tổ chức phát

hành, các chứng khoán được xếp hạng cao được phân biệt với các chứng khoán
được xếp hạng thấp, nhờ đó đã góp phần giảm thiểu rủi ro cho nhà đầu tư và cho
cả hệ thống.
Trần Thị Kim Ngân Lớp CKA-K7
12
Học Viện Ngân Hàng
Các tổ chức ĐMTN đóng vai trò như một tiêu chuẩn quản lý chính thức.
Hầu hết ở các nước có thị trường chứng khoán phát triển đều yêu cầu các công ty
khi đăng kí tham gia vào thị trường phải đạt đến một số điểm nhất định về uy tín
và số điểm này phải được cung cấp bởi một tổ chức ĐMTN có uy tín. Nếu không
đáp ứng điều này thì các công ty trên sẽ không được tham gia vào thị trường
chứng khoán. Đây là một biện pháp để các nhà quản lý thị trường xây dựng được
một thị trường chứng khoán đạt hiệu quả và vững mạnh.
Thông qua hoạt động của các tổ chức ĐMTN ta có thể thấy các tổ chức này
đều có những đặc điểm chung, những đặc điểm này đã tạo cho các tổ chức
ĐMTN sự khác biệt với các tổ chức khác trong nền kinh tế.Để hoạt động thành
công các tổ chức ĐMTN của các nước đều phải có những tính chất chung như:
tính công bằng,khách quan, được tin cậy, tính độc lập, có năng lực về kỹ thuật,
nhân lực đầy đủ về số lượng và chất lượng,và quan trọng nhất đó là tiếp cận
được với các thông tin đáng tin cậy về các tổ chức phát hành chứng khoán. Để
tin cậy và có ích cho nhà đầu tư, các tổ chức ĐMTN phải được đánh giá thông
qua sự tham gia của các tổ chức này trên thị trường về mức độ tín nhiệm và tính
công bằng của mình. Nhưng trước hết các tổ chức này phải đáp ứng đầy đủ các
tiêu chuẩn kĩ thuật cần thiết, có nguồn tài chính đầy đủ, có khả năng tiếp cận
được với nguồn thông tin dồi dào và đáng tin cậy về nhà phát hành. Tính độc lập
của tổ chức ĐMTN được xem xét trên hai khía cạnh chủ yếu là mức độ tín nhiệm
và sự thành công với nỗ lực kinh doanh. Tổ chức định mức tín nhiệm phải hoàn
toàn độc lập, tách khỏi ảnh hưởng chính trị và các áp lực của chủ thể mà nó quản
lý.Sự độc lập có một vai trò vô cùng quan trọng trong thành công của nghề này.
Qua quá trình hình thành và phát triển,tổ chức ĐMTN đã được xây dựng dưới

những hình thức sở hữu như: doanh nghiệp tư nhân,công ty trách nhiệm hữu
hạn,công ty cổ phần. Với hình thức là doanh nghiệp tư nhân các tổ chức ĐMTN
có thể không bị chi phối bởi yếu tố nào và độc lập trong hoạt động của mình.
Nhưng tổ chức ĐMTN dưới hình thức này bị hạn chế rất nhiều yếu tố như pháp
luật và khả năng huy động vốn. Dưới dạng công ty trách nhiệm hữu hạn các tổ
chức ĐMTN có thể huy động được vốn nhưng lại bị hạn chế và khả năng chuyển
nhượng là rất hẹp. Tổ chức dưới loại hình công ty cổ phần là có nhiều ưu điểm
hơn cả: khả năng huy động vốn là rộng, hơn nữa việc chuyển nhượng vốn là khá
thuận lợi,khả năng thích hợp với thị trường là cao. Đặc biệt, mô hình công ty cổ
phần có tính độc lập cao,ít chịu tác động của bên ngoài. Vì vậy các tổ chức
ĐMTN dưới dạng này có điều kiện để đánh giá một cách khách quan về chất
lượng của các loại chứng khoán.Do đó,trên thế giới các tổ chức ĐMTN thường
được tổ chức dưới dạng này.
Trần Thị Kim Ngân Lớp CKA-K7
13
Học Viện Ngân Hàng
Điều kiện chủ yếu để hình thành và phát triển tổ chức định mức tín nhiệm đó là:
Có thị trường nợ phong phú và phát triển:
Rõ ràng rằng một thị trường nợ thưa thớt ít hàng hóa sẽ là một môi trường bất
lợi cho sự ra đời của tổ chức ĐMTN. Bởi vì một thị trường như vậy sẽ không tạo
ra đối tượng xếp hàng cho các tổ chức ĐMTN. Điều này sẽ kéo theo việc nguồn
thu của các tổ chức này không được bảo đảm, hoạt động của các tổ chức khó có
thể duy trì trong một môi trường như vậy. Trái lại, một thị trường nợ phát triển
phong phú, đa dạng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức ĐMTN phát triển
cả về quy mô cũng như nghiệp vụ.
Yếu tố con người trong hoạt động ĐMTN phải đạt yêu cầu cả về trình độ và đạo
đức:
Việc xếp hạng tín nhiệm là một công việc hết sức phức tạp và khó khăn. Hơn
thế nữa,môi trường hoạt động cũng như các khoản thu nhập “kếch xù” từ việc
cung cấp, biết trước thông tin trên thị trường tài chính có thể làm ảnh hưởng đến

