Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Tieu luan HCM ve dai doan ket những cống hiến và sáng tạo của hồ chí minh trong việc vận dụng lý luận chủ nghĩa mác lênin vào cách mạng việt nam về đại đoàn kế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.29 KB, 35 trang )

MỞ ĐẦU

"Đồn kết, đồn kết, đại đồn kết
Thành cơng, thành cơng, đại thành cơng".
Đó là chân lý mà chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết và khái quát lại
truyền thống lịch sử dân tộc ta. Nhờ có đồn kết mà 54 dân tộc anh em cùng
chung sống trên mảnh đất khơng rộng lắm, người khơng đơng lắm, trình độ
phát triển về kinh tế còn thấp kém, nhưng đã vượt qua bao gian lao, thử thách,
chống chọi được với thiên tai, địch họa, bảo vệ giang sơn, bờ cõi, giữ gìn bản
sắc văn hóa dân tộc và đang chung sức xây dựng đất nước.
Dân tộc nào cũng có truyền thống đoàn kết để sinh tồn và phát triển.
Song, truyền thống đoàn kết của dân tộc ta là truyền thống của một quốc gia
đa dân tộc, đa tôn giáo, sống xen kẽ, khơng phân biệt cương vực lãnh thổ. Đó
là những cuộc chiến đấu liên miên không cân sức để chống chọi với thiên tai
khắc nghiệt và đủ loại xâm lược hịng thơn tính lãnh thổ, nơ dịch dân tộc ta. Đó
cịn là một giá trị văn hóa thuộc về bản sắc dân tộc Việt Nam, một dân tộc ngay từ
khi hình thành đã mang tính cộng đồng cao. Nghiên cứu chiều sâu của đoàn kết
dân tộc, mới thấy rõ ý nghĩa sâu sắc mà "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội" của Đảng đã tổng kết thành một trong năm bài
học lớn của cách mạng nước ta. Đó là: "Khơng ngừng củng cố, tăng cường đoàn
kết: Đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế".
Để đi đến thắng lợi to lớn ngày nay, cuộc đấu tranh của nhân dân ta đã
phải trải qua những khó khăn, thử thách, những khúc quanh với những ấu trĩ,
sai lầm, khuyết điểm. Hơn ai hết, dân tộc ta hiểu rõ giá trị của sự đoàn kết và
quyết tâm làm tất cả những gì có thể làm được để củng cố khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, kiên quyết chống lại những gì phá hoại hoặc làm xói mịn, làm
suy yếu khối đại đồn kết này, vì lịch sử đã cho chúng ta bài học q giá:
"Đồn kết thì sống, chia rẽ thì chết!".
1



Truyền thống đoàn kết của dân tộc ta được nâng lên tầm cao mới trong
thời đại Hồ Chí Minh, kết tinh thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết
tồn dân tộc. Thực tiễn cách mạng nước ta ngót một thế kỷ qua đã chứng
minh một cách hùng hồn sức sống mãnh liệt và sức mạnh vĩ đại không gì
chiến thắng nổi của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết kết dân tộc và
Đảng ta đã quán triệt sâu sắc tư tưởng đó thành sợi chỉ đó xuyên suốt trong
đường lối cách mạng của Đảng qua mọi thời kỳ. Tư tưởng Hồ Chí Minh về
đại đồn kết được coi là một sáng tạo lý luận đặc sắc trong phương pháp cách
mạng của mình. Với sáng tạo đó, cách mạng nước ta đã vượt qua bao thăng
trầm và giành được thắng lợi vẻ vang như ngày hôm nay.
Sự nghiệp đổi mới và xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa của chúng ta trong bối cảnh mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế, giao lưu
với thế giới hiện đại, tình hình quốc tế có nhiều biến động khôn lường, việc
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại tạo nên tổng hợp lực để thực
hiện cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước nhằm đạt mục tiêu dân giàu
nước mạnh, xã hội cơng bằng dân chủ, văn minh cần có sự đồn kết thống
nhất cao độ theo tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh. Do đó u
cầu tìm hiểu sâu sắc tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh nói chung cũng
như giá trị của nó đối với sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta nói riêng là một
vấn đề hết sức cần thiết và cấp bách hiện nay.
Với những lý do trên, tác giả chọn đề tài: "Những cống hiến và sáng
tạo của Hồ Chí Minh trong việc vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin
vào cách mạng Việt Nam về đại đoàn kết" làm tiểu luận nhằm tìm hiểu rõ
hơn về sáng tạo độc đáo của Hồ Chủ tịch. Tuy nhiên, do đề tài được nghiên
cứu trong một thời gian ngắn, kiến thức của tác giả về đối tượng nghiên cứu
vẫn còn hạn chế khó tránh khỏi những thiếu sót, xin được sự đóng góp ý kiến
của các thầy cơ.

2



NỘI DUNG

I. KHÁI QUÁT TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐỒN KẾT

Vấn đề đại đồn kết là một vấn đề được Hồ Chí Minh quan tâm rất lớn
trong suốt cuộc đời của mình. Từ năm1954 đến năm 1969, trong số 1056 bài
viết của mình có trên 406 bài Người viết về vấn đề đoàn kết. (Chiếm hơn 40%
các bài nói và viết của Bác). Trong Hồ Chí Minh tồn tập, Người đã nhắc đi
nhắc lại 2.000 lần cụm từ "đồn kết". Và trong nhiều tác phẩm của mình
Người cùng đề cập tới nó rất nhiều lần như: Sửa đổi lối làm việc: 16 lần; Khai
mạc đại hội thống nhất Việt Minh - Liên Việt: 17 lần; Trong Diễn văn kỷ niệm
quốc khánh (1957): 19 lần…
1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc
1.1.1. Tinh thần yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng dân
tộc của dân tộc Việt Nam
Đại đoàn kết đã hình thành và củng cố trong lịch sử dựng nước và giữ
nước của dân tộc, tạo thành truyền thống bền vững thấm sâu vào tư tưởng,
tình cảm, tâm hồn của mỗi con người Việt Nam. Đối với mỗi người Việt Nam,
yêu nước, nhân nghĩa và đoàn kết trở thành một tình cảm tự nhiên, một triết lý
sống, thành phép tư duy và ứng xử chính trị.
Nhiễu điều phủ lấy giá gương…
Một cây làm chẳng nên non…
Tất cả đã trở thành dấu ấn trong cấu trúc xã hội truyền thống Việt Nam,
tạo thành quan hệ 3 tầng: gia đình, làng xã, quốc gia. (Nhà - làng - nước). Đây
cũng chính là sợi dây liên kết các giai tầng, các dân tộc trong xã hội Việt Nam.
Truyền thống đoàn kết, nhân ái được phản ánh trong kho tàng văn học dân gian,
được các anh hùng trong lịch sử nâng lên thành phép đánh giặc, trị nước.
3



Tập hợp bốn phương manh lệ,
Trên, dưới đồng lòng, cả nước chung sức,
Tướng, sĩ một lòng phụ tử,
Chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân…
Đó là tư tưởng tập hợp lực lượng dân tộc của các nhà yêu nước trong
lịch sử. Hồ Chí Minh đã sớm kế thừa truyền thống yêu nước - nhân nghĩa đoàn kết của dân tộc. Người khẳng định "từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị
xâm lăng thì tinh thần ấy lại sơi nổi, nó kết thành một làn sóng vơ cùng mạnh
mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ
bán nước và lũ cướp nước…". Hồ chí Minh cịn nhấn mạnh phải phát huy
truyền thống ấy trong giai đoạn cách mạng mới "phải giải thích, tuyên truyền,
tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được
thực hành vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến". Chủ nghĩa yêu
nước, truyền thống đoàn kết, cộng đồng của dân tộc Việt Nam là cơ sở đầu
tiên, sâu xa cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
1.1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin
Các ông coi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là
người sáng tạo ra lịch sử, giai cấp vô sản là lực lượng lãnh đạo cách mạng
phải trở thành giai cấp dân tộc. Mác nêu khẩu hiệu "Vơ sản tồn thế giới liên
hiệp lại". Lênin làm cách mạng vô sản thành công ở nước Nga, lực lượng
công - nông là cơ sở để xây dựng lực lượng to lớn của cách mạng, xây dựng
khối đại đoàn kết dân tộc, đại đoàn kết quốc tế. Khẩu hiệu của Mác được mở
rộng "Vơ sản tồn thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại". Chủ nghĩa
Mác-Lênin là cơ sở lý luận quan trọng nhất đối với q trình hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc. Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa
Mác-Lênin vì Người đã tìm thấy con đường giải phóng các dân tộc bị áp bức
khỏi ách nơ lệ, tìm thấy sự cần thiết và con đường tập hợp lực lượng cách
mạng trong phạm vi từng nước và trên phạm vi toàn thế giới.
4



