BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT
CMXHCN
CNCS
CNTB
CNXH
CNH-HĐH
CSCN
GCCN
GCTS
GCVS
HTKH-XH
LLSX
NSLĐ
PTSX
QHSX
XHCN
Cách mạng xã hội chủ nghĩa
Chủ nghĩa cộng sản
Chủ nghĩa tư bản
Chủ nghĩa xã hội
Công nghiệp hóa-hiện đại hóa
Cộng sản chủ nghĩa
Giai cấp công nhân
Giai cấp tư sản
Giai cấp vô sản
Hình thái kinh tế-xã hội
Lực lượng sản xuất
Năng suất lao động
Phương thức sản xuất
Quan hệ sản xuất
Xã hội chủ nghĩa
MỞ ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu
Sự phát triển của các hình thái kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử tự
nhiên. Nó không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của bất cứ ai hay tổ chức nào.
Trong lịch sử nhân loại đã xuất hiện lần lượt bốn hình thái kinh tế - xã hội đó là :
Cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến và tư bản chủ nghĩa. Hiện nay,
nhân loại đang trong quá trình tiến lên xây dựng chủ nghĩa cộng sản – hình thái
kinh tế xã hội tiên tiến nhất của loài người. Trong quá trình phát triển giữa các hình
thái kinh tế xã hội mà đặc biệt là giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản thì
theo lý luận chủ nghĩa Mác đã chỉ ra giai đoạn quá độ giữa hai hình thái. V.I.Lênin
trong quá trình hoạt động cách mạng của mình đã tích cực bảo vệ quan điểm này
của chủ nghĩa Mác đồng thời phát triển học thuyết đó vào thực tiễn phong trào
cách mạng nước Nga đầu thế kỷ XX.
Trong đó học thuyết về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội mang một ý nghĩa to lớn, chứng minh lịch sử tất yếu của
sự phát triển hình thái kinh tế xã hội CSCN sẽ phải trải qua giai đoạn thấp (giai
đoạn CNXH) và để tiến lên CNXH phải trải qua một thời kỳ quá độ. Nhờ lý luận
về hình thái kinh tế cộng sản và thời kỳ quá độ mà nước nga Xô Viết lúc bấy giờ
đã xây dựng thành công CNXH và là bài học to lớn cho các nước CNXH áp dụng
mô hình đó.
Mặt khác, trong bối cảnh hiện nay, sự chống phá của các thế lực thù địch
ngày càng gay gắt, trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là lĩnh vực tư
tưởng, đặc biệt là sau sự sụp đổ của các nước CNXH ở Liên Xô và các nước Đông
Âu. Chúng xuyên tạc làm méo mó chủ nghĩa Mác-Lênin và sâu xa hơn là muốn
phá bỏ hệ tư tưởng của GCCN nói chug và học thuyết chủ nghĩa Mác-Lênin về chủ
nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH.
Về thực tiễn, Việt Nam đang tiến hành công cuộc xây dựng đất nước theo
định hướng XHCN. Công cuộc đó đang đặt ra hàng loạt vấn đề đòi hỏi phải tập
trung nghiên cứu giải quyết. Trên cơ sở đó làm rõ giá trị khoa học của lý luận hình
thái kinh tế - xã hôi CSCN đặc biệt là thời kỳ quá độ của nó, vận dụng lý luận đó
vào thực tiễn Việt Nam.
Là sinh viên chuyên ngành chủ nghĩa xã hội khoa học, việc nghiên cứu vấn
đề này là một nội dung quan trọng, có ý nghĩa lý luận và thục tiễn to lớn, vì vậy tôi
đã chọn đề tài “V.I.Lênin bảo vệ và phát triển lý luận chủ nghĩa Mác về chủ nghĩa
xã hội và thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội (qua nghiên cứu
ba tác phẩm: Nhà nước và cách mạng, kinh tế và chính trị trong thời đại chuyên
chính vô sản và tác phẩm bàn về thuế lương thực)” làm đề tài nghiên cứu cũng
như hoàn thành điều kiện để kết thục học phần.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH không phải
là vấn đề mới nhưng luôn mang tính thời sự và mang ý nghĩa quan trọng, và vì vậy
nó luôn thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước,
không chỉ những nhà khoa học chuyên ngành mà bao gồm cả những tri thức quan
tâm đến nó, chúng ta phải khẳng định rằng có rất nhiều công trình nghiên cứu,
nhiều đề tài về vấn đề này, vì nghiên cứu vấn đề này không chỉ là bảo vệ phát triển
lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin mà còn tạo cơ sở lý luận cho công cuộc xây dựng
CNXH ở tất cả các nước trong thời đại ngày nay.
Trong đó có thể kể một số công trình tiêu biểu sau:
- Quan điểm kinh tế và chính trị về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong
một số tác phẩm kinh điển Mác-Lênin, TS.Phạm Ngọc Dũng, nhà xuất bản chính
trị quốc gia – sự thật, Hà Nội – 2011.
- Quá độ lên chủ nghĩa xã hội cùng nội hàm và nhiệm vụ cơ bản trong thời
kỳ quá độ, Trương Khởi Hoa, Nhà xuất bản chính trị quốc qia, Hà Nội-2000.
- Hồ Chí Minh Về chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ nghĩa xã hội và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội-2004.
Cùng với một số bài giảng của thầy cô trên lớp, qua nghiên cứu, trao đổi,
seminar…đặc biệt qua một số đề cương bài giảng của khoa như:
- Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, PGS.TS Đỗ Công Tuấn (chủ biên),
khoa CNXHKH - Học viện báo chí và tuyên truyền, Nhà xuất bản chính trị - hành
chính, Hà Nội-2012.
- Tác phẩm VI.I.Lênin về chủ nghĩa xã hội khoa học, PGS.TS Đỗ Công
Tuấn, Khoa CNXHKH, học viện báo chí và tuyên truyền, Hà Nội 1/2013.
- Đề cương bài giảng: Giới thiệu một số tác phẩm kinh điển của C.Mác và
Ph.Ăngghen về CNXHKH, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, TS Nguyễn Thọ
Khang, Khoa CNXHKH, Học viện báo chí và tuyên truyền.
- Đề cương học phần lý luận hình thái kinh tế - xã hội công sản chủ nghĩa,
TS.Nguyễn Thọ Khang-TS Bùi Kim Hậu, khoa CNXHKH, Học viện báo chí và
tuyên truyền, Hà Nội 10/2012.
Cùng nhiều tài liệu quan trọng khác, đã giúp tôi nắm được những luận điểm
của C.Mác và Ph.Ăngghen về CNXH và thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội cũng như sự bảo vệ và phát triển của VI.I.Lênin, để tôi có thể hoàn
thiện bài tiểu luận.
3. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu
Để hoàn thành Tiểu luận tôi đã đọc và nghiên cứu các tác phẩm chính của
V.I.Lênin sau: “Nhà nước và cách mạng”, “Kinh tế và chính trị trong thời đại
chuyên chính vô sản” và “Bàn về thuế lương thực”, vì đây là những tác phẩm quan
trọng của V.I.Lênin nói về chủ nghĩa xã hội khoa học và đặc biệt trong đó Người
đặc biệt chú ý đến vấn đề lý luận phân kỳ hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa và thời kỳ quá độ đi lên CNXH. Ngoài ra tôi còn tham khảo các tác phẩm
khác như: “Những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xô Viết”, “Sáng kiến vĩ
đại”, “Bàn về chế độ hợp tác xã”… và các tác phẩm của C.Mác và Ph.Ăngghen
như “Tuyên ngôn Đảng cộng sản”, “Phê phán cương lĩnh Gôta”…
Một số khái niệm, định nghĩa, phạm trù liên quan đến tiểu luận:
- Hình thái kinh tế - xã hội là phạm trù của chủ nghĩa duy vật lịch sử, dùng
để chỉ hình thức và trạng thái tồn tại chung nhất và tất yếu của mọi xã hội ở mọi
giai đoạn phát triển của nó với những quan hệ sản xuất (có vai trò là cơ sở hạ tầng
của xã hội) phù hợp với trình độ của LLSX ở từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã
hội nhất định và với những quan niệm, thiết chế xã hội tương ứng (có vai trò là
kiến trúc thượng tầng) được hình thành trên cơ sở những kiểu quan hệ sản xuất ấy
và tác động lại chúng.
- Cơ sở hạ tầng là khái niệm dùng để chỉ toàn bộ những quan hệ sản xuất của
xã hôi trong sự vận động hiện thực của chúng hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội
đó.
- Kiến trúc thượng tầng là khái niệm dùng để chỉ toàn bộ những quan điểm
chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật…cùng với những
thiết chế xã hội tương ứng của chúng là nhà nước, đảng phái, giáo hội, đoàn thể xã
hội…những cái được hình thành, được xây dựng trên nền tảng của những cơ sở hạ
tầng nhất định của xã hội.
- Hình thái kinh tế - xã hội CSCN là khái niệm để chỉ một loại hình, một
trạng thái tồn tại của cộng đồng người với cơ sở hạ tầng mà đặc trưng của nó là
quan hệ sản xuất CSCN ngày càng trở thành quan hệ sản xuất thống trị, phù hợp
với tính chất của lực lượng sản xuất ngày càng hiện đại và một kiểu kiến trúc
thượng tầng tương ứng mà đặc trưng của nó là, hệ thống thiết chế, tổ chức, ý thức,
quan điểm, đạo đức…của GCCN ngày càng giữ vai trò thống trị và do đó là một
kiểu xã hội không còn tình trạng người áp bức bóc lột người, con người được phát
triển ngày càng toàn diện, có cuộc sống ngày càng hạnh phúc.
- Cơ sở hạ tầng của HTKT-XH CSCN (hoặc cơ sở hạ tầng CSCN) là khái
niệm chỉ toàn bộ các quan hệ sở hữu, quản lý, phân phối của con người trên cở sở
của chế độ sở hữu của xã hội về tư liệu sản xuất và phù hợp với trình độ hiện đại
và tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất.
- Kiến trúc thượng tầng của HTKT-XH CSCN (hoặc kiến trúc thượng tầng
CSCN) là khái niệm dùng để chỉ một hệ thống thiết chế, tổ chức, ý thức, quan điểm
đọa đức, khoa học, văn học nghệ thuật…mang bản chất GCCN được hình thành
trên cơ sở cơ sở hạ tầng CSCN.
- Thời kỳ quá độ lên CNXH là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc toàn bộ
các lĩnh vực của đời sống xã hội, bắt đầu từ khi GCCN và nhân dân lao động tiến
hành cuộc CMXHCN giành được chính quyền nhà nước cho đến khi CNXH được
phát triển trên những cơ sở kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội của chính nó
4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài này là: Làm rõ công lao, đóng góp, sự bảo vệ
và phát triển của V.I.Lênin về luận điểm chủ nghĩa xã hội khoa học và thời kỳ quá
độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản
Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu tôi cho rằng cần phải thực hiện những
nhiệm vụ nghiên cứu dưới đây:
- Những vấn đề lý luận cơ bản của học thuyết Mác-Lênin về chủ nghĩa xã
hội và thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Về những bối cảnh,
quan điểm, vai trò của những nhà kinh điển Mác-Lênin trong việc hình thành, phát
triển lý luận CNXH và thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH.
- Những luận điểm của V.I.Lênin trong việc khẳng định sự đúng đắn của lý
luận về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ của chủ nghĩa Mác, từ đó phê phán
những tư tưởng, quan điểm của chủ nghĩa cơ hội, xét lại và từ đó phát triển cụ thể
hơn lý luận đó vào thực tiễn thời kỳ mới.
- Sự vận dụng của đảng cộng sản Việt Nam về vấn đề chủ nghĩa xã hội và
thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản, trong qua trình xây
dựng CNXH ở nước ta hiện nay.
5. Đóng góp tiểu luận
Với một sinh viên chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học, Tiểu luận này
đã giúp bản thân tôi hiểu và thấm nhuần hơn những tư tưởng, quan điểm về CNXH
và thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH, của học thuyết Mác - Lênin, thấy rõ được
tầm quan trọng của việc nghiên cứu vấn đề này đối với con đường tiến lên CNXH
ở nước ta hiện nay. Góp một phần trong việc bảo vệ, phát triển lý luận của chủ
nghĩa Mác – Lênin về CNXH và thời kỳ quá độ trong giai đoạn hiện nay.
6. Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận nghiên cứu của đề tài chủ yếu là chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Phương pháp chủ đạo: Phương pháp phân tích, tổng hợp, kết hợp một cách
đúng mức với phương pháp lôgích- lịch sử.
Phương pháp cụ thể bao gồm những phương pháp sau: Lược thuật tài liệu,
tổng thuật tài liệu.
7. Kết cấu tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tham khảo, Tiểu Luận có kết cấu
gồm 3 chương 7 tiết.
