Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH lãi SUẤT TRONG NHỮNG năm tới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.07 KB, 24 trang )

Lãi suất và chính sách lãi xuất
MỤC LỤC
1
Lãi suất và chính sách lãi xuất
LỜI MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Lãi suất - một biến số quan trọng được theo dõi chặt chẽ trong nền kinh
tế. Và lãi suất còn trực tiếp tác động đến nhiều mối quan hệ trong nền kinh tế
liên quan trực tiếp đến các lợi ích vật chất trong xã hội. Do đó, nó cũng đồng
thời tác động đến đời sống của con người. Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung, vai trò của lãi suất đã bị xem nhẹ và còn được hiểu như sự phân chia
cuối cùng của sản xuất và người sản xuất, hay người đầu tư về vốn và người
cho vay. Còn trong nền kinh tế thị trường thì vai trò của lãi suất đã có sự thay
đổi, lãi suất trong nền kinh tế thị trường đã được khẳng định là giá cả để vay
mượn hoặc thuê những dịch vụ tiền có liên quan đến việc tạo ra tín dụng, do
đó người ta có thể coi lãi suất là giá cả của thị trường.
Đối với nền kinh tế Việt Nam từ khi chuyển mình từ nền kinh tế tập
trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, lãi suất trở thành công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước. Lãi
suất đã góp phần kiềm chế lạm phát cũng như kích thích tăng trưởng và phát
triển kinh tế trong công cuộc đổi mới của đất nước. Thực tiễn đã cho thấy, do
những chính sách không phù hợp, mặc cho nền kinh tế Việt Nam có tăng
trưởng nhưng vẫn đi vào ngõ cụt và không có cách nào vực lên được. Thực
tiễn cũng đã chứng minh với chính sách đúng đắn về lãi suất đã giải quyết
được vấn đề về lạm phát từ những năm cuối thập niên 1980 từ lạm phát 3 con
số xuống còn 2 số ; riêng năm 1993 tỉ lệ lạm phát chỉ còn một chữ số mức
thấp nhất trong lịch sử điều tiết lãi suất ở Việt Nam. Một cơ chế lãi suất thực
từ âm sang dương từ sự phân biệt các thành phần kinh tế đến lãi suất tự do
bình đẳng cho tất cả mọi thành phần, tất cả đều nằm trong cơ chế chung. Cơ
chế quản lý vĩ mô mà chính sách tiền tệ là “liều thuốc” hiệu quả tác động
mạnh đến lãi suất. Quá trình tự do hóa chính sách tiền tệ (CSTT) ở Việt Nam


là một yêu cầu tất yếu để hội nhập quốc tế về tài chính – tiền tệ, được đánh
dấu bằng sự ra đời của 2 luật ngân hàng, có hiệu lực từ ngày 1/10/1998 và thể
hiện rõ nét nhất thông qua tự do hóa lãi suất, điều hành linh hoạt tỷ giá, điều
tiết thị trường bằng các công cụ tiền tệ gián tiếp, tự do hóa ngoại hối và tháo
bỏ dần các quy định trong cơ chế tín dụng từ năm 1990 đến nay.
2
Lãi suất và chính sách lãi xuất
Trong nền kinh tế thị trường, chính sách lãi suất là bộ phận của chính
sách tiền tệ, tác động đến cung- cầu vốn và hiệu quả phân bổ các nguồn lực tài
chính trong nền kinh tế. Chính sách lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam (NHNN) hiện nay đang bộc lộ những tồn tại, hạn chế cần được nghiên
cứu, hoàn thiện, nâng cao khả năng điều tiết kinh tế vĩ mô.
1.2. Nội dung, phạm vi nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của đề án môn học được trình bày
trong 3 chương.
-CHƯƠNG 1. LÃI SUẤT VÀ CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT TRONG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
-CHƯƠNG 2. CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT CỦA NGÂN HÀNG NHÀ
NƯỚC VIỆT NAM
- CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT
TRONG NHỮNG NĂM TỚI
Đề tài nghiên cứu tập trung nghiên cứu các chính sách lãi suất của ngân
hàng nhà nước Việt Nam qua các giai đoạn, vai trò của chính sách lãi suất. Từ
đó có đưa ra một số giải pháp hoàn thiện chính sách lãi suất trong thời gian
tới.
.
3
Lãi suất và chính sách lãi xuất
CHƯƠNG 1. LÃI SUẤT VÀ CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

1.1. Lãi suất
1.1.1. Khái niệm
Lãi suất là một trong những chỉ tiêu quan trọng, được cập nhật thường
xuyên trên các phương tiện thông tin đại chúng, nó có ảnh hưởng rất lớn đến
quyết định đầu tư hay tiết kiệm của một cá nhân cũng như của tổ chức, doanh
nghiệp, bên cạnh đó nó còn là một trong những công cụ của ngân hàng trung
ương dùng để điều tiết lưu thông tiền tệ trong nền kinh tế. Mỗi một sự biến
động, thay đổi nhỏ của lãi suất cũng ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của cả
nền kinh tế, do đó chúng ta cần phải tìm hiểu lãi suất là gì?
Lãi suất là chi phí phải bỏ ra cho việc vay tiền, là giá cả của quyền được
sử dụng tiền tệ trong một khoảng thời gian nhất định, mà người sử dụng phải
trả cho người sở hữu nó.
Thông thường, lãi suất được biểu thị bằng một tỷ lệ phần trăm (%)
của tổng số tiền vay tính cho một đơn vị thời gian là tháng hoặc năm.
1.1.2.Các loại lãi suất trên thị trường tiền tệ
• Phân loại theo nguồn sử dụng:
-Lãi suất huy động: là loại lãi suất quy định tỉ lệ lãi phải trả cho các
hình thức nhận tiền gửi của khách hàng. Để đảm bảo sự công bằng, trong
nền kinh tế thị trường, về mặt kinh tế, việc định các mức lãi suất huy động
khác nhau chỉ căn cứ vào đối tượng huy động (tiền hay vật đảm bảo có giá
trị) và thời hạn huy động.
-Lãi suất cho vay: là loại lãi suất quy định tỷ lệ lãi mà người đi vay
phải trả cho người cho vay. Về mặt lý thuyết, các mức lãi suất cho vay
khác nhau được căn cứ vào tỷ suất lợi nhuận bình quân của đối tượng đầu
tư và thời hạn cho vay. Tuy nhiên với ý nghĩa là một công cụ điều tiêt vĩ
mô nền kinh tế, điều đó không phải bao giờ cũng đúng, vì nó còn tùy thuộc
vào mục tiêu chính trị, xã hội của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ.
Theo nguyên tắc hoạt động của ngân hàng và các tổ chức tín dụng
khác mà hoạt động thường xuyên và chủ yếu của chúng là kinh doanh tiền
tệ là lãi suất cho vay bao giờ cũng phải lớn hơn lãi suất huy động để đảm