tư cách và đạo đức của một bộ phận không nhỏ những người hoạt động trong
lĩnh vực này. Vì vậy, song song với trình độ thì đạo đức cũng là một yêu cầu
không thể thiếu đối với nguồn nhân lực hoạt động trong tổ chức ĐMTN.
Có một khung pháp lý riêng điều chỉnh hoạt động của các tổ chức ĐMTN:
ĐMTN là một công việc có tính nhạy cảm rất cao đối với thị trường vốn. Một
rủi ro phát sinh từ tổ chức ĐMTN xảy ra trên thị trường vốn có thể dẫn đến rủi ro
cho toàn hệ thống dẫn đến khủng hoảng kinh tế. Vì vậy nhất thiết phải có một hệ
thống pháp luật riêng cho hoạt động của tổ chức ĐMTN.
Học hỏi và hợp tác với các nước có kinh nghiệm trong lĩnh vực ĐMTN:
Trong xu thế toàn cầu hóa như hiện nay thì việc bắt tay hợp tác với nước ngoài
là cần thiết cho sự hình thành của các tổ chức ĐMTN. Điều đó có thể tạo điều
kiện giúp ta có được kinh nghiệm,đồng thời có thể tranh thủ sự giúp đỡ của các
nước bạn.

1.2.3 Hoạt động và sản phẩm cơ bản của tổ chức định mức tín nhiệm.
Tùy theo đối tượng xếp hạng mà các công ty ĐMTN có thể có một hoặc nhiều
sản phẩm cụ thể khác nhau đối với từng loại công cụ huy động vốn trên thị
trường.Các sản phẩm dịch vụ này thường là các ấn phẩm do các tổ chức ĐMTN
phát hành, hoặc là sự thông báo lên các phương tiện thông tin đại chúng của tổ
chức ĐMTN về sự xếp hạng các tổ chức phát hành. Qua các cách như vậy các
Trần Thị Kim Ngân Lớp CKA-K7
14
Học Viện Ngân Hàng
đánh giá của tổ chức ĐMTN sẽ được truyền đến những ai quan tâm. Các sản
phẩm dịch vụ chủ yếu của tổ chức ĐMTN bao gồm:
Xếp hạng tín nhiệm, sản phẩm này cung cấp cho những người sử dụng thông tin
từ việc xếp hạng có được những báo cáo phân tích về tình hình tín dụng của tổ
chức phát hành, từ đó có thể cho thấy khả năng trả nợ gốc và lãi của các tổ chức
phát hành có cao hay không. Thông qua đó các nhà đầu tư có thể đưa ra quyết
định đầu tư tương ứng với kết quả xếp hạng tín nhiệm cao hay thấp. Dịch vụ này

có thể đưa ra các đánh giá về các chứng khoán nợ dài hạn hay các cổ phiếu ưu
đãi đang lưu hành của tổ chức phát hành. Sản phẩm này của tổ chức ĐMTN
thường được thể hiện dưới dạng báo cáo, trong đó bao gồm hồ sơ của tổ chức
phát hành, báo cáo tài chính, các phân tích,đánh giá, cũng như xây dựng một tỷ
lệ cho việc so sánh các tổ chức phát hành với nhau. Điều này là rất quan trọng
bởi vì tổ chức ĐMTN tiến hành xếp hạng rất nhiều các tổ chức phát hành khác
nhau, sản phẩm này có thể cho phép người ta có thể so sánh giữa các loại hình
rủi ro khác nhau.
Ngoài ra tổ chức ĐMTN còn có thể cung cấp thông tin và tư vấn cho nhà đầu tư.
Người sử dụng thông tin từ sản phẩm này của tổ chức ĐMTN có thể có được
những thông tin vào bất kỳ lúc nào. Đó có thể là một sự thay đổi trong việc xếp
hạng, thông tin đánh giá về các đợt phát hành mới của tổ chức phát hành…
Một sản phẩm nữa của tổ chức ĐMTN đó là thông báo kết quả ĐMTN qua các
phương tiện truyền thông.Những đối tượng mua dịch vụ này từ tổ chức ĐMTN
sẽ được thông báo các thông tin tức thời về tình hình kinh doanh, tình hình tín
dụng của tổ chức phát hành thông qua các phương tiện truyền thông.
Trần Thị Kim Ngân Lớp CKA-K7
15
Học Viện Ngân Hàng
Chương 2
Mô hình tổ chức định mức tín nhiệm điển hình của
một số quốc gia và bài học kinh nghiệm rút ra cho
Việt Nam.
2.1 Mô hình tổ chức định mức tín nhiệm của một số quốc gia trên thế giới.
2.1.1 Mô hình tổ chức định mức tín nhiệm Standard & Poor’s (S&P) của Mỹ.
Mỹ là một quốc gia mà sự ra đời tổ chức ĐMTN có từ rất sớm. Trong đó có
hai tổ chức ĐMTN nổi tiếng nhất và cũng lâu đời nhất trên thế giới là Standard
& Poor’s và Moody’s. Hai công ty này cùng với một số công ty khác đã xếp
hạng cho nhiều công cụ nợ được giao dịch trên thị trường tài chính ở Mỹ cũng
như nhiều nước trên thế giới.

