Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Tieu luan hoc phan 3 NHỮNG LUẬN điểm SÁNG tạo của hồ CHÍ MINH về CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG dân tộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.12 KB, 29 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Hồ Chí Minh sau khi đã tìm thấy cái “cẩm nang thần kỳ” là chủ nghĩa
Mác – Lênin cho cách mạng Việt Nam, Người đã tiếp thu và vận dụng một
cách sáng tạo cái cẩm nang thần kỳ ấy vào điều kiện cụ thể Việt Nam. Từ
những phương pháp tiếp cận khoa học, đúng đắn và mạnh dạn, Hồ Chí Minh
khơng những đã từ người tìm đường trở thành người dẫn đường cho cách
mạng Việt Nam mà còn có nhiều đóng góp cho kho tàng lý luận Mác – Lênin,
nhất là về cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng Đảng, xây dựng chế độ
dân chủ nhân dân, con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở một nước có nền
kinh tế nơng nghiệp lạc hậu…vv…
Trong q trình được học tập, nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh
chúng tơi nhận thấy sự đóng góp to lớn vê nhiều mặt của Hồ Chí Minh cho
cách mạng Việt Nam cũng như cho cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì
hồ bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội và chủ nghĩa xã hội.
Trong khuôn khổ tiểu luận này, chúng tôi xin tập trung làm rõ một số
đóng góp quan trọng có ý nghĩa sáng tạo, nổi bật của Hồ Chí Minh cho cách
mạng giải phóng dân tộc Việt Nam và cách mạng Thế giới bằng các luận
điểm của Người như:
“Muốn cứu nước, giải phóng dân tộc khơng có con đường nào khác
con đường cách mạng vơ sản”1; Cách mạng giải phóng dân tộc muốn
thắng lợi phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo; Cách mạng giải
phóng dân tộc là sự nghiệp đồn kết của tồn dân, trên cơ sở liên minh
giai cấp cơng - nơng; Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành
chủ động và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vơ sản ở chính
quốc với tinh thần “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” 2; Sử dụng bạo
lực cách mạng.
1
2

Hồ Chí Minh: Tồn tập, NXB CTQG, H, 2011, tập 12, tr.30
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, tập 3, tr. 596



1


Tuy nhiên, vấn đề đặt ra thì lớn, lại bị giới hạn về nhận thức của bản
thân cũng như sự chi phối bởi thời gian nghiên cứu nên chắc chắn khơng
tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế nhất định, tơi rất mong nhận được sự
đóng góp ý kiến chân thành từ các nhà khoa học, các đồng chí, đồng nghiệp
để vấn đề nghiên cứu trên ngày càng được sáng tỏ.

CẤU TRÚC CỦA TIỂU LUẬN
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
PHẦN II: NỘI DUNG
1. Muốn cứu nước, giải phóng dân tộc khơng có con đường nào
khác con đường cách mạng vô sản;
2. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng của
giai cấp công nhân lãnh đạo;
3. Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đồn kết của tồn
dân, trên cơ sở liên minh giai cấp công - nông;
4. Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động và
có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vơ sản ở chính quốc với
tinh thần “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”;
5. Sử dụng bạo lực cách mạng trong cách mạng giải phóng dân tộc.
PHẦN III: KẾT LUẬN

2


NỘI DUNG
1. Muốn cứu nước, giải phóng dân tộc khơng có con đường nào

khác con đường cách mạng vơ sản;
Trong hệ thống các luận điểm trên thì luận điểm quan trọng và được
người chú ý hơn cả là luận điểm: “Cách mạng giải phóng dân tộc muốn
thắng lợi phải đi theo con đường của cách mạng vô sản”. Đây là cống hiến to
lớn đầu tiên của Hồ Chí Minh cho cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam .
Sở dĩ các phong trào yêu nước Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX đều thất bại là do chưa có đường lối và phương pháp đấu tranh đúng đắn.
Khi chủ nghĩa đế quốc đã thành một hệ thống thế giới, một mặt chúng tranh
giành ảnh hưởng thuộc địa lẫn nhau, mặt khác chúng lại thống nhất với nhau
để đàn áp thuộc địa. Vì vậy trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc
giai cấp vơ sản ở chính quốc và nhân dân thuộc địa có chung một kẻ thù. Chủ
nghĩa tư bản như con đỉa hai vòi, một vòi bám vào chính quốc, một vịi bám
vào thuộc địa. Muốn đánh thắng chủ nghĩa đế quốc phải đồng thời cắt cả hai
vịi của nó đi. Vì vậy, cách mạng vơ sản ở chính quốc phải kết hợp với cách
mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa.
Đây là lần đầu tiên trong lịch sử chúng ta phải đối đầu với một kẻ thù
khác hẳn với chúng ta về nên văn minh và văn hóa. Kẻ thù là chủ nghĩa tư
bản mạnh hơn ta nhiều lần với các phương tiện chiến tranh hiện đại hơn ta rất
nhiều. Vì vậy các đường lối cách mạng cũ đều không thể giành thắng lợi. Chủ
nghĩa tư bản khơng những có nền văn minh hơn hẳn chúng ta mà còn trở
thành một hệ thống thế giới. Tuy chúng tranh giành ảnh hưởng thuộc địa lẫn
nhau nhưng chúng luôn luôn thống nhất với nhau để đàn áp lại các cuộc cách
mạng của nhân dân lao động ở chính quốc cũng như thuộc địa. Ví dụ như
việc Nguyễn Ái Quốc đã bị thực dân Anh bắt sau đó giao lại cho Pháp, cịn
phong trào Đơng du của Phan Bội Châu bị Nhật tiêu diệt.

3


Tất cả các phong trào yêu nước theo nhiều khuynh hướng khác nhau

đều thất bại do khơng có đường lối đấu tranh đúng đắn. Các cuộc nổi dậy do
các sỹ phu yêu nước lãnh đạo nổ ra rầm rộ và lan rộng khắp cả nước như khởi
nghĩa Trương Định (1859- 1864), Nguyễn Trung Trực ( 1861-1868) ở miền
Nam, khởi nghĩa Trần Tuấn, Đặng Như Mai, Nguyễn Xn Ơn, Phan Đình
Phùng ( 1886- 1887) ở miền Trung, khởi nghĩa Ba Đình (1886-1887), Bãi Sậy
( 1885-1889) ở miền Bắc. Các cuộc nổi dậy này đều mạng nặng ý thức hệ
phong kiến, phụng chiếu Cần Vương, đường lối kháng chiến không rõ ràng,
chủ yếu là muốn khôi phục độc lập dưới chế độ phong kiến, tất cả đều có
chung một kết cục là bị thực dân Pháp đàn áp hết sức dã man và thất bại. Các
phong trào theo hệ tư tưởng tư sản như Đông du, Đông kinh nghĩa thục, Duy
tân ở thập niên đầu của thế kỷ XX cũng đều thất bại. Hệ tư tưởng phong kiến
trở nên lỗi thời do sự xuất hiện hệ tư tưởng của giai cấp vô sản tiên tiến hơn.
Điều cần thiết phải đoàn kết với giai cấp vơ sản ở chính quốc để chống
lại chủ nghĩa tư bản. Vì họ cũng là những nạn nhân bị giai cấp tư bản bóc lột.
Giai cấp vơ sản ở chính quốc có cùng chung một kẻ thù với nhân dân thuộc
địa, đó chính là chủ nghĩa tư bản. Sự đoàn kết này là hết sức quan trọng để
tạo nên sức mạnh tổng hợp nhằm cắt đứt cả hai vịi của con đỉa là chủ nghĩa
tư bản.
Chỉ có đi theo con đường cách mạng vơ sản mới có thể vừa giải phóng
dân tộc vừa giải phóng con người và giải phóng giai cấp. Các con đường khác
có thể đem đến độc lập cho đất nước nhưng không thể đạt được mục tiêu giải
phóng giai cấp, giải phóng con người. Sau một quả trình nghiên cứu lý luận
và khảo sát thực tế trên bình diện rộng lớn trong cũng như ngồi nước Hồ Chí
Minh đã rút ra kết luận: “ Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có
con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Thực chất của con
đường cách mạng vô sản là gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Cho đến nay hệ tư tưởng của cách mang vô sản vẫn là hệ tư tưởng tiên tiến
nhất của nhân loại.
4



