Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Phân tích nội dung quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX,Đảng ta nhận thức và vận dụng quy luật này như thế nào trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (251.93 KB, 21 trang )


M U
Lịch sử phát triển của sản xuất loài ngời là lịch sử phát triển của các PTSX
kế tiếp nhau. PTSX là sự thống nhất biện chứng giữa LLSX và QHSX đó là cách
thức sản xuất ra của cảI vật chất mà trong đó LLSX đạt đến một trình độ nhất
định , thống nhất với QHSX tơng ứng với nó . Theo định nghĩa của phép biện
chứng duy vật : Là khoa học về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, khoa học về
những quy luật phổ biến nhất của sự vận động và sự phát triến cuả tự nhiên ,xã hội
và t duy trên cơ sở duy vật . Theo định nghĩa trên xã hội ngày càng phát triển thì
mối quân hẹ giữa QHSX va LLSX là không thể tách rời , đây là quy luật chung
của sự phát triển và là một trong những quy luật quan trọng quy định sự tồn tại,
phát triển và tiến bộ xã hội.
Mặc dù vậy trong thực tế, hai nhân tố QHSX và LLSX đã làm nảy sinh
những mâu thuẫn giữa chúng . Và sự mâu thuẫn này ngày càng trở nên gay gắt làm
cho nền kinh tế nớc ta ở trong tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng trong một thời
gian dài .Mâu thuẫn này giải quyết ra sao?, nguyên nhân của vấn đề sẽ đợc đề cập
đến trong tiểu luận : Phõn tớch ni dung quy lut QHSX phự hp vi tớnh cht v
trỡnh phỏt trin ca LLSX,ng ta nhn thc v vn dng quy lut ny nh th
no trong giai on hin nay.
1

Mục lục
Tiểu luận được chia làm 3 phần:
I. ĐẶT VẤN ĐỀ.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
2.1 Nội dung quy luật.
2.2 Mối quan hệ tác động qua lại và sự lặp lại của quy luật.
2.3 Sự nhận thức của Đảng ta về quy luật .
2.4 Sự vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay
III KẾT THÚC VẤN ĐỀ.


3.1 Thành tựu đạt được.
3.2 Giải pháp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO.
2
I. Đặt vấn đề

Xã hội loài ngời muốn tồn tại và phát triển không thể không sản xuất ra của
cải vật chất mà trình độ phát triển của nó đợc biểu hiện chính bởi phơng thức sản
xuất trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định. Từ khi con ngời mới xuất hiện trên hành
tinh đã trải qua năm phơng thức sản xuất. Đó là: Cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu
nô lệ, xã hội phong kiến, xã hội t bản chủ nghĩa. T duy nhận thức của con ngời
không dừng lại ở một chỗ mà theo thời gian ngày càng phát triển hoàn thiện hơn, từ
đó kéo theo sự thay đổi phát triển trong sản xuất.
Tác động qua lại biện chứng giữa lực lợng sản xuất với quan hệ sản xuất đã
đợc Mac và Ăngghen khái quát thành quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất
và lực lợng sản xuất. Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã khẳng định rằng lực lợng sản
xuất có vai trò quyết định đối với quan hệ sản xuất và ngợc lại, có thể thúc đầy
hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lợng sản xuất. Xã hội ngày càng phát triển thì
mối quan hệ giữa quan hệ sản xuất và lực lợng sản xuất là không thể tách rời, đây
là quy luật chung của sự phát triển và là một trong những quy luật quan trọng quy
định sự tồn tại, phát triển và tiến bộ xã hội. Chính vì thế mà không phải ngẫu nhiên
việc nghiên cứu quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lợng sản xuất là một trong những nội dung quan trọng của công cuộc
đổi mới chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đang tiến hành hôm nay. Chúng ta đã có
những bài học đắt giá, đó là sự sai lầm khi xây dựng nhiều yếu tố của quan hệ sản
xuất vợt trớc so với lực lợng sản xuất mà chúng ta hiện có. Đó là việc chỉ cho phép
các hình thức sở hữu Nhà nớc và sở hữu tập thể tồn tại, trong khi các hình thức sở
hữu khác đang còn có tác dụng mạnh mẽ đối với lực lợng sản xuất thì lại bị ngăn
cấm, không đợc phép phát triển. Việc đó đã dẫn đến tình trạng sản xuất bị đình
đốn, ngời lao động không làm việc hết mình, xã hội không phát triển. Vậy phải giải

quyết vấn đề này nh thế nào ? Việc vận dụng đúng đắn qui luật trên vào công cuộc
xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay là vô cùng cấp thiết.
3
II. Giải quyết vấn đề.

2.1: Ni dung quy lut.

Quan hệ sản xuất và lực lợng sản xuất là hai mặt của phơng thức sản xuất, sự
tác động lẫn nhau giữa lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu hiên mối quan hệ
mang tính chất biện chứng. Chính sự thống nhất và tác động giữa quan hệ sản xuất
và lực lợng sản xuất đã hình thành nên quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản
xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lợng sản xuất.
Trong mối quan hệ giữa lực lợng sản xuất với quan hệ sản xuất thì lực l-
ợng sản xuất là nội dung, còn quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của sản xuất.
Lực lợng sản xuất thờng xuyên biến đổi , còn quan hệ sản xuất tơng đối ổn định;
lực lợng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất , quan hệ sản xuất phải phù hợp với
lực lợng sản xuất và tác động tích cực trở lại lực lợng sản xuất.
Lực lợng sản xuất là nhân tố thờng xuyên biến đổi và phát triển. Ngợc
lại quan hệ sản xuất thờng có tính ổn định trong một thời gian dài.
Sự biến đội của lực lợng sản xuất có nhiều nguyên nhân:
- Bản thân ngời lao động thì những kỹ năng và kinh nghiệm không ngừng
tích luỹ và tăng lên.
- Bản thân tri thức khoa học trí thức công nghệ trở thành lực lợng sản xuất
trực tiếp.
- Sự ổn định của quan hệ sản xuất là nhu cầu khách quan để có thể sản xuất
đợc.
Chính vì vậy mà sự phát triển của lực lợng sản xuất đến một giới hạn nhất
định sẽ đặt ra nhu cầu xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ và hiện có. Việc xoá bỏ quan hệ
sản xuất cũ thay nó bằng một quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là diệt vong cả
một phơng thức sản xuất lỗi thời và sự ra đời của một phơng thức sản xuất mới. Sự