bảo ngân hàng có thể bù đắp được các chi phí hoạt động đã bỏ ra và có lợi
4
Lãi suất và chính sách lãi xuất
nhuân. Thông thường, lãi suất cho vay và lãi suất huy động có mối quan hệ
được xác định như sau:
Lãi suất lãi suất Rủi ro
Cho vay = Huy động + Chi phí + tối thiểu + Lợi nhuận
• Phân loại theo giá trị thực:
Hàng ngày chúng ta thường gặp các loại lãi suất được công bố trên
các phương tiện thông tin đại chúng và nhiều cá nhân, doanh nghiệp, tổ
chức sử dụng một số loại lãi suất đó để làm đơn vị tính toán trong các hoạt
động của mình. Tuy nhiên, hầu hết các loại lãi suất này là lãi suất chưa tính
đến yếu tố lạm phát, và để xác định được giá trị thực của các loại lãi suất
này, người ta phải tính thêm một yếu tố đó là tỷ lệ lạm phát dự tính.
-Lãi suất danh nghĩa: là loại lãi suất được xác định cho mỗi kỳ hạn
gửi hoặc vay, thể hiện trên quy ước giấy tờ được thoả thuận trước.
-Lãi suất thực: là loại lãi suất xác định giá trị thực của các khoản lãi
được trả hoặc thu được.
Lãi suất: Lãi suất Tỷ lệ thực = Danh nghĩa - Lạm phát
Sự phân biệt giữa lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa có ý nghĩa rất
quan trọng, đối với người có tiền, nhờ đoán biết được lãi suất thực mà họ
quyết định nên gửi tiền vào ngân hàng hay mang đi kinh doanh trực tiếp.
Đối với người cần vốn, nếu dự đoán được tương lai có lạm phát và trong
suốt thời gian đó lãi suất cho vay không đổi hoặc có tăng nhưng tốc độ
tăng không bằng lạm phát tăng thì họ có thể yên tâm vay để kinh doanh mà
không sợ lỗ vì trượt giá khi trả nợ.
• Phân loại theo phương pháp tính lãi
-Lãi suất đơn: là tỷ lệ theo năm, tháng, ngày của số tiền lãi so với số
tiền vay ban đầu không gộp lãi vào tiền vay ban đầu để tính lãi thời hạn kế
tiếp.

-Lãi suất kép: là tỷ lệ theo năm, tháng, ngày của số tiền lãi so với số
tiền vay, số tiền vay này tăng lên do có gộp lãi qua từng thời kỳ cho vay
(lãi mẹ đẻ lãi con)
5
Lãi suất và chính sách lãi xuất
• Phân loại theo loại tiền
-Lãi suất nội tệ: là loại lãi suất áp dụng để tính toán cho đồng nội tệ
(kể cả lãi suất huy động và lãi suất cho vay)
-Lãi suất ngoại tệ: là lãi suất tính toán áp dụng cho đồng ngoại tệ
Lãi suất ngoại tệ có ảnh hưởng đến việc khuyến khích xuất khẩu hay
nhâp khẩu: để khuyến khích xuất khẩu, người ta thường áp dụng cơ chế lãi
suất ngoại tệ cho vay thấp hơn, trong huy động thì cao hơn so với lãi suất
nội tệ và ngược lại. Với cơ chế này sẽ khuyến khích các nhà xuất khẩu vay
tiền để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của mình trong trường hợp lãi suất
cho vay đối với đồng ngoại tệ thấp và ngược lại.
• Phân loại theo độ dài thời gian:
Theo cách phân loại này, cả lãi suất huy động và lãi suất cho vay,
thời gian càng dài thì lãi suất càng cao.
Cơ sở của cơ chế lãi suất này là ở chỗ thời gian thuê vốn (cả huy
động và cho vay) càng dài thì lợi nhuận làm ra càng nhiều, đồng thời tính
rủi ro mất vốn cũng càng cao.
-Lãi suất ngắn hạn: là loại lãi suất áp dụng cho các khoản huy động
và khoản vay ngắn hạn, có thời hạn dưới 1 năm.
-Lãi suất trung hạn: là loại lãi suất áp dụng cho các khoản huy động
và khoản vay có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm.
-Lãi suất dài hạn: là loại lãi suất áp dụng cho các khoản huy động và
khoản cho vay có thời hạn trên 5 năm.
Theo cách phân loại này, cả lãi suất huy động và lãi suất cho vay,
thời gian càng dài thì lãi suất càng cao. Tuy nhiên, trong một số trường hợp
đặc biệt lãi suất ngắn hạn có thể cao hơn lãi suất trung và dài hạn, ví dụ:

khi nền kinh tế trong quá trình khôi phục lại sau chiến tranh, khủng hoảng
kinh tế…nhà nước cần một số lượng vốn lớn trong thời gian ngắn, lúc này
lãi suất huy động ngắn hạn sẽ được ưu tiên nâng cao hơn các loại lãi suất
khác.
1.1.3.Các nhân tố tác động đến lãi suất
• Mức cung cầu tiền tệ
6
Lãi suất và chính sách lãi xuất
-Cung tiền tệ là tổng thể tiền tệ được sử dụng để giao dịch thanh toán trên
thị trường. Các nhà kinh tế đã định nghĩa M là tiền giao dịch bao gồm: M1
là tổng số tiền kim khí và tiền giấy lưu thông bên ngoài ngân hàng cộng
với tiền gửi ngân hàng có thể rút ra bằng séc và định nghĩa rộng hơn (M2)
bao gồm những tài sản như tài khoản tiền gửi tiết kiệm ngoài tiền kim khí,
tiền giấy và tiền gửi ngân hàng có thể rút ra bằng séc.
Quyền kiểm soát mức cung tiền tệ được dành cho Chính phủ, bởi vì hạn
chế mức cung tiền tệ là điều cần thiết để tiền có giá trị.
-Cầu tiền tệ là nhu cầu về tiền của cá nhân, đơn vị, tổ chức để làm phương
tiện giao dịch, trao đổi, mua bán hàng hoá, dịch vụ…
Đường thẳng đứng S biểu thị ngân hàng trung ương giữ cung cấp tiền tệ ở
một lượng định trước gọi là M. Đường cong về mức cung tiền tệ được vẽ
thẳng đứng vì việc cung cấp tiền tệ được định ra ở M cho mọi lãi suất.
Công chúng (các gia đình và các hàng kinh doanh) muốn giữ lượng tiền
M1 khác nhau ở những mức lãi suất khác nhau, lãi suất thấp thì số tiền dôi
ra lớn hơn.
Giao điểm giữa cung và cầu trên đồ thị xác định lãi suất cân bằng. Đây là
mức lãi suất ở điểm số lượng tiền do ngân hàng trung ương đề ra làm mục
tiêu phù hợp với số tiền mà công chúng muốn nắm giữ.
Sự thay đổi cung cầu tiền tệ sẽ ảnh hưởng đến lãi suất. Ngoài ra những
thay đổi dự định trong cầu tiền tệ (không phải do sự thay đổi trong mức giá
cả, tổng sản phẩm, hoặc lãi suất gây ra) cũng ảnh hưởng đến lãi suất cân