Kết luận trên đây của Nguyễn Ái Quốc là sự khẳng định một hướng đi
mới, nguyên tắc chiến lược mới, mục tiêu và giải pháp hoàn toàn mới, khác
về căn bản so với các lãnh tụ của các phong trào yêu nước trước đó ở Việt
Nam; đưa cách mạng giải phóng dân tộc vào quỹ đạo của cách mạng vơ sản,
tức là sự nghiệp cách mạng ấy phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo,
lấy hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng. Vì vậy, con đường
phát triển tất yếu của cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Người chỉ rõ: ''Cách mạng giải phóng dân tộc phải
phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi
hồn tồn'' 1
Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay từ khi mới thành lập, trong
''Chính cương vắn tắt'' do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo đã khẳng định: ''Chủ
trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã
hội cộng sản” 2. Như vậy là, lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng Việt Nam,
với Hồ Chí Minh, sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc gắn liền với cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Cuộc cách mạng này kết hợp trong bản thân nó tiến
trình của hai sự nghiệp giải phóng: giải phóng dân tộc khỏi ách nơ lệ thực dân
và giải phóng giai cấp khỏi ách áp bức bóc lột. Vấn đề dân tộc được giải
quyết trên lập trường của giai cấp cơng nhân - điều đó phù hợp với xu thế
thời đại và lợi ích của các giai cấp và lực lượng tiến bộ trong dân tộc. Sức
mạnh đi tới thắng lợi của cách mạng Việt Nam khơng phải là cái gì khác mà
là mục tiêu dân tộc luôn thống nhất với mục tiêu dân chủ trên cơ sở định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Đặc điểm nổi bật của cách mạng Việt Nam là cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân triệt để, tạo tiền đề cho bước chuyển sang thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội; tức là, cách mạng xã hội chủ nghĩa là bước kế tiếp ngay khi
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thắng lợi và giữa hai cuộc cách mạng
1
2


Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, tập 15, tr 392
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 3, tr 1

5


này khơng có một bức tường nào ngăn cách. Đây là quan điểm hết sức căn
bản của tư tưởng Hồ Chí Minh: chỉ có hồn thành cách mạng giải phóng dân
tộc mới có điều kiện để tiến lên chủ nghĩa xã hội và chỉ có cách mạng xã hội
chủ nghĩa mới giữ vững được thành quả cách mạng giải phóng dân tộc, mới
mang lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho mọi tầng lớp nhân dân, mới
có độc lập dân tộc một cách thực sự.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chính trị đặc
sắc, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt và bao trùm trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tư tưởng đặc sắc ấy thể hiện nhất quán mục tiêu của con đường cách mạng
mà Người đã lựa chọn, nó vừa đáp ứng được yêu cầu bức xúc của dân tộc và
khát vọng của quần chúng nhân dân giành lấy độc lập, tự do, ấm no và hạnh
phúc, giải phóng cuộc đời lầm than, đói khổ dưới ách thống trị tàn bạo của
chủ nghĩa thực dân, đế quốc và bè lũ tay sai. Tư tưởng ấy đã đưa dân tộc ta
đến độc lập, tự do, nước nhà Bắc – Nam thống nhất và ngày nay, đó là nguồn
sức mạnh trong sự nghiệp xây dựng một xã hội Việt Nam mới xã hội chủ
nghĩa: dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.
Qua những phân tích trên ta thấy tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân
tộc nói chung và luận điểm “ Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi
phỉ đi theo con đường của cách mạng vơ sản” đóng một vai trị hết sức quan
trọng. Nó đã chỉ ra cho dân tộc Việt Nam con đường đi lên xã hội chủ nghĩa,
đưa dân tộc thoát khỏi đêm đen khủng hoảng con đường cứu nước, giải
phóng dân tộc. Hồ Chí Minh đã dẫn đường cho cả dân tộc đi theo, con đường
đi đúng đắn để giải phóng đất nước, giải phóng giai cấp và giải phóng con

người.
2. Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng của
giai cấp công nhân lãnh đạo;

6


Bất cứ đảng phái, tổ chức, phong trào nào cũng cần có người đứng đầu
và cần có một hệ tư tưởng để làm kim chỉ nam cho mọi hành động. Cách
mạng vơ sản muốn thành cơng cần có hệ tư tưởng của giai cấp cơng nhân, đó
là Đảng cộng sản. Nếu khơng có hệ tư tưởng của giai cấp cơng nhân sẽ không
thể thắng lợi. Lịch sử Việt Nam đã minh chứng: Phan Bội Châu đi theo con
đường tư sản, Hồng Hoa Thám đi theo tư tưởng nơng dân, Tơn Thất Thuyết
đi theo ngọn cờ phong kiến đều thất bại.
Cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường của cách mạng Tháng
Mười Nga, phải có đảng của giai cấp cơng nhân lãnh đạo theo nguyên tắc
đảng kiểu mới của Lênin. Chỉ có cuộc cách mạng do chính đảng của giai cấp
vô sản lãnh đạo mới thực hiện được sự thống nhất giữa giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
Đảng có vai trị tập hợp, đồn kết, lôi kéo quần chúng nhân dân và các
lực lượng vào mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi để chống đế quốc. Đảng
phải xây dựng được cơ sở rộng rãi trong quần chúng “ phải có Đảng cách
mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngồi thì liên lạc với dân
tộc bị áp bức và giai cấp vô sản mọi nơi” 1. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng
là nhân tố hàng đầu đảm bảo cho mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Hồ
Chí Minh đã tích cực chuẩn bị trong nhiều năm để cho ra đời một đảng cách
mạng như vậy ở Việt Nam năm 1930.
Luận điểm nêu trên của Hồ Chí Minh khơng chỉ được chứng minh bằng
lý luận mà trên thực tế cũng đã cho thấy tính đúng đắn của luận điểm đó. Hồ Chí
Minh đã thành lập một đảng của giai cấp cơng nhân tại Việt Nam. Chính đảng

đó đã đồn kết toàn thể dân tộc Việt Nam kiên định theo con đường độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội. Chính đảng đó đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam chiến
thắng hai tên đế quốc lớn nhất thế giới giành độc lập dân tộc và đang từng bước
tiến lên chủ nghĩa xã hội hồn thành mục tiêu giải phóng giải cấp, giải phóng
con người.
1

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, tập 2, tr 289.