xoá bỏ các hình thức quan hệ sản xuất hiện có không phải là tự thân mà phải thông
qua một phơng thức chính trị và pháp quyền mà phơng thức pháp quyền là trực tiếp.
Những quan hệ sản xuất cũ và hiện có từ chỗ là hình thức kinh tế cần thiết để đảm
4
bảo duy trì khai thác, phát triển của lực lợng sản xuất giờ đây trở thành những hình
thức kìm hãm sự phát triển đó nh CácMác đã nhận định Từ một giai đoạn phát
triển nào đó của chúng các lực lợng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với
những quan hệ sản xuất hiện có trong đó từ trớc đến nay các lực lợng sản xuất vẫn
tiếp tục phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của lực lợng sản xuất
những quan hệ ấy trở thàng những xiềng xích của các lực lợng sản xuất. Khi đó bắt
đầu thời đại một cuộc Cách mạng xã hộiĐó cũng chính là nội dung quy luật về sự
phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển nhất định của lực lợng sản
xuất.
2.2: Mi quan h tỏc ng qua li v s lp li ca quy lut.
Lực l ợng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất: Xu hớng của sản xuất vật
chất là không ngừng phát triển, sự biến đổi bao giờ cũng bắt đầu bằng sự biến đổi
của lực lợng sản xuất.
Trong quá trình sản xuất, để lao động bớt nặng nhọc và đạt hiệu quả hơn con
ngời luôn luôn tìm cách cải tiến công cụ lao động và chế tạo ra những công cụ lao
động tinh xảo hơn. Cùng với sự biến đổi và phát triển của công cụ lao động thì kinh
nghiệm sản xuất, thói quen lao động kỹ năng sản xuất kiến thức khoa học của con
ngời cũng tiến bộ. Lực lợng sản xuất trở thành yếu tố động nhất, cách mạng nhất.
Còn quan hệ sản xuất là yếu tố ổn định, có khuynh hớng lạc hậu hơn sự phát triển
của lực lợng sản xuất. Lực lợng sản xuất là nội dung là phơng thức còn quan hệ sản
xuất là hình thức xã hội của nó. Trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức thì
nội dung quyết định hình thức, hình thức phụ thuộc vào nội dung, nội dung thay
đổi trớc sau đó hình thức thay đổi theo, tất nhiên trong quan hệ với nội dung và
hình thức không phải là mặt thụ động, nó cũng tác động trở lại đối với sự phát triển
của nội dung.
Cùng với sự phát triển của lực lợng sản xuất quan hệ sản xuất cũng hình

thành và biến đổi cho phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lợng sản
xuất, sự phù hợp đó là động lực làm cho lực lợng sản xuất phát triển mạnh mẽ. Nh-
ng lực lợng sản xuất thờng phát triển nhanh còn quan hệ sản xuất có xu hớng ổn
định khi lực lợng sản xuất đã phát triển lên một trình độ mới, quan hệ sản xuất
5
không còn phù hợp với tính chất và trình độ của lực lợng sản xuất, mở đờng cho lực
lợng sản xuất phát triển.
Quan hệ sản xuất tác động trở lại đối với lực lợng sản xuất: Sự hình thành,
biến đổi phát triển của quan hệ sản xuất là hình thức xã hội mà lực lợng sản xuất
dựa vào đó để phát triển, nó tác động trở lại đối với lực lợng sản xuất, có thể thúc
đầy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lợng sản xuất. Nếu quan hệ sản xuất phù
hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lợng sản xuất nó thúc đầy sản xuất
phát triển nhanh. Nếu nó không phù hợp nó kìm hãm sự phát triển của lực lợng sản
xuất, song tác dụng kìm hãm đó chỉ tạm thời theo tính tất yếu khách quan, cuối
cùng nó sẽ bị thay thể bằng kiểu quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ
lực lợng sản xuất.
Sở dĩ quan hệ sản xuất có thể tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực lợng sản
xuất (thúc đầy hoặc kìm hãm ), vì nó quy định mục đích của sản xuất, quy định hệ
thống tổ chức quản lý sản xuất và quản lý xã hội, quy định phơng thức phân phối
và phần của cải ít hay nhiều mà ngời lao động đợc hởng. Do đó nó ảnh hởng đến
thái độ quảng đại quần chúng lao động - lực lợng sản xuất chủ yếu của xã hội, nó
tạo ra những điều kiện kích thích hoặc hạn chế việc cải tiến công cụ lao động áp
dụng những thành tựu khoa khọc và kỹ thuật vào sản xuất, hợp tác và phân phối lao
động.
Tuy nhiên, không đợc hiểu một cách đơn giản tính tích cực của quan hệ sản
xuất chỉ là vai trò của những hình thức sở hữu, mỗi kiểu quan hệ sản xuất là một hệ
thống một chỉnh thể hữu cơ gồm ba mặt, quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và quan
hệ phân phối. Chỉ trong chỉnh thể đó, quan hệ sản xuất mới trở thành động lực thúc
đầy con ngời hành động nhằm phát triển sản xuất.
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực

lợng sản xuất là quy luật chung nhất của sự phát triển xã hội. Sự tác động của quy
luật này đã đa xã hội loại ngời trải qua các phơng thức sản xuất: công xã nguyên
thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, t bản chủ nghĩa, xã hội chủ nghĩa.
Thời kỳ đầu trong lịch sử là xã hội cộng sản nguyên thuỷ với lực lợng sản
xuất thấp kém, quan hệ sản xuất cộng đồng nguyên thuỷ đời sống của họ chủ yếu
thuộc vào săn bắt hái lợm.
6
Trong quá trình sinh sống họ đã không ngừng cải tiến và thay đổi công cụ
(lực lợng sản xuất ) đến sau một thời kỳ lực lợng sản xuất phát triển quan hệ cộng
đồng bị phá vỡ dần dần xuất hiện hệ t nhân nhờng chỗ cho nó là một xã hội chiếm
hữu nô lệ. Với quan hệ sản xuất chạy theo sản phẩm thặng d, chủ nô muốn có
nhiều sản phẩm dẫn đến bóc lột, đa ra công cụ lao động tốt, tinh xảo vào sản xuất,
những ngời lao động trong thời kỳ này bị đối xử hết sức man rợ. Họ là những món
hàng trao đổi lại, họ lầm tởng do những công cụ lao động dẫn đến cuộc sống khổ
cực của mình nên họ đã phá hoại lực lợng sản xuất, những cuộc khởi nghĩa nô lệ
diễn ra khắp nơi.
Chấm dứt chế độ xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến ra đời, xã hội
mới ra đời giai cấp thời kỳ này là địa chủ, thời kỳ đầu giai cấp địa chủ nới lòng hơn
chế độ trớc, ngời nông dân có ruộng đất, tự do thân thể.
Cuối thời kỳ phong kiến xuất hiện công trờng thủ công ra đời và dẫn tới lực
lợng sản xuất mâu thuẫn với quan hệ sản xuất, cuộc cách mạng t sản ra đời chế độ
t bản thời kỳ này chạy theo giá trị thặng d và lợi nhuận họ đa ra những kỹ thuật mới
những công cụ sản xuất hiện đại áp dụng vào sản xuất thời kỳ này lực lợng sản xuất
mang tính chất cực kỳ hoá cao và quan hệ sản xuất là quan hệ sản xuất t nhân về t
liệu sản xuất nên dẫn tới cuộc đấu tranh gay gắt giữa t sản và vô sản nổ ra xuất hiện
một số nớc chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội ra đời quan tâm đến xã hội hoá
công hữu nhng trên thực tế chủ nghĩa xã hội ra đời ở các nớc cha qua thời kỳ t bản
chủ nghĩa chỉ có Liên Xô là qua thời kỳ t bản chủ nghĩa nhng chỉ là chủ nghĩa t bản
trung bình.
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực

lợng sản xuất là quy luật vận dụng phát triển của xã hội sự tác động qua sự thay thế
kế tiếp nhau từ thấp đến cao của phơng thức sản xuất.
- Quan hệ sản xuất tác động trở lại đối với lực l ợng sản xuất:
Nh trên ta thấy lực lợng sản xuất là nhân tố thờng xuyên biến đổi, phát triển
không ngừng trong khi đó quan hệ sản xuất mà đặc biệt là nhân tố sở hữu về t liệu
sản xuất lại có tính ổn định lâu dài. Quan hệ sản xuất khi đã đợc xác lập thì nó độc
lập tơng đối với lực lợng sản xuất, trở thành những cơ sở và những thể chế xã hội và
nó không thể biến đổi đồng thời đối với lực lợng sản xuất mà thờng có xu hớng lạc
7
hậu hơn so với lực lợng sản xuất. Khi đó nó tác động trở lại đối với lực lợng sản
xuất, có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lợng sản xuất. Nếu quan
hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lợng sản xuất, nó sẽ
trở thành động lực thúc đẩy, định hớng và tạo điều kiện cho lực lợng sản xuất phát
triển. Ngợc lại, nếu lạc hậu hơn so với tính chất và trình độ phát triển của lực lợng
sản xuất, quan hệ sản xuất sẽ là xiềng xích kìm hãm sự phát triển của lực lợng sản
xuất. Ngay cả trong trờng hợp quan hệ sản xuất đi quá xa so với trình độ phát triển
của lực lợng sản xuất thì nó cũng kìm hãm sự phát triển của lực lợng sản xuất.
Sở dĩ quan hệ sản xuất có thể tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực lợng sản
xuất (thúc đầy hoặc kìm hãm ), vì nó quy định mục đích của sản xuất, quy định hệ
thống tổ chức quản lý sản xuất và quản lý xã hội, quy định phơng thức phân phối
và phần của cải ít hay nhiều mà ngời lao động đợc hởng. Do đó nó ảnh hởng đến
thái độ quảng đại quần chúng lao động - lực lợng sản xuất chủ yếu của xã hội, nó
tạo ra những điều kiện kích thích hoặc hạn chế việc cải tiến công cụ lao động, áp
dụng những thành tựu khoa khọc và kỹ thuật vào sản xuất, hợp tác và phân phối lao
động.
Tuy nhiên, không đợc hiểu một cách đơn giản tính tích cực của quan hệ sản
xuất chỉ là vai trò của những hình thức sở hữu, mỗi kiểu quan hệ sản xuất là một hệ
thống một chỉnh thể hữu cơ gồm ba mặt, quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và quan
hệ phân phối. Chỉ trong chỉnh thể đó, quan hệ sản xuất mới trở thành động lực thúc
đẩy con ngời hành động nhằm phát triển sản xuất.

- Mối quan hệ biện chứng giữa lực l ợng sản xuất và quan hệ sản xuất :
Khi trình độ lực lợng sản xuất còn thủ công thì tính chất của nó là tính chất cá
nhân. Nó thể hiện ở chỗ chỉ một ngời có thể sử dụng đựơc nhiều công cụ khác nhau
trong quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm. Nh vậy, tất yếu dẫn đến quan hệ sản
xuất sở hữu t nhân (nhiều hình thức ) về t liệu sản xuất.
Khi sản xuất bằng máy ra đời, trình độ lực lợng sản xuất công nghiệp một
ngời không thể sử dụng đợc nhiều mà chỉ một công cụ, hoặc một bộ phận, chức
năng. Nh vậy, quá trình sản xuất phải nhiều ngời tham gia, sản phẩm lao động là
thành quả của nhiều ngời, ở đây lực lợng sản xuất đã mang tính xã hội hoa. Và tất
8
yếu một quan hệ sản xuất thích hợp phải là quan hệ sản xuất sở hữu về t liệu sản
xuất. Ănghen viết: Giai cấp t sản không thể biến t liệu sản xuất có tính chất hạn
chế ấy thành lực lợng sản xuất mạnh mẽ đợc nếu không biến những t liệu sản xuất
của cá nhân thành những t liệu sản xuất có tính chất xã hội mà chỉ một số ngời
cùng làm mới có thể sử dụng đợc.
Quan hệ biện chứng giữa lực l ợng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu hiện
ở chỗ:
Xu hớng của sản xuất vật chất là không ngừng biến đổi phát triển. Sự biến
đổi đó bao giờ cũng bắt đầu bằng sự biến đổi và phát triển của lực lợng sản xuất mà
trớc hết là công cụ sản xuất. Công cụ sản xuất phát triển đến khi mâu thuẫn gay gắt
với quan hệ sản xuất có và xuất hiện đòi hỏi khách quan phải xoá bỏ quan hệ sản
xuất cũ thay bằng quan hệ sản xuất mới. Nh vậy, quan hệ sản xuất vốn là hình thức
phát triển của lực lợng sản xuất (ổn định tơng đối), quan hệ sản xuất trở thành
xiềng xích kìm hãm sự phát triển của lực lợng sản xuất (không phù hợp). Phù hợp
và không phù hợp là biểu hiện của mâu thuẫn biện chứng của lực lợng sản xuất và
quan hệ sản xuất, tức là sự phù hợp trong mâu thuẫn và bao hàm mâu thuẫn.
Khi phù hợp cũng nh lúc không phù hợp với lực lợng sản xuất, quan hệ sản
xuất luôn có tính độc lập tơng đối với lực lợng sản xuất, thể hiện trong sử dụng sự
tác động trở lại đối với lực lợng sản xuất, quy định mục đích xã hội của sản xuất,
xu hớng phát triển của quan hệ lợi ích, từ đó hình thành những yếu tố hoặc thúc