Tập đoàn xếp hạng tín nhiệm S&P được Henry Varnum Poor – người đã xuất
bản quyển “ Lịch sử ngành đường sắt và kênh đào Mỹ ” – khai sinh ra. Ông là
người được xem như đi đầu trong lĩnh vực xuất bản các ấn phẩm hướng dẫn
trong lĩnh vực đầu tư xuất bản năm 1860. Nhưng mãi đến năm 1923, công ty này
mới xếp hạng cho các trái phiếu. Năm 1967,công ty này đã được công ty
Megraw – Hill Coporation mua lại và hiện nay S&P là công ty con của Megraw
– Hill Coporation, có hệ thống văn phòng khắp thế giới: New York, London,
Tokyo, Francisco, Paris, Stockholm, Madrid, Melbourne, Toronto, Hongkong.
Tập đoàn ĐMTN của S&P được tổ chức thành 6 ban theo hướng chuyên môn
hóa, phù hợp với ngành hoặc các loại nợ. Mỗi ban đứng đầu là giám đốc điều
hành, quản lý các ban này là hội đồng quản trị, có chủ tịch và các trưởng ban sẽ
chịu trách nhiệm về phong cách chỉ đạo và quản lý. Trong mỗi ban còn chia ra
làm các bộ phận thực hiện các công việc chuyên môn như: Bộ phận hỗ trợ quản
lý, bộ phận thông tin, bộ phận nghiên cứu, bộ phận định mức, bộ phận hỗ trợ
quản lý và bộ phận thông tin.
Trần Thị Kim Ngân Lớp CKA-K7
16
Học Viện Ngân Hàng
Sơ đồ 2.1 – Mô hình tổ chức của tập đoàn định mức tín nhiệm Standard &
Poor’s.
Nguồn : www.standardandpoor.com
Mô tả:
 Ban tài chính công ty: chuyên theo dõi các nhà phát hành nợ là các nhà
sản xuất công nghiệp, tài nguyên thiên nhiên, ngành tiện nghi công ích,
vận tải, các công ty thương mại.
 Ban đánh giá các định chế tài chính (Financial Institutions): ban này thực
hiện các việc đánh giá công ty là ngân hàng, các công ty tài chính độc lập,
công ty cứu hộ, môi giới chứng khoán, thị trường tiền tệ. Các quỹ tương
hỗ cũng là đối tượng đánh giá của ban này.
 Ban đánh giá cấu trúc tài chính (Structured Finance): chuyên đánh giá về

các khoản có thể thế chấp, cầm cố tại ngân hàng đi vay, các trái phiếu có
giá trị thấp, chứng khoán vốn cổ đông …
 Ban đánh giá các dịch vụ bảo hiểm (Insurance Rating Services): chuyên
đánh giá các khả năng cung ứng của các nhà bảo hiểm, cũng như khả năng
chi trả, bồi thường của họ. Đó là khả năng đáp ứng những cam kết nợ đối
với khách hàng về bảo hiểm tài sản, thương vong, sinh mạng và sức khỏe.
 Ban đánh giá tài chính quốc tế (International Finance): ban này quản lý
các văn phòng của S&P bên ngoài nước Mỹ để chuyển ĐMTN cho các tổ
chức tài chính xuyên quốc gia.
 Ban đánh giá tài chính đô thị (Municipal Finance) chuyên đánh giá xếp
hạng tín nhiệm khi các tiểu bang và chính quyền địa phương phát hành trái
phiếu đô thị.
Dịch vụ do S&P cung cấp rất đa dạng nhưng chủ yếu bao gồm các dịch vụ liên
quan đến xếp hạng tín nhiệm và các dịch vụ thông tin tài chính, đầu tư – chủ yếu
thông tin về tình hình tài chính các công ty, đưa ra dự báo trên thị trường tài
chính cho một ngành hoặc một phân khúc thị trường. Quy trình ĐMTN của S&P
được mô tả qua sơ đồ:
Sơ đồ 2.2 – Quy trình định mức tín nhiệm của Standard & Poor’s
Nguồn:
Quy trình này sắp xếp theo thời gian, được thể hiện trong bảng 2.1.
Bảng 2.1 – thời gian cho các công việc xếp hạng tín nhiệm của S&P.
Trần Thị Kim Ngân Lớp CKA-K7
17
Học Viện Ngân Hàng
Nguồn:
Về phương pháp, S&P thực hiện việc phân tích xếp hạng thông qua mô hình kim
tự tháp như sơ đồ sau:
Sơ đồ 2.3 – Trình tự và nội dung định mức tín nhiệm của S&P.
Ở Mỹ,các tổ chức ĐMTN hoạt động rất mạnh mẽ và cạnh tranh nhau quyết
liệt. Mỗi tổ chức ĐMTN lại cung cấp những dịch vụ khác nhau, nhưng nhìn