bằng.
1.1.4. Vai trò của lãi suất
Lãi suất là biến số kinh tế nhạy cảm, sự thay đổi của lãi suất sẽ tác động
làm thay đổi hành vi sản xuất và tiêu dùng của xã hội. Về phương diện lý
thuyết cũng như thực tiễn các nước đã chứng minh, sự thay đổi lãi suất thực sẽ
có tác động nhạy cảm đến sản lượng và giá cả. Vì vậy, Ngân hàng Trung ương
(NHTƯ) đã rất coi trọng việc điều tiết lãi suất nhằm đạt được mục tiêu cuối
cùng của chính sách tiền tệ (CSTT) là kiềm chế lạm phát và góp phần tăng
trưởng kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường, lãi suất giữ vị trí khá quan trọng, nó được
thể hiện như sau:
7
Lãi suất và chính sách lãi xuất
° Lãi suất là đòn bẩy, kích thích sự tăng trưởng kinh tế, góp phần thực
hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia. Chính sách lãi suất, nếu tạo ra
được mức lãi suất cho vay thấp hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân sẽ có tác dụng
thúc đẩy kích thích các doanh nghiệp tăng nhu cầu đầu tư, mở rộng sản xuất,
đổi mới thiết bị, trang bị công nghệ sản xuất hiện đại bằng nguồn vốn vay
ngân hàng. Hiệu quả cuối cùng sẽ tạo ra một nguồn vốn của cải cho xã hội,
tổng thu nhập quốc dân tăng lên rất nhiều.
° Lãi suất là công cụ thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các ngân hàng thương
mại, lãi suất là giá cả của vốn, do vậy thông qua lãi suất các ngân hàng thương
mại sẽ tự điều chỉnh hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng của
mình mà kết quả cuối cùng là nền kinh tế, các doanh nghiệp, các tầng lớp dân
cư được lợi hơn vì sẽ được hưởng giá rẻ và chất lượng dịch vụ cao.
° Lãi suất là công cụ dùng để điều chỉnh các hoạt động đầu tư trong nền
kinh tế, hay nói cách khác, khi các doanh nghiệp, các tầng lớp dân cư có vốn,
muốn đầu tư vào lĩnh vực nào cũng phải lấy lãi suất tín dụng trong nền kinh tế
làm cơ sở và quyết định, ít nhất hiệu quả đầu tư vào các lĩnh vực khác để sinh
lời phải có tỷ lệ lớn hơn hoặc cùng lắm phải bằng lãi suất tín dụng.

° Lãi suất còn là công cụ để kềm chế lạm phát rất hữu hiệu thông qua
chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương. Trong trường hợp nền kinh tế có
lạm phát, ngân hàng trung ương sẽ sử dụng chính sách thắt chặt tiền tệ, tăng
lãi suất để thu hút tiền nhàn rỗi trong lưu thông về, nhằm điều hòa lượng tiền
trong lưu thông, cân đối với khối lượng hàng hóa.
Như vậy, lãi suất trong nền kinh tế là công cụ kinh tế khá quan trong,
làm sao lãi suất phải phù hợp với lãi suất của các nước trên thế giới trong điều
kiện hội nhập kinh tế quốc tế là vấn đề được đặt ra và cần được giải quyết
1.2. Chính sách lãi suất của ngân hàng trung ương
1.2.1.Khái niệm
Trong nền kinh tế thị trường, chính sách lãi suất là bộ phận của chính
sách tiền tệ, tác động đến cung- cầu vốn và hiệu quả phân bổ các nguồn lực tài
chính trong nền kinh tế
1.2.2. Nội dung của chính sách lãi suất
Nội dung của chính sách lãi suất được xác định bằng mô hình:
Rf = f(x1, x2, x3, x4, x5, x6)
8
Lãi suất và chính sách lãi xuất
Trong đó:
- x1 là cân bằng cung - cầu vốn thị trường, thể hiện ở tốc độ tăng trưởng
vốn huy động và vốn tín dụng của hệ thống TCTD phải tương ứng với nhau,
vì trong những năm tới, kênh tín dụng ngân hàng vẫn đóng vai trò chủ yếu
trong huy động tiết kiệm và cung ứng vốn cho đầu tư phát triển; việc sử dụng
quan hệ các chỉ số vốn tín dụng nói trên phản ánh tương đối chính xác quan hệ
cung - cầu vốn thị trường.
- x2 = R – CPI > 0, trong đó R là lãi suất tiền gửi danh nghĩa ngắn hạn
VND của TCTD, CPI là chỉ số giá tiêu dùng; áp dụng công thức hiệu ứng của
Fisher là lãi suất thực tế = lãi suất danh nghĩa – tỷ lệ lạm phát.
- x3 là cân bằng giữa cung - cầu vốn khả dụng của TCTD mà cầu vốn khả
dụng là số vốn các TCTD cần có để đảm bảo khả năng chi trả thường xuyên

cho khách hàng, được NHNN dự báo, hàng tuần, tháng hoặc quý để điều tiết
tiền tệ; còn cung vốn khả dụng của TCTD bao gồm tiền mặt tại quỹ + tiền gửi
tại NHNN vượt mức DTBB + hạn mức chiết khấu chưa sử dụng + giá trị giấy
tờ có giá có thể bán trên thị trường liên ngân hàng phải đủ hoặc dư thừa so với
nhu cầu vốn của thị trường.
- x4 là cân bằng giữa lãi suất VND – tỷ giá hối đoái – lãi suất USD theo
phương trình lãi suất tiền gửi VND = lãi suất tiền gửi ngắn hạn USD + mức
tăng tỷ giá VND so với USD + hệ số k, trong đó hệ số 2% để đảm bảo≥k là
chênh lệch lợi tức giữa tiền gửi VND và tiền gửi USD và k tính hấp dẫn của
lãi suất VND, tránh chuyển dịch tiền gửi VND sang USD và hỗ trợ huy động
vốn ở trong và ngoài nước.
- x5 < tốc độ tăng GDP thực tế, tức là lãi suất thực là phần giá trị gia tăng
mà người gửi tiền nhận được từ kết quả hoạt động của nền kinh tế trong một
thời hạn nhất định phải nhỏ hơn mức độ gia tăng của cải thực của nền kinh tế,
thì mới khuyến khích tiết kiệm, đầu tư.
- x6 là chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động thực tế bình
quân của TCTD và 3% < x6 < 6%, vì theo thống kê chênh lệch này của các
TCTD trong 10 năm qua (1995 - 2004) giao động trong khoảng 3%-6% và với
mức này đủ để các TCTD có thể bù đắp chi phí; đồng thời, theo thông lệ quốc
tế và các kiến nghị của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) thì chênh lệch lãi suất của
các NHTM Việt Nam phải ở mức 5% - 6% để bù đắp đủ dự phòng rủi ro và tái
đầu tư hiện đại hoá công nghệ.
9
Lãi suất và chính sách lãi xuất
1.2.3 Vai trò của ngân hàng trung ương trong việc kiểm soát lãi suất thị
trường tiền tệ
NHTƯ với chức năng bẩm sinh, là cơ quan duy nhất điều tiết được cung
tiền của nền kinh tế, chủ động tác động đến lãi suất thị trường, nhằm hướng
tới mục tiêu kiểm soát lạm phát. Trên thực tế, sự tăng lên của lãi suất chính
thức của NHTƯ có thể có ảnh hưởng mạnh đến giảm lạm phát khi sự thay đổi