đẩy, hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lợng sản xuất.
Sự tác động trở lại nói trên của quan hệ sản xuất bao giờ cũng thông qua các
quy luật kinh tế cơ bản phù hợp và không phù hợp giữa lực lợng sản xuất và quan hệ sản
xuất là khách quan và phổ biến của mọi phơng thức sản xuất. Sẽ không đúng nếu quan
niệm trong chủ nghĩa t bản luôn luôn diễn ra không phù hợp, còn dới chủ nghĩa xã hội
phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lợng sản xuất.
2.3 : S nhn thc ca ng ta v quy lut .
Quá trình lãnh đạo xây dựng đất nớc đi lên CNXH Đảng ta đã rút ra những
kinh nghiệm bổ ích và xác định rằng: một trong những nguyên nhân làm cho sản
xuất chậm phát triển, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn là không nắm vững
9
quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lợng sản
xuất. Từ đó, Đảng đã rút ra kinh nghiệm vận dụng quy luật bằng cách gắn cách
mạng quan hệ sản xuất với cách mạng khoa khọc kỹ thuật, chú trọng việc tổ chức
lại nền sản xuất xã hội để xác định những hình thức và bớc thích hợp.
Đảng nhận thức rằng: sự phù hợp giữa lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất
không bao giờ là sự phù hợp tuyệt đối, không có mâu thuẫn, không thay đổi. Sự
phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lợng sản xuất không bao giờ là sự phù hợp
chung mà bao giờ cũng tồn tại dới những hình thức cụ thể, thích ứng với những đặc
điểm nhất định với trình độ nào đó của lực lợng sản xuất. Trong thời kỳ quá độ đi
lên CNXH thực hiện CNH- HĐH, nền kinh tế nớc ta không còn là nền kinh tế t
bản, nhng cũng cha hoàn toàn là nền kinh tế XHCN. Bởi vậy công cuộc cải tạo
XHCN phải chú ý đến đặc điểm của sự tồn tại khách quan của nền kinh tế nhiều
thành phần. Trong cải tạo quan hệ sản xuất cũ và xây dựng quan hệ sản xuất mới,
đại hội VI đã nhấn mạnh là phải giải quyết đồng bộ ba mặt, xây dựng chế độ sở
hữu, chế độ quản lý và chế độ phân phối trong đó nhấn mạnh phân phối theo lao
động là hình thức chủ yếu. Phù hợp với trình độ phát triển của lực lợng sản xuất
trong thời kỳ CNH- HĐH, nhiều chế độ sở hữu cùng tồn tại : sở hữu toàn dân, sở
hữu tập thể, sở hữu cá nhân và các hình thức sở hữu do kết quả sự xâm nhập giữa
chúng.Trong nền kinh tế thị trờng ở nớc ta, tồn tại các hình thức phân phối thu

nhập: phân phối theo lao động, phân phối theo vốn hay tài sản đóng góp, phân phối
theo giá trị sức lao động , phân phối thông qua các quỹ phúc lợi tập thể. Trong các
hình thức trên thì phân phối theo lao động là đặc trng bản chất nhất của kinh tế thị
trờng theo định hớng xã hội chủ nghĩa ở nớc ta . Không chỉ nhấn mạnh việc xây
dựng chế độ công hữu, coi đó là cái duy nhất để xây dựng quan hệ sản xuất mới
trong quá trình phát triển kinh tế Đảng và Nhà nớc ta đã đặc biệt chú ý tới các yếu
tố còn lại của mối quan hệ giữa lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất để chúng hỗ
trợ nhau trở thành một quy luật kinh tế hiệu quả.
Trong công cuộc đổi mới đất nớc phải tuân thủ quy luật về sự phù hợp giữa
quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lợng sản xuất hiện có
để xác định bớc đi và những hình thức thích hợp. Quy luật đó luôn đợc coi là t tởng
chỉ đạo công cuộc cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới trên
10
những điều kiện phát triển của lực lợng sản xuất. Đại hội VI chỉ rõ đảm bảo sự
phù hợp giữa lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất luôn luôn kết hợp chặt chẽ tạo
quan hệ sản xuất với tổ chức và phát triển sản xuất , không nên nóng vội duy ý chí
trong việc xác định trật tự bớc đi cũng nh việc lựa chọn các hình thức kinh tế cần
phải cải tạo nền sản xuất nhỏ, cá thể để đa nền sản xuất từng bớc và đồng bộ. Rà
soát lại quá trình cải tạo XHCN trong thời gian qua Đảng ta đã đa ra kết luận:
Theo quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát
triển của lực lợng sản xuất, quá trình cải tạo XHCN phải có bớc đi và hình thức
thích hợp. Phải coi trọng những hình thức kinh tế trung gian, quá độ từ thấp lên
cao, từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn, trong mỗi bớc đi của quá trình cải tạo xã hội
chủ nghĩa, phải đẩy mạnh việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật tạo ra lực lợng
sản xuất mới trên cơ sở đó tiếp tục đa quan hệ sản xuất lên hình thức và quy mô
thích hợp để thúc đầy lực lợng sản xuất phát triển .
Đã làm có thể có sai sót ,yếu kém nhng nếu sớm phát hiện và biết khắc phục
thì không những QHSX mới đợc xây dựng củng cố và phát triển vững chắc hơn mà
còn giải phóng mạnh mẽ hơn LLSX . Đó cũng là điều mà Đảng ta luôn quan tâm
để giải quyết.