chung những tổ chức này hoạt động trong một số lĩnh vực chủ yếu sau:
 Các dịch vụ liên quan đến ĐMTN, thông tin tài chính và phân tích rủi ro.
 Các dịch vụ liên quan đến việc cung cấp, phân tích, tư vấn các cơ sở dữ
liệu cho các nhà đầu tư có tổ chức và đánh giá hoạt động của các tổ chức
này.
 Dịch vụ thông tin tài chính và đầu tư, dịch vụ này chủ yếu tập trung vào
tình hình tài chính của các công ty, các chỉ báo trên thị trường tài chính;
phân tích và đưa ra dự báo cho một ngành hoặc một phân khúc thị trường
cụ thể. Các thông tin này chủ yếu được cung cấp thông qua mạng Internet.
 Các dịch vụ liên quan đễn lĩnh vực rủi ro, bao gồm các hoạt động nghiên
cứu, phân tích, tư vấn, huấn luyện và xây dựng giải pháp.
Hoạt động của các tổ chức ĐMTN của Mỹ hiện nay không chỉ bó hẹp trong
phạm vi biên giới,mà còn được thực hiện trên toàn cầu.Việc đánh giá và xếp
hạng tín nhiệm của các tổ chức ĐMTN không những tập trung vào ba lĩnh vực
chính như là: đánh giá môi trường kinh doanh, đánh giá tình hình tài chính, đánh
giá hoạt động sản xuất kinh doanh mà còn tập trung vào một lĩnh vực tương đối
mới đó là: khả năng quản lý công ty. Việc xếp hạng, đánh giá khả năng quản lý
áp dụng cho các đối tượng như:
 Các công ty quản lý tài sản (trong đó bao gồm tài sản của khách hàng cá
nhân cũng như của tổ chức đầu tư).
 Các ngân hàng lưu ký (đảm nhận chức năng lưu giữ và xử lý các chứng
khoán của khách hàng).
 Các công ty cung cấp dịch vụ quản lý (gồm các dịch vụ đánh giá và ghi
chép vào sổ sách kế toán các hoạt động phát sinh liên quan đến chứng
khoán và tiền của khách hàng).
Những tổ chức ĐMTN khác nhau lại có các cách đánh giá khác nhau. Trong
một tổ chức ĐMTN, nếu áp dụng các đối tượng xem xét khác nhau thì kết luận
Trần Thị Kim Ngân Lớp CKA-K7
18
Học Viện Ngân Hàng

cũng khác nhau. Ví dụ công ty Standard & Poor’s và công ty Moody’s cách xếp
loại trái phiếu như bảng sau:
Bảng 2.2 – Hệ thống định mức tín nhiệm trái phiếu của Moody’s và S&P.
Xếp hạng của
Moody’s
Xếp hạng của
S&P
Mô tả
Aaa AAA Chất lượng cao nhất: khả năng chắc chắn
hoàn tiền lãi và gốc.
Aa AA Chất lượng cao: Năng lực hoàn trả mạnh.
A A Trên trung bình: năng lực hoàn trả mạnh,
nhưng có thể bị ảnh hưởng bởi điều kiện
kinh tế bất lợi.
Baa BBB Trung bình: đủ năng lực hoàn trả nhưng
chịu ảnh hưởng lớn hơn nếu điều kiện kinh
tế thay đổi theo hướng bất lợi.
Ba BB Dưới trung bình, mức độ đầu cơ thấp.
B B Chất lượng thấp, có mức đầu cơ trung
bình.
Caa CCC Dưới trung bình, có mức độ đầu cơ cao.
Ca CC Đầu cơ cao nhất, khả năng thanh toán thấp
nhất
C C Sự trả lãi cho trái phiếu đang bị ngưng trệ.
D Nguy cơ bị vỡ nợ
Việc đánh giá chất lượng quản lý tập trung vào việc xem xét cơ cấu tổ chức của
công ty, các đặc điểm trong hoạt động quản lý, phương pháp kiểm soát rủi ro, hệ
thống công nghệ thông tin, quy trình quản lý và kiểm soát nội bộ cũng như chất
lượng phục vụ khách hàng.
2.1.2 Mô hình tổ chức định mức tín nhiệm NICE của Hàn Quốc.