lãi suất chính thức của NHTƯ có tác động nhanh, mạnh đến sự thay đổi lãi
suất trong nền kinh tế và tỷ giá hối đoái. Điều này càng đúng hơn trong nền
kinh tế có hệ thống tài chính mở và cạnh tranh hơn, khi đó nhiều hợp đồng
được ký kết trên cơ sở lãi suất thả nổi hơn là trên cơ cở lãi suất cố định, lúc đó
những thay đổi trong lãi suất chính thức càng có ảnh hưởng đến lãi suất khác
và tỷ giá. Mặt khác, sự tăng lên của lãi suất NHTƯ có thể có ảnh hưởng nhanh
hơn trong việc giảm lạm phát và dẫn đến sản lượng giảm chút ít trong ngắn
hạn, khi: Kỳ vọng tiền lương và giá cả nhạy cảm hơn với những thay đổi trong
lãi suất chính thức và tiền cung ứng( độ nhạy cảm này sẽ tăng lên nếu chính
sách có độ tin cậy); hoặc/và tiền lương nhạy cảm với những thay đổi của sản
lượng và việc làm ( sự nhạy cảm này tăng lên khi thị trường lao động linh
hoạt); khi tỷ giá là linh hoạt ; và khi giá cả trong nước nhạy cảm với những
thay đổi trong tỷ giá (sự nhạy cảm này phụ thuộc vào những thay đổi của giá
hàng nhập khẩu theo tỷ giá, theo đó cũng phụ thuộc vào những nhà xuất khẩu
nước ngoài không thay đổi lợi nhuận cận biên của họ, và phụ thuộc vào ảnh
hưởng của những thay đổi giá nhập khẩu lên giá cả trong nước. Mức độ ảnh
hưởng càng lớn khi nhập khẩu chiếm tỷ lệ lớn trong GDP, như đối với những
nước nhỏ, mở cửa hơn là những nước lớn mà đóng cửa).
1.2.4 Cơ chế điều hành và kiểm soát lãi suất thị trường tiền tệ của ngân
hàng trung ương
Các cơ chế điều hành và kiểm soát lãi suất TTTT: NHTƯ áp dụng hai
cơ chế chủ yếu:
Cơ chế điều hành và kiểm soát lãi suất trực tiếp mà theo đó, NHTƯ
quy định các mức lãi suất cụ thể cho hoạt động kinh doanh của NHTM. Thông
qua các hình thức quản lý lãi suất của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế,
như quy định các mức lãi suất cụ thể về tiền gửi, cho vay, khung lãi suất, trần
lãi suất cho vay, biên độ chênh lệch lãi suất bình quân… Thực chất là NHTƯ
quy định mức lãi suất cho vay tối đa hoặc tiền gửi tối thiểu của các tổ chức tín
dụng đối với nền kinh tế. Trong phạm vi lãi suất cho phép, các tổ chức tín
10

Lãi suất và chính sách lãi xuất
dụng được quyền ấn định lãi suất cho vay phù hợp. Khi có thay đổi về kinh tế
vĩ mô, NHTW có thể xem xét để điều chỉnh giới hạn lãi suất tối đa hợp lý.
Nhìn chung trong các nền kinh tế phát triển, lãi suất ngày càng được tự do
hoá, còn ở các nước có hệ thống tài chính chưa phát triển, các quy định mang
tính quản lý trực tiếp được áp dụng phổ biến hơn và xu hướng chung là ngày
càng giảm dần sự quản lý trực tiếp này.
Cơ chế điều hành và kiểm soát lãi suất gián tiếp là việc NHTW sử dụng
các công cụ CSTT gián tiếp để kiểm soát lãi suất thị trường biến động phù hợp
với lãi suất mục tiêu. Thông qua cơ chế tái cấp vốn ( chiết khấu, tái chiết khấu,
cho vay cầm cố chứng từ có giá…) của NHTW đối với các tổ chức tín dụng,
NHTW thực hiện quản lý gián tiếp lãi suất cho vay của ngân hàng thương mại
đối với nền kinh tế. Cơ chế này được thực hiện theo nguyên tắc: Trong điều
hành chính sách lãi suất, NHTW chỉ công bố mức lãi suất áp dụng đối với các
khoản cho vay tái chiết khấu hoặc cho vay cầm cố chứng từ có giá của mình
đối với các tổ chức tín dụng. Các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể theo
từng kỳ hạn, từng đối tượng của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế sẽ do
tổ chức tín dụng ấn định, dựa trên cơ sở cung - cầu về vốn và sự cạnh tranh
trên thị trường. Khi muốn điều chỉnh lãi suất kinh doan của các tổ chức tín
dụng đối với nền kinh tế, phù hợp mục tiêu của chính sách tiền tệ từng giai
đoạn, NHTW sẽ thực hiện thông qua việc điều chỉnh lãi suất tái chiết khấu của
mình đối với các tổ chức tín dụng. Từ đó tác động đến lãi suất thị trường tiền
tệ liên ngân hàng. Và cuối cùng sẽ tác động đến lãi suất kinh doanh của các tổ
chức tín dụng đối với các chủ thể trong nền kinh tế. Cơ chế điều hành lãi suất
này được áp dụng phổ biến đối với các nền kinh tế có hệ thống tài chính phát
triển. Cơ chế này cũng trở nên linh hoạt hơn, khi bên cạnh các loại lãi suất
trên, NHTW chấp nhận lãi suất do thị trường hình thành và tác động vào lãi
suất này để duy trì ở mức mong muốn như lãi suất Repo của ngân hàng Anh,
ngân hàng liên bang Đức, ngân hàng trung ương Châu Âu; lãi suất tiền gửi
liên bang của Cục dự trữ liên bang Mỹ….

Các mô hình điều hành và kiểm soát lãi suất TTTT: Mô hình hành lang
hay khung lãi suất mà theo đó, NHTW thiết lập và kiểm soát lãi suất thị
trường liên ngân hàng trong hành lang mà lãi suất cho vay qua đêm là “trần”,
lãi suất chiết khấu hoặc lãi suất tiền gửi của NHTM là “sàn”. Mô hình giới hạn
trên chỉ sử dụng “trần” là lãi suất cho vay qua đêm của thị trường liên ngân
11
Lãi suất và chính sách lãi xuất
hàng. Mô hình giới hạn dưới, sử dụng “sàn” là lãi suất tiền gửi của NHTM
hoặc lãi suất chiết khấu.
CHƯƠNG 2. CHÍNH SÁCH LÃI SUẤT CỦA NGÂN HÀNG
NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
2.1. Thực trạng của chính sách lãi suất trong thời kỳ 1988- 2004
2.1.1. Chính sách lãi suất áp dụng trong thời kỳ trước năm 1988
Trong thời kỳ trước năm 1988, NHNN đã thực thi chính sách lãi suất
thấp, bao cấp, phù hợp với cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Đặc trưng
cơ bản của lãi suất thời kỳ thực thi chế độ quản lý nền kinh tế theo cơ chế kế
hoạch hóa tập trung kéo dài, đó là áp dụng chính sách lãi suất bao cấp khá
nặng nề, lãi suất đựơc xây dựng thoát ly lãi suất của nền kinh tế thế giới. Dẫn
đến lãi suất thực thi trong thời kỳ này với tình trạng “lãi giả và lỗ thật” làm
cho ngân hàng không thể bảo toàn vốn của mình do lạm phát tăng cao và lãi
suất thực là số âm, vì tỷ lệ lạm phát đã lớn hơn lãi suất danh nghĩa.
2.1.2. Chính sách lãi suất áp dụng trong thời kỳ 1988- 2008
Bước ngoặt trong tiến trình đổi mới, cải cách nền kinh tế VN trong lĩnh
vực ngân hàng bắt đầu bằng Nghị định 53/HĐBT ngày 26.3.1988 của Hội
đồng bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ). Nội dung cơ bản của Nghị định
53/HĐBT đó là “Đã hình thành việc phân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ
của Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng chuyên doanh, làm tiền đề cho hai
pháp lệnh về: Ngân hàng Nhà nước và pháp lệnh về ngân hàng, hợp tác xã tín
dụng và công ty tài chính ngày 23.5.1989 của Hội đồng nhà nước. Hai pháp
lệnh này có hiệu lực từ ngày 1.10.1990 với nội dung chủ yếu: Xóa hẳn mô