1.1.3. Tổng kết kinh nghiệm thành công và thất bại của các phong
trào yêu nước, phong trào cách mạng Việt Nam và thế giới
Hồ Chí Minh tổng kết, đánh giá các di sản truyền thống về tư tưởng
tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước Việt Nam tiền bối và các phong trào
cách mạng ở nhiều nước trên thế giới, nhất là các phong trào giải phóng dân
tộc thuộc địa, từ đó Người rút ra bài học kinh nghiệm để hình thành và hồn
chỉnh tư tưởng về đại đồn kết của mình. Các phong trào cách mạng Việt
Nam thực tế vừa hào hùng, vừa bi tráng đã chứng tỏ nếu chỉ có u nước thơi
thì khơng đủ để đánh thắng giặc. "Sử ta đã dạy cho ta rằng, khi nào dân ta biết
đồn kết thì khi đó dân ta giành thắng lợi".
Yêu cầu của thời đại mới là phải có lực lượng lãnh đạo đủ sức qui tụ cả
dân tộc vào đấu tranh cách mạng, đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, xây
dựng khối đại đoàn kết dân tộc bền vững thì mới giành thắng lợi. Hồ Chí Minh
đã thấy hạn chế trong phương pháp tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước
tiền bối, Bác đã tìm cách sang Pháp để tìm hiểu và trở về giúp đồng bào mình.
Khi ở nước ngồi, Hồ Chí Minh khảo sát tình hình các nước tư bản
chủ nghĩa và các nước thuộc địa, Bác nhìn thấy tiềm ẩn to lớn của họ và cũng
thấy hạn chế là các dân tộc thuộc địa chưa có tổ chức, chưa biết đồn kết,
chưa có sự lãnh đạo đúng đắn. Trong các phong trào cách mạng thuộc địa và
phụ thuộc, Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến cách mạng của Trung quốc và Ấn
độ, với tư tưởng là đoàn kết các giai tầng, các đảng phái, các tôn giáo… nhằm
thực hiện mục tiêu của từng giai đoạn cách mạng.
Thắng lợi của cách mạng tháng mười Nga, Người đã tìm hiểu thấu đáo
con đường cách mạng tháng Mười, bài học kinh nghiệm quý báu, đặc biệt là
bài học huy động lực lượng quần chúng cơng - nơng giành và giữ chính quyền
xơ-viết non trẻ. Người cho rằng đây là cuộc cách mạng đến nơi, đến chốn. Đó
là cơ sở thực tiễn cho việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết
dân tộc.


5


1.2. Quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh đại đoàn kết
1.2.1. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết
định thành cơng của cách mạng
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đồn kết dân tộc nhất qn, xun suốt
tồn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam. Đó là chiến lược tập hợp lực lượng
nhằm hình thành sức mạnh to lớn của dân tộc chống kẻ thù của dân tộc, của
giai cấp. Do đó đồn kết trở thành vấn đề chiến lược lâu dài của cách mạng,
nhân tố bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng.
Trong từng thời kỳ của cách mạng, có thể phải điều chỉnh chính sách
và phương pháp tập hợp lực lượng cho phù hợp với từng đối tượng, nhưng đại
đoàn kết dân tộc phải là vấn đề sống còn của cách mạng. Hồ Chí Minh đã nêu:
"Đồn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi…, đoàn kết là then chốt của
thành cơng". "Đồn kết là điểm mẹ, điểm này mà thực hiện tốt đẻ ra con cháu
đều tốt". "Đoàn kết, đồn kết, đại đồn kết, Thành cơng, thành cơng, đại thành
cơng". Hồ Chí Minh đi đến kết luận: muốn được giải phóng, các dân tộc bị áp
bức và nhân dân lao động phải tự mình cứu lấy mình bằng đấu tranh cách
mạng, bằng cách mạng vơ sản.
1.2.2. Đại đồn kết dân tộc là mục tiêu, là nhiệm
vụ hàng đầu của cách mạng
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc được quán triệt trong mọi đường lối,
chính sách của Đảng là lực lượng lãnh đạo duy nhất của cách mạng Việt Nam.
Trong lời kết thúc buổi ra mắt của Đảng Lao động Việt Nam năm 1951, Hồ
Chí Minh nêu mục đích của Đảng Lao động Việt Nam gồm 8 chữ: "đoàn kết
toàn dân, phụng sự tổ quốc". Trước Cách mạng tháng 8 và trong kháng chiến
nhiệm vụ của tuyên huấn là làm sao cho đồng bào hiểu được mấy điều: một
là, đoàn kết, hai là, làm cách mạng đòi độc lập dân tộc. Sau kháng chiến Bác
lại nêu nhiệm vụ của tuyên huấn là để dân hiểu: một là, đoàn kết, hai là, xây

dựng chủ nghĩa xã hội, ba là, đấu tranh thống nhất nước nhà.
6


Như vậy, đại đồn kết khơng đơn thuần là phương pháp tập hợp lực
lượng cách mạng, mà đó là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng. Vì
vấn đề cơ bản của cách mạng suy cho cùng là phải có bộ tham mưu đưa ra
đường lối tập hợp sức mạnh toàn dân đánh giặc. Vấn đề đại đoàn kết dân tộc
phải xuất phát từ đòi hỏi khách quan của cách mạng do quần chúng tiến hành.
Đại đoàn kết dân tộc là một chính sách chứ khơng thể là một thủ đoạn chính trị.
Đảng phải có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn, chuyển những đòi hỏi
khách quan, tự phát của quần chúng thành hiện thực có tổ chức, thành sức
mạnh vơ địch của cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân
dân. Hồ Chí Minh cho rằng yêu nước phải thể hiện ở thương dân, khơng
thương dân thì khơng có tinh thần u nước.
1.2.3. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân
Dân và nhân dân là khái niệm có nội hàm rộng, chỉ toàn bộ con dân
nước Việt, "con Lạc, cháu Hồng", "con Rồng, cháu Tiên". Tư tưởng đại đoàn
kết toàn dân là đồn kết với tất cả nhân dân khơng phân biệt: dân tộc thiểu số
hay đa số, tín ngưỡng, già, trẻ, gái, trai, giàu, nghèo… Đoàn kết với mỗi
người dân cụ thể, với tồn thể đơng đảo quần chúng và cả hai đối tượng trên
đều là chủ thể của khối đại đoàn kết dân tộc.
Bác Hồ nêu "Ta đoàn kết là để đấu tranh thống nhất và độc lập Tổ
quốc, ta cịn phải đồn kết là để xây dựng nước nhà. Vậy ai có tài, có đức, có
sức, có lòng phụng sự tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đều đồn kết với
họ". Trong khi xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc phải tin vào dân, dựa vào
dân và phấn đấu vì quyền lợi của nhân dân. Mỗi người "ai cũng ít hay nhiều
có tấm lịng yêu nước" tiềm ẩn. Cần thức tỉnh lương tri của mỗi con người thì
lịng u nước sẽ bộc lộ. Điểm chung để quy tụ khối đại đoàn kết dân tộc là
nền độc dân tộc, là cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân.