7


Qua những phân tích trên ta thấy tư tưởng của Hồ Chí Minh về cách
mạng giải phóng dân tộc nói chung và luận điểm “ Cách mạng giải phóng
dân tộc muốn thắng lợi phải do đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo” đóng
một vai trị hết sức quan trọng. Luận điểm trên đã giải đáp đúng đắn bài toán
thực tế trong thời đại đó và cho đến nay luận điểm này vẫn cịn ngun giá
trị. Nó là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng cộng sản Việt nam tiếp
tục lãnh đạo nhân dân trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Kiên định con
đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Trước hết, Đảng phải tiên phong về lý luận và hoạt động thực tiễn cách
mạng. Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Bác Hồ chỉ rõ: “Đảng có vững
cách mạng mới thành cơng, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới
chạy. Đảng muốn vững phải có chủ nghĩa Mác-Lênin làm cốt, trong Đảng ai
cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Nghĩa là Đảng phải có lý
luận tiền phong dẫn đường, có lý tưởng chính trị đúng đắn. Đảng mà khơng
có chủ nghĩa cũng như người khơng có trí khơn, tàu khơng có bàn chỉ nam”.
Có thể nói sự sáng tạo của Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng sản Việt
Nam là ở chỗ, ngay từ đầu, Người đã đề ra tơn chỉ, lý tưởng chính trị của
Đảng đáp ứng nguyện vọng, lợi ích của giai cấp cơng nhân, nhân dân lao

động và của toàn dân tộc.
Trong việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh đã vận
dụng một cách sáng tạo các nguyên lý về việc thành lập một Đảng Cộng sản
đó là: “Chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu
nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng Cộng sản Đơng Dương” 1. Bởi lẽ, ở một
nước có nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, giai cấp công nhân nhỏ bé và có
nhiều đặc điểm gắn bó với giai cấp nông dân như ở Việt Nam, hơn nữa chủ
nghĩa yêu nước Việt Nam có giá trị trường tồn trong lịch sử, đã ngấm sâu vào
máu thịt của mỗi con người Việt Nam. Phong trào yêu nước Việt Nam sở dĩ
kết hợp được với phong trào công nhân là do cả hai phong trào này có điểm
1

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, tập 12, tr. 406

8


tương đồng là mục tiêu chung giải phóng dân tộc . Đến khi, chủ nghĩa Mác –
Lênin được truyền bá vào giai cấp công nhân Việt Nam đã sớm nhận ra vai
trị và sứ mệnh lịch sử của mình, trở thành lực lượng cách mạng mang tính tự
giác thì việc kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và
phong trào yêu nước càng thêm bền chặt. Đây là cơ sở quan trọng, để Hồ Chí
Minh thành lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam.
3. Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đồn kết của tồn
dân, trên cơ sở liên minh giai cấp cơng - nơng;
Cách mạng giải phóng dân tộc là “ việc chung của cả dân chúng” do
đó phải đồn kết tồn dân. Cần vận động tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân
dân Việt Nam đang bị mất nước thành lập mặt trận dân tộc thống nhất để huy
động sức mạnh đại đồn kết của tồn dân. Cơng - nơng là gốc khi liên minh
với các giai tầng khác phải chú ý đến lợi ích của giai cấp cơng nơng và của cả

dân tộc.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh sự nghiệp giải phóng dân tộc phải là
sự nghiệp của tồn dân chứ không phải là sự nghiệp của riêng ai. Đại đoàn
kết toàn dân là sức mạnh của chúng ta, và người quan niệm cần phải đoàn kết
mọi lực lượng, đoàn kết tối đa: “Chúng ta phải đồn kết lơi kéo trung, tiểu
địa chủ, tư bản An nam về phe vô sản, nếu khơng lơi kéo được thì chí ít cũng
phải lợi dụng trung lập họ, nếu trung lập không được thì mới đánh đổ”
(Chánh cương vắn tắt). Sĩ, nơng, cơng, thương đều nhất trí chống lại cường
quyền, đó là sự nghiệp của mọi con dân nước Việt, đó là sự nghiệp của mỗi
con rồng cháu tiên.
Theo Hồ Chí Minh, ai có lịng, có sức, có cơng phụng sự tổ quốc đều
có thể tham gia vào mặt trận dân tộc thống nhất chống đế quốc.

9


Bên cạnh việc khẳng định cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp
của tồn dân, Người ln nhấn mạnh cơng - nơng là cái cốt của khối đồn kết
đó “ Công - nông là người chủ cách mệnh”, công - nông là “gốc” cách mệnh.
Quan điểm này thể hiện tính sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc xây
dựng khối đại đồn kết tồn dân tộc nhằm mục đích phát huy sức mạnh của
cả dân tộc, đồng thời nêu lên trách nhiệm nghĩa vụ của mỗi người dân đối với
đất nước.
Cuộc cách mạng đó phải đưa vào lực lượng của nhân dân, nịng cốt là
liên minh cơng nơng, do chính Đảng của giai cấp cơng nhân lãnh đạo. Hồ Chí
Minh nhận thức rất rõ, nếu chỉ đưa vào lực lượng của riêng giai cấp cơng
nhân, thậm chí cả giai cấp nơng dân là hồn tồn khơng đủ, mà theo Người,
chỉ có phát động cả dân tộc tham gia mới biến sức mạnh dân tộc thành lực
lượng vô địch.
Công nhân, nơng dân và trí thức ln ln được Hồ Chí Minh coi là

lực lượng cách mạng to lớn nhất, là nền tảng của khối đoàn kết dân tộc, đoàn
kết toàn dân. Điều này được thể hiện rõ trong các bài nói và viết của Người,
trong Chính cương, Điều lệ, trong các văn kiện của Đảng do Người chỉ đạo
xây dựng nên, như trong Chính cương của Đảng lao động Việt Nam (tháng 21951) đã ghi rõ: “Chính quyền của nước Việt Nam dân chủ cộng hịa là chính
quyền dân chủ nhân dân nghĩa là công nhân, nông dân, tiểu tư sản thành thị,
tiểu tư sản trí thức, tư sản dân tộc và các thân sĩ (địa chủ) yêu nước tiến bộ;
những tầng lớp nhân dân ấy chuyên chính với đế quốc xâm lược và bọn phản
quốc, cho nên nội dung chính quyền đó là nhân dân dân chủ chun chính.
Chính quyền đó dựa vào mặt trận dân tộc thống nhất, lấy liên minh cơng
nhân, nơng dân lao động, trí thức làm nền tảng, do giai cấp công nhân lãnh
đạo”1

1

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, Nxb Sự thật, H, 1965,
tr.121.