Tổ chức ĐMTN ở Hàn Quốc ra đời sớm hơn so với các nước Châu Á khác. Tại
Hàn Quốc hiện đang có ba tổ chức ĐMTN hoạt động là: Công ty ĐMTN và
thông tin quốc gia (National Information & Credit Evaluation – NICE), Công ty
dịch vụ đầu tư Hàn Quốc (Korea Investors Service Inc – KIS),công ty ĐMTN và
tư vấn quản lý Hàn Quốc (Korea Management Consulting & Credit Rating
Corporation – KMCC).
Trần Thị Kim Ngân Lớp CKA-K7
19
Học Viện Ngân Hàng
NICE là một tổ chức ĐMTN điển hình của Hàn Quốc, ra đời vào tháng 09/1986
với tổng số vốn ban đầu là 79.834 USD và được Bộ tài chính và Kinh tế Hàn
Quốc cấp phép hoạt động trong lĩnh vực ĐMTN. Đến tháng 9/2000 tổng vốn của
NICE đã đạt 18,8 triệu USD, trong đó có các cổ đông là: Các ngân hàng thương
mại thuộc liên đoàn ngân hàng Hàn Quốc ( Korea Federation of Banks ), các
ngân hàng quốc doanh, các ngân hàng địa phương. Hiện nay NICE có quan hệ
hợp tác với công ty ĐMTN Duff & Phelps và công ty ĐMTN & thông tin đầu tư
( Rating & Investment Information – R&I ) của Nhật.
Dịch vụ mà các công ty ĐMTN Hàn Quốc cung cấp bao gồm hai loại chính:
Thứ nhất là Đánh giá xếp hạng đợt phát hành (bao gồm đánh giá các công cụ nợ
dài hạn và ngắn hạn): là việc đánh giá xếp hạng các loại thương phiếu, trái phiếu
công ty và trái phiếu được đảm bảo bằng tài sản (asset-backed securities), trái
phiếu được đảm bảo bằng các khoản thế chấp (mortgate-backed securities), trái
phiếu công trình, trái phiếu tài chính (do các định chế tài chính phát hành).Thứ
hai là Đánh giá xếp hạng công ty: là việc đánh giá xếp hạng khả năng chi trả của
các tổ chức tài chính như NHTM, công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm, công
ty ủy thác đầu tư và công ty bảo lãnh tài chính. Các công ty ĐMTN tại Hàn Quốc
đều hoạt động rất hiệu quả, trong đó NICE dẫn đầu về doanh số.
Các tổ chức ĐMTN cung cấp dịch vụ cho các ngân hàng thương mại nếu có
yêu cầu; thực hiện xác định giá trị hợp lý của các cổ phiếu đang được giao dịch
trên thị trường. Ngoài ra, một số các tổ chức ĐMTN còn triển khai dịch vụ định

giá các doanh nghiệp mạo hiểm.
NICE được tổ chức theo mô hình bộ phận chuyên trách, dưới sự điều hành của
kiểm toán trưởng và giám đốc điều hành như được trình bày trong sơ đồ sau:
Sơ đồ 2.4 – Cơ cấu tổ chức xếp hạng tín nhiệm của NICE.
Nguồn: By Kang, man Soo(1989), Korean Development Institute, Seoul, Korea.
Trong đó:
 Bộ phận nghiên cứu thị trường bao gồm các phòng chức năng sau:
 Phòng nghiên cứu thị trường.
 Phòng nghiên cứu Luật pháp.
 Phòng nghiên cứu các ngành chuyên môn.
 Bộ phận hỗ trợ quản lý thông tin bao gồm các phòng chức năng như sau:
 Phòng hỗ trợ quản lý.
 Phòng kế hoạch.
Trần Thị Kim Ngân Lớp CKA-K7
20
Học Viện Ngân Hàng
 Phòng kỹ thuật tin học.
 Phòng giao tế nhân sự.
 Phòng phụ trách hệ thống thông tin quản lý.
 Bộ phận định mức tín nhiệm bao gồm các phòng chức năng như sau:
 Phòng kế hoạch xếp hạng tín nhiệm.
 Phòng tư vấn
 Phòng nghiên cứu và phát triển.
 Phòng phụ trách ngành viễn thông điện tử.
 Phòng phụ trách ngành dệt may và thực phẩm.
 Phòng phụ trách ngành công nghiệp xây dựng.
 Phòng phụ trách ngành công nghiệp nặng.
 Phòng phụ trách ngành công nghiệp hóa chất.
 Phòng phụ trách lĩnh vực phân phối và dịch vụ.
 Phòng phụ trách lĩnh vực tài chính.