Đại đoàn kết dân tộc là nền tảng là gốc rễ là nguồn sức mạnh vô địch,
quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong khi tập hợp khối đại
đồn kết thì "lực lượng chủ yếu của khối đại đoàn kết dân tộc là liên minh
7


công - nông, cho nên liên minh công - nông là nền tảng của mặt trận dân tộc
thống nhất". "đại đoàn kết trước hết là đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đa số
nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác". Về
sau Hồ Chí Minh mở rộng, "liên minh cơng - nơng và lao động trí óc làm nền
tảng của khối đại đồn kết tồn dân". "Trong bầu trời khơng có gì q bằng dân,
trong thế giới khơng có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân".
Điều kiện để thực hiện khối đại đoàn kết toàn dân là: phải kế thừa
truyền thống yêu nước - nhân nghĩa, đoàn kết, phải có tấm lịng khoan dung,
độ lượng. Người mà có lầm lạc, mà biết lỗi thì đồn kết với họ, tránh khoét
sâu cách biệt, "bất kỳ ai mà thật thà tán thành hịa bình, thống nhất, độc lập
dân tộc thì dù người đó trước đây chống lại chúng ta bây giờ chúng ta cũng
thật thà đoàn kết với họ. "Cần xóa bỏ hết mọi thành kiến, cần thật thà đoàn
kết với nhau, giúp nhau cùng tiến bộ để phục vụ nhân dân". Tư tưởng đại
đồn kết có lập trường giai cấp rõ ràng, đó là đồn kết trên nền tảng liên minh
cơng - nơng - trí thức do Đảng lãnh đạo.
1.2.4. Đại đoàn kết phải biến thành sức mạnh vật chất có tổ chức
dưới sự lãnh đạo của Đảng
Khối đại đoàn kết dân tộc phải được giác ngộ về mục tiêu, tổ chức
thành khối vững chắc và hoạt động theo một đường lối chính trị đúng đắn. Và
đưa quần chúng vào tổ chức phù hợp với từng giai tầng, từng lứa tuổi, giới
tính, ngành nghề, tơn giáo, phù hợp với từng bước phát triển của phong trào
cách mạng. Ví dụ có hội hữu ái, hội cơng, hội nơng, hội phụ nữ,…
Mặt trận dân tộc thống nhất là nơi qui tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu
nước. Trong từng thời kỳ mặt trận có tên gọi khác nhau nhưng đó phải là mặt

trận chính trị rộng rãi tập hợp đơng đảo các lực lượng phấn đấu vì hịa bình, vì
mục tiêu của dân tộc.
Nguyên tắc xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất:
Một là, Đoàn kết phải xuất phát từ mục tiêu vì nước, vì dân, trên cơ sở
yêu nước, thương dân, chống áp bức bóc lột, chống nghèo nàn lạc hậu.
8


Hai là, tư tưởng, chiến lược đại đoàn kết dân tộc dựa trên nền tảng liên
minh cơng nơng, trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng thành một khối vững chắc.
Ba là, Mặt trận dân tộc hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân
chủ. Lấy việc thống nhất lợi ích tối cao của dân tộc, của các tầng lớp nhân dân
làm cơ sở củng cố và không ngừng mở rộng mặt trận.
Bốn là, đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, chân thành, thân ái, giúp đỡ nhau
cùng tiến bộ. Đoàn kết phải gắn với đấu tranh, đấu tranh để tăng cường đoàn
kết. Phương châm là "cầu đồng tồn dị" lấy cái chung để hạn chế cái riêng.
Trong đồn kết phải ln đấu tranh chống khuynh hướng cơ độc, hẹp hịi,
đồng thời chống khuynh hướng đồn kết một chiều.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh Đảng cộng sản vừa là thành viên, vừa là người
lãnh đạo mặt trận dân tộc. Đảng lãnh đạo bằng việc xác định chính sách mặt trận
đúng đắn, phù hợp với từng thời kỳ của cách mạng. Đảng phải dùng phương
pháp vận động, giáo dục, thuyết phục, nêu gương, lấy lịng nhân ái để cảm hóa
khơi dậy tinh thần tự giác, tự nguyện, khơng gị ép quan liêu mệnh lệnh.
Từ đoàn kết dân tộc đến đoàn kết quốc tế, tư tưởng đại đồn kết của
Hồ Chí Minh là kết tinh mối quan hệ biện chứng giữa dân tộc với giai cấp,
nhân loại. Mở rộng khối đại đoàn kết đến đâu thì giải quyết đúng đắn mối
quan hệ dân tộc, giai cấp, nhân loại đến đó. Quyền lợi của nhân dân lao động
luôn gắn với quyền lợi tối cao của dân tộc.
II. CHIẾN LƯỢC ĐẠI ĐỒN KẾT HỒ CHÍ MINH QUYẾT ĐỊNH THẮNG
LỢI CỦA CÁCH MẠNG VIỆT NAM


2.1. Mở rộng khối đoàn kết là tăng thêm thắng lợi cho cách mạng
Việt Nam
Tổng kết lịch sử dân tộc, Hồ Chí Minh đã kết luận: "Lúc nào dân ta
kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta
khơng đồn kết thì bị nước ngồi xâm lấn" 1. Còn khi tổng kết cách mạng Việt
1

. Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, T3, Tr. 217.

9


Nam, Hồ Chí Minh đã nêu rõ: "Đồn kết trong mặt trận dân tộc thống nhất
rộng rãi, đoàn kết quốc tế để thế giới ủng hộ, giúp đỡ một trong những nhân
tố quan trọng quyết định thắng lợi của cách mạng"1.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đồn kết dân tộc là vấn đề có ý
nghĩa chiến lược, cơ bản, nhất quán, lâu dài, xuyên suốt tiến trình cách
mạng. Theo Hồ Chí Minh đại đồn kết cịn là một bộ phận hữu cơ hết sức
quan trọng của đường lối cách mạng. Đây là một mặt không thể thiếu và là
một bộ phận quyết định thắng lợi của cách mạng. Người đã từng dạy rằng: "…
Một dân tộc dù nhỏ yếu, nhưng đoàn kết chặt chẽ dưới sự lãnh đạo của giai cấp
cơng nhân và Đảng của nó, đi đúng đường lối của Chủ nghĩa Mác- Lênin, thì
nhất định thắng được đế quốc xâm lược".
Để quy tụ được mọi lực lượng vào khối đại đồn kết tồn dân, cần
phải có chính sách và phương pháp phù hợp với từng đối tượng. Mỗi đối
tượng có một phương pháp khác nhau nhưng dù ở đối tượng nào thì Bác cũng
ln coi trọng phương pháp tuyên truyền giáo dục, Người luôn tuyên truyền
trong quần chúng:
Khuyên ai nên nhớ chữ đồng

Đồng lòng, đồng sức, đồng tình, đồng minh
Trong từng thời kỳ, chính sách và phương pháp tập hợp có thể và cần
thiết phải điều chỉnh cho phù hợp với từng đối tượng khác nhau, song đại
đồn kết dân tộc phải ln được nhận thức là vấn đề sống còn, quyết định
thành bại của cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh đồn kết càng chặt chẽ, đồn kết càng rộng rãi thì
thắng lợi của cách mạng càng to lớn. Lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng
minh được điều đó. Cụ thể: Đồn kết trong Mặt trận Việt Minh (Việt Nam độc
lập đồng minh 5/1941), nhân dân ta làm nên thắng lợi cách mạng tháng Tám,
lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hịa; Đồn kết trong Mặt trận Liên Việt
(Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam 5/1946), nhân dân ta đã kháng chiến thắng
1

. Hồ Chí Minh, Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, T3, Tr. 217.