10


Tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, qua thực tiễn suốt mấy chục năm bơn
ba khắp thế giới, Hồ Chí Minh càng thấm sâu chân lý: Cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng; và trong tư tưởng tình cảm và hành động, Người luôn
thể hiện nhất quán chân lý ấy. Quần chúng cách mạng chính là các tầng lớp
nhân dân nước ta mà Hồ Chí Minh đã tìm thấy sức mạnh to lớn ở họ. Cơ sở
của quan điểm tư tưởng ấy là lòng tin vào con người của Hồ Chí Minh. Người
cho rằng, nhân dân rất thơng minh, sáng tạo; nhân dân là lực lượng đơng đảo
của tồn xã hội; nhân dân là người hiểu biết tất cả; nhân dân là nguồn sức
mạnh vô tận ở mọi nơi, mọi lúc. Chính vì thế, Người cho rằng nhân, nghĩa là
nhân dân và “trong thế giới khơng gì mạnh bằng lực lượng đồn kết của

nhân dân” 1.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về sức mạnh của nhân dân được hình thành
trên cơ sở tổng kết những kinh nghiệm của phong trào cách mạng Việt Nam
và phong trào cách mạng ở nhiều nước trên thế giới, nhất là phong trào giải
phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Những thành công hay thất bại của các
phong trào ấy đều được Người nghiên cứu rút ra những bài học cần thiết cho
việc hình thành tư tưởng về sức mạnh của nhân dân.
Hồ Chí Minh chỉ rõ, Đảng lãnh đạo nhân dân làm cách mạng, nhưng
cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân đông đảo. Người nhắc nhở,
công tác dân vận của Đảng phải tìm mọi cách giải thích cho từng người dân
hiểu rõ, việc mình làm là vì lợi ích của chính họ, nên họ phải hăng hái làm
cho kỳ được. Người cũng chỉ rõ làm bất cứ việc gì cũng phải bàn với dân, hỏi
ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với
hoàn cảnh địa phương, rồi động viên và tổ chức toàn dân thi hành. Đảng phải
lãnh đạo để nhân dân đứng lên đấu tranh tự giải phóng và xây dựng xã hội
mới do mình làm chủ. Sự nghiệp ấy chỉ có thể được thực hiện bằng sức mạnh
của nhân dân. Nhân dân mới chính là người sáng tạo ra lịch sử, là chủ thể của
lịch sử, là người làm nên lịch sử. Người nhấn mạnh, cá nhân dù có tài giỏi
1

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, tập 10, tr 453

11


mấy cũng không thay thế được nhân dân. Rõ ràng trong những cống hiến to
lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam, tư tưởng về sức
mạnh của nhân dân là một cống hiến đặc sắc, có giá trị lý luận và giá trị thực
tiễn rất quan trọng, lâu dài.
Những việc cần phải làm để phát huy vai trị của nhân dân. Khơng

dừng ở việc xác định vai trị có tính quyết định của nhân dân đối với sự
nghiệp cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh cịn chỉ rõ phải làm gì và làm như
thế nào để nhân dân phát huy được vai trị của mình trong sự nghiệp cách
mạng. Người đề cập tới nhiều khía cạnh, bước đầu có thể khái qt ở mấy
điểm chính sau:
- Hồ Chí Minh yêu cầu xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân để phát
huy sức mạnh của nhân dân. Người nhấn mạnh:
“ Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công”
Người lập luận, chỉ có đồn kết mới tập hợp được sức mạnh riêng rẽ
của từng người tạo nên sức mạnh lớn lao của hàng trăm, hàng nghìn, hàng
triệu, hàng chục triệu người. Việc có to mấy, nặng mấy, khó mấy nếu biết
đồng lịng, hiệp lực thì nhất định sẽ làm được. Người ví cơng việc cách mạng
như hịn đá to, hịn đá nặng, một người nhắc, nhắc khơng đặng. Ngược lại
cũng hịn đá ấy nếu có nhiều người cùng nhắc thì sẽ được. Tương tự, Người
cho rằng việc cứu nước, xây dựng quốc gia nếu nhiều người cùng nhau đồng
lịng thì nhất định sẽ thành cơng.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân thể
hiện rất rõ ràng ở những quan điểm: Đoàn kết phải được coi là vấn đề chiến
lược, nó bảo đảm cho mọi thành cơng của cách mạng nước ta. Đồn kết phải
là mục tiêu và nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng nước ta. Đoàn kết là đoàn
kết trong Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết các giai cấp, các dân tộc, các tơn
giáo và đồn kết quốc tế. Đồn kết phải thực sự tạo thành sức mạnh vật chất
và tinh thần. Đoàn kết phải thông qua các tổ chức chặt chẽ để tập hợp các
12


tầng lớp nhân dân như Mặt trận, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức chính trị xã hội. Đồn kết phải trên cơ sở lợi ích chung của Đảng và của dân tộc. Đoàn
kết phải thực hiện dân chủ, cơng khai, cơng bằng. Hồ Chí Minh nhấn mạnh:
Khơng sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng; Không sợ nghèo, chỉ sợ lịng dân

khơng n... Nhất là đối với Đảng, Hồ Chí Minh u cầu mọi người phải tơn
trọng, xây dựng và giữ gìn sự đồn kết như giữ gìn con ngươi của mắt mình,
như giữ gìn một báu vật, nguồn tạo nên mọi sức mạnh của Đảng.
Qua những phân tích trên ta thấy tư tưởng của hồ chí minh về cách
mạng giải phóng dân tộc nói chung và luận điểm “ cách mạng giải phóng dân
tộc là sự nghiệp đồn kết của toàn dân trên cơ sở liên minh giai cấp cơng
nhân và giai cấp nơng dân” đóng một vai trị hết sức quan trọng. Nó khơng
chỉ giải đáp một cách đúng đắn bài toán thực tế của thời điểm lúc đó mà trong
sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay nó vẫn cịn
ngun giá trị. Luận điểm này đã chỉ ra cho Đảng cách đi đúng đắn để hoàn
thành mục tiêu đưa đất nước lên chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt là tầm quan trọng
của tinh thần đồn kết cơng – nơng. Đây chính là nguồn gốc sức mạnh và là
nguyên nhân của mọi thành cơng của Đảng.
4. Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động và
có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vơ sản ở chính quốc với
tinh thần “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”:
Trong hệ thống các luận điểm trên thì luận điểm quan trọng và được
Người chú ý hơn cả là luận điểm: Cách mạng giải phóng dân tộc phải được
tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước cách
mạng vơ sản ở chính quốc. Đó là một trong những luận điểm có tính đặc biệt
sáng tạo của Hồ Chí Minh cho cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam và
cho cách mạng Thế giới.