2.4: S vn dng ca ng ta trong giai on hin nay
Th c trng: .
Việt Nam trong thời kỳ đầu đi lên chủ nghĩa xã hội .
Sau 30/4/1975 nớc ta hoàn toàn giải phóng, chúng ta đã đạt đợc những thành
tựu trong việc hàn gắn vết thơng chiến tranh .Tuy nhien nền kinh tế nớc ta vẫn là
nền kinh tế nông nghiệp kém phát triển mang nặng tính tự cấp, tự túc .Trang bị kỹ
thuật và kết cấu xã hội yếu kém, cơ cấu kinh tế mất cân đối, cơ cấu kinh tế tập
chung quan liêu bao cấp để lại nhiều hậu quả nặng nề . Nền kinh té kém hiệu quả,
năng suất lao động thấp, khủng hoảng kinh tế kéo dài, các tệ nạn tham nhũng lan
rộng, Đảng cộng sản còn non, đội ngũ cán bộ còn yếu về năng lực các thế lực đế
quốc và phản động ráo riết thực hiện chiến lợc diễn biến hoà bình, phá hoại và bao
vây kinh tế Nếp sống văn hoá , đạo đức bị xói mòn, lòng tin vào Đảng và Nhà nớc
bị giảm sút.
11
Thực trạng trên có nguồn gốc sâu xa do lịch sử để lại và hậu quả của nhiều
năm chiến tranh, song chủ yếu là chúng ta đã vi phạm sai lầm chủ quan duy ý chí,
vi phạm các quy luật khách quan trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, trong tiến hành
công nghiệp hoá và trong cơ chế quản lý kinh tế đặc biệt là sự phù hợp giữa LLSX
và QHSX. Chúng ta đã sai lầm khi tiến hành xây dựng QHSX tiên tiến rồi mới thúc
đẩy lựa chọn LLSX phát triển, biến đổi. Sự biến đổi đó bao giờ cũng bắt đầu bằng
sự biến đổi và phát triển của LLSX. LLSX biến đổi dẫn đến mâu thuẫn gay gắt
với QHSX hiện có và xuất hiện một đòi hỏi khách quan là xoá bỏ QHSX cũ, thay
bằng kiểu QHSX mới thích ứng với một trình độ phát triển mới của LLSX. C.Mác
viết :"Tới một giai đoạn phát triển nào đó các LLSX vật chất xã hội sẽ mâu thuẫn
với QHSX hiện có mà trong đó từ trớc đến nay các LLSX vẫn phát triển. Từ chỗ
là hình thức phát triển của các LLSX, những QHSX ấy trở thành xiềng xích của các
LLSX . Khi đó bắt đầu thời đại của một cuộc cách mạng xã hội
1
". Kết quả là dã tạo
ra cho chúng ta một nhận thức bản chất của phép biện chứng giữa LLSX và QHSX

trong phạm vi hình thái kinh tế xã hội mới sẽ không chứa đựng sự tác động qua lại
lẫn nhau, không còn tồn tại mâu thuẫn biện chứng giữa chúng mà sự lựa chọn dần
dần LLSX cho phù hợp với khoảng không gian rộng lớn của QHSX.
Trớc tình hình trên đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đề ra việc tiến hành
công cuộc đổi mới kinh tế là đúng đắn:"phải kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới
kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bớc
đổi mới chính trị"
Cải tạo và củng cố QHSX nhng bao giờ cũng phải gắn liền với sự phát triển
của LLSX, và đợc đảm bảo bằng sự phát triển của LLSX. Đó là điều kiện cơ bản
cho cuộc cách mạng QHSX phát triển vững chắc. Với trình độ của mình LLSX yêu
cầu phải có những QHSXphù hợp với nó mới có thể bộc lộ hết khả năng của mình
và mới có khả năng phát triển nhanh chóng. Tơng ứng với mỗi trình độ LLSX đòi
hỏi một QHSX, một thành phần kinh tế nhất định nh Ph.Ăng-ghen viết :" giai cấp
T sản không thể biến những t liệu sản xuất có tính chất hạn chế ấy thành những
LLSX mạnh mẽ đợc nếu không biến những t liệu sản xuất của cá nhân thành
những t liệu sản xuất có tính chất xã hội, mà chỉ một số đông ngời cùng làm mới có
1
12
thể s dụng đợc". Kết hợp từng u thế riêng của từng thành phần kinh tế thông qua
phân cônglao động xã hội là con đờng hiệu quả nhất để phát triển LLSX, qua đây ta
cũng thấy rõ vấn đề cơ bản là lầm thế nào để QHSX phù hợp với tính chất, trình độ
phát triển của LLSX.
Việc phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nớc ta luôn luôn đợc
tiến hành đồng thời với việc không ngừng đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý
kinh tế nhằm bảo đảm cho s phát triển đó không xa rời định hớng xã hội chủ nghĩa.
Hiện nay các thành phần kinh tế của ta đang vận động theo cơ chế thị trờng với sự
điều tiết quản lý của Nhà nớc theo định hớng xã hội chủ nghĩa. Nhà nớc quản lý thị
trờng bằng pháp luật, bằng cơ chế chính sách ,và các đòn bẩy kinh tế để phát triển
để sản xuất phục vụ mọi nhu cầu của xã hội.
Tr c thc trng ú ca nn kinh t,ng ta ó vn dng quy lut v s