hình ngân hàng một cấp và xây dựng mô hình ngân hàng hai cấp phù hợp với
mô hình của ngân hàng các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Trong đó
Ngân hàng Nhà nước VN thực hiện chức năng ngân hàng của các ngân hàng,
quản lý hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín
dụng trong nền kinh tế, còn ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng, thực
hiện chức năng kinh doanh trực tiếp về lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và ngân hàng
trong nền kinh tế. Từ Pháp lệnh ngân hàng có hiệu lực 1.10.1990, đến ngày
1.10.1998 Luật ngân hàng nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng ra đời và có
hiệu lực cho đến nay đã tạo ra hành lang pháp lý quan trọng cho hoạt động
kinh doanh của hệ thống ngân hàng trong nền kinh tế.
Nhìn lại diễn biến của chính sách lãi suất qua từng thời kỳ, cho chúng ta thấy
những bước phát triển của mỗi thời kỳ tương xứng với sự phát triển của nền
12
Lãi suất và chính sách lãi xuất
kinh tế. Quá trình tự do hóa lãi suất của Việt Nam được thể hiện tổng quát như
sau:
- Chính sách lãi suất áp dụng trong giai đoạn 1988- tháng 5/1992: Trong
giai đoạn này, NHNN đã thực hiện chính sách lãi suất “âm” mà theo đó, lãi
suất tiền gửi được quy định cao hơn tỷ lệ lạm phát và lãi suất cho vay, góp
phần chống khủng hoảng và kiềm chế lạm phát phi mã. Cơ chế thức thi chính
sách lãi suất cố định (1989-5.1992). Đây là cơ chế lãi suất đã có từ trước
nhưng có sự thay đổi căn bản, theo nguyên tắc của việc xác định lãi suất là:
Bảo toàn được vốn và có lãi, được áp dụng ở các doanh nghiệp của các thành
phần kinh tế. Cơ chế lãi suất này được điều chỉnh theo biến động của chỉ số
giá, đặc biệt là lãi suất ngoại tệ được áp dụng theo mức lãi suất của thị trường
tiền tệ quốc tế. Thực tế vận hành trong một thời gian (1989-1992), cơ chế lãi
suất thời kỳ này đã bắt đầu phát huy tác dụng, là bước chuyển của cơ chế lãi
suất thực âm sang cơ chế lãi suất thực dương.
- Chính sách lãi suất áp dụng trong giai đoạn tháng 6/1992-1995:
NHNN bỏ chính sách lãi suất “âm”, chuyển sang chính sách lãi suất “thực

dương”, quy định mức “sàn” lãi suất tiền gửi và “trần” lãi suất cho vay; công
bố lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu. Đặc trưng của cơ chế này là Ngân
hàng Nhà nước điều hành cơ chế lãi suất theo khung lãi suất, quy định rõ sàn
lãi suất tiền gửi và trần lãi suất cho vay đối với nền kinh tế. Các ngân hàng
thương mại, các tổ chức tín dụng căn cứ khung lãi suất của ngân hàng thương
mại để đưa ra các lãi suất thích hợp cho mình, thực chất là bước chuyển đổi
căn bản từ cơ chế lãi suất âm sang cơ chế lãi suất dương, đảm bảo cho các
ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng kinh doanh có hiệu quả, đây là cơ
chế lãi suất khởi đầu cho quá trình tự do hóa lãi suất ở Việt Nam.
- Chính sách lãi suất áp dụng trong giai đoạn 1996- tháng 7/2000: Từ
tháng 1/1996, NHNN điều chỉnh một bước chính sách lãi suất theo hướng thị
trường bằng việc bỏ việc quy định “sàn” lãi suất tiền gửi, chỉ quy định “trần”
lãi suất cho vay; khống chế chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy
động vốn bình quân của các TCTD là 0,35%/tháng; điều chỉnh lãi suất tái cấp
vốn, lãi suất chiết khấu phù hợp với hướng “nới lỏng” tiền tệ. Cơ chế điều
hành lãi suất trần, nét cơ bản của cơ chế điều hành trần lãi suất đó là Ngân
hàng Nhà nước đã thay đổi căn bản cơ chế điều hành linh hoạt trần lãi suất,
bước đầu đã thực hiện tự do hóa lãi suất huy động (lãi suất đầu vào của ngân
hàng thương mại) và linh hoạt trần lãi suất cho vay (lãi suất đầu ra). Cơ chế lãi
13
Lãi suất và chính sách lãi xuất
suất này đã góp phần duy trì sự tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát, ổn
định sức mua của VND trong sự tương quan của các đồng tiền trong khu vực
do có khủng hoảng tiền tệ năm 1997-1998 ở các nước Đông Nam Á.
- Chính sách lãi suất áp dụng trong giai đoạn tháng 8/2000- 5/2002: Từ tháng
8/2000, NHNN bỏ cơ chế “trần” lãi suất cho vay chuyển sang thực hiện cơ chế
lãi suất cơ bản, điều chỉnh giảm lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu phù
hợp với CSTT “nới lỏng thận trọng”. Cơ chế điều hành lãi suất cơ bản kèm
biên độ (8.2000-5.2002): Nội dung của cơ chế điều hành lãi suất cơ bản kèm
biên độ là Ngân hàng Nhà nước đã điều hành cơ chế lãi suất theo luật ngân

hàng để thay thế cho cơ chế lãi suất trần. Lãi suất cơ bản và biên độ được công
bố định kỳ hàng tháng, trường hợp cần thiết, Ngân hàng Nhà nước sẽ công bố
điều chỉnh kịp thời.
Đối với lãi suất cho vay bằng ngoại tệ, về cơ bản các ngân hàng thương
mại, các tổ chức tín dụng được ấn định lãi suất cho vay trên cơ sở lãi suất thị
trường quốc tế và cung cầu vốn trong nước của từng loại ngoại tệ. Theo cơ
chế lãi suất này cho thấy Ngân hàng Nhà nước VN đã quyết tâm đổi mới
chính sách lãi suất theo hướng tự do hóa và từng bước gắn lãi suất trong nước
vào thị trường khu vực và thế giới.
- Chính sách lãi suất áp dụng trong giai đoạn tháng 6/2002-2006: Tháng
6/2002, NHNN đã bỏ quy định việc TCTD ấn định lãi suất cho vay theo lãi
suất cơ bản, chuyển sang cơ chế lãi suất cho vay thoả thuận mà theo đó, các
TCTD ấn định lãi suất kinh doanh bằng VND trên cơ sở cung - cầu vốn thị
trường; NHNN tiếp tục công bố lãi suất cơ bản với mục đích phát tín hiệu và
định hướng lãi suất TTTT; áp dụng mô hình hành lang lãi suất thị trường liên
ngân hàng. Cơ chế lãi suất thỏa thuận (6.2002 – 2006): Trong thực tế, cơ chế
lãi suất này được Ngân hàng Nhà nước chuyển đổi từng bước bắt đầu từ tháng
5.2001 áp dụng cho hình thức vay bằng ngoại tệ, tiếp theo 5.2002 là áp dụng
cơ chế lãi suất thỏa thuận trong hoạt động tín dụng trong nước.
Trong năm 2008, Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã tăng lãi suất cơ bản
3 lần và tới thời điểm tháng 6/2008, mức lãi suất là 14%, mức cao nhất ở Châu
Á, từ mức 12% trước đó. NHNN cũng giảm giá đồng VND 2% trong tháng
này nhằm giải tỏa áp lực đối với đồng tiền trong nước
Trong những tháng đầu năm 2008, tình hình lãi suất có những biến
động, đầu năm lãi suất lên cao. Đặc biệt là từ đầu tháng 2/2008 lãi suất huy
14
Lãi suất và chính sách lãi xuất
động trên thị trường đã biến động mạnh do các NHTM liên tục tăng lãi suất
huy động VNĐ lên mức 13-14%/năm và đã đẩy lãi suất cho vay lên đến mức
trên 1,5%/tháng vào tháng 3 năm 2008, có nơi còn cho vay với lãi suất xấp xỉ