 Phòng phụ trách doanh nghiệp mạo hiểm (Venture Business)
 Bộ phận thông tin bao gồm các phòng chức năng:
 Phòng thông tin doanh nghiệp.
 Phòng thông tin tín dụng khách hàng.
 Phòng quản lý rủi ro.
 Phòng báo cáo xếp hạng tín nhiệm.
 Phòng quản lý xếp hạng tín nhiệm.
 Phòng phụ trách hệ thống cho điểm hạng mức tín nhiệm.
 Phòng phát triển công nghệ tin học.
Phương pháp xếp hạng mà NICE tiến hành đánh giá để xếp hạng là phương pháp
phân tích, chủ yếu trên ba lĩnh vực chính:
 Phân tích ngành: Thường là đánh giá những hoạt động của đối tượng xếp
hạng trong sự tương tác với môi trường, giữa tình hình hiện tại và xu thế
biến đổi trong tương lai của môi trường, xác định những cơ hội và nguy cơ
mà môi trường có thể đem lại cho công ty. Trên cơ sở xem xét tính nhạy
cảm của các nguồn lực công ty đối với viễn cảnh và chu kỳ kinh tế khác
nhau, xu hướng trong chính sách tiền tệ, các cơ hội kinh doanh có thể có
dưới các hình thức khác nhau để xếp hạng công ty. NICE thường đề cập
đến hai vấn đề:
 Những yếu tố tác động từ môi trường vĩ mô.
 Những yếu tố tác động từ môi trường vi mô.
Trần Thị Kim Ngân Lớp CKA-K7
21
Học Viện Ngân Hàng
 Phân tích hoạt động kinh doanh: Trong bước này, NICE phân tích hoạt
động quản trị trong doanh nghiệp, vì mục tiêu quản trị là nhằm nâng cao
chất lượng sản phẩm, giảm chi phí, thu hút khách hàng, nâng cao vị thế
cạnh tranh của doanh nghiệp, đánh giá môi trường kinh doanh của nhà
phát hành để xác định xem công ty có mức độ tăng trưởng nhanh hơn hay
chậm hơn so với mức trung bình trong toàn ngành, khả năng sinh lợi của

công ty tăng hay giảm? Chiến lược tiếp thị và nghiên cứu phát triển của
công ty so với đối thủ cạnh tranh của nó? Khi gặp môi trường kinh tế bất
lợi, các nhà quản lý của công ty có vượt qua, khắc phục điều kiện kinh tế
bất lợi đó hay không?
 Phân tích hoạt động tài chính: Bên cạnh việc phân tích ngành và phân tích
hoạt động kinh doanh, NICE còn tiến hành phân tích hoạt động tài chính.
Trong khi xem xét các số liệu tài chính, NICE tập trung vào hai yếu tố, là
thực tiễn mang tính kinh tế về các giao dịch cho phép và việc đánh giá về
khả năng tạo ra tiền mặt, sau đó đem so sánh với các chi phí trong tương
lai để hoàn thành nghĩa vụ trả nợ cho những người nắm giữ chứng khoán.
NICE tiến hành phân tích để đo lường thành tích, mức độ rủi ro tài chính,
trên cơ sở đó có thể đưa ra những nhận định, những dự báo về triển vọng
của công ty trong tương lai.
2.1.3 Mô hình tổ chức định mức tín nhiệm R & I ở Nhật Bản.
Các tổ chức ĐMTN ở Nhật Bản đều thuộc sở hữu tư nhân. Hiện nay ở Nhật,
hoạt động uy tín và nổi tiếng nhất là Công ty ĐMTN và thông tin đầu tư (R & I –
Rating & Investment Information, Inc.). Công ty này có 25 năm kinh nghiệm
trong lĩnh vực chuyên môn và hiện đang chiếm 75% thị phần trong việc định
mức xếp hạng các trái phiếu dài hạn do các công ty Nhật Bản phát hành. Ngoài
ra R & I cũng định mức xếp hạng cho các công ty nước ngoài đang hoạt động tại
Nhật Bản (chủ yếu là từ Hàn Quốc, Trung Quốc, Hồng Kông, Châu Âu…)
Mô hình tổ chức ĐMTN R & I :
Sơ đồ 2.5 – Mô hình tổ chức định mức tín nhiệm R & I của Nhật Bản.
Trong đó:
 Bộ phận dịch vụ thông tin bao gồm các phòng sau:
 Phòng kinh doanh.
 Phòng biên tập.
 Phòng hệ thống thông tin.
 Bộ phận tư vấn quản trị bao gồm các phòng sau:
Trần Thị Kim Ngân Lớp CKA-K7