phự hp gia LLSX v QHSX trong giai on hin nay :
a) Phát triến LLSX ở n ớc ta hiện nay .
Yếu tố quân trọng nhất cúa LLSX chính là con ngời,trình độ LLSX thế hiện
trình độ chinh phục tự nhiên cụa con ngời trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Cho dù t liệu lao động tạo ra từ trớc có sức mạnh đến đâu và yếu tố đối tợng lao
động có phong phú nh thế nào nhng nếu con ngời không có kỹ năng , kỹ sảo thì
cũng trở nên vô tác dụng. lê nin viết "LLSX hàng đàu của toàn nhân loại là công
nhân , là ngời lao động". Lịch sử loài ngời đã đanh dấu bằng những mức quan trọng
trong sự phát triển của LLSX C.Mac và Ph.Ang ghen đã từng nói:"LLSX là kết
quả của năng lực thực tiễn của con ngời, nhng bản thân năng lực thực tiễn này bị
quyết định bởi những điều kiện trong đó ngời ta sống boửi nhiều LLSX đã đạt đợc
bởi hình thái xã hội đã có trớc họ, không phải do họ tạo ra mà do thế hệ trớc tạo
ra". Và hiện nay chúng ta đang chứng kiến sự bùng nổ về cuộc cách mạng khoa
học Kỹ thuật .Nhiệm vụ của chúng ta là xác định đợc những lĩnh vực vần u tiên dựa
trên thế mạnh của mình và dụ báo đúng xu hớng phát triển của Khoa học kĩ thuật
hiện đại.Làm nh vậy mới có bớc tiến lớn về sự phát triển sản xuất theo kịp trình độ
của các nớc phát triển trên thế giới.
13
b,Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại và vấn đề yếu tố con ng ời
trong LLSX .
Khoa học kỹ thuật có một sức mạnh kỳ diệu và có ý nghĩa quyết định đến sự
phát triênr sản xuất, nhng không phải là yếu tố quyết định cua LLSX. Công nghệ
hiện đại chỉ làm tăng sức mạnh chinh phục tự nhiên của con ngời chứ không làm
thay thế hoàn toàn hoạt động sản xuất của con ngời.Khoa học kỹ thuật phát triển
phát triển đến đâu thì con ngời cũng không bao giờ bị đẩy ra ngoài quá trình sản
xuất. Máy móc dù thông minh đến mấy cũng do con ngời tạo ra và phụ thuộc vào
con ngời. Điều cốt yếu là chúng ta biết lụa chọn những công nghệ thích hợp với
yếu tố con ngời và tài nguyên đất nớc .Vì thế Mác đã nhận xét "Trong tất cả những
LLSX lớn nhất là bản thân giai cấp Cách mạng".
c, Phát huy yếu tố con ng ời trong lực l ợng sản xuất .

Trong lịch sử đã và sẽ không tồn tại một hình thức sản xuất vật chất nào mà
lại không có nhân tố con ngời. C.Mácvà Ph.Ăng-ghen viết :"Bản thân con ngời bắt
đầu từ phân biẹt với súc vật ngay khi con ngời bắt đầu sản xuất ra những t liệu sinh
hoạt "
2
. Để nghiên cứu vấn đề này, chúng ta cần phân tích đặcđiểm hiện trạng của
lực lợng lao động nớc ta nhằm vạch ra những tiềm năng và hạn chế.Qua đó có
những biện pháp, chính sách phù hợp với xu thế phát triển chung đồng thời phát
huy khả năng lao động sản xuất và sáng tạo của con ngời .
Nớc ta là một nớc đông dân ,dân số năm 2000 gần 77 triệu với 40 triệu lao
động .Lực lợng lao động đông đảo này đã tiếp nhận và phát huy truyền thống lao
động cần cù , khả năng nắm bắt kỹ thuật và nâng cao nghề nhanh tuy còn nhiều
hạn chế :Tìnhtrạng d thừa lao động do sản xuất cha phát triển .Trong nhận thức của
ngời lao động về thang bậc nghề nghiệp cũng có nhiều quan niệm đánh giá khác
nhau. Tâm lý "ở trong biên chế nhà nớc"vẫn nổi trội hơn so với tâm lý "giải quyết
nhu cầu việc làm".Quan niệm trên đã tác động mạnh đến sự lựa chọn việc làm , do
đó cũng là lực cản sự cống hiến cho xã hội .
Chúng ta đang tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện trên các lĩnh vực. Để
phát huy nhân tố con ngời nh là"LLSX sản xuất hàng đầu của nhân loại" không thể
đặt ngoài mối quan hệ biện chứng giã LLSX và QHSX. Xuát phát trên cơ sở nhận
2
14
thức lại vai trò, vị trí và yếu tố con ngời trong LLSX ,Đảng và Nhà nớc đã có những
điều chỉnh đúng đắn trong đờng lối phát triển kinh tế nói chung và trong chién lợc
về con ngời nói riêng.
Con ngời là tổng hoà của những mối quan hệ xã hội. Để phát triển toàn diện
con ngời cần có những biện pháp tích cực, đồng bộ , những chính sách Kinh tế
đúng đắn. Nh vậy thì yếu tố con ngời mới đợc phát huy một cách triệt để trong
LLSX .
d, Để Khoa học nhanh chóng trở thành LLSX trực tiếp ở n ớc ta.

Việc Khoa học trở thành LLSX trực tiếp là một quy luật khách quan của sự
phát triển xã hội. Ngày nay dự đoán ấy đang trở thành hiện thực trong nhiều nớc
công nghiệp phát triển.
Trong thực tế,sự phát triển của Khoa học đã giúp con ngời tăng cờng sức
mạnh trong quá trình chinh phục tự nhiên, sử dụng những sức mạnh của nó. Không
có khoa học làm sao con ngời có thể tạo ra năng lợng hạt nhân, phóng tầu vũ trụ
lên thám hiểm các hành tinh hay sản xuất ra máy điện tử và ngời máy công nghiêpj
thay thế nhiều hoạt động phức tạp của mình. Mác viết" cùng với sản xuất t bản chủ
nghĩa, nhân tố khoa học lần đầu tiên đợc phát triển, vận dụng và tạo ra một cách có
ý thức trong phạm vi mà các thời đại trớc đó cha hề có ý thức đợc".
Khoa học là một hình thái ý thức xã hội ,tự nó có thể gây nên một biến đổi
nào cho LLSX khoa học vốn bắt đầu hoạtđộng lao động
Sản xuất và là kết quả hoạt động nhận nhận thức của con ngời ,gắn liền và
phụ thuộc vào con ngời phải thông qua hoạt động sản xuất của con ngời ,khoa học
mới có thể trở thành lực lợng trực tiếp đợc.Ngời có tri thức khoa học sẽ có kỹ năng
lao động và làm việc có hiệu quả hơn những ngời không không nắm đợc tri thức
khoa học. NH vậy khoa học trở thành LLSX không phải với t cách là một yếu tố
độc lập mà nó thâm nhập vào tất cả các yếu tố của LLSX .Ngày nay không chỉ có
khoa hoc tự nhiên mà cả khoa học xã hội cũng tham gia mạnh mẽ trở thành LLSX
trực tiếp.
Do vậy,chúng ta nghiên cứu LLSX và các yếu tố hợp thành LLSX không
ngoài mục đích trên, cơ sở lý luận đã tácđộng đúng tới LLSX, rút ngắn khoảng
cách với các nớc phát triển đa đất nớc ta tới phồn vinh hạnh phúc.
15
e,Xây dựng quan hệ sản xuất và hoàn thiện mối quan hệ này ở n ớc ta
hiện nay.
Tầm vóc trí tuệ của Đảng và nhân dân ta trong quá trình tìm tòi sáng tạo,đa
đất nớc thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu , tiến lên chủ nghĩa xã hội ngày càng đợc
khẳng định nhất là sau 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới ,bắt đầu từ Đại hội VI
của Đảng . Từ đó đến nay quan điểm của chúng ta vềCNXH đã đợc xác định ngày