CHƯƠNG 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ
THỜI KỲ QUÁ ĐỘ TỪ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN LÊN CHỦ NGHĨA CỘNG
SẢN
1.1 C.Mác - Ănghghen xây dựng và phát triển về lý luận Chủ nghĩa xã hội và
thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội
1.1.2 Bối cảnh lịch sử châu Âu những năm giữa của thế kỷ XIX
- Tình hình kinh tế xã hội
Giữa những năm 40 của thế kỷ XIX QHSX TBCN đã được xác lập, CNTB
đã đạt được những bước tiến khổng lồ về phương diện kinh tế. chỉ trong vòng chưa
đầy 100 năm, CNTB đã tạo được một sự phát triển mạnh trong kinh tế, so với thời
đại trước đó, CNTB thật sự là một bước tiến trên lĩnh vực phát triển công cụ lao
động, hệ thống máy móc, thiết bị hiện đại của một nền công nghiệp lớn, phát triển
nhanh, lực lượng lao động xã hội được phát triển nhanh chóng cả về số lượng lẫn
chất lượng. Tóm lại, tới thời kỳ này toàn bộ những thành tựu cơ bản của LLSX đã
phát triển với những trình độ kỹ thuật – công nghệ hiện đại với tính chất xã hội hóa
ngày càng cao, sự phát triển ấy làm sâu sắc thêm những mâu thuẫn giữa hai mặt
đối lập của PTSX tư bản: mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất là chiếm hữu tư nhân
những tư liệu sản xuất chủ yếu với tính chất và trình độ của LLSX.
Tới những năm 70 của thế kỷ XIX, nền kinh tế TBCN tiếp tục phát triển
mạnh mẽ với tốc độ cao, nó đã chuyển lên trình độ mới cao hơn thời kỳ trước về
các mặt: cường độ lao động, năng suất lao động…nhưng sự phát triển này lại tạo ra
điều kiện làm việc của công nhân hết sức tồi tệ, người lao động nông thôn bị tước
đoạt hết ruộng đất, tạo nên mâu thuẫn giữa công nhân với giai cấp thống trị là giai
cấp tư sản, giữa nông thôn và thành thị…từ những mâu thuẫn về mặt kinh tế biểu
hiện mặt chính trị xã hội sâu sắc.
-Về mặt chính trị - xã hội
Lúc này giai cấp tư sản đã thiết lập được vị trí thống trị của mình trên lĩnh
vực chính trị xã hội. trong khi đó đại bộ phận nhân dân thuộc các tầng lớp sở hữu
nhỏ đều bị phá sản…lúc này mâu thuẫn giữa tư sản và vô sản trở nên gay gắt, vào
thời điểm này nhiều đại biểu tư tưởng của GCCN đã bước vào hoạt động chính trị
đấu tranh vì lợi ích GCCN, tiêu biểu là C.Mác và Ph.Ăngghen, đòi hỏi các vấn đề
lý luận, thực tiễn đặt ra.
Phong trào công nhân phát triển mạnh mẽ và lên cao ở khắp châu Âu, tiêu
biểu có cao trào cách mạng Pháp 1848-1850, ở Đức và Anh là những nơi cách
mạng diễn ra sôi động nhất, đến giữa những năm 70 một sự kiện làm rung động xã
hội bấy giờ đó là sự kiện công xã Pari, hình thức nhà nước vô sản đầu tiên ra đời,
mặc dù tồn tại trong thời gian ngắn nhưng có tác động rất lớn đến phong trào cách
mạng lúc bấy giờ. Một yêu cầu đặt ra là phải giải phóng GCCN và nhân dân lao
động ra khỏi áp bức, bóc lột và thoát khỏi những mâu thuẫn trên tất cả các mặt của
đời sống xã hội. Nhận thức được vấn đề này, cùng với nhãn quan cách mạng và sự
nghiên cứu, tìm tòi thực tiễn cách mạng, C.Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng học
thuyết về hình thái kinh tế xã hội CSCN, và kết luận hình thái kinh tế xã hội này sẽ
thay thế hình thái kinh tế xã hội TBCN đương thời, để làm được điều đó các ông
đã đặt nền móng lý luận về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ từ CNTB lên
CNXH, và cho rằng để tiến lên CSCN tất yếu phải trải qua 2 giai đoạn này.
1.1.2 Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá
độ
Trong “Tuyên ngôn Đảng cộng sản”, bằng sự phân tích một cách khoa học
các điều kiện kinh tế, chính trị xã hội của xã hội TBCN đương thời, các ông đã chỉ
ra rằng, chính điều kiện kinh tế, chính trị và xã hội của xã hội TBCN đã quy định
một cách tất yếu rằng GCCN là lực lượng xã hội có sứ mệnh lịch sử: thủ tiêu chế
độ TBCN, xây dựng chế độ mới – chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Nhưng để thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình là xây dựng thành công CNCS trên
phạm vi toàn thế giới, trước hết giai cấp vô sản phải trở thành giai cấp thống trị,
bước sau đó là dùng quyền thống trị, bước sau đó là dùng quyền thống trị về chính
trị để cải tạo xã hội cũ - xã hội TBCN và xây dụng xã hội mới XHCN (giai đoạn
thấp của hình thái kinh tế-xã hội CSCN), quá trình cải tạo xã hội cũ được từng
bước hình thành trên những tiền đề về quan hệ sản xuất mới. Đó chính là thời kỳ
quá độ, vậy thời kỳ quá độ bắt đầu khi nào, kết thúc khi nào, và ở vị trí nào trong
HTKT CSCN?. Thời kỳ quá độ bắt đầu khi GCCN giành được chính quyền và sử
dụng chính quyền ấy trong việc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, và kết thúc
thời kỳ quá độ khi những tiền đề của CNXH ra đời, chấm dứt sự tồn tại của CNTB.