22
Học Viện Ngân Hàng
 Phòng tư vấn quản trị.
 Phòng kế hoạch.
 Bộ phận định giá đầu tư gồm các phòng:
 Phòng định giá đầu tư.
 Phòng đánh giá hiệu quả hoạt động của các quỹ đầu tư.
 Phòng xử lý dữ liệu.
 Bộ phận xếp hạng tín nhiệm gồm các phòng:
 Phòng xếp hạng tín nhiệm 1 và 2.
 Văn phòng tại Hồng Kông.
 Phòng lưu trữ dữ liệu về ĐMTN.
 Phòng nghiên cứu.
Ngoài ra công ty R & I còn có ba phòng chịu sự quản lý trực tiếp của giám đốc:
Phòng nhân sự và kế hoạch công ty, Phòng giao tế nhân sự, Phòng tư vấn.
Công ty R & I hoạt động trong một số lĩnh vực như: xếp hạng tín nhiệm đối
với chứng khoán nợ, nghiên cứu và phân tích thị trường tài chính cùng các xu
hướng phát triển trong tương lai, nghiên cứu và phân tích hoạt động quản lý tài
sản, đánh giá và tư vấn các vấn đề có liên quan đến hoạt động của các quỹ hưu
trí (
pension funds), và cung cấp tất cả các thông tin liên quan đến các dịch vụ nói
trên.
Về phương pháp mà tổ chức ĐMTN này dùng để phân tích cũng giống như tổ
chức ĐMTN NICE của Hàn Quốc đó là tập trung vào ba lĩnh vực chính, đó là:
 Đánh giá môi trường ngành.
 Đánh giá tình hình tài chính.
 Đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh.
2.1.4 Mô hình tổ chức định mức tín nhiệm ở Đông Nam Á.
Mô hình tổ chức định mức tín nhiệm TRIS ở Thái Lan.
Năm 1993, Ngân hàng trung ương Thái Lan phối hợp với công ty tài chính

công nghiệp Thái Lan thành lập dịch vụ ĐMTN và cung cấp thông tin Thái Lan
(TRIS – Thai Rating & Information Services). Đây là một công ty cổ phần, trong
đó vốn chủ sở hữu bao gồm: vốn bộ tài chính, đại diện cho nhà nước, các cổ
đông khác còn lại bao gồm Sở giao dịch chứng khoán Thái Lan, các công ty tài
chính, ngân hàng, các công ty chứng khoán. Ở Thái Lan, TRIS là công ty duy
nhất làm nhiệm vụ ĐMTN và có sự hỗ trợ về kỹ thuật từ tập đoàn S&P (Mỹ),
luật pháp Thái Lan quy định rằng các công cụ nợ không có bảo đảm đều phải
được tổ chức ĐMTN xếp hạng. Ngoài xếp hạng trái phiếu, TRIS còn xếp hạng
tín nhiệm cho lệnh phiếu, hối phiếu và các loại chứng chỉ tiền gửi khác. Bên
Trần Thị Kim Ngân Lớp CKA-K7
23
Học Viện Ngân Hàng
cạnh đó thì TRIS cung cấp cho các nhà đầu tư hai loại hình dịch vụ chính đó là:
Xếp hạng cho các đợt phát hành và xếp hạng cho công ty. Đối với xếp hạng đợt
phát hành thì TRIS đánh giá khả năng trả nợ gốc và lãi của nhà phát hành, còn
đối với xếp hạng công ty thì TRIS đưa ra ý kiến của mình về mức độ tín nhiệm
đối với công ty đó, tức là xem xét toàn bộ tình hình tài chính, kinh doanh của
công ty.
Mô hình tổ chức ĐMTN TRIS của Thái Lan như sau:
Sơ đồ 2.6 – Mô hình tổ chức định mức tín nhiệm TRIS của Thái Lan.
Trong đó:
 Bộ phận đánh giá hiệu quả hoạt động: Do một phó giám đốc phụ trách và
gồm một phòng chức năng là Phòng đánh giá hiệu quả hoạt động.
 Bộ phận quản lý: do một phó giám đốc phụ trách và bao gồm hai phòng
chức năng như sau:
 Phòng tài chính và quản lý.
 Phòng dịch vụ thông tin.
 Bộ phận định mức tín nhiệm bao gồm:
 Phòng ĐMTN công ty (phòng số 1).
 Phòng ĐMTN công ty (phòng số 2).