10


lợi, lập lại hịa bình ở Đơng Dương, hồn tồn giải phóng miền Bắc; Đồn kết
trong mặt trận giải phóng miền Nam Việt Nam 12/1960, nhân dân miền Nam
thực hiện thắng lợi cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân; Đoàn kết trong
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nhân dân ta giành được thắng lợi trong khôi phục
kinh tế, cải tạo chủ nghĩa xã hội và trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở miền Bắc và sau này là trên cả nước.
Từ thực tiễn đó, Hồ Chí Minh đã khái qt thành nhiều luận điểm có
tính chân lý về vai trị của khối đại đồn kết: "Đồn kết là sức mạnh của
chúng ta. Đoàn kết chặt chẽ thì nhất định chúng ta có thể khắc phục mọi khó
khăn, phát triển mọi thuận lợi và làm trịn nhiệm vụ nhân dân giao phó."
"Đồn kết là sức mạnh, đồn kết là thắng lợi". "Đoàn kết là điểm mẹ,
điểm này thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt. Điểm mẹ có ý nghĩa là điểm

chung nhất, là nguồn gốc xuất phát của mọi vấn đề".
Đảng ta coi vấn đề đại đoàn kết là vấn đề chiến lược,Đại hội X đã chỉ
ra: Thực hiện đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng là đường
lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; Là nguồn sức mạnh, động lực chủ
yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định đảm bảo thắng lợi của sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; Bản thân đại đoàn kết là
nguyên tắc, phương pháp thực hiện đại đồn kết.
2.2. Đại đồn kết là vấn đề sống cịn trong tồn bộ tiến trình cách
mạng Việt Nam
2.2.1. Đại đồn kết và thắng lợi của cách mạng tháng Tám
* Chiến lược đại đoàn kết trong cương lĩnh của Đảng
Trong Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 2 năm 1930,
Hồ Chí Minh đã soạn thảo Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Các nhiệm
vụ cách mạng được đặt ra trong cương lĩnh bao hàm cả nội dung dân tộc và
dân chủ, chống đế quốc và chống phong kiến, mở đường phát triển cho đất
nước tiến lên chủ nghĩa cộng sản, trong đó nổi bật lên hàng đầu là nhiệm vụ
11


giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do cho toàn thể đồng bào. Trên cơ sở
mục tiêu, chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã đề ra
chiến lược đoàn kết dân tộc với đường lối vận động, thu phục được đông đảo
công nhân, lôi kéo tư sản, trí thức, trung nơng đi về phía giai cấp vô sản, tập
hợp hoặc trung lập phú nông, trung tiểu địa chủ và tư sản Việt Nam. Trong khi
tập hợp, đoàn kết rộng rãi với các giai cấp và tầng lớp nhân dân trong lòng
dân tộc phải đứng vững trên lợi ích cơ bản của cơng - nơng, khơng rơi vào
khuynh hướng thỏa hiệp vô nguyên tắc, hy sinh quyền lợi cho một giai cấp
khác. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng là cương lĩnh cách mạng giải phóng dân
tộc đúng đắn, sáng tạo, khá nhuần nhuyễn về quan điểm giai cấp của thời đại,

thấm đậm tính dân tộc chính đáng. Độc lập dân tộc và tự do là tư tưởng chủ
yếu, là viên ngọc quy được khảm trong cương lĩnh Hồ Chí Minh.
Cương lĩnh chính trị là nền tảng và mục tiêu để thực hiện chiến lược
đoàn kết dân tộc rộng rãi bao gồm mọi giai cấp, tầng lớp và cá nhân yêu
nước, hình thành một mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi dưới sự lãnh đạo
của Đảng cộng sản đấu tranh nhằm thực hiện khẩu hiệu: "Việt Nam độc lập,
Việt Nam tự do".
Thành lập được một Đảng cộng sản ở một nước thuộc địa, nơi lực lượng
của giai cấp công nhân rất nhỏ bé để lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc, thực
hiện một nước Việt Nam độc lập, tự do theo định hướng cộng sản chủ nghĩa, xác
định đường lối cách mạng đúng đắn, vấn đề sống cịn và cấp bách của tồn dân
với chiến lược đồn kết dân tộc rộng rãi trong đó cơng - nông là gốc của cách
mạng. Đây là một thành cơng của Hồ Chí Minh trong việc xác định quan
điểm và chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam năm 1930.
Thành công hay thất bại của cách mạng giải phóng theo định hướng
Cộng sản chủ nghĩa trước hết tùy thuộc vào việc xác định các quan điểm trên
của Hồ Chí Minh và chiến lược đồn kết dân tộc rộng rãi có thực hiện thành
cơng hay khơng là tùy thuộc vào việc nắm vững và giải quyết mối quan hệ
hiện có với việc xác định và đấu tranh vì độc lập, tự do và đặt dưới sự lãnh
đạo của đảng vô sản.
12


* Xây dựng khối đoàn kết trong những năm đầu của thực
tiễn cách mạng
Năm 1930, sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, một cao trào
giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng của Hồ Chí Minh đã mở ra
mạnh mẽ, đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh. Qua phong trào đó ta thấy ngồi
cơng - nơng ra cịn có trí thức, sĩ phu, một số trung tiểu địa chủ cũng có xu
hướng cách mạng rõ rệt. Khi phong trào bị khủng bố trắng, họ vẫn cố gắng

gắn với cách mạng, âm thầm ủng hộ và kính trọng phong trào cơng - nơng
và Đảng Cộng sản. Điều đó là một thực tiễn sinh động chứng minh tư tưởng
độc lập, tự do và chiến lược đoàn kết, động viên sức mạnh dân tộc của Hồ
Chí Minh là đúng đắn. Giương cao ngọn cờ độc lập, tự do, lấy liên minh
công nông làm gốc, khắc phục khuynh hướng phân biệt giai cấp hẹp hòi,
động viên và tập hợp tiểu tư sản trí thức, tư sản dân tộc và cả những địa chủ
yêu nước chống Pháp để hình thành một mặt trận thống nhất rộng rãi là bài
học kinh nghiệm đầu tiên về thực hiện chiến lược đoàn kết dân tộc của Hồ
Chí Minh.
Từ năm 1930 - 1945, tư tưởng cách mạng và chiến lược đồn kết dân
tộc của Hồ Chí Minh ngày càng được Đảng và nhân dân ta tiếp nhận một cách
sâu sắc và phát triển hoàn chỉnh hơn. Nó thực sự là kim chỉ nam hành động
của Đảng ta và của toàn dân tộc Việt Nam.
Vượt qua những vấp váp của thời "ấu trĩ" những năm 1930 - 1935, từ
năm 1936 trở đi, Đảng ta có sự điều chỉnh khá lớn về chiến lược cách mạng
và công tác vận động quần chúng xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Văn
kiện "chung quanh vấn đề chính sách mới" của Đảng cộng sản Đông Dương
công bố ngày 30/10/1936 đã thể hiện khá đậm nét tư tưởng độc lập, tự do của
Hồ Chí Minh. Văn kiện nêu rõ Đảng phải " chú ý phát triển đường lối dân tộc
giải phóng mà không nên chỉ chú trọng phát triển về đường giai cấp đấu
tranh, nó có thể hãm cuộc đấu tranh lại. Phải coi trọng việc bồi dưỡng một
tinh thần dân tộc mạnh mẽ trong dân chúng bị áp bức không trái với quyền lợi

13


vơ sản giai cấp". "Vấn đề dân tộc giải phóng là một nhiệm vụ quan trọng của
người cộng sản"1. Từ nhận thức đó, Đảng kêu gọi các Đảng phải "bỏ những
quyền lợi ích kỷ hẹp hịi, lấy quyền lợi nhân dân làm đầu, làm cốt. để đoàn kết
lực lượng toàn cả dân tộc ở Đơng Dương mưu sự giải phóng dân tộc"2.