13


Trong phong trào cộng sản quốc tế đã từng tồn tại quan điểm cho rằng
cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào cách mạng vơ sản ở chính quốc thắng lợi.
Tun ngơn thành lập của Quốc tế cộng sản 1919 có đoạn viết: Công nhân và
nông dân... ở An nam... chỉ có thể “ giành được độc lập” khi mà cơng nhân...

nước Pháp...giành chính quyền nhà nước vào tay mình. Những luận cương về
phong trào cách mạng trong các nước thuộc địa và nửa thuộc địa được thông
qua đại hội VI quốc tế cộng sản tháng 9-1928 có viết “ Chỉ có thể thực hiện
hồn tồn” cơng cuộc giải phóng các thuộc địa khi giai cấp vô sản giành
được thắng lợi ở các nước tư bản tiên tiến. Quan điểm này đã làm giảm tính
chủ động sáng tạo của cách mạng thuộc địa.
Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định vận mệnh của giai cấp vô sản ở các
nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở
các nước thuộc địa. Nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa
đang tập trung ở các nước thuộc địa. Vì vậy Người cho rằng nếu khinh
thường cách mạng ở thuộc địa tức là muốn đánh chết rắn đằng đuôi. Vận
dụng quan điểm của Mác, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định: “Cơng cuộc giải
phóng anh em, tức nhân dân thuộc địa chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ
lực của bản thân anh em” 1.
Nguyễn Ái Quốc nhận thức thuộc địa là khâu yếu nhất của chủ nghĩa
đế quốc và nhờ đánh giá đúng sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần
dân tộc ngay từ năm 1924 Người đã nói: “ Cách mạng thuộc địa không
những không phụ thuộc vào cách mạng vơ sản ở chính quốc mà có thể giành
thắng lợi trước…”, “ Họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương
tây trong nhiệm vụ giải phóng hồn tồn.” Đây là cống hiến sáng tạo của Hồ
Chí Minh vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Luận điểm sáng tạo này của Nguyễn Ái Quốc có giá trị lý luận và thực
tiễn vô cùng to lớn. Luận điểm của Ngừơi đã thể hiện nhận thức đúng đắn về
mối quan hệ biện chứng giữa cách mạng chính quốc và cách mạng thuộc địa.
1

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, tập 2, tr 138.

14



Luận điểm đã chỉ ra tính chủ động, sáng tạo của phong trào giải phóng dân
tộc ở các nước thuộc địa. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh luận
điểm của người hoàn toàn đúng đắn
Trong Điều lệ tạm thời của Hội Liên hiệp công nhân quốc tế năm 1864
do Mác khởi thảo, một tư tưởng cơ bản được nêu lên là: "Sự giải phóng của
giai cấp cơng nhân phải do bản thân giai cấp công nhân tự giành lấy" 1. Hơn
sáu mươi năm sau, trong Tuyên ngôn của Hội Liên hiệp thuộc địa, Hồ Chí
Minh viết: "Vận dụng cơng thức của Các Mác, chúng tơi xin nói với anh em
rằng, cơng cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực
của bản thân anh em" 2 . Người vạch rõ tính chủ động của cách mạng thuộc
địa đối với cách mạng chính quốc: "Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu
Á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn thực
dân lịng tham khơng đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ, và trong
khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ
nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây
trong nhiệm vụ giải phóng hồn tồn" 3. Người đã chỉ ra để mỗi người Việt
Nam hiểu rằng ta phải tự lực, chủ động làm cách mạng giải phóng mình,
khơng nên chỉ trơng chờ "cơng nơng Pháp cách mệnh thành cơng thì nhân
dân Việt Nam sẽ được tự do" mà cần chủ động "An Nam dân tộc cách mệnh
thành cơng, thì tư bản Pháp yếu, tư bản Pháp yếu thì cơng nơng Pháp làm
giai cấp cách mệnh cũng dễ"4. Chính những luận điểm sáng tạo, mới mẻ đó
đã dẫn Hồ Chí Minh đến những quyết định lịch sử. Tháng 8-1945, khi thời cơ
xuất hiện, Người ra lời kêu gọi "Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã
đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy, đem sức ta mà tự giải phóng cho ta"
. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là thắng lợi của tinh thần độc lập tự
chủ, tự lực tự cường và sáng tạo của Tư tưởng Hồ Chí Minh.
C.Mác và Ph.Ắng-ghen: Tồn tập, Nxb CTQG.H:1994, tập 16, tr 24.
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, tập 2, tr. 138
3

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, tập 1, tr.48
4
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, tập 2, tr. 287
1
2

15


Thời điểm ấy, quốc tế cộng sản cho rằng, chỉ có thể giải phóng thuộc
địa đồng thời với giải phóng giai cấp vơ sản ở chính quốc. Cơng nhân, nơng
dân ở Việt Nam, Algieria... khơng thể có độc lập, chưa thể được giải phóng
khi cơng nhân ở Anh, Pháp cịn chưa giành được chính quyền. Trong khi đó,
Bác Hồ xác định con đường mới cho đất nước là không thể chờ cách mạng
chính quốc thành cơng. Bác đã nói rất rõ: "Hỡi những người nô lệ thuộc địa!
Làm thế nào để giải phóng chúng ta? Vận dụng chủ nghĩa Mác, chúng tơi xin
nói với anh em rằng cơng cuộc giải phóng anh em chỉ có thể dựa vào sự nỗ
lực của chính anh em".
Cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vơ sản ở chính quốc như
''hai cánh của một con chim'', phải thực hiện sự liên minh giữa vơ sản ở chính
quốc với vơ sản và nhân dân các nước thuộc địa thì cách mạng mới thắng lợi.
Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa không phụ thuộc một
chiều vào cách mạng vô sản ở chính quốc, mà có thể và phải chủ động tiến
lên giành thắng lợi, thậm chí có thể giành thắng lợi trước, từ đó góp phần tích
cực hỗ trợ cho cách mạng ở các nước tư bản. Đó là nhận định hết sức đúng
đắn, táo bạo và sáng tạo của Hồ Chí Minh. Đáng tiếc là có lúc quan điểm này
của Hồ Chí Minh khơng được một số người, trong đó có một vài người của
Quốc tế cộng sản cũng khơng thừa nhận.
Trước tiên cần nhận rõ quan điểm chủ nghĩa dân tộc của Chủ tịch Hồ
Chí Minh: "Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác

giúp đỡ thì khơng xứng đáng được độc lập" 1 . Từ lâu Người coi việc "lấy sức
ta mà tự giải phóng cho ta" là phương thức, là nguồn động lực chủ yếu để
phát triển cách mạng nước ta. Hợp với logic đó, chính sách đối ngoại độc lập
tự chủ cũng như các chủ trưng và chính sách đối nội khác đều dựa vào sức
mình, trí tuệ của mình là chính. Người coi tự lập, tự cường là "cái gốc", là
"cái điểm mấu chốt" của mọi chính sách và sách lược.
1

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, tập 7, tr 445.