20%/năm. Đây là một sự chuyển động theo tín hiệu lãi suất thực dương. Tuy
nhiên, bên cạnh người gửi tiền phấn khởi vì lãi suất tiền gửi lên là người đi
vay phải lo lắng cho việc không thể nào chịu đựng nổi lãi suất đi vay 15-
17%/năm. Các NHTM thì vẫn sử dụng chính sách huy động lãi suất cao và
cho vay lãi suất cũng cao theo, tức là vẫn có lãi lớn trong trước mắt. Thực tế
đã có một số NHTM cổ phần với nhận thức như vậy đã cố tình đẩy lãi suất
huy động lên làm cho thị trường tiền tệ có nhiều biến động mạnh.
Sau khi NHNN có công điện số 02/CĐ-NHNN ngày 26/02/2008 về việc
chốt trần lãi suất huy động VNĐ ở mức 12%/năm thì ngày 24/3/2008, Hiệp
hội các Ngân hàng có họp và có sự đồng thuận về lãi suất, các NHTM mới có
sự điều chỉnh lãi suất với mức 10,5%/năm (dưói 6 tháng) và 11%/năm (trên 6
tháng). Đến đầu tháng 4 năm 2008 lãi suất huy động VNĐ kỳ hạn 1 năm ở
mức 11,5-12%, lãi suất cho vay VNĐ ở mức16-18%/năm, lãi suất huy động
USD kỳ hạn 6 tháng đến 1 năm ở mức 6%-6,5%/năm. Đến ngày 16/4/2008,
Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu NHNN bỏ trần lãi suất huy động, để thị
trường tự điều tiết vì thấy các NHTM đều huy động với lãi suất thấp hơn lãi
suất trần. Tuy nhiên, thực tế cho thấy sau khi có ý kiến của Thủ tướng Chính
phủ, một vài NHTM cổ phần đã tranh thủ đẩy lãi suất huy động lên cao hơn
mức trần 12%. Việc đẩy lãi suất huy động lên trên 12% của một vài NHTM cổ
phần là nhằm thu hút được nhiều vốn vì họ vẫn có lãi khi cho vay với lãi suất
cao 18-20%.
Lãi suất thực dương cao có tác dụng kiềm chế lạm phát nhưng cao quá
mức thì có thể là một tai hoạ cho nền kinh tế trong các năm tiếp theo. Việc cho
vay với lãi suất quá cao 18-20% của một số NHTM cổ phần là một sự bảo
đảm có lợi nhuận lớn cho các ngân hàng này vì chênh lệch giữa lãi suất cho
vay và lãi suất huy động là quá lớn 6-7%, trước đây ta chỉ cho mức chênh lệch
này ở mức không quá 0,35%. Lãi suất cho vay lên cao đã tạo ra gánh nặng cho
các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh vì không có mấy hoạt động có thể có lãi
trên 20%, tức là đủ trả lãi cho NHTM cổ phần và một phần để cho doanh
nghiệp.

Tuy vậy, tại sao các NHTM cổ phần vẫn thiếu vốn cho vay và NHNN
vẫn phải cho vay tái cấp vốn với lãi suất 0.9%/tháng? Chúng tôi cho rằng điều
15
Lãi suất và chính sách lãi xuất
này NHNN phải nghiên cứu thật kỹ, kiểm tra thật chặt chẽ vì khả năng vay
vốn đầu cơ nhiều hơn là cho sản xuất kinh doanh, hoặc những dự án đã trót
triển khai thì bắt buộc phải vay, lãi suất cao bao nhiêu cũng chịu nhưng không
lường và không tính đến khả năng không trả được nợ. Bài học hơn 25 ngàn tỷ
đồng nợ xấu không thu được phải xử lý của các NHTMNN trước đây vẫn còn
trước mắt.
Việc NHNN tái cấp vốn với lãi suất 0,9%/tháng cho các NHTM cổ
phần thiếu vốn cho vay thực tế là làm cho tiền trong lưu thông lại tăng lên và
vòng tiếp theo là lạm phát tăng cao. Hành động này cũng khuyến khích các
NHTM cổ phần cứ cho vay ra với lãi suất cao mà không có điểm dừng, hậu
quả lạm phát cao và mất ổn định hệ thống ngân hàng trong thời gian tới vì đến
tháng 4/2008 dư nợ tín dụng cho nền kinh tế vẫn tăng ở mức 60,2% so với
cùng kỳ năm 2007.
Tóm lại : Có thể nói quá trình đổi mới cơ chế điều hành lãi suất ngân
hàng ở Việt Nam từ khi có mô hình ngân hàng hai cấp (1988) đến nay đã trải
qua năm bước chuyển đổi căn bản, đó là những bước đi khá thận trọng và
khẳng định xu hướng tất yếu của quá trình tự do hóa lãi suất ở Việt Nam. Quá
trình tự do hóa lãi suất ở Việt Nam đã đạt được những kết quả nhất định:
2.2. Đánh giá chính sách lãi suất đã được áp dụng trong thời kỳ 1988- nay
2.2.1. Quá trình phát triển của chính sách lãi suất
- Sự thay đổi thích hợp của chính sách lãi suất: Trong từng giai đoạn,
tuỳ theo diễn biến và mục tiêu kinh tế vĩ mô- tiền tệ, NHNN đã thực thi chính
sách lãi suất thích hợp, tiến dần theo các nguyên tắc thị trường. Từ tháng
6/1992, chuyển từ chính sách lãi suất “âm” sang chính sách lãi suất “thực
dương” và có sự điều chỉnh linh hoạt trong các giai đoạn tiếp theo. Tiến hành
cải cách, điều chỉnh chính sách lãi suất làm cho lãi suất trong nền kinh tế đã

trở thành công cụ quan trọng của Nhà nước nhằm thực thi chính sách tiền tệ,
ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, kiềm chế được lạm phát. Lãi suất góp phần
nâng cao hiệu quả của nền kinh tế nói chung, kích thích sự tiết kiệm và
khuyến khích đầu tư. Việc xóa dần chính sách ưu đãi về lãi suất đã dần dần
tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại thực hiện tốt công tác hạch toán
kinh tế và kinh doanh của mình được chủ động và thuận lợi.
- Quá trình tự do hoá lãi suất: Từ tháng 6/2002, lãi suất VND trên thị
trường đã được tự do hoá. Quá trình tự do hoá lãi suất diễn ra trong hơn 10
16
Lãi suất và chính sách lãi xuất
năm (1991-2002), theo bước đi “tự do hoá dần dần”, bắt đầu là tự do hoá lãi
suất tiền gửi, tiếp đến là lãi suất cho vay, lãi suất TTTT thứ cấp tự do hoá
trước, rồi đến lãi suất TTTT sơ cấp. Chính sách lãi suất qua các lần biến đổi
đã tiến dần đến tự do hóa lãi suất, chuẩn bị cho sự hội nhập về lãi suất với nền
kinh tế thế giới. Quyết định 546/2002 QĐ-NHNN về việc thực hiện cơ chế lãi
suất thỏa thuận trong hoạt động tín dụng, đây là một bước ngoặt lớn đánh dấu
sự mở đầu trong việc thực hiện cơ chế tự do hóa lãi suất trong nền kinh tế đối
với hoạt động tín dụng và lãi suất cơ bản công bố của Ngân hàng Nhà nước
dần dần sẽ mang tính chất tham khảo đối với các tổ chức tín dụng trong việc
xác định lãi suất từng thời kỳ. Như vậy quá trình đổi mới cơ chế lãi suất từ
kiểm soát trực tiếp, cố định lãi suất sang cơ chế lãi suất thỏa thuận thực chất là
dần dần đã tự do hóa lãi suất, đây là những bước đi thận trọng, đã có những
thành công cơ bản của quá trình tự do hóa lãi suất ở Việt Nam.
2.2.2. Quan hệ giữa lãi suất và diễn biến kinh tế vĩ mô, tiền tệ
- Quan hệ giữa lãi suất và diễn biến kinh tế vĩ mô: Chính sách lãi suất
có mối quan hệ chặt chẽ với diễn biến kinh tế vĩ mô, thể hiện lãi suất thị
trường ổn định do các cân đối vĩ mô được giữ vững (tăng trưởng kinh tế cao,
cán cân thanh toán thặng dư, bội chi ngân sách dưới 5% GDP…). Ngược lại,
lãi suất thị trường có quan hệ tỷ lệ hợp lý với các chỉ số kinh tế vĩ mô cho nên
đã kích thích hoạt động của nền kinh tế.