Căn cứ vào hoàn cảnh thực tế trước mắt trong những năm 1936 1939, Đảng xác định: Nhiệm vụ dân tộc trước mắt của nhân dân Đông Dương
lúc này là đấu tranh chống bọn phản động và tay sai, chống phát xít, chống
chiến tranh đế quốc địi quyền tự do, cơm áo, hịa bình. Vì thế phải thực hiện
một mặt trận đoàn kết nhân dân rộng rãi bao gồm các giai cấp, các đảng phái,
đồn thể chính trị và tín ngưỡng tơn giáo khác nhau, các dân tộc ở xứ Đơng
Dương để đấu tranh địi quyền tự do dân chủ… Lúc này Hồ Chí Minh đang ở
nước ngồi, Người đã truyền đạt cho Ban chấp hành trung ương những ý kiến
chỉ đạo về việc lập một mặt trận dân tộc dân chủ rộng rãi. Mặt trận ấy khơng
chỉ có người Đơng Dương, khơng chỉ có nhân dân lao động mà bao gồm cả
những người Pháp tiến bộ ở Đông Dương, khơng chỉ có nhân dân lao động
mà bao gồm cả tư sản dân tộc, Đảng phải có thái độ khéo léo, mềm dẻo, phải hết
sức lôi kéo họ và giữ họ ở trong mặt trận, thúc đẩy họ hành động nếu có thể,
cơ lập họ về chính trị nếu cần. "Tránh hết sức để họ ở ngoài mặt trận, vì như
thế là để họ rơi vào trong bọn phản động, là tăng thêm lực lượng cho chúng".2
Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời và trưởng thành trong phong trào
cách mạng giải phóng dân tộc, các đảng viên của Đảng là con cháu các dân
tộc ở Đơng Dương phải có trách nhiệm và thành tâm bảo vệ quyền lợi của
đồng bào mình, của Tổ quốc, khơng phân biệt thành phần giai cấp, tôn giáo,
sắc tộc. Đảng Cộng sản Đông Dương là đảng của giai cấp công nhân, là Đảng
của dân chúng bị áp bức, đội tiền phong cho các dân tộc ở Đông Dương. Để
thực hiện sứ mệnh xây dựng khối đoàn kết dân tộc, Đảng "phải tỏ ra là một bộ
phận trung thành nhất. Chỉ có trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi quần
1

, 2. Văn kiện Đảng 1930-1945, Ban nghiên cứu lịch sử Đảng trung ương, Nxb Hà Nội, 1997, t2, tr 126 -127.
. Văn kiện Đảng 1930-1945, Ban nghiên cứu lịch sử Đảng trung ương xuất bản, Hà Nội, 1997, t2, tr 137.

2

14



chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng,
thì mới giành được địa vị lãnh đạo". Đó là một luận điểm có giá trị lý luận và
thực tiễn sâu sắc về bản chất cách mạng, bản chất nhân dân và dân tộc của
một Đảng cách mạng vơ sản của Hồ Chí Minh.
Nhờ có quan điểm và chủ trương của Đảng và Hồ Chí Minh cùng với
nghệ thuật biết thích nghi yêu cầu của thực tiễn đất nước, Đảng đã phát triển
được một cao trào đấu tranh rộng lớn của quần chúng, tập hợp được một đạo
qn chính trị mạnh mẽ có tính tồn dân tộc, khẳng định quyền lãnh đạo của
Đảng mà không một thế lực nào lúc bấy giờ có thể cạnh tranh giành nổi trong
thời kỳ vận động cách mạng 1936 - 1939.
* Tăng cường đoàn kết trong mặt trận Việt Minh, tồn dân khởi nghĩa
giành chính quyền
Trong những năm 1939 - 1945, ách thống trị của Pháp, Nhật đã trở
nên nặng nề hơn bao giờ hết. Vaans đề mất còn của dân tộc đã đặt ra trước
mắt mọi người Việt Nam. Vì vậy, Đảng ta và Hồ Chí Minh đã quyết định điều
chỉnh chiến lược, nêu cao ngọn cờ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Coi cách
mạng ở Đơng Dương là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, vấn đề sống cịn
của các dân tộc ở Đơng Dương lúc này khơng có con đường nào khác hơn là
con đường đánh đổ đế quốc Pháp và Nhật, vì nếu khơng đánh đuổi được
Pháp, Nhật thì vận mệnh cách mạng của dân tộc phải chịu kiếp ngựa trâu
muôn đời… Đảng và Hồ Chí Minh đã quyết định tập hợp rộng rãi mọi lực
lượng yêu nước không phân biệt công nhân, nông dân, tiểu tư sản, tư sản bản
xứ, địa chủ yêu nước vào Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh, gọi tắt là
Việt Minh - một mặt trận có tên gọi hết sức thống thiết có tính chất dân tộc
cao, có sức mạnh hiệu triệu, đánh thức tinh thần dân tộc của toàn dân nhằm
đánh Pháp, đuổi Nhật. Sau khi đánh đuổi được đế quốc Pháp, Nhật sẽ thành
lập một Chính phủ Nhân dân của Việt Nam dân chủ cộng hòa lấy cờ đỏ sao
vàng năm cánh làm cờ tổ quốc. Chương trình cứu nước của Việt Minh cốt

thực hiện 2 điều mà toàn thể đồng bào Việt Nam đang mong muốn: Làm cho

15


nước Việt Nam hoàn toàn độc lập; Làm cho nhân dân Việt Nam được hưởng
sung sướng, tự do.
Hồ Chí Minh trong bức thư gửi đồng bào cả nước đã nêu rõ: "Bảy
tám mươi năm nay, dưới quyền thống trị của giặc Pháp, chúng ta luôn luôn
tranh đấu giành quyền độc lập tự do… Việc lớn chưa thành khơng phải vì đế
quốc mạnh nhưng một là vì cơ hội chưa chín, hai là vì dân ta chưa hiệp lực
đồng tâm.
Nay cơ hội giải phóng đến rồi, muốn đánh Pháp, Nhật ta chỉ cần một điều:
Toàn dân đoàn kết.
Hỡi đồng bào!
Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta
phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra
khỏi nước sôi lửa bỏng…
Việc cứu quốc là việc chung. Ai là người Việt Nam đều phải kề vai
gánh vác một phần trách nhiệm: Người có tiền góp tiền, người có của góp
của, người có sức góp sức, người có tài năng góp tài năng…
Tồn thể đồng bào tiến lên!
Đồn kết thống nhất đánh đuổi Pháp, Nhật"1
Các giai cấp, các tầng lớp nhân dân được tập hợp trong các đoàn thể
cứu quốc: Công nhân cứu quốc, nông dân cứu quốc, thanh niên cứu quốc, phụ
nữ cứu quốc. Vượt qua hoàn cảnh của các tổ chức có tính chất cơ độc trước
những năm đầu của thập kỷ 30, Việt Minh đã thực sự trở thành trung tâm tập
hợp, đoàn kết các giai cấp, các đảng phải chính trị, và các cá nhân u nước.
Đảng và Hồ Chí Minh đã thơng qua Việt Minh các cấp để vận động, tổ
chức và lãnh đạo lực lượng dân tộc thực hiện nhiệm vụ trung tâm là chuẩn bị

và tiến lên khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.