càng rõ hơn. Nói nh vậy không có nghĩa là điều mà cuộc sống đặt ra chúng ta đều
đã làm xong còn nhiều vấn đề cần tiếp tục giải quyết. Một trong những vấn đề đó là
việc xây dựng QHSX, phát triển các thành phần kinh tế.
Trớc đây chúng ta chú trọng xây dựng và hoàn thiện QHSX nhng mặt khác
chúng ta chủ trơng đồng thời tạo lập cả QHSX và LLSX . Tuy nhiên khi thực hiện
chủ trơng này do chủ quan và nóng vội, có lúc chúng ta đã làm sai quy luật ,xoá bỏ
quá nhanh các thành phần kinh tế t bản t nhân. Từ chỗ nhận biết các sai lầm ,
chúng ta đã biết chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần .
Việc chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần thực chất để xây dựng ủng
hộ và phát triển QHSX , thực hiện mọi giải pháp phát triển có hiệu quả các thành
phần kinh tế thuộc khu vực sở hữu nhà nớc ,tập thế, củng cố và nâng cao địa vị làm
chủ của ngời lao động trong sản xuất xã hội . Sự chuyển hớng kinh tế về phơng
diện lý luận và thực tế sẽ giúp cho việc giải phóng và phát triển LLSX ,củng cố hoà
thiện thêm QHSX XHCN và hơn nữa từng bớc làm cho QHSX ở nớc ta phù hợp
với yêu cầu phats triển của LLSX.
Phát triển các thành phần kinh tế không phải là công việc dễ dàng và càng
không thể hoàn thành trong một thi gian ngắn. Vậy nên kết quả vừa qua chỉ là b-
ớc đầu và trong quá trình thừc hiện nhiệm vụ trên cùng còn không ít sai sót. Song
cũng phải nhận thấy rằng phát triển kinh tế nhiều thành phần là một chiến lợc đúng
đắn. Không thể có các thành tựu kinh tế vừa qua nếu không thực hiện chính sách
kinh tế nhiều thành phần , nếu QHSX không đợc điều chỉnh đổi mới phù hợp với
yêu cầu phát triển của LLSX .
f, Cụng nghip húa vn dng quy lut QHSX phự hp vi tớnh cht v trỡnh
phỏt trin ca LLSX trong s nghip i mi nc ta hin nay.
16
Thuộc phạm trù của lực lợng sản xuất và vận động không ngoài biện chứng
nội tại của phơng thức sản xuất, vấn đề công nghiệp hoá gắn chặt với hiện đại hoá,
trớc hết phải đợc xem xét từ t duy triết học. Trớc khi đi vào công nghiệp hoá - hiện
đại hoá và muốn thành công trên đất nớc thì phải có tiềm lực về kinh tế con ngời,
trong đó lực lợng lao động là một yếu tố quan trọng. Ngoài ra phải có sự phù hợp

giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển lực lợng sản xuất đây mới
là nhân tố cơ bản nhất.
Đất nớc ta đang trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá với tiềm năng
lao động lớn cần cù, thông minh, sáng tạo và có kinh nghiệm lao động nhng công
cụ của chúng ta còn thô sơ. Nguy cơ tụt hậu của đất nớc ngày càng đợc khắc phục.
Đảng ta đang triển khai mạnh mẽ một số vấn đề của đất nớc về công nghiệp hoá -
hiện đại hoá trớc hết trên cơ sở một cơ cấu sở hữu hợp quy luật gắn liền với một cơ
cấu các thành phần kinh tế hợp qui luật, cũng nh cơ cấu một xã hội hợp giai cấp.
Cùng với thời cơ lớn, những thử thách ghê gớm phải vợt qua để hoàn thành sự
nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nớc vì dân giàu nớc mạnh công bằng văn
minhhãy còn phía trớc mà nội dung cơ bản trong việc thực hiện là phải nhận thức
đúng đắn về qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển
của lực lợng sản xuất trong giai đoạn hiện nay của nớc ta.



III/ Kết luận
17
3.1 : Cỏc thnh tu t c
Chính nhờ đờng lối đổi mới và lựa chọn các bớc đi thích hợp mà nớc ta đã
từng bớc thoát khỏi khủng hoảng kinh tế và đứng vững trớc sự sụp đổ của hệ thống
xã hội chủ nghĩa thế giới. Công cuộc đổi mới đề ra cho chúng ta nhiệm vụ phải
xem xét lại phơng thức và con đờng đa đất nớc ta tiến lên. Sai lầm của ta là đã đẩy
nhiều mặt của QHSX lên quá cao, tách rời trạng thái còn thấp kém của LLSX làm
cho hai nhân tố này mâu thuẫn với nhau dẫn đến kìm hãm sự phát triển của sản
xuất xã hội. Đại hội Đảng lần thứ VI đã nhận ra sai lầm và cũng đã thấy rằng việc
cải tạo QHSX xã hội là cần thiết nhng không thể tiến hành một cách chủ quan nóng
vội nh trớc đây, nghĩa là cải tạo và củng cố QHSX nhng gắn liền với sự phát triển
của LLSX. Đại hội VII của Đảng cũng chỉ rõ:" phù hợp với sự phát triển của
LLSX, thiết lập từng bớc QHSX xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về