- Quan hệ giữa lãi suất và lạm phát: Lãi suất tiền gửi và cho vay của
TCTD biến động cùng chiều hướng giảm của lạm phát, đảm bảo lãi suất “thực
dương”. Theo cơ chế truyền dẫn và tác động của chính sách lãi suất và mô
hình thực nghiệm, thì NHNN có thể sử dụng lãi suất cho vay ngắn hạn tốt nhất
của TCTD làm lãi suất mục tiêu để điều hành.
- Quan hệ giữa lãi suất thực và tăng trưởng kinh tế: Lãi suất thực nhỏ
hơn tăng trưởng kinh tế thực tế là mối tương quan hợp lý, vì tăng trưởng kinh
tế phản ánh mức gia tăng của cải và “lợi tức- lãi suất thực của tư bản cho vay”
thông thường phải nhỏ hơn mức gia tăng này.
- Quan hệ giữa cung- cầu vốn và lãi suất TTTT: Đối với nền kinh tế quy
mô nhỏ, mở cửa và trong thời kỳ chuyển đổi như Việt Nam, để tăng trưởng
kinh tế ở mức cao và ổn định lãi suất thị trường, thì phải tăng cường thu hút
vốn đầu tư nước ngoài, bù đắp đủ chênh lệch “âm” giữa tiết kiệm và đầu tư.
Quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng vốn huy động và tín dụng của hệ thống phản
17
Lãi suất và chính sách lãi xuất
ánh khá chính xác tình trạng cung- cầu vốn thị trường và có mối quan hệ chặt
chẽ với biến động lãi suất TTTT (nếu cố định các nhân tố tác động khác). Để
kiểm soát lãi suất TTTT, NHNN cần giám sát chặt chẽ quy mô và chất lượng
tăng trưởng tín dụng, các hệ số an toàn kinh doanh của các NHTM.
- Quan hệ giữa lãi suất VND, tỷ giá USD/VND và lãi suất USD: Nền
kinh tế Việt Nam bị đô la hoá ở mức cao trong nhiều năm trở lại đây. Mối
quan hệ giữa lãi suất VND- tỷ giá USD/VND- lãi suất USD được biểu hiện
bằng mô hình:
Lãi suất tiền gửi ngắn hạn VND = Lãi suất tiền gửi ngắn hạn USD + Mức
tăng của tỷ giá giữa VND so với USD + Hệ số điều chỉnh (k).
k là chênh lệch lợi tức giữa lãi suất tiền gửi ngắn hạn VND và lãi suất tiền gửi
ngắn hạn USD. Nếu (k) ở mức 2%- 3% thì tác động ổn định TTTT; nếu k<0,
TTTT bị xáo trộn do dịch chuyển vốn VND sang USD.
- Quan hệ giữa lãi suất, cung ứng tiền và phát triển TTTT: Quan hệ giữa

tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán (M2) và lãi suất TTTT là tỷ lệ nghịch,
nhưng xét độ trễ thời gian từ 1 đến 2 năm, thì biến động lãi suất thị trường có
mức giảm nhanh hơn so với tốc độ tăng M2 và trong một số năm biến động
không phải là tỷ lệ nghịch. Điều này phản ánh quan hệ không chặt chẽ giữa
M2 và lãi suất TTTT, vì tác động vượt trội của các nhân tố lạm phát, cạnh
tranh, tỷ giá và lãi suất thị trường quốc tế.
- Quan hệ giữa lãi suất và năng lực tài chính của các NHTM: Năng lực
tài chính của hệ thống NHTM ở tình trạng yếu kém kéo dài trong nhiều năm
qua là nhân tố gây nên tình trạng dễ tổn thương và biến động bất thường trên
TTTT; hoặc tạo nên sức ỳ, kém nhạy cảm đối với những thay đổi của chính
sách lãi suất.
- Quan hệ giữa lãi suất TTTT và lãi suất chính thức của NHNN: Lãi
suất TTTT sơ cấp, thứ cấp và lãi suất chính thức của NHNN có mối quan hệ,
tác động lẫn nhau, biến động theo chiều hướng giảm. Một số lãi suất trên
TTTT đã xác lập được mối quan hệ hợp lý. Tuy nhiên, quan hệ giữa các loại
lãi suất trên TTTT đã và đang có những mâu thuẫn, chưa phù hợp với cơ chế
thị trường; vai trò chi phối và kiểm soát lãi suất thị trường của NHNN còn
yếu.
18
Lãi suất và chính sách lãi xuất
2.2.3. Đánh giá chính sách lãi suất
- Mặt được: Chính sách lãi suất phù hợp với điều kiện, mục tiêu kinh tế
vĩ mô trong từng giai đoạn chuyển đổi của nền kinh tế và thực hiện thành công
tự do hoá lãi suất; NHNN chuyển đổi cơ chế kiểm soát trực tiếp lãi suất sang
cơ chế kiểm soát gián tiếp; cơ chế truyền dẫn và tác động của chính sách lãi
suất đối với nền kinh tế đã được hình thành; các thị trường bộ phận của TTTT
phát triển.
- Những tồn tại, hạn chế của chính sách lãi suất hiện nay: Việc điều
hành và kiểm soát lãi suất TTTT của NHNN gặp khó khăn, do các nhân tố
nằm ngoài khả năng điều tiết của mình; tác động của cơ chế điều hành lãi suất