1

. Hồ Chí Minh: Tồn tập, t3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1995, tr 197-198

16


Từ những tổ chức thí điểm Việt Minh đầu tiên ở Hà Quảng (Cao
Bằng) của Hồ Chí Minh, Việt Minh đã phát triển dần ra toàn quốc, tiêu biểu
nhất là các tỉnh ở Việt Bắc. Trong bài học kinh nghiệm Việt Minh ở Việt Bắc,
Võ Nguyên Giáp viết: "Đặc điểm to nhất, đáng chú y nhất của Việt Nam độc
lập Đồng minh ở Việt Bắc là tính chất rộng rãi, rộng rãi đến một trình độ xưa
nay chưa từng thấy trong lịch sử cách mạng nước ta, rộng rãi về phạm vi:
từng xã, từng tổng, từng châu, từng huyện đã hoàn toàn tham gia vào đội ngũ
cách mạng, rộng rãi về thành phần nhân dân: nam, phụ, lão, ấu rầm rộ tham
gia vào công tác cứu quốc, chỉ trừ một số ít trung lập và phản động"1
Việt Bắc là một vùng kinh tế, văn hóa phát triển ở mức độ thấp, nơi cư
trú của nhiều dân tộc ít người, có đặc điểm kinh tế, văn hóa, phong tục tập
quán khác nhau. Song quần chúng nhân dân các dân tộc đã tham gia Việt
Minh rộng rãi có tính tồn diện, hình thành các cơ sở Việt Minh "hồn tồn".
Đó là các "xã hồn tồn", "tổng hồn tồn", và có thể nói cả "châu hồn tồn".
Điều đó nói lên sức hấp dẫn của tư tưởng, mục tiêu đấu tranh vì nước Việt
Nam độc lập, tự do, chiến lược và nghệ thuật động viên, tập hợp, tổ chức dẫn
dắt dân chúng tài tình của Hồ Chí Minh.
Khơng chỉ ở miền núi và đồng bằng, phong trào Việt Minh đã phát
triển ngày càng mạnh mẽ ở Hà Nội, Huế, Sài Gòn và các thành phố khác. Ý
thức dân tộc được khơi dậy mạnh mẽ từ các phong trào thanh niên, học sinh,
trí thức. Đảng Dân chủ Việt Nam ra đời và tham gia mặt trận Việt Minh đã

làm cho mặt trận dân tộc thống nhất thêm rộng rãi, thu hút được nhiều nhà
văn hóa, văn nghệ, trí thức và tư sản dân tộc yêu nước vào sự nghiệp đấu
tranh chống Nhật, Pháp.
Chương trình cứu nước của Việt Minh nêu rõ sau khi đánh đuổi được
bọn đế quốc phát xít "sẽ lập nên một chính phủ cách mạng của nước Việt nam
dân chủ cộng hòa, theo tinh thần dân chủ lấy cờ đỏ sao vàng làm là cờ chung
của nước. Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa do Quốc dân, Đại hội

1

. Văn kiện Đảng 1930-1945, Ban nghiên cứu lịch sử Đảng trung ương xuất bản, Hà Nội, 1997, t3, tr 461, 443

17


cử lên"2. Hồ Chí Minh rất coi trọng việc mở quốc dân đại hội. Tháng 10/1944,
trong bối cảnh quốc tế và Việt Nam rất khẩn trương, Hồ Chí Minh viết thư gửi
đồng bào tồn quốc thơng báo chủ trương triệu tập đại hội đại biểu quốc dân
để thành lập một "một cơ cấu đại biểu cho sự chân thành đoàn kết và hành
động nhất trí của tồn thể quốc dân ta" để tọa nên sức mạnh dân tộc bên trong
và tranh thủ ngoại viện của quốc tế nhằm chớp thời cơ thuận lợi thực hiện cho
kỳ được mục tiêu độc lập tự do. Cơ cấu tổ chức đại diện hợp pháp cho toàn
dân "phải do một cuộc toàn quốc đại biểu Đại hội gồm tất cả các đảng phái
cách mệnh và các đoàn thể ái quốc trong nước bầu cử ra. Một cơ cấu như thế
mới đủ lực lượng và oai tín, trong thì lãnh đạo cơng việc cứu quốc, ngồi thì
giao thiệp với các ngoại bang"2.
Tình hình chính trị ở Việt Nam và thế giới có nhiều biến chuyển mau
lẹ. Tháng 3/1945, Nhật lật đổ Pháp, độc chiếm Đông Dương tạo ra một cuộc
khủng hoảng chính trị sâu sắc. Cao trào kháng Nhật của nhân dân ta nổ ra
mau lẹ. Hàng loạt xã, tổng, châu, huyện ở Việt Bắc được giải phóng. Ủy ban

dân tộc giải phóng ở các cấp được thành lập trong khu giải phóng.
Tháng 5/1945, Hồ Chí Minh về Tân Trào, Người chỉ thị phải chuẩn bị
gấp để họp Đại hội Quốc dân. Ngày 15/8/1945, được tin đích xác vua Nhật đã
ra lệnh đầu hàng cho qn đội Nhật, Hồ Chí Minh thấy khơng thể chờ đợi cho
thật đông đủ tất cả mọi đại biểu nữa nên đã quyết định khai mạc đại hội đại
biểu quốc dân vào chiều 16/8/1945 tại Tân Trào. Ngay sau đó, Hồ Chí Minh chủ tịch ủy ban dân tộc giải phóng đã gửi thư kêu gọi quốc dân đồng bào hãy
đứng dậy đem sức ta mà giải phóng cho ta.
Quốc dân Đại hội diễn ra khẩn trương trong đêm trước cuộc cách
mạng tháng Tám 1945 là một thắng lợi to lớn của khối đại đoàn kết dân tộc,
đồng tâm nhất trí đứng lên đem sức ta mà giải phóng cho ta ở một thời cơ
thuận lợi ngàn năm có một. Thắng lợi đó là một khuyên son sáng tạo của Hồ
Chí Minh trong việc vận dụng và thực thi từng bước tư tưởng dân quyền vào
1

. Văn kiện Đảng 1930-1945, Ban nghiên cứu lịch sử Đảng trung ương xuất bản, HN, 1997, t3, tr 461, 443
. Hồ Chí Minh: Tồn tập, t3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1995, tr505 - 506

2

18


tiến trình đấu tranh giành độc lập dân tộc bằng cách tổ chức Quốc dân đại hội
để thông qua quyết sách chuyển xoay vận nước bằng Tổng khởi nghĩa, xóa bỏ
chế độ thực dân gần một trăm năm và chế độ quân chủ phong kiến hàng thế
kỷ trên đất nước ta, dựng nên chế độ dân chủ cộng hòa, đặt cơ sở mang tính
pháp lý cách mạng đầu tiên cho một chế độ mới của dân, do dân, vì dân.
Thực hiện nghị quyết tổng khởi nghĩa giành chính quyền của Quốc
dân đại hội và lời kêu gọi của Hồ Chí Minh, nhân dân toàn quốc đã nhất tề nổi
dậy với ý chí dù có hy sinh đến đâu, dù có đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng

phải giành cho được chính quyền, đứng ở địa vị của người chủ đất nước để
đón quân đồng minh vào giải giáp quân Nhật. Cuộc tổng khởi nghĩa đã nhanh
chóng giành được thắng lợi, tiêu biểu là khởi nghĩa ở Hà Nội, Huế, Sài Gịn.
Trong q trình khởi nghĩa chúng ta đã thực hiện sách lược phân hóa hàng
ngũ của bộ máy chính quyền Trần Trọng Kim, kể cả các quan lại cao cấp và
hồng đế Bảo Đại. Bảo Đại đã xin thối vị để "được làm dân tự do của một
nước độc lập".
Cách mạng tháng Tám thành công trong cả nước. Ngày 25/8/1945, ủy
ban dân tộc giải phóng về Hà Nội. Theo đề nghị của Hồ Chí Minh, ủy ban dân
tộc giải phóng được cải tổ thành chính phủ lâm thời của Việt Nam dân chủ
cộng hịa. Nhiều nhân sĩ ngồi Việt Minh được tham gia vào chính phủ như
Nguyễn Văn Tố, Nguyễn Mạnh Hà, Vũ Trọng Khánh, Đào Trọng Kim, Vũ
Đình Hịe… nhằm mở rộng hơn nữa khối đoàn kết quốc gia dân tộc. Chính
phủ lâm thời thực sự là một chính phủ quốc gia thống nhất. Ngày 2/9/1945,
Hồ Chí Minh thay mặt chính phủ lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn
độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Tuyên bố đã khẳng
định quyền dân tộc cơ bản của tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình
đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Và
nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã trở thành một
nước tự do.

