Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.66 KB, 2 trang )
Kế toán ngân hàng và kế toán tài chính DN: có gì khác ?
Các nước phát triển thường xây dựng một hệ thống kế toán mở, có nghĩa là chỉ dựa trên
các nguyên tắc cơ bản nhất và không có quy định chặt chẽ nào cho từng tiểu khoản và từng lĩnh
vực kinh doanh. Nhưng hệ thống kế toán Việt Nam lại đi vào quy định chi tiết cho từng tiểu
khoản cụ thể và cho từng lĩnh vực kinh doanh khác nhau như kế toán ngân hàng và kế toán tài
chính doanh nghiệp (DN).
Hệ thống kế toán ngân hàng Việt Nam chính thức ra đời từ năm 1951 còn hệ thống kế
toán tài chính DN được hình thành sau đó ba năm, năm 1954 và được hoàn thiện, phát triển song
song cho tới nay. Về cơ bản, hai hệ thống kế toán giống nhau về nguyên tắc, nội dung và phương
pháp hạch toán theo các chuẩn mực kế toán và Luật Kế toán đã ban hành. Tuy nhiên, cách sử
dụng thuật ngữ và hình thức trình bày khác nhau khiến cho người đọc có cảm giác thấy hai lĩnh
vực kế toán có sự khác nhau. Từ đó, việc vận dụng giữa hai lĩnh vực kế toán này trở nên khó
khăn đối với người học, người làm công tác kế toán. Có thực tế là một người học kế toán tài
chính DN thì gặp nhiều khó khăn khi làm kế toán ngân hàng và ngược lại. Để có thể làm việc
được ở hai lĩnh vực này, người làm công tác kế toán phải học kế toán cả hai lĩnh vực, dẫn đến
tiêu tốn cả thời gian và tiền của. Vấn đề đặt ra là phải xây dựng một hệ thống kế toán thống nhất
để có thể áp dụng cho tất cả các lĩnh vực kinh doanh khác nhau?
Có thể nói, kế toán tài chính DN và kế toán ngân hàng đều tuân thủ những nguyên tắc kế
toán cơ bản, bao gồm cơ sở dồn tích, hoạt động liên tục, giá gốc, phù hợp, nhất quán, thận trọng,
trọng yếu. Về nguyên tắc hạch toán, hai hệ thống kế toán cũng sử dụng phương pháp ghi Nợ - Có
để phản ánh các nghiệp vụ kinh tế phát sinh; sử dụng kết cấu tài khoản chữ T; nguyên tắc ghi Nợ
trước, Có sau, Nợ - Có cân bằng nhau; xác định tính số dư trên các TK tài sản và nguồn vốn,
nguồn vốn nợ phải trả và vốn chủ sở hữu; nguyên tắc phản ánh các nghiệp vụ kinh tế vào tài
khoản tài sản và tài khoản nguồn vốn.
Về phương pháp luân chuyển chứng từ, hai hệ thống kế toán đều tuân thủ theo hai loại
chứng từ: chứng từ bắt buộc và chứng từ hướng dẫn và tuân thủ theo các bước: lập chứng từ,
kiểm tra chứng từ, xử lý, ghi sổ, lưu trữ chứng từ. Tổ chức bộ máy kế toán cũng theo ba hình
thức (phân tán, tập trung, vừa tập trung vừa phân tán)
Về hình thức kế toán áp dụng, đều bao gồm kế toán chi tiết và kế toán tổng hợp theo năm
hình thức: Nhật ký Sổ Cái, Nhật ký chứng từ, Chứng từ Ghi sổ, Sổ nhật kí chung, hình thức ghi
bằng máy tính. Tuy nhiên, hệ thống ngân hàng thường sử dụng chứng từ ghi sổ.