Khi phân tích về HTKT CSCN, theo các ông, HTKT CSCN phát triển từ thấp đến
cao, từ giai đoạn XHCN lên giai đoạn CSCN. Trong CNXH, chế độ kinh tế và sự
phát triển văn hóa đạt trình độ “làm theo năng lực, hưởng theo lao động”, còn
trong giai đoạn cao - CNCS con người không còn lệ thuộc một cách thụ động,
cứng nhắc vào sự phân công lao động, sự phát triển mạnh mẽ của LLSX tạo ra một
năng xuất lao động ngày càng cao, nguồn của cải tuôn da dồi dào, sự bất bình đẳng
xã hội, sự đối lập giữa thành thị và nông thôn, giữa lao động trí óc và lao đông
chân tay không còn, xã hội thực hiện theo nguyên tắc: “làm theo năng lực, hưởng
theo nhu cầu”. Nhưng để tiến lến xã hội đó giữa xã hội TBCN và xã hội XHCN
cần một thời kỳ quá độ từ xã hội nọ sang xã hội kia, xã hội của thời kỳ quá độ là xã
hội vừa thoát thai từ xã hội TBCN, do đó là một xã hội mà mọi phương diện kinh
tế, xã hội, đạo đức, tinh thần…còn mang dấu vết của xã hội cũ mà nó đã lọt lòng
ra, đó là xã hội chưa phát triển trên cơ sở của chính nó, cho nên nó nằm trong thời
kỳ đầu trong giai đoạn CSCN
Mác và Ăngghen không chỉ nói tính tất yếu của sự xuất hiện và phát triển
CNXH ở các nước TBCN tiên tiến ở châu Âu - nơi đã có đại công nghiệp phát
triển cao và đã sản sing ra giai cấp vô sản hùng mạnh mà các ông còn bàn tới khả
năng tiến lên CNXH ở các nước lạc hậu, chậm phát triển, hoặc mới chỉ bắt đầu
hình thành các quan hệ TBCN hoặc còn tồn tại các kết cấu kinh tế - xã hội kiêu
công xã nông thôn ở phương đông, đặc biệt là nước Nga
Trong lời tựa xuất bản Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, bản tiếng nga - đây
là lời tựa lần cuối cùng của Mác viết, cả Mác và Ănghen đều tiếp tục nhấn mạnh
rằng: “Bây giờ thử hỏi công xã nông thôn nga, cái hình thức đã bị phân giải ấy
của chế độ công hữu ruộng đất nguyên thủy, có thể chuyển thẳng lên hình thức
cao, chủ nghĩa cộng sản về sở hữu ruộng đất không, hay là trước hết, nó cũng trải
qua quá trình tan rã như nó đã trải qua trong tiến trình phát triển lịch sử ở
phương Tây?
Ngày nay lời giải đáp duy nhất cho câu hỏi ấy là thế này: nếu cách mạng
Nga là tín hiệu của cuộc cách mạng vô sản ở phương tây và nếu cả hai cuộc cách
mạng ấy bổ sung cho nhau thì chế độ sở hữu công xã về ruộng đất ở Nga hiện nay
có thể là điểm xuất phát của một sự tiến triển cộng sản chủ nghĩa”(ma.t19,tr434).
Vậy là ở C.Mác và Ph.Ăngghen đã hình thành khá rõ tư tưởng về sự phát triển
không qua CNTB ở nước Nga. Ph.Ăngghen dự báo con đường phát triển XHCN
đặc thù Nga đã đi đến tính phổ biến lựa chọn CNXH đối với tất cả các nước đang ở
trình độ phát triển tiền TBCN. ở đây có lẽ đây là lần đầu tiên, Ăngghen đưa ra khái
niệm về con đường rút ngắn mà ở trước đó. Mác mới chỉ nói tới “không qua chủ
nghĩa tư bản” bằng cách nói gián tiếp (chuyển thẳng lên hình thức cao, cộng sản
chủ nghĩa ) mà thôi. Ăngghen viết: nhưng một điều kiện tất yếu để làm được việc
đó là tấm gương và sự ủng hộ tích cực của phương Tây cho tới nay vẫn còn là
TBCN. Chỉ khi nào nền kinh tế TBCN hoàn toàn bi đánh bại tại quê hương của nó
và ở những nước nó đã phát đạt, chỉ khi nào những nước lạc hậu qua tấm gương ấy
mà biết được rằng “ việc đó đã tiến hành như thế nào để phục vụ toàn thể xã hội -
thì những nước lạc hậu ấy mới có thể bước vào con đường phát triển rút ngắn như
vậy. như vậy thắng lợi ở các nước ấy sẽ được đảm bảo. Và điều đó không chỉ đúng
với nước Nga, mà với tất cả các nước đang ở trong giai đoạn phát triển tiền tư bản
chủ nghĩa” [3,Tr.632]
Như vậy ngoài việc nêu lên con đường lịch sử - tuần tự qua tất cả các hình
thái trong sự phát triển của xã hội, Mác và Ăngghen còn dự đoán con đường phát
triển bỏ qua giai đoạn TBCN ở các nước tiền TBCN để tiến lên CNXH.
1.2 Những vấn đề đặt ra đối với việc bảo vệ, phát triển lý luận chủ nghĩa Mác
về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội
1.2.1 Bối cảnh lịch sử những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
1.2.1.1 Tình hình thế giới
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, CNTB bước vào giai đoạn cuối cùng của
nó – chủ nghĩa Đế quốc, giai đoạn này được V.I.Lênin gọi là đêm trước của cách
mạng vô sản, quá trình tích tụ và tập trung tư bản đã dẫn đến hình thành các tổ
chức độc quyền, đây là đặc điểm cơ bản nhất của chủ nghĩa đế quốc đã làm cho
mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của LLSX và hình thức chiếm
hữu tư nhân TBCN ngày càng gay gắt, vì vậy chu kỳ khủng hoảng kinh tế ngày
càng ngắn lại và tính chất ngày càng trầm trọng hơn. Thế giới tư bản đã bước vào
ngưỡng cửa của tổng khủng hoảng, đi liền với khủng hoảng kinh tế là khủng hoảng
xã hội: nạn thất nghiệp, sự bất công, bất bình đẳng xã hội ngày càng diễn ra trầm
trọng, sự áp bức của nhà nước với nhân dân ngày càng tàn khốc, làm cho đời sống
nhân dân khốn khổ và đẩy mâu thuẫn lên đỉnh điểm.
Không thỏa mãn với sự thống trị trong nước, tư bản tài chính còn tham vọng
xâm chiếm, thống trị các dân tộc, các quốc gia khác, biểu hiện đầu tiên dưới hình
thức “xuất khẩu tư bản”, nhưng thực chất là cuộc đấu tranh giành giật thị trường
của CNTB, tình thế ấy càng làm cho mâu thuẫn trong long CNTB tăng lên, mâu
thuẫn giữa giai cấp vô sản và tư sản, giữa tư bản độc quyền và không độc quyền,
giữa nông dân các nước bị nô dịch với chủ nghĩa đế quốc… tình hình ấy đặt ra yêu
cầu liên minh GCCN và nhân dân lao động ở chính quốc và các nước thuộc địa
tron cuộc đấu tranh chống CNTB, vì vậy trên thế giới đã nổ ra các cuộc cách mạng
như: Phong trào cách mạng ở Đức, Pháp, Mỹ, Áo,…ở phương Đông có cuộc cách
mạng Tân Hợi 1911, phong trào đấu tranh đòi tự do, độc lập ở các quốc gia Ấn Độ,
In-đô-nê-xi-a, Việt Nam…
Mâu thuẫn của CNTB gay gắt làm bủng nổ chiến tranh thế giới thứ nhất, từ
đo mâu thuẫn thuộc địa và tư bản chính quốc ngày càng gay gắt, vấn đề giải phóng
dân tộc các dân tộc thuộc địa trở thành vấn đề cấp bách và quan trọng lúc này,
trước tình hình ấy đặt ra yêu cầu với GCCN và các đảng Mác xít tiến hành cách
mạng lật đổ ách thống trị của GCTS và tiến hành cải tạo xã hội ấy thành xã hội tiến
bộ hơn, cũng trong lúc này một số thủ lĩnh chủ nghĩa cơ hội và chủ nghĩa xét lại
trong quốc tế II tìm cách chống phá cách mạng, phản bác lại lý luận chủ nghĩa
Mác, họ ra sức bảo vệ lý luận phát triển hòa bình chủ nghĩa tư bản lên CNXH – tức
bỏ qua con đường cách mạng của giai cấp vô sản, một yêu cầu đặt ra là phải bảo vệ
chủ nghĩa Mác, chống lại chủ nghĩa cơ hội, phát triển lý luận chủ nghĩa Mác nói
chung và lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học và thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa cộng
sản nói riêng.