19


Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945 và sự ra đời của một nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa là một mốc vàng chói lọi trong lịch sử tiến hóa
của dân tộc Việt Nam, mở ra một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập, tự do.
Cuộc cách mạng tháng Tám 1945 đã diễn ra và thắng lợi bằng cuộc khởi
nghĩa dân tộc trong cả nước. Cuộc khởi nghĩa đó đã mang tính nhân dân, tính
dân tộc sâu sắc. Sức mạnh của dân tộc Việt Nam được phát huy mạnh mẽ và

triệt để trên cơ sở tư tưởng độc lập tự do. Vì vậy Việt Minh khơng chỉ làm nức
lòng và quy tụ sức mạnh dân tộc đứng lên đánh Pháp, đuổi Nhật thắng lợi mà
mãi mãi là nét vàng chói lọi soi sáng con đường đại đồn kết của Đảng ta hôm
nay và mai sau.
Giương cao ngọn cờ độc lập tự do, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu
nước và đoàn kết thống nhất dân tộc, dựa vững vào khối liên minh công nhân
với nông dân và tiểu tư sản trí thức, đồn kết chân thành với mọi lực lượng,
mọi cá nhân yêu nước và tiến bộ của dân tộc trong mặt trận Việt Minh là một
thành công và là một bài học kinh nghiệm sáng tạo tuyệt vời về chiến lược đại
đoàn kết và tài nghệ tổ chức, dẫn dắt khối đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh
trong cuộc Cách mạng tháng Tám 1945.
2.2.2. Chiến lược đại đoàn kết và thắng lợi của sự nghiệp kháng
chiến kiến quốc
* Toàn dân đoàn kết xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng
Từ năm 1945 trở đi, Đảng và Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng
hịa đã lãnh đạo và tổ chức nhân dân trong cả nước thực hiện đường lối:
"kháng chiến kiến quốc" (1945 - 1954); vừa đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân
chủ ở miền Nam, vừa ra sức xây dựng miền Bắc theo định hướng xã hội chủ
nghĩa (1945 -1975). Hồ Chí Minh là linh hồn của cuộc cách mạng và kháng
chiến cứu nước của dân tộc Việt Nam. Đây là thời kỳ Đảng nắm chính quyền,
Hồ Chí Minh là chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, người đứng đầu
cơ quan hành pháp. Chính quyền cách mạng là cơng cụ sắc bén để động viên,
tổ chức quần chúng thực thi các nhiệm vụ của cách mạng và kháng chiến theo

20


luật pháp của Quốc hội. Mọi người Việt Nam đều phải thực thi nghĩa vụ của
người công dân. Song không vì vậy mà Đảng coi nhẹ cơng tác vận động quần
chúng, thực hiện khối đoàn kết dân tộc theo tư tưởng đại đồn kết Hồ Chí

Minh. Chính Người là linh hồn và là nhà kiến trúc vĩ đại khối đoàn kết dân
tộc trong điều kiện mới - điều kiện mà Đảng cầm quyền. Sức mạnh khối đại
đoàn kết toàn dân được tổ chức lại dưới sự lãnh đạo của Đảng, dưới ngọn cờ
Độc lập - Tự do của Hồ Chí Minh. Quần chúng tham gia chiến đấu bảo vệ
chính quyền cách mạng, bảo vệ độc lập tự do không chỉ vì nghĩa vụ theo pháp
luật quy định mà trước hết là thực hiện mệnh lệnh của trái tim, khối óc của
họ, của sự giác ngộ về quyền lợi sống còn của Tổ quốc.
Năm đầu sau cách mạng tháng Tám thành cơng, nước Việt Nam dân
chủ cộng hịa đứng trước tình thế ngàn cân treo sợi tóc, Đảng và Hồ Chí Minh
đã nêu cao khẩu hiệu "dân tộc trên hết, tổ quốc trên hết". Khác với nội dung
cơ bản trước đây của vấn đề dân tộc là đấu tranh đánh đổ ách thống trị của đế
quốc và tay sai để giành chính quyền, cịn ngày nay là đấu tranh chống giặc
ngồi, thù trong để giữ cho được chính quyền cách mạng vừa mới giành được.
Giữ vững được chính quyền cách mạng là u cầu sống cịn của nhân dân ta.
Chính quyền là cơng cụ sắc bén, là địn bẩy để đưa cách mạng tiến lên. Muốn
vậy phải tăng cường đoàn kết tồn dân, hịa hợp dân tộc, loại trừ chia rẽ, đối
lập, xây dựng và củng cố chính quyền quốc gia để kháng chiến kiến quốc.
Nắm vững ngọn cờ độc lập, tự do, thực hiện chiến lược đoàn kết dân
tộc, thống nhất quốc gia, Hồ Chí Minh đã đề ra nhiều chủ trương chính trị
nhạy bén và sáng suốt. Một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để
củng cố và tăng cường sức mạnh của chính quyền, thực hiện quyền dân chủ
cho toàn dân, thống nhất quốc gia dân tộc trên cơ sở sức mạnh của quần
chúng và của pháp quyền cách mạng là phải xúc tiến việc bầu cử Quốc hội để
quy định Hiến pháp, bầu chính phủ chính thức. Vì vậy ngày 3/9/1945 trong
phiên họp đầu tiên của chính phủ lầm thời, Hồ Chí Minh đã đề nghị Chính
phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc Tuyển cử theo chế độ phổ thông đầu phiếu

21



để bầu Quốc hội, cơ quan quyền lực tối cao thay mặt nhân dân Việt Nam để
ấn định một Hiến pháp dân chủ cộng hòa. Đây là một việc làm cần thiết để
tồn dân tham gia vào cơng cuộc củng cố nền độc lập và chống ngoại xâm.
Hồ Chí Minh đã đề ra nhiều chủ trương và biện pháp để tập hợp lực
lượng cách mạng, đoàn kết dân tộc, thu phục nhân tài, sử dụng nhân sĩ trí thức
phục vụ kháng chiến kiến quốc. Nhiều nhân sĩ trí thức được Hồ Chí Minh mời
tham gia vào bộ máy hành chính và các cơ quan chuyên môn ở các cấp, nhất
là ở trung ương. Cựu hoàng Bảo Đại vừa mới tuyên bố thoái vị, giao nộp ấn
kiếm của nhà vua cho chính phủ lâm thời được Hồ Chí Minh cử làm cố vấn
chính phủ theo sắc lệnh 23/SL, ngày 10/9/1945. Ủy ban kiến quốc được thành
lập đã tập hợp được nhiều nhân sĩ trí thức vào cơng cuộc kiến thiết đất nước.
Hồ Chí Minh kêu gọi tha thiết các cá nhân, các tầng lớp, đảng phái, tơn giáo,
dân tộc hãy vì quyền lợi thiêng liêng của Tổ quốc, hãy đoàn kết để chống kẻ
thù chung. Trong một bức thư gửi Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam tại
Playcu, tháng 4/1946, Hồ Chí Minh đã nêu lên cố kết dân tộc là một nét tiêu
biểu trong bản sắc dân tộc Việt Nam. Người viết:
"Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia rai hay Êđê, Xê
Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều
là an em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói
cùng nhau…
Giang sơn và Chính phủ chung của chúng ta. Vậy nên tất cả dân tộc chúng
ta phải đoàn kết chặt chẽ để giữ gìn nước non ta, để ủng hộ Chính phủ ta…
Sơng có thể cạn, núi có thể mịn, nhưng lịng đồn kết của chúng ta
khơng bao giờ giảm bớt. Chúng ta quyết góp chung lực lượng lại để giữ vững
quyền tự do, độc lập của chúng ta"1
Mặt trận dân tộc thống nhất được tiếp tục mở rộng đưa đến sự ra đời
của Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam gọi tắt là Liên Việt. Để tổ chức, động
viên được tồn dân tham gia cơng cuộc xây dựng chính quyền, củng cố nền
1