đối với lãi suất TTTT còn yếu; mối liên hệ giữa các loại lãi suất TTTT và lãi
suất chính thức của NHNN còn lỏng lẻo; chưa có lãi suất chuẩn; mặt bằng lãi
suất TTTT sơ cấp và thứ cấp còn cát cứ; độ nhạy của hành vi tiết kiệm, đầu tư
và tiêu dùng với lãi suất còn hạn chế; NHNN chưa xác định lãi suất mục tiêu;
mô hình điều hành và kiểm soát lãi suất thị trường phức tạp; trên thị trường
liên ngân hàng hiện đang có hai khung lãi suất. NHNN chưa xác định cụ thể
chính sách lãi suất áp dụng trong những năm tới.
-Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại
Nền kinh tế Việt Nam quy mô nhỏ, mở cửa, năng lực cạnh tranh yếu,
chịu tác động mạnh của các biến động trên thị trường tài chính- tiền tệ quốc
tế; chính sách lãi suất theo đuổi nhiều mục tiêu mà không hoàn toàn thống
nhất; nhu cầu vốn tăng trong khi tiết kiệm trong nước tăng chậm.
+ TTTT phát triển ở mức thấp, chưa đồng nhất: Các bộ phận TTTT sơ
cấp và thứ cấp có quy mô nhỏ, chưa vận hành đúng theo nguyên tắc thị
trường.
+ Năng lực tài chính và cạnh tranh yếu kém của các TCTD: Tỷ lệ vốn
tự có tính trên tài sản có rủi ro thấp, tỷ lệ nợ xấu cao; việc quản trị vốn kinh
doanh chưa hiệu quả.
+ Năng lực hoạch định, điều hành CSTT của NHNN còn nhiều bất cập:
Các công cụ CSTT gián tiếp chưa đủ mạnh để điều tiết tiền tệ; tính độc lập,
năng lực dự báo và điều tiết tiền tệ của NHNN còn hạn chế.
+ Những khó khăn, vướng mắc từ cơ chế chỉ đạo của Chính phủ và phối
hợp với các Bộ, ngành: Chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa NHNN và Bộ Tài
chính trong việc thực hiện chính sách lãi suất; chưa có cơ chế thích hợp để
19
Lãi suất và chính sách lãi xuất
kiểm soát các nhân tố cung- cầu vốn thị trường; tín dụng ưu đãi của chính phủ
ngày càng mở rộng; các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) chậm được sắp xếp
lại.
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH LÃI

SUẤT TRONG NHỮNG NĂM TỚI
Sau đây là một số giải pháp cơ bản:
Giải pháp về cơ chế điều hành và kiểm soát lãi suất thị trường tiền tệ
trong những năm tiếp theo từ sau năm 2009
-Việc khống chế trần lãi suất cho vay như thời gian qua là một biện
pháp can thiệp hành chính không phù hợp với nền kinh tế thị trường, làm hạn
chế sự chủ động và linh hoạt của các ngân hàng thương mại trong vấn đề huy
động vốn và cho vay, vì lãi suất (giá cả) hình thành dựa trên quan hệ cung cầu
vốn của thị trường. Mức lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng được xác
định trên cơ sở lãi suất tiền gửi, chi phí huy động vốn, chi phí cho vay, uy tín
của khách hàng, mức độ rủi ro của từng khoản vay và yếu tố cạnh tranh trên
thị trường.Bên cạnh đó, việc khống chế trần lãi suất cho vay tức là đánh đồng
lãi suất của các loại hình tín dụng làm cho các ngân hàng rất khó đa đạng hóa
các sản phẩm dịch vụ, vì mỗi loại hình tín dụng có mức độ rủi ro khác nhau,
chi phí khác nhau, vì vậy lãi suất cho vay khác nhau, lãi suất tín dụng tiêu
dùng và tín dụng bán lẻ khác với lãi suất cho vay doanh nghiệp và các loại
hình tín dụng thông thường. Mặt khác, chính sách lãi suất trần cứng nhắc cũng
làm hạn chế sự phát triển của các dịch vụ tài chính mới của các ngân hàng như
tín dụng bán lẻ, tín dụng tiêu dùng, đây là những sản phẩm tất yếu của ngân
hàng hiện đại. Trên cơ sở những phân tích nêu trên, để thực hiện thành công
các giải pháp kích cầu của Chính phủ, đã đến lúc cần thiết phải cho phép các
ngân hàng thương mại thực hiện cho vay theo lãi suất thỏa thuận để góp phần
thúc đẩy phát triển phong phú các loại hình dịch vụ, tín dụng, kích thích sản
xuất và mở rộng thị trường tiêu thụ trong nước phát triển.
-Ngân hàng nhà nước có thể sử dụng mô hình hàng lang lãi suất:
Mô hình hàng lang lãi suất sử dụng lãi suất Repo làm chủ đạo. Lãi suất
cho vay ngắn hạn tốt nhất của TCTD là lãi suất mục tiêu; lãi suất Repo (là lãi
suất của hợp đồng mua lại giấy tờ có giá giữa NHNN và TCTD trong thời hạn
ít nhất là 2 tuần) do NHNN ấn định được sử dụng làm lãi suất chủ đạo để điều
20

Lãi suất và chính sách lãi xuất
tiết lãi suất thị trường thông qua hai nghiệp vụ là đấu thầu Repo thực hiện 01
lần/tuần và điều tiết thanh khoản hàng ngày.
Mô hình hành lang lãi suất sử dụng lãi suất định hướng liên ngân hàng
làm mục tiêu. Lãi suất định hướng liên ngân hàng mục tiêu là lãi suất “chuẩn”
trong các giao dịch giữa các TCTD với nhau trên thị trường liên ngân hàng, có
tác động trực tiếp đối với việc ấn định mức lãi suất tiền gửi và cho vay của các
TCTD trên TTTT sơ cấp. Áp dụng mô hình hành lang lãi suất, trong đó lãi
suất cho vay qua đêm là “trần” và lãi suất tiền gửi của TCTD là “sàn”. Đầu
hàng tháng, NHNN công bố lãi suất định hướng liên ngân hàng mục tiêu để ấn
định lãi suất “chuẩn” cho thị trường liên ngân hàng, từ đó định hướng biến
động lãi suất kinh doanh của TCTD. Nghiệp vụ thị trường mở là công cụ điều
tiết chính lãi suất thị trường.
Các giải pháp tạo điều kiện và cơ sở cho việc thực hiện chính sách và
cơ chế điều hành lãi suất
- Giải pháp nâng cao tính độc lập, khả năng hoạt động của NHNN:
Từng bước phân định rõ ràng quyền hạn và trách nhiệm của Quốc hội, Chính
phủ và NHNN trong quá trình hoạch định và thực thi CSTT; cấu trúc lại
NHNN theo mô hình quản lý tập trung, hiệu quả, phù hợp với chức năng của
NHTW; củng cố các thiết chế TTTT có quy mô đủ lớn; ban hành các quy định
mới về an toàn hệ thống TCTD, kế toán và kiểm toán ngân hàng; xây dựng hệ
thống các biện pháp kiểm soát luồng vốn quốc tế và nợ nước ngoài.
- Giải pháp đổi mới hoạch định và điều hành CSTT: Thành lập Uỷ Ban
TTTT có sự tham gia của đại diện có thẩm quyền của các bộ, ngành liên quan
để quyết định về lãi suất, tỷ giá hối đoái; nâng cao khả năng dự báo kinh tế vĩ
mô và tiền tệ của NHNN; hoàn thiện hệ thống thu thập thông tin tiền tệ nội
ngành và kết nối với các tổ chức, bộ, ngành khác để mở rộng bảng cân đối tiền
tệ của NHNN; nâng cao năng lực dự báo và điều hành các công cụ CSTT theo
hướng đồng bộ, vận hành trôi chảy cơ chế truyền tải tiền tệ.
- Các giải pháp phát triển TTTT: Đa dạng và chuẩn hoá các công cụ

nợ; Phát triển thị trường liên ngân hàng; Phát triển thị trường ngoại hối.
- Giải pháp hiện đại hoá hệ thống thanh toán: Huy động các nguồn vốn,
kể cả tài trợ ODA để tiếp tục đầu tư hiện đại hoá hệ thống thanh toán theo
phương châm “đi tắt đón đầu”; tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý trong
lĩnh vực thanh toán; cải tiến cơ cấu tổ chức hệ thống thanh toán theo hướng
thanh toán tập trung khu vực và xây