1.2.1.2 Tình hình nước Nga
Đầu thế kỷ XX, nước Nga cùng với nhiều nước khác bước vào giai đoạn đế
quốc chủ nghĩa, nhưng so với nhiều nước tư bản ở Tây Âu và ở Bắc Mỹ lúc bấy
giờ, nước Nga là một nước lạc hậu về kinh tế, chính trị. Về kinh tế, nước Nga là
nước tư bản phát triển ở trình độ trung bình, mang nặng tàn tích của chế độ nông
nô – phong kiến; về chính trị, nước Nga vẫn là nước quân chủ chuyên chế. Nga
hoàng và giai cấp phong kiến khống chế toàn bộ đời sống chính trị nước Nga.
Sự bóc lột khắc nghiệt, sự không có quyền hành chính trị của người lao
động, tình trạng áp bức của các dân tộc không phải người Nga trong đế quốc Nga,
tàn tích phong kiến, nông nô, phong kiến, gia trưởng, sự phụ thuộc vào tư bản thế
giới – tất cả những cái đó làm cho nước Nga trở thành nơi hội tụ những mâu thuẫn
trong toàn bộ hệ thống đế quốc Châu Âu. Đó là mâu thuẫn giữa chế độ chuyên chế
Nga hoàng với quần chúng nhân dân, giữa tàn dư của chế độ nông nô và CNTB,
giữa địa chủ và nông dân, giữa vô sản và tư sản, giữa chủ nghĩa Xôvanh đại Nga
và các dân tộc không phải người Nga trong đế quốc Nga.
Sự kết hợp tất cả những hình thức áp bức, bóc lột của bọn địa chủ và tư bản
với chế độ độc tài cảnh sát cùng nên chuyên chế đã đẩy tuyệt đại đa số nhân dân
lao động Nga vào những điều kiện không thể chịu đựng nổi, những tiền đề bùng nổ
cuộc cách mạng nhân dân với quy mô cực kỳ lớn đã chín muồi trên toàn lãnh thổ
đế quốc Nga. Phong trào cách mạng thế giới, đặc biệt là phong trào công nhân đã
chuyển trọng tâm sang nước Nga. Phong trào công nhân Nga trở thành một bộ
phận chủ yếu, tiên phong trong cuộc đấu tranh nhằm trực tiếp cải tạo xã hội theo
con đường cách mạng, lật đổ CNTB, xây dựng CNXH, CNCS, triển vọng của cách
mạng thế giới phụ thuộc rất nhiều vào việc GCCN Nga giải quyết nhiệm vụ lịch sử
ở mức độ nào mà họ đảm nhận.
Điều kiện lịch sử mới ở Nga và châu Âu lúc bấy giờ đòi hỏi những người
Mác xít cách mạng phải kịp thời tổng kết kịp thời và sâu sắc những kinh nghiệm
mới của phong trào công nhân, đấu tranh quét sạch chủ nghĩa cơ hội, xét lại và mọi
trào lưu tư tưởng thù địch, phản bội chủ nghĩa Mác, phát triển hơn nữa lý luận
CNXH khoa học, đưa ra và trang bị cho phong trào công nhân những kết luận mới,
giúp quần chúng nhận thức đúng và rõ những việc họ sẽ phải làm trong cuộc cách
mạng sắp xảy ra để tự giải phóng mình khỏi ách tư bản, và V.I.Lênin, vị lãnh tụ vĩ
đại của giai cấp vô sản Nga và thế giới, của tất cả mọi người lao động đã bảo vệ và
phát triển hơn nữa lý luận chủ nghĩa Mác, làm cho nó thích ứng với nhu cầu mới
của phong trào công nhân trong giai đoạn mới.
1.2.2 Vai trò của V.I.Lênin với vấn đề chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ
Sau khi Mác và Ăngghen mất Lênin là người kế tục trực tiếp sự nghiệp của
các ông và đã có những phát triển lý luận mới từ những dự báo mà các ông đã nêu
ra. Đó là vào cuối thế kỷ XI đầu thế kỷ XX, khi phong trào cách mạng đã chuyển
sang phương Đông mà nước Nga là trung tâm sôi động nhất. Lúc này CNTB tự do
cạnh tranh đã chuyển sang CNTB độc quyền đã xuất hiện rõ nét tình thế phát triển
không đồng đều giữa các nước TBCN và nước Nga trở thành một mắt xích xung
yếu nhất. V.I.Lênin dự báo rằng, cách mạng vô sản có thể thắng lợi ở một số nước
TBCN thậm chí ở một nước.
Qua một số tác phẩm của mình V.I.Lênin đã cho thấy nhưng quan điểm của
mình về sự bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác về học thuyết hình thái kinh tế - xã
hội cộng sản, cũng như lý luận CNXH và thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH, sự
phát triển ấy có thể thấy được qua ba tác phẩm quan trọng của V.I.Lênin : “Nhà
nước và cách mạng”, “kinh tế và chính trị trong thời đại chuyên chính vô sản” và
tác phẩm “bàn về thuế lương thực”, những tác phẩm này đã luận chứng một cách
rõ ràng những luận điểm của Lênin về phân kỳ hình thái kinh tế xã hội cộng sản
chủ nghĩa bao gồm hai giai đoạn, giai đoạn thấp – xã hôi chủ nghĩa và giai đoạn
cao – cộng sản chu nghĩa, và để tiến lên CNXH nhất thiết phải trải qua một thời kỳ
quá độ để tạo ra những tiền đề về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa-tư tưởng…đi
lên CNXH.
V.I.Lênin cũng hết sức chú ý đến con dường phát triển không qua TBCN,
vào thời điểm sát nút của CMT10, năm 1916, Lênin đã nói tới các nước chậm phát
triển có thể đi lên CNXH, sau thắng lợi của cách mạng tháng Mười, khi giai cấp
công nhân Nga đã có chính quyền của mình và nước Nga Xô Viết đã ra đời, khi
CNXH đã phát sinh, dù là đơn nhất, Lênin có thực tế để bàn luận tập trung hơn về
quá độ lên CNXH không qua CNTB.