. Hồ Chí Minh: Tồn tập, t4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1995, tr217 - 218

22


độc lập tự do, Hồ Chí Minh đã tổ chức Tổng tuyển cử bầu ra Quốc hội của
độc lập dân tộc, của đại đoàn kết toàn dân. Đại biểu quốc hội là đại biểu của
tất cả các ngành, các cấp, các tầng lớp xã hội.
Những năm 1945 - 1946, đất nước ta có nhiều đảng phái phản động
chống đối quyết liệt. Các đảng Việt Quốc, Việt Cách dựa vào quân đội Tưởng
Giới Thạch chống Việt Minh, chống Đảng Cộng sản và lật đổ Chính phủ cách
mạng do Hồ Chí Minh đứng đầu. Trong tình thế đó, chúng ta phải biết loại trừ
chia rẽ, hạn chế và ngăn chặn đối lập, thực hiện thống nhất quốc gia, tập trung
lực lượng chống đế quốc xâm lược. Với bản lĩnh cách mạng triệt để Hồ Chí
Minh đã nắm vững và giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc thống nhất quốc
gia, dựa vào sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết lực lượng yêu
nước và cách mạng trong Quốc hội, trong chính phủ đồng thời có sách lược
khơn khéo, mềm dẻo, nhân nhượng có nguyên tắc để từng bước làm thất bại
âm mưu phá hoại của họ buộc họ từ đối lập phải đồng tình và hợp tác với ta
bảo vệ độc lập, tự do dân tộc. Hàng loạt các chủ trương, biện pháp cách mạng
được Hồ Chí Minh thực thi để giữ gìn khối đồn kết dân tộc phù hợp với điều
kiện lịch sử cụ thể lúc bầy giờ, khi thì thỏa hiệp, nhân nhượng, khi thì kiên
quyết, cứng rắn để tập hợp được tối đa các thành viên, tận dụng được triệt để
nhất những thuận lợi cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Trong quá trình đấu tranh để mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất bao
gồm mọi tầng lớp nhân dân (kể cả việc chú trọng lôi kéo tầng lớp địa chủ
phong kiến, các tôn giáo nhất là Cơng giáo và hà hỗn nhân nhượng với các
đảng phái đối lập), Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm xây dựng các tổ chức quần
chúng công nông, các lực lượng vũ trang cách mạng, các tổ chức chính quyền
cơ sở, thực hiện chính sách kinh tế, tài chính, văn hóa giáo dục của nước Việt

Nam mới. Việc xây dựng nền móng xã hội mới, xây dựng cuộc sống mới có ý
nghĩa chính trị sâu sắc. Hồ Chí Minh nói: "Một dân tộc được độc lập mà
không được hưởng hạnh phúc thì độc lập cũng khơng có ý nghĩa gì". Nhân

23


dân được hưởng các quyền tự do, dân chủ và dân sinh đã nêu cao quyết tâm
bảo vệ chế độ mới, bảo vệ độc lập tự do. Đó là chỗ dựa vững chắc và cơ bản
để Hồ Chí Minh thực hiện sách lược mở rộng sự thống nhất dân tộc, loại trừ
chia rẽ đối lập. Thắng lợi của cuộc đấu tranh chia rẽ trong những năm 19451946 là một điển hình thành cơng hiếm có về nghệ thuật thực hành chiến lược
đoàn kết, thống nhất quốc gia dân tộc Hồ Chí Minh.
* Sức mạnh đồn kết trong cuộc kháng chiến chống Pháp
Giữ vững ngọn cờ độc lập tự do Hồ Chí Minh đã nêu cao chiến lược
"Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định
không chịu làm nô lệ". Chiến tranh là một thử thách đối với toàn dân, cả nước
phải đứng lên đánh giặc. Kế thừa truyền thống yêu nước, đoàn kết của dân
tộc, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về chiến lược đại đồn kết trong
chiến tranh giải phóng, Hồ Chí Minh đã nêu cao luận điểm quân sự cách
mạng của dân tộc: "Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già người trẻ, không
chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên
đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có sung dùng sung, ai có gươm dùng
gươm, khơng có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức
đánh thực dân Pháp cứu nước"1.
Lời kêu gọi của Hồ Chí Minh ngày 19/12/1946 là một sự phát triển
cao và sáng tạo về chiến lược địa đoàn kết toàn dân trong chiến tranh giải
phóng, chiến lược chiến tranh nhân dân, tồn dân đánh giặc bằng mọi phương
tiện sẵn có của mỗi người dân. Lời kêu gọi đó là lời hịch của non sông đất
nước, tiếng gọi cứu quốc, tiếng vọng của ngày xưa và cả hôm nay làm thấu
động đến tâm can sâu xa và ý thức cao đẹp nhất của mỗi người Việt Nam,

kiên cường đứng lên triệu người như một chiến đấu với một ý chí quyết tử
cho Tổ quốc quyết sinh, với một thái độ chính trị dứt khốt và kiên định vì
Độc lập - Tự do của Tổ quốc.

1

. Trường Chinh, Kháng chiến nhất định thắng lợi, Nxb Sự Thật, 1947, tr30-31

24


Để thực hiện chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc, tập trung mũi nhọn
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Hồ Chí Minh cùng Ban chấp
hành Trung ương phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa dân tộc và dân chủ,
giữa độc lập dân tộc và người cày có ruộng. Ngay từ đầu kháng chiến, Đảng
ta đã khẳng định rõ ràng rằng: "Cuộc kháng chiến này chỉ hoàn thành nhiệm
vụ giải phóng đất nước, củng cố và mở rộng chế độ cộng hịa dân chủ. Nó
khơng tịch thu ruộng đất địa chủ phong kiến chia cho dân cày… mà phải dùng
phương pháp cải cách và dần dần thu hẹp phạm vi bóc lột của đại đại chủ
phong kiến bản xứ lại, đồng thời sửa đổi chế độ ruộng đất trong phạm vi
khơng có hại cho mặt trận thống nhất chống thực dân Pháp xâm lược. Chế độ
ruộng đất vừa cải thiện đời sống, vừa giữ vững được khối đại đoàn kết dân tộc
thống nhất cùng nhau chung sức đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược,
xây dựng chế độ dân chủ cộng hịa.
Chủ trương chiến lược đại đồn kết dân tộc của Hồ Chí Minh được thể
hiện rất phong phú trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Đầu tiên là chủ trương
mở rộng Chính phủ, mời một số nhân sĩ, trí thức giữ một số ghế trong chính
phủ để thực hiện liên hợp quốc dân rộng rãi. Nhiều nhân sĩ trí thức được giữ các
cương vị quan trọng trong bộ máy nhà nước ở các cấp nhất là ở trung ương.
Sự thống nhất trong mặt trận dân tộc thống nhất từng bước được củng

cố và mở rộng. Việt Minh và Liên Việt dần dần được hợp nhất ở cơ sở đến
Trung ương nhằm thực hiện khẩu hiệu một dân tộc, một mặt trận. Tháng
3/1951, Đại hội Liên Việt - Việt Minh thống nhất đã được thực hiện.
Với các anh chị em văn nghệ sĩ trí thức Hồ Chí Minh coi "văn hóa,
nghệ thuật cũng là một mặt trận" và "anh chị em văn nghệ sĩ là những chiến sĩ
trên mặt trận nghệ thuật". Người luôn quan tâm, giúp đỡ khuyến khích phát
triển tài năng của những người trí thức, coi đội ngũ trí thức có vị trí quan
trọng trong sự nghiệp kháng chiến cứu nước.
Đối với giai cấp công nhân là lực lượng lãnh đạo công việc kháng
chiến và kiến quốc, xây dựng nền dân chủ mới, vì thế Hồ Chí Minh kêu gọi:

25


×