hình thức sở hữu. Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hớng
xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc"
ở nớc ta, từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, việc chuyển
dịch cơ cấu kinh tế đã đạt đợc những thành tựu quan trọng. Thông qua cách mạng
khoa học và công nghệ và phân công lại lao động với những quy luật vốn có của nó
thích ứng với điều kiện nớc ta, Đảng ta đã xác định bộ xơng của nó là cơ cấu
kinh tế công nông nghiêp dịch vụ gắn với phân công và hợp tác quốc tế sâu
rộng . Mục tiêu phấn đấu của nớc ta đến năm 2010 là tỷ trọng GDP của nông
nghiệp 16-17%; công nghiệp 40-41%; dịch vụ 42-43%. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
ở nớc ta trong thời kỳ quá độ đợc thực hiện theo phơng châm kết hợp công nghệ với
nhiều trình độ, tranh thủ công nghệ mũi nhọn tiên tiến vừa tận dụng đợc nguồn
lao động dồi dào, vừa cho phép rút ngắn khoảng cách lạc hậu, vừa cho phép phù
hợp với nguồn vốn có hạn ở trong nớc; lấy quy mô vừa và nhỏ là chủ yếu, có tính
đến quy mô lớn nhng phải là quy mô hợp lý và có điều kiện ; giữ đợc tốc độ tăng tr-
ởng hợp lý, tạo ra sự cân đối giữa các ngành, lĩnh vực kinh tế và các vùng kinh tế.
Trong cơ ché kinh tế mới, sự cạnh tranh diễn ra mạnh mẽ. Do đó tính năng
động sáng tạo đơc phát huy, ngời lao động đã không còn tính ỷ lại vào nhà nớc nh
trong cơ ché tập trung quan liêu bao cấp không biết chủ động tìm việc và tăng thu
18
nhập. Đối với các doanh nghiệp bớc đầu đổi mới phân phối lợi nhuận, thực hiện cơ
chế giá tiêu thụ sản phẩm theo quan hệ cung cầu trên thị trờng và hoạt động kinh
doanh có hiệu quả. Nhờ đó nền kinh tế nớc ta đã đạt đợc những thành tựu quan
trọng: Tổng sản phẩm trong nớc (GDP) sau 10 năm tăng hơn gấp đôi (2,07 lần).
tích luỹ nội bộ của nền kinh tế từ mức không đáng kể, đến năm 2000 đã đạt 27%
GDP. Từ tình trạng hàng hoá khan hiếm nghiêm trọng, nay sản xuất đã đáp ứng đợc
các nhu cầu thiết yếu của nhân dân và nền kinh tế, tăng xuất khẩu và có dự trữ. Kết
cấu hạ tầng kinh tế, xã hội phát triển nhanh. Cơ cấu kinh tế có bớc chuyển dịch tích
cực Trong GDP, tỷ trọng nông nghiệp từ 38,7% giảm xuống 24,3%, công nghiệp và
xây dựng từ 22,7% tăng lên 36,6%, dịch vụ từ 38,6% tăng lên 39,1% [Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX_ nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia_ Hà Nội_ năm

2001_ trang 149-150].
Hn ch
Bên cạnh những u điểm trên không thể không nhắc đến một số hạn chế vẫn
còn tồn tại. Đó là việc chuyển sang cơ chế thị trờng còn có nhiều mặt thiếu nhất
quán đặc biệt trong tài chính tiền tệ, quản lý còn lỏng lẻo, đội ngũ cán bộ cha theo
kịp với yêu cầu của thị trờng mới, vai trò của Nhà nớc trong quản lý hoạt động đời
sống kinh tế xã hội còn yếu. Trong lĩnh vực kinh doanh, nhà nớc cha tạo đợc động
lực khuyến khích nâng cao năng suất. Ngời lao động cha có động lực thờng xuyên
và cha cảm thấy có sự gắn bó đối với sản xuất kinh doanh và quá trình phát triển
của doanh nghiệp. Tình trạng lạm dụng kinh doanh còn nhiều, thị trờng vốn còn
chậm phát triển, lãi suất cha phù hợp với kinh tế thị trờng dẫn đến hạn chế đầu t.
Kinh tế vĩ mô còn những yếu tố thiếu vững chắc. Hệ thống tài chính,
ngân hàng, kế hoạch đổi mới chậm, chất lợng hoạt động hạn chế; môi trờng đầu t,
kinh doanh còn nhiều vớng mắc, cha tạo điều kiện và hỗ trợ tốt cho các thành phần
kinh tế phát triển sản xuất, kinh doanh [Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX_ nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia_ Hà Nội_ năm 2001_ trang154].
3.2. Gii phỏp
Cải tạo xã hội chủ nghĩa phải luôn luôn thấu suốt đặc điểm của quá trình
tiến từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa là quan hệ sản xuất và lực l-
19
ợng sản xuất luôn luôn gắn bó với nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển. Phải coi
trọng những hình thức kinh tế trung gian, quá độ từ thấp lên cao, từ quy mô nhỏ lên
quy mô lớn. Trên mỗi bớc đi phải đẩy mạnh xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, tạo
ra lực lợng sản xuất mới trên cơ sở đó tiếp tục đa quan hệ sản xuất lên hình thức,
quy mô thích hợp để cho lực lợng sản xuất phát triển.
Tại Đại hội IX Đảng ta khẳng định: " Cần phải" nhân rộng mô hình hợp tác,
liên kết công nghiệp và nông nghiệp, doanh nghiệp nhà nớc và kinh tế hộ nông
thôn, phát triển các loại hình trang trại với quy mô phù hợp trên từng địa bàn những
hình thức kinh tế hộ nông dân ngày càng đợc mở rộng, các hình thái kinh tế hợp tác
ở nông thôn, kinh tế trang trại, mở mang nhanh công nghiệp chế biến nông sản

theo nhiều trình độ quy mô công nghệ.
Quy luật Mac đã phát hiện đợc vận động, phát triển trong thực tế Cách
mạng và tronh nhận thức khoa học. Nó cũng đòi hỏi bổ sung và phát triển. Qua đó
có thể thấytừ sản xuất nhỏ đi lên CNXH chúng ta vẫn phải tuân theo một cách
nghiêm khắc quy luật C Mác đã phát hiện. Có thể kết luận rằng : Các dân tộc,các
quốc gia có thể bỏ qua hoặc rút ngắn một giai đoạn lịch sử của mình nhng không
thể bỏ qua đợc quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của
LLSX .


Ti liu tham kho
- Giáo trình triết học Mác-LêNin (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia).
- Tạp trí triết học (2002).
20
- Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần VI. VII
- Giáo trình Kinh tế chính trị tập I, II.
- Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX_ nhà xuất bản Chính trị
quốc gia_ Hà Nội_ năm 2001.
21

×