16


Chúng ta đã làm nên cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành
cơng hồn tồn tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình, nhờ nắm được thời cơ
(lúc đó chưa có sự giúp đỡ cụ thể về vật chất của bên ngồi). Đó là quan
điểm hết sức mới mẻ của Bác.
Qua những phân tích trên ta thấy tư tưởng của Hồ Chí Minh về vấn đề
cách mạng giải phóng dân tộc nói chung và luận điểm: Cách mạng gíải
phóng dân tộc phải được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành
thắng lợi trước cách mạng vơ sản ở chính quốc đóng một vai trị hết sức
quan trọng. Nó đã giải đáp một cách đúng đắn bài tốn của thời đại, mở ra
một kỷ nguyên mới cho phong trào cách mạng Việt Nam nói riêng và phong
trào cách mạng trên tồn thế giới nói chung. Quan điểm đã thể hiện một cách
nhìn chính xác về sức mạnh của các dân tộc thuộc địa, đề cao tính sáng tạo,
chủ động của cách mạng giải phóng dân tộc.
5. Sử dụng bạo lực cách mạng trong cách mạng giải phóng dân
tộc.
5.1 Vận dụng phương thức sử dụng bạo lực cách mạng của chủ
nghĩa Mác – Lênin:

Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định, chính quyền là
vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng, bạo lực cách mạng là phương pháp,
là "Bà đỡ" để giai cấp vô sản lật đổ nhà nước tư sản, giành và giữ vững chính
quyền cách mạng. "Tun ngơn của Đảng cộng sản" đã khẳng định "Sự sụp
đổ của giai cấp tư sản và sự thắng lợi của giai cấp vô sản là tất yếu như nhau"
"Những người cộng sản công khai tuyên bố rằng mục của họ chỉ có thể đạt
được bằng cách dùng bạo lực lật đổ toàn bộ xã hội hiện hành" 1. Mác - Ăng
ghen không chỉ khẳng định sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp vô sản, mà
còn đề cập đến con đường, biện pháp để giai cấp vô sản thực hiện sứ mệnh
ấy, là dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, lật đổ chính
1

Mác-Ăngghen:Tồn tập, tập 4, tr 646.

17


quyền cũ, xây dựng chính quyền mới. Con đường đấu tranh giành chính
quyền có thể diễn ra bằng nhiều hình thức phong phú, đa dạng, nhưng phổ
biến nhất là dùng bạo lực cách mạng. Bên cạnh việc khẳng định tính quy luật
của sử dụng bạo lực trong cách mạng vô sản C.Mác và Ph.Ăng ghen cũng
thừa nhận tính mn màu, mn vẻ của các hình thức bạo lực cách mạng.
Các ông cho rằng bạo lực diễn ra dưới hình thức nào là tùy thuộc vào tình
hình thực tiễn và sự vận dụng sáng tạo của những người cộng sản, chứ khơng
có một khn mẫu để áp dụng ở mọi nơi, thời điểm lịch sử.
V.I.Lênin là người tiếp thu và phát triển lý luận bạo lực cách mạng của
C.Mác - Ph.Ăng ghen, trong điều kiện mới ở nước Nga, chủ nghĩa tư bản đã
phát triển đến giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Người khẳng định: "Chính tư
tưởng ấy - tư tưởng cách mạng bạo lực - là nền móng của tồn bộ học thuyết
của C.Mác - Ph.Ăng ghen" 1. V.I.Lênin còn nhấn mạnh: "Nhà nước tư sản bị

thay thế bởi nhà nước vô sản không thể bằng con đường tiêu vong mà chỉ có
thể theo quy luật chung, bằng một cuộc cách mạng bạo lực mà thôi". Đặc
biệt trong tác phẩm "Hai sách lược của Đảng dân chủ, xã hội trong cách mạng
dân chủ" Lênin đã phát triển chủ nghĩa Mác về vấn đề khởi nghĩa vũ trang
một cách sáng tạo. Người phân tích những đặc điểm của cuộc cách mạng dân
chủ tư sản thành cách mạng XHCN, điều kiện của sự chuyển biến ấy, vai trò
lãnh đạo của Đảng kiểu mới, hình thức và phương pháp đấu tranh của giai
cấp vô sản. Lênin cho rằng, khởi nghĩa vũ trang là phương tiện để lật đổ chế
độ chuyên chế và giành thắng lợi của cách mạng XHCN. Người cho rằng
khởi nghĩa vũ trang là một hình thức đặc biệt của đấu tranh chính trị và phải
phục tùng những quy luật đặc biệt (những nguyên tắc, quy tắc của nghệ thuật
khởi nghĩa vũ trang).
Đây là những cơ sở lý luận quan trọng, có tính chất quyết định để Hồ
Chí Minh hình thành tư tưởng bạo lực cách mạng trong đấu tranh giành chính
quyền ở nước ta.
12

V.I Lênin:Tồn tập, tập33, tr 28

18


Tư tưởng Hồ Chí Minh về bạo lực cách mạng trong đấu tranh giành
chính quyền cịn xuất phát từ u cầu khách quan của cách mạng Việt Nam:
Thực tế cho thấy, thực dân Pháp đã dùng bộ máy bạo lực phản cách mạng đồ
sộ phục vụ cho quá trình xâm lược và cai trị Việt Nam, vậy chỉ có dùng bạo
lực cách mạng mới đánh đổ được bộ máy bạo lực phản cách mạng của kẻ thù.
Sau khi kết thúc giai đoạn xâm lược và bình định, thực dân Pháp dùng một bộ
máy bạo lực đồ sộ để cai trị, đàn áp và bóc lột nhân dân ta trên tất cả các lĩnh
vực kinh tế, chính trị, văn hóa.

Về kinh tế, chúng duy trì phương thức sản xuất phong kiến đã lỗi thời,
lạc hậu nhưng dưới quyền điều khiển, khống chế của người Pháp. Thực hành
chính sách cướp đoạt ruộng đất của nông dân, lập đồn điền,… và thực hiện
một chính sách thuế nặng nề và hết sức vơ lý. Chúng cịn thi hành chính sách
độc quyền trong sản xuất công nghiệp, trong các phương tiện giao thông vận
tải, trong xuất nhập khẩu, khai thác mỏ…
Về chính trị, tính chất bạo lực của bộ máy thực dân được biểu hiện ở
việc thi hành một chính sách chuyên chế. Chúng dùng lối cai trị trực tiếp
bằng bộ máy của người Pháp thẳng tay đàn áp không cho người dân bản xứ
được hưởng quyền tự do, dân chủ. Thực dân Pháp đã nắm giữ những chức vụ
quan trọng, chủ chốt, từ bộ máy chính quyền Trung ương đến cơ sở, biến bộ
máy nhà nước của giai cấp phong kiến Việt Nam thành một hệ thống tay sai
đắc lực phục vụ cho việc đàn áp bóc lột của chúng.
Về văn hóa, thực dân Pháp thi hành một chính sách ngu dân để dễ bề
cai trị. Thực hiện chính sách văn hóa vơ dịch phản động, phát triển tơn giáo,
mê tín dị đoan nhằm mê hoặc ru ngủ quần chúng, thủ tiêu đấu tranh. Chúng
tìm mọi cách ngăn chặn những luồng tư tưởng dân chủ, tiến bộ từ phương
Tây cũng như trên thế giới vào Việt Nam.
Như vậy, Thực dân Pháp, thể hiện hành động bạo lực của kẻ xâm lược
đối với nước ta bằng cách vừa đàn áp, bóc lột vừa thực hiện một chính sách
ngu dân để dễ bề cai trị. Hai quá trình này diễn ra đồng thời, cùng một thời
19