Năm 1920, V.I.Lênin cho rằng, các nước lạc hậu, tiểu nông có thể tiến lên
CNXH không qua giai đoạn phát triên TBCN, trong báo cáo đại hội II Quốc tế
cộng sản, V.I.Lênin nhấn mạnh rằng: “đối với các dân tộc lạc hậu hiện nay đang
trên con đường giải phóng và sau chiến tranh đã có một bước tiến bộ, mà khẳng
định rằng nền kinh tế quốc dân của những dân tộc đó nhất định phải trải qua giai
đoạn phát triển TBCN, chúng ta có cho như vậy là đúng hay không?. Chúng tôi
cho rằng không đúng…mà Quốc tế cộng sản còn phải xác minh và chứng minh
trên lý luận cho một nguyên tắc là: với sự giúp đỡ của gia cấp vô sản ở các nước
tiên tiến, các nước lạc hậu có thể tiến tới chế độ Xô Viết, và qua những giai đoạn
phát triển nhất định, tiến tới CNCS, không phải trải qua giai đoạn phát triển
TBCN” [13,tr.925]
Tại Đại hội X Đảng cộng sản (b) Nga, Lênin đã nhấn mạnh: “hoàn toàn
không còn nghi ngờ gì nữa rằng bước quá độ từ CNTB lên CNXH có thể có những
hình thức khác nhau, tùy thuộc ở chỗ quan hệ đại tư bản đã chiếm ưu thế hay nền
kinh tế nhỏ vẫn chiếm ưu thế trong nước” [13,Tr.197] . chính những nhận thức này,
Lêin đi tới phân biệt chính xác “quá độ trực tiếp” ứng với sự phát triển tuần tự từ
CNTB lên CNXH và “quá độ gián tiếp” thích hợp với loại hình phát triển rút
ngắn, bỏ qua CNTB, từ tiền tư bản lên CNXH
Có thể nói với NEP, quá độ giá tiếp là một loạt những biện pháp quá độ đặc
biệt, là tìm tòi và áp dụng những mắt xích trung gian, những giải pháp qua độ,, bắc
những nhịp cầu nhỏ, thích hợp, vừa tầm với khối quần chúng tiêu nông đông đảo,
từ từ, từng bước tiến tới CNXH. Bằng cách đó, NEP là một chiến lược cách tân,
đổi mới CNXH, là bước đột phá lý luận và thực tiễn để xây dựng CNXH.
Sử dụng CNTB nhà nước vì lợi ích trước mắt cũng như lâu dài của CNXH,
Lênin xem CNTB nhà nước không chỉ là phương tiện mà là con đường để đi tới
CNXH ở các nước tiền tư bản, cần thiết “phải bắc những chiếc cầu nhỏ, vững
chắc, đi xuyên qua CNTB nhà nước tiến lên CNXH” [15,190]
CHƯƠNG 2 NHỮNG LUẬN CHỨNG CỦA V.I.LÊNIN VỀ CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI VÀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ TỪ CHỦ NGHĨA TƯ BẢN LÊN CHỦ NGHĨA
XÃ HỘI TRONG THỜI KỲ MỚI
2.1 Những đặc trưng cơ bản về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ
Chủ nghĩa xã hội là giai đoạn thấp của hình thái kinh – tế xã hội cộng sản
chủ nghĩa. Nó có sự khác nhau về chất và nguyên tắc xây dựng so với chủ nghĩa tư
bản.
Dựa vào cơ sở lý luận khoa học của các nhà lý luận kinh điển của chủ nghĩa
Mac – lênin và thực tiển xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta có thể nêu ra những
đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội như sau:
-Đặc trưng thứ nhất: cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội là nền
sản xuất công nghiệp hiện đại. Chỉ có nền sản xuất công nghiệp hiện đại mới đưa
năng xuất lao động lên cao, tạo ra ngày càng nhiều của cải vật chất cho xã hội, đảm
bảo đáp ứng những nhu cầu vật chất và văn hóa của nhân dân, không ngừng nâng
cao phúc lợi xã hội cho toàn dân. Nền công nghiệp hiện đại đó được phát triển dựa
trên lực lượng sản xuất đã phát triển cao.ở những nước thực hiện sự quá độ “bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội”, trong đó có Việt Nam thì đương
nhiên phải có quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa để từng bước xây dựng cơ sở
vật chât kỹ thuật hiện đại cho chủ nghĩa xã hội.
-Đặc trưng thứ hai: chủ nghĩa xã hội đã xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ
nghĩa, thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu. Thủ tiêu chế độ tư hữu
là cách nói vắn tắt nhất, tổng quát nhất về thực chất của công cuộc cải tạo xã hội
theo lập trường của gccn.tuy nhiên ko phai xóa bỏ chế độ tư hưu nói chung mà là
xóa bỏ chế độ TBCN. V.I.Lênin viết “tư liệu sản xuất không còn là của riêng cá
nhân nữa, mà thuộc toàn thể xã hội. mỗi thành viên trong xã hội, khi đã hoàn
thành một phần nào đó của lao động xã hội- tất yếu, thì được xã hội cấp cho một
giấy chứng nhận số lượng lao động của mình đã làm” [11,Tr.113]
CNXH được hình thành dựa trên cơ sở từng bước thiêt lập chế độ sở hữu
XHCN về tư liệu sản xuất, bao gồm sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Chế độ này
được củng cố, hoàn thiện, bảo đảm thích ứng với tính chất và trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất. mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển, xóa bỏ dần
những mẫu thuẫn đối kháng trong xã hội, làm cho mọi thành viên trong xã hội gắn
bó với nhau vì lợi ích căn bản
-Đặc trưng thứ 3: CNXH tạo ra cách tổ chức lao động và kỷ luật lao động
mới, quá trình xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc XHCN là một quá trình hoạt
động tự giác của đại đa số nhân dân lao động, vì lợi ích của đa số nhân dân. Chính
bản chất và mục đích đó cần phải tổ chức lao động và kỷ luật mới phù hợp với địa
vị làm chủ của người lao động, đồng thời khắc phục những tàn dư của tình trạng
lao động bị tha hóa trong xã hội cũ.
-Đặc trưng thứ 4: CNXH thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động
nguyên tắc phân phối cơ bản nhất CNXH bảo đảm cho mọi người có quyền bình
đẳng trong lao động, sáng tạo và hưởng thụ. Mọi người có sức lao động đều có
việc làm và được hưởng thù lao theo nguyên tắc” làm theo lăng lực hưởng theo lao
động”. đó là một trong những cơ sở của công bằng xã hội ở giai đoạn này.
-Đặc trưng thứ 5: CNXH có nhà nước XHCN là nhà nước kiểu mới, nhà
nước mang bản chất GCCN, tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc; thực
hiện quyền lực và lợi ích của nhân dân.
Nhà nước XHCN do Đảng cộng sản lãnh đạo, thông qua nhà nước đảng lãnh
đạo toàn xã hội về mọi mặt và nhân dân lao động thực hiện quyền lực và lợi ích
của mình trong mọi mặt xã hội. Nhân dân lao động tham gia nhiều vào công việc
nhà nước, đây là một “nhà nước nửa nhà nước”, với tính tự giác tự quản của nhân
dân rất cao, thể hiện các quyền dân chủ, làm chủ và lợi ích của chính mình ngày
càng rõ hơn
-Đặc trưng thứ 6: CNXH đã giải phóng con người thoát khỏi áp bức bóc lột,
thực hiện công băng bình đẳng tiến bộ xã hội, tao những điều kiện cơ bản để con
người phát triển toàn diện. Mục tiêu cao nhất của CNXH là giải phóng con người
khỏi mọi ách áp bức về kinh tế và nô dịch về tinh thần, bảo đảm sự phát triển toàn
diện cá nhân, hình thành và phát triển lối sống XHCN, làm cho mọi người phát huy
tính tích cực của mình trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. nhờ xóa bỏ chế
độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa mà xóa bỏ sự đối kháng giai cấp, xóa bỏ
tình trạng người bóc lột người, tình trạng nô dịch và áp bức dân tộc, thực hiện
được sự công bằng và bình đẳng xã hội.
Những đặc trung trên phản ánh bản chất của CNXH nói lên tính ưu việt của CNXH
và do đó CNXH là một xã hội tốt đẹp lý tưởng ước mơ của toàn thể nhân loại.
những đặc trưng đó có mối quan hệ mật thiết với nhau. Do đó trong quá trình xây
dựng CNXH cần phải quan tâm tất cả các đặc trưng này
2.2 V.I.Lênin bảo vệ và phát triển lý luận thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
2.2.1 V.I.Lênin bảo vệ lý luận thời kỳ quá độ
Kế thừa một cách sáng tạo quan điểm chủ nghĩa Mác về lý luận phân kỳ
hình thái kinh tế cộng sản chủ nghĩa và thời kỳ quá độ lên CNXH, đặc biệt trong
tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”, sau khi đưa ra những dẫn chứng của C.Mác
về hai giai đoạn của hinh thái kinh tế công sản chủ nghĩa và khẳng định sự đúng
đắn trong các quan điểm đó, V.I.Lênin đã phân tích một cách cụ thể rõ ràng và đua
ra quan điểm của mình về hình thái kinh tế xã hội CSCN trong điều kiện, hoàn
cảnh mới.
Trước hết V.I.Lênin cho thấy những căn cứ xuất phát nào để C.Mác nghiên
cứu sự phát triển và dự đoán các giai đoạn phát triển của CNCS tương lai. Về mặt
hiện thực: “xuất phát từ chỗ là chủ nghĩa cộng sản hình thành từ chủ nghĩa tư
bản, là kết quả của sự tác động cảu một lực lượng xã hội do chủ nghĩa tư bản sản
sinh ra” [11,Tr.104], nghĩa là dự đoán xã hội công sản (nhất là giai đoạn đầu – giai
đoạn tiếp giáp ngay sau TBCN) như thế nào, sẽ không thể không tính đến xã hội tư
bản và sẽ còn lại những gì và sẽ không còn lại những gì trong tương lai.
Sau nữa, C.Mác “chỉ có dựa vào những căn cứ khoa học đã được xác định
chắc chắn” để nghiên cứu về xã hội cộng sản tương lai. Thời kỳ ấy đã có không ít
những thành tựu khoa học để C.Mác kế thừa trong nghiên cứu của mình.
V.I.Lênin làm rõ một số ý trong tác phẩm phê phán cương lĩnh gôta của
C.Mác về phân kỳ mà người đọc dễ nhầm lẫn. Trong phê phán cương lĩnh Gôta
C.Mác đặt câu hỏi “chế độ nhà nước sẽ biến đổi như thế nào trong xã hội cộng sản
chủ nghĩa?”. Có người đọc quan niệm rằng, như vậy là trong hình thái kinh tế - xã
hội cộng sản chủ nghĩa nói chung vẫn còn nhà nước. Còn V.I.Lênin chỉ rõ: “Nhưng
quan niệm như vậy là sai lầm về căn bản. Nghiên cứu kỹ hơn thì thấy ý kiến của
C.Mác và Ph.Ăngghen về nhà nước và sự tiêu vong của nhà nước hoàn toàn phù
hợp với nhau, và câu nói của Mác trích dẫn ở trên chính là nói về nhà nước đang
tiêu vong” [11, Tr.103], tức là nhà nước chuyên chính vô sản.
Trong phê phán cương lĩnh Gôta, đoạn kết luận quan trọng là: “Giữa xã hội
tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng
từ xã hội này sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính
trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính
cách mạng của giai cấp vô sản…”[2,Tr.47]. Vậy, thời kỳ quá độ (tức chuyên chính
vô sản) kéo dài bao lâu? Và trong mối tương quan nào giữa hai giai đoạn của xã
hội cộng sản chủ nghĩa? V.I.Lênin, trong tác phẩm này, nhiều lần nói rằng, trong
giai đoạn thấp cảu xã hội cộng sản chủ nghĩa vẫn còn nhà nước, nhà nước chỉ tiêu
vong hẳn khi có chủ nghĩa cộng sản hoàn toàn (giai đoạn cao). Người nói rõ hơn
“từ nay cho đến giai đoạn “cao” của chủ nghĩa cộng sản xuất hiện” thì “do nhà
nước của công nhân vũ trang thi hành” [11, Tr.119]. Ở một chỗ khác V.I.Lênin còn
chỉ rõ hơn rằng: “…chuyên chính vô sản, tức là thời kỳ quá độ tiến tới chủ nghĩa
cộng sản”[11,Tr.110]. Cho nên chúng ta có thể hiểu rằng, quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa cộng sản, về mặt thời gian, là tương ứng với giai đoạn thấp, về
mặt chính trị, đó là chuyên chính vô sản (chuyên chính vô sản tồn tại trong suốt
thời kỳ quá độ ấy)
Những tư tưởng của V.I.Lênin về tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội về cả mặt lý luận và thực tiễn đã gớp phần phê phán những quan điểm
sai lầm của những người thuộc phái dân chủ tiểu tư sản, những đại biểu của quốc tế
II về bước chuyển sang CNXH, họ từ chối không thừ nhận thời kỳ quá độ, theo họ,
CNTB sẽ tự nhiên chuyển sang CNCS. Họ giả danh CNXH, nhưng những lập luận
của họ đã cho thấy họ chính là đại biểu của phái dân chủ tư sản. thời kỳ quá độ
diễn ra là một tất yếu của quá trình chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
xã hội, nhưng họ “đều tỏ ra đã hoàn toàn quên mất chân lý hết sức hiển nhiên
đó”[12,Tr.310]
Cùng với tư tưởng về thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH, các nhà kinh điển
chủ nghĩa Mác – Lênin còn đề cập đến con đường phát triển không thông qua
CNTB, tức là sự quá độ từ xã hội tiền TBCN lên CNXH. Kế thừa những tư tưởng
của Mác – Ăngghen trước đó, khi các ông đều đưa ra việc dự báo của CNXH
không thông qua CNTB, tới V.I.Lênin trước điều kiện lịch sử mới khi CNTB tiến
lên chủ nghĩa đế quốc, cuộc đấu tranh của các nước thuộc địa phụ thuộc chống chủ
nghĩa đế quốc diễn ra mạnh mẽ, V.I.Lênin có điều kiện phát triển cụ thể và chi tiết
hơn nữa lý luận về con đương phát triển không thông qua CNTB, trước hết ông
phê phán những kẻ nói đến CNXH nhưng lại không biết nhìn thẳng vào sự thật
hoặc chỉ hạn chế ở chỗ đem CNTB độc lập một cách trừu tượng với CNXH, chứ
không nghiên cứu những hình thức cụ thể về thực chất của bước quá độ, không tự
hỏi rằng bước quá độ ấy xuất phát từ đâu, đi đến đâu.
Khi phân tích hai giai đoạn phát triển của CNCS, V.I.Lênin đề cập đến vấn
đề các nhà tư tưởng tư sản cho rằng: chế độ xã hội như vậy là ảo tưởng và chế giễu
việc muốn lấy của cải xã hội bao nhiêu cũng được mà không cần kiểm tra lao động
gì cả. V.I.Lênin phê phán rằng đó là những người ngu dốt. ngu dốt vì không một
người CNXH nào lại đi hứa rằng giai đoạn cao của CNCS sẽ đến, còm dự kiến nó
sẽ đến thì việc đó phải giả định rằng năng xuất lao động lúc đó sẽ khác ngày nay,
và sẽ không còn con người tầm thường ngày nay nữa. còn thời điểm ngày nay mà
cứ lấy vấn đề đó ra làm trung tâm, chỉ chú trụng đến vấn đề đó thật buồn cười, sự
phân biệt ấy là phân biệt một cách khoa học, về mặt khoa học thì cần phải có sự
phân biệt rạch ròi như vậy. V.I.Lênin nhấn mạnh cái vĩ đại của C.Mác là áp dụng
triệt để phép biện chứng duy vật, học thuyết về sự phát triển, từ đó xem CNCS là
một cái gì phát triển từ CNTB mà ra chứ không phải do sự ảo tưởng của đầu óc.
2.2.2 Sự phát triển lý luận thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội của V.I.Lênin
-Tính tất yếu của thời kỳ quá độ
Trên cơ sở kế thừa những tư tưởng của chủ nghĩa Mác về lý luận thời kỳ quá
độ trong điều kiện lịch sử đã chín muồi khi mà cách mạng tháng Mười đã thành
công, cuộc cách mạng đã mở ra kỷ nguyên mới của thời đại, kỷ nguyên quá độ từ
CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới, cùng với việc nhà nước Liên Xô
được thành lập – nhà nước đầu tiên của GCVS, Lênin đã có điều kiện để phát triển
bổ sung lý luận về thời kỳ quá độ.
Trước hết bàn về tính tất yếu của thời kỳ quá độ, có thể thấy rõ trong các tác
phẩm của V.I.Lênin như:
Trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”, nhất là ở tiết 2 chương V,
V.I.Lênin tập trung trình bày tính tất yếu của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa cộng sản hoặc lịch sử phải trải qua thời kỳ quá độ này, tức giai đoạn thấp
của CNCS, chứ không thể từ CNTB lên giai đoạn cao ngay được, V.I.Lênin trước
hết phân tích những quan điểm của Mác về hình thái quá độ này để từ đó chỉ ra
trong lý luận của mình sự tất yếu về quá trình hình thái này. Lênin chỉ ra ngay từ
những tác phẩm trước đó, chẳng hạn như “Phê phán cương lĩnh Gô ta”, Mác đã
cho khẳng định với những điều kiện kinh tế, xã hội của nó CNTB sẽ không thể tiến
thẳng lên CNCS mà giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa có
1 thời kỳ chuyển biến từ xã hội tư bản chủ nghĩa lên xã hội cộng sản chủ nghĩa.
“Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa có 1 thời kỳ chuyển
biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia, thích ứng vời thời kỳ đó là 1 thời kỳ
quá độ chính trị trong đó nhà nước sẽ không thể là cái gì khác hơn là chuyên
chính cách mạng của giai cấp vô sản” [11,Tr.106]. Tiếp thu những quan điểm của
Mác, V.I.Lênin cũng chỉ ra đó là 1 thời kỳ cần thiết, không thể thiếu giữa 2 hình
thái kinh tế xã hội khác nhau .“ Xã hội tư bản đang phát triển lên chủ nghĩa cộng
sản, không thể nào chuyển lên xã hội cộng sản chủ nghĩa được, nếu không có một
thời kì quá độ chính trị”. [11,Tr.106] “ Bước quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội là cả 1 thời kỳ lịch sử. Chừng nào mà thời kỳ đó chưa chấm dứt thì
bọn bóc lột nhất định còn nuôi hi vọng phục hồi” [11,Tr.37]
Tiếp theo trong tác phẩm “Kinh tế và chính trị trong thời đại chuyên chính
vô sản” Ngay trong phần đầu tiên của tác phẩm, V.I.Lênin đã khẳng định : “Về lý
luận, không thể nghi ngờ gì được rằng giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng
sản, có một thời kỳ quá độ nhất định” [12, Tr.309], quan điểm này dựa trên cơ sở
triết học rất vững chắc và rõ ràng : không có cái gì ra đời từ hư vô, mọi sự vật đều
có quá trình hình thành, phát triển và hoàn thiện. từ cơ sở lý luận đó, CNXH không
tự nhiên mà có, trong quá trình phát triển, chính CNTB đã tạo ra những tiền đề
kinh tế, xã hội để chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản ra đời. như vậy cần có một
thời gian cần thiết, tất yếu để các yếu tố của CNCS hình thành, phát triển và hoàn
thiện, thời gian đó chính là thời kỳ quá độ.