 Phòng ĐMTN các tổ chức tài chính.
Cũng như Hàn Quốc và Nhật, TRIS cũng phân tích tình hình tài chính của công
ty bằng việc đánh giá, xem xét, phân tích tài chính, phân tích hoạt động kinh
doanh, phân tích ngành. Trình tự và nội dung ĐMTN của Thái Lan được trình
bày như trong sơ đồ sau:
Sơ đồ 2.7 – Trình tự các bước để tiến hành định mức tín nhiệm ở Thái Lan.
Nguồn: “Credit News”, Thai rating and information service.
Tùy thuộc vào từng lĩnh vực phân tích mà TRIS đưa ra các cách phân tích khác
nhau cho phù hợp với từng loại hình kinh doanh. Phương pháp ĐMTN chủ yếu
mà TRIS sử dụng đó là phương pháp phân tích, so sánh và cả phương pháp
chuyên gia. Cụ thể bao gồm các bước sau:
Bước 1: Đánh giá khả năng trả nợ và tình hình của các đối tượng xếp hạng thông
qua hệ thống các chỉ tiêu định lượng, chủ yếu trong bước này là xác định các chỉ
tiêu trong hiện tại và trong quá khứ.
Trần Thị Kim Ngân Lớp CKA-K7
24
Học Viện Ngân Hàng
Bước 2: Cũng như bước 1 nhưng lại dùng các chỉ tiêu phân tích hướng đến
tương lai.
Bước 3: Lựa chọn những chỉ tiêu quan trọng, có khả năng phát triển trong tương
lai của nhà phát hành, chủ yếu dùng các chỉ tiêu định lượng mang tính chất tài
chính để xác định trọng số, còn những chỉ tiêu phi tài chính, hoặc những chỉ tiêu
tài chính không quan trọng khác để cân nhắc mức độ xếp hạng tín nhiệm giữa
các nhà phát hành gần tương đương nhau.
Bước 4: Căn cứ vào các dữ liệu thu thập được, các chuyên gia sẽ sắp xếp lại theo
từng chỉ tiêu phân tích. Để chính xác hơn các nhà phân tích sẽ so sánh các chỉ
tiêu vừa phân tích với các chỉ tiêu tương tự của các nhà phát hành khác, có cùng
ngành nghề, trong một quốc gia hoặc với nhiều nhà phát hành trên thế giới.
Ngoài ra bằng những nhận định trực quan, các nhà phân tích sẽ đưa ra một số
nhận định thêm về các chỉ tiêu không được biểu hiện qua các đại lượng cụ thể.

Mỗi lĩnh vực TRIS sẽ đưa ra một công thức riêng, tùy theo từng đặc điểm sản
xuất kinh doanh của nhà phát hành.
Bước 5: Tổng hợp và công bố thứ hạng được xếp hạng. TRIS không có một công
thức tổng quát nào được xây dựng để nối kết tất cả các yếu tố nhằm đưa ra kết
quả xếp hạng cuối cùng mà việc xếp hạng chỉ được quyết định bởi Hội đồng xếp
hạng.

Mô hình tổ chức định mức tín nhiệm RAM của Malaysia.
Năm 1990, với sự điều hành tích cực của chính phủ, thị trường vốn của
Malaysia phát triển bao gồm cả sự ra đời của tổ chức ĐMTN, cơ quan ĐMTN
Malaysia (Rating Agency of Malaysia – RAM) được ra đời nhằm thích ứng với
sự phát triển đó. Trong bối cảnh thị trường vốn mới phát triển, tất cả những trái
phiếu công ty phát hành trên TTCK đều cần phải thẩm định và xếp hạng nên đến
năm 1992, ngân hàng trung ương Malaysia đã giao nhiệm vụ này cho RAM.
Do mới thành lập, chưa tạo được uy tín đủ để nhà đầu tư tin tưởng nên RAM
được thành lập dưới dạng một công ty trách nhiệm hữu hạn với sự tham gia góp
vốn của số lượng lớn các cổ đông tư nhân và không có sự tham gia của chính
phủ. RAM có sự tham gia của cả thể chế tài chính nước ngoài và thể chế tài
chính trong nước và không có một cổ đông riêng lẻ nào sở hữu hơn 4,9% tổng số
vốn của RAM.
Được sự ủy quyền của chính phủ, tất cả các chứng khoán nợ của các công ty
khi phát hành ra công chúng đều phải được RAM ĐMTN. Còn đối với các ngân
hàng thương mại thì áp dụng ĐMTN tự nguyện do RAM thực hiện và được
Ngân hàng trung ương quy định. Ngoài ra, các công ty bảo hiểm cũng có thể đầu
tư vào các trái phiếu không được ngân hàng bảo lãnh hay bảo đảm, với điều kiện
Trần Thị Kim Ngân Lớp CKA-K7
25

×