điểm lịch sử, có mối quan hệ tác động lẫn nhau, nói lên đặc trưng tính chất
bạo lực, phản cách mạng của bộ máy chính quyền thực dân. Như Hồ Chí
Minh nhận xét: "Chế độ thực dân, tự bản thân nó đã là một hành động bạo
lực của kẻ mạnh đối với kẻ yếu rồi" 1.
Tư tưởng bạo lực cách mạng của Hồ Chí Minh cịn được Người rút ra
từ chính những bài học thực tiễn của các phong trào yêu nước Việt Nam ở

cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, các con
đường đấu tranh theo xu hướng bạo động vũ trang, hay cải lương đều bị thất
bại vì khơng có đường lối và phương pháp đấu tranh phù hợp.
Tất cả các yếu tố trên là nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
về bạo lực cách mạng, là cơ sở để Người khẳng định phải sử dụng bạo lực
cách mạng trong đấu tranh giải phóng dân tộc giành chính quyền.
5.2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về bạo lực cách mạng trong
đấu tranh giành chính quyền.
* Sử dụng bạo lực cách mạng giành chính quyền là một tất yếu
khách quan.
Trên cơ sở nhận thức sâu sắc về bản chất dã man, tàn bạo, thối nát của
chủ nghĩa thực dân, về những nguyên nhân thất bại của các phong trào yêu
nước Việt Nam, kết hợp với sự tiếp thu, vận dụng và phát triển sáng tạo quan
điểm bạo lực cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện một nước
thuộc địa nửa phong kiến, Hồ Chí Minh đã khẳng định tính tất yếu khách
quan của việc sử dụng bạo lực cách mạng trong đấu tranh giành chính quyền.
Người khơng ảo tưởng vào lịng nhân ái của bọn đế quốc thực dân, khẳng
định chỉ sử dụng bạo lực cách mạng mới đánh đổ được bạo lực phản cách
mạng. Người cho rằng, con đường giành chính quyền ở Việt Nam phải được
tiến hành bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang, với sự nổi dậy của toàn dân,
đánh đuổi quân cướp nước và lật đổ chế độ thực dân phong kiến. Chính vì
vậy, ngay từ năm 1924 trong báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ, đã
1

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 1, tr 114.

20


bàn đến vấn đề về khả năng, tính chất, điều kiện bảo đảm cho "một cuộc khởi

nghĩa vũ trang ở Đông Dương" nổ ra và giành thắng lợi. Đến tháng 5 năm
1941, tại Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8, tư tưởng tất yếu phải sử dụng
bạo lực cách mạng trong đấu tranh giành chính quyền của Hồ Chí Minh tiếp
tục được khẳng định với quan điểm "Cách mạng Việt Nam, kết liễu bằng một
cuộc khởi nghĩa vũ trang".
Như vậy, theo Hồ Chí Minh chỉ sử dụng bạo lực cách mạng mới giành
được chính quyền, chia ruộng đất cho dân nghèo, xây dựng được xã hội mới,
cuộc cách mạng vô sản mới thực sự "đến nơi".
Sử dụng bạo lực cách mạng là tất yếu khách quan, nhưng đặc biệt phải
biết phát huy sức mạnh của quần chúng nhân dân, thì sự nghiệp đấu tranh mới
giành được thắng lợi. Bạo lực cách mạng theo quan niệm của Hồ Chí Minh,
là bạo lực của quần chúng bị áp bức, bóc lột, được giác ngộ và tổ chức để
chống lại giai cấp thống trị. Người khẳng định: "Cách mệnh là việc chung của
dân chúng chứ khơng phải việc một hai người" vì vậy phải: "Đứng lên đoàn
kết với nhau làm cách mệnh" mà "Dân khí mạnh thì qn lính nào, súng ống
nào cũng không chống lại được" 1
Như vậy, bạo lực cách mạng theo quan điểm của Hồ Chí Minh hồn
tồn khác với một cuộc đảo chính, để "giết 2, 3 anh vua, 9,10 anh quan" cũng
không phải là hoạt động mang tính chất âm mưu, mà là phương pháp đấu
tranh của những người cộng sản, nhằm loại bỏ chế độ xã hội thối nát, nên nó
là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Bạo lực của quần chúng đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng cách mạng chân chính, có đường lối chiến lược, sách lược
đúng đắn, phù hợp với quy luật phát triển xã hội lồi người, đem lại lợi ích
cho tất cả các tầng lớp nhân dân lao động. Chỉ trên cơ sở dưới sự lãnh đạo của
một Đảng cộng sản, có đường lối cách mạng đúng đắn, ln đấu tranh cho lợi
ích của nhân dân thì mới phát huy được sức mạnh của mọi tầng lớp trong xã
hội tham gia tích cực vào phong trào đấu tranh giành chính quyền. Hồ Chí
1

Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, tập 2, tr. 297


21


Minh cịn khẳng định, q trình đấu tranh của quần chúng khơng phải là tự
phát, thiếu tính tổ chức, mà đó là một q trình được tổ chức chặt chẽ, đi từ
giác ngộ đến tập hợp quần chúng thành những đội quân chính trị, quân sự,
tham gia vào các phong trào đấu tranh chính trị và khởi nghĩa vũ trang giành
chính quyền ở từng địa phương, cũng như trên phạm vi cả nước.
Như vậy, quan điểm bạo lực cách mạng của Hồ Chí Minh trong đấu
tranh giành chính quyền quan trọng nhất là phải bạo lực của quần chúng nhân
dân lao động. Nếu vận dụng quan điểm này một cách đúng đắn, sáng tạo sẽ
đưa cách mạng đến thắng lợi nhanh nhất, ngược lại vận dụng không đúng sẽ
làm cho cách mạng giẫm chân tại chỗ, không phát triển được. Nói cách khác
người cách mạng phải nhận thức đúng vai trò to lớn của quần chúng và biết
phát huy sức mạnh của quần chúng nhân dân thì sự nghiệp đấu tranh mới
giành được thắng lợi. Đường lối của đảng có trở thành sức mạnh vật chất hay
không đều phụ thuộc vào phong trào cách mạng của quần chúng. Vì vậy Hồ
Chí Minh cho rằng đấu ranh bằng con đường bạo lực cách mạng, là sự kết
hợp hài hồ giữa tính lý luận và tính thực tiễn, giữa việc đề ra chủ trương
đường lối và nghệ thuật vận động quần chúng thực hiện đường lối của đảng.
Mục tiêu của bạo lực cách mạng phải đạt được là giành chính quyền về tay
nhân dân, thực hiện " Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH ", xây dựng cuộc
sống ấm no cho nhân dân.
* Bạo lực cách mạng là sự kết hợp chặt chẽ hai hình thức đấu tranh
chính trị và đấu tranh quân sự, lấy đấu tranh chính trị là chủ yếu.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, đấu tranh chính trị là một hình thức
đấu tranh cơ bản, quyết định suốt q trình phát triển thành cơng của cách
mạng. Đấu tranh chính trị cịn là cơ sở hình thành lực lượng vũ trang và đấu
tranh vũ trang. Nó hỗ trợ cho đấu tranh vũ trang, đồng thời là lực lượng trực

tiếp tiến công vào bọn thực dân phong kiến. Càng về cuối giai đoạn giành
chính quyền, thì vai trị của đấu tranh chính trị càng được phát triển mạnh

22


mẽ.Trong Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng qn, Hồ
Chí Minh chỉ rõ: "chính trị trọng hơn quân sự ".
Thực tế đã chứng minh, phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng
trong giai đoạn giành chính quyền phát triển rất mạnh mẽ. Nhất là sau năm
1941, lực lượng chính trị của tồn dân được tập hợp trong " Mặt trận Việt
Minh " dưới sự lãnh đạo của đảng, đã xuống đường biểu tình, thị uy, bãi
cơng, bãi sở, bãi khố, bãi chợ làm tê liệt bộ máy kinh tế và chính trị của
địch, đẩy chúng vào chỗ hoang mang, tan rã, sụp đổ từng mảng. Sự nổi dậy
của lực lượng chính trị tồn dân diễn ra một cách đồng loạt, từ miền bắc tới
miền trong, miền nam, từ miền núi tới đồng bằng, từ nông thôn tới thành thị,
của tất cả các dân tộc trong nước. Chính nhờ có phong trào đấu tranh chính trị
rộng lớn của quần chúng, nên giai đoạn cuối, khi lực lượng quân sự của ta
còn nhỏ bé, nhưng vẫn áp đảo và làm tê liệt sự phản kháng của quân đội
Nhật, buộc địch phải đầu hàng, giật chính quyền về tay cách mạng.
Hồ Chí Minh cho rằng đấu tranh quân sự trong giai đoạn giành chính
quyền cũng là một hình thức đấu tranh cơ bản, tác dụng trực tiếp tiêu diệt
sinh lực địch, đập tan những âm mưu về chính trị và quân sự của đối phương.
Theo Hồ Chí Minh còn cho rằng đấu tranh quân sự ra đời từ phong trào đấu
tranh chính trị phát triển cùng với đấu tranh chính trị. Càng về cuối giai đoạn
cách mạng, đấu tranh quân sự càng phải hỗ trợ và tạo điều kiện cho đấu tranh
chính trị của quần chúng. Khi đề cập đến vai trò của đấu tranh quân sự, năm
1941, tại hội nghị Trung ương VIII do Hồ Chí Minh chủ trì đã chỉ ra: "
Những cuộc khởi nghĩa gây một ảnh hưởng rộng lớn toàn quốc là đấu tranh
bằng vũ lực của nhân dân Đông Dương".

Vào cuối năm 1940 đầu năm 1941 xuất phát từ những chuyển biến mới
của tình hình trong nước và trên thế giới, từ xu thế phát triển của phong trào
quần chúng và nhu cầu của cách mạng, Hồ Chí Minh chủ trương chuyển từ
đấu tranh chính trị lên đấu tranh vũ trang. Đây khơng những là quyết định
chuyển hướng đúng lúc, kịp thời, mà còn thể hiện việc chỉ đạo đấu tranh quân
23


sự diễn ra từng bước, từ thấp lên cao, phù hợp với từng giai đoạn cách mạng.
Đấu tranh quân sự xuất hiện trên cơ sở đấu tranh chính trị, hỗ trợ, tạo điều
kiện cho đấu tranh chính trị. Hình thức đấu tranh chính trị trong thời kỳ này là
đi từ những hoạt động du kích bí mật, bảo vệ cơ sở chính trị, xây dựng căn cứ
địa cách mạng, phát triển lên thành chiến tranh du kích tại một số vùng rừng
núi, trung du ở Việt Bắc sau đó phát triển xuống đồng bằng Bắc Bộ, Trung
Bộ, Nam Bộ. Giai đoạn cuối của q trình đấu tranh giành chính quyền, Hồ
Chí Minh tiếp tục chỉ đạo đưa hình thức đấu tranh quân sự lên một bước mới.
Ngày 22/12/1944, Người ra chỉ thị thành lập " Đội Việt Nam tuyên truyền
giải phóng quân".Đây là đội quân chủ lực đầu tiên ở nước ta, để từng bước
thúc đẩy mở rộng hình thức đấu tranh quân sự tiến lên giành chính quyền.
Như vậy, mỗi hình thức đấu tranh chính trị và đấu tranh qn sự trong
giai đoạn đấu tranh giành chính quyền có tính độc lập tương đối, có vị trí, vai
trị riêng, song Hồ Chí Minh cho rằng phải kết hợp chặt chẽ hai hình thức đấu
tranh chính trị và qn sự. Bởi theo người mỗi hình thức đấu tranh đều có
điểm mạnh và điểm yếu nhất định, nên khi kết hợp hai hình thức đấu tranh sẽ
khắc phục được những hạn chế của nhau, tạo thành sức mạnh tổng hợp. Sự
kết hợp giữa đấu tranh chính trị và qn sự khơng phải nhất loạt ngang nhau,
hoặc theo một khn mẫu có sẵn mà phải tuỳ thuộc vào điều kiện lịch sử, địa
bàn chiến lược, từng sự tương quan so sánh lực lượng, những nhiệm vụ cụ
thể. Đây là quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh về bạo lực cách mạng.
Trong giai đoạn đấu tranh giành chính quyền. Người đặc biệt coi trọng

vai trị đấu tranh chính trị, lấy khởi nghĩa của quần chúng là chủ yếu. Đấu
tranh chính trị của quần chúng nhân dân giữ vai trò quyết định đối với việc
giành chính quyền từ tay bọn thực dân, phong kiến là nét độc đáo, sáng tạo
trong tư tưởng Hồ Chí Minh về bạo lực cách mạng trong đấu tranh giành
chính quyền.
Sử dụng bạo lực cách mạng để giành chính quyền ở Việt Nam, là sự lựa
chọn dứt khoát, tư tưởng nhất quán của Hồ Chí Minh kể từ khi Người đến với
24


chủ nghĩa Mác - Lênin. Đây là yêu cầu khách quan của một cuộc cách mạng
ở một nước thuộc địa nửa phong kiến trước sự áp bức, đô hộ của kẻ thù. Hồ
Chí Minh khẳng định sử dụng bạo lực cách mạng, song khơng hề đối lập với
tính nhân văn và tinh thần u chuộng hịa bình. Trái lại tư tưởng bạo lực
cách mạng trong đấu tranh giành chính quyền của Hồ Chí Minh thể hiện khát
vọng về một nền hịa bình cho dân tộc Việt Nam và mang một giá trị nhân
văn sâu sắc. Giá trị nhân văn trong tư tưởng bạo lực cách mạng của Hồ Chí
Minh được thể hiện rõ ở mục đích của việc sử dụng bạo lực. Mục đích duy
nhất của việc sử dụng bạo lực cách mạng là: "Độc lập dân tộc và CNXH" bạo
lực cách mạng chỉ là phương pháp nhằm đạt đến mục đích giành lại chính
quyền, giành lại độc lập dân tộc để xây dựng CNXH. Chỉ có sử dụng bạo lực
cách mạng mới giành lại được độc lập dân tộc mới xây dựng được chủ nghĩa
xã hội, đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc và sự bình đẳng cho mọi người
dân Việt Nam. "Duy binh là việc nhân nghĩa cứu nước, cứu dân". Đây là chủ
nghĩa nhân văn cách mạng, nhân văn trên lập trường Mác xít nhằm giải
phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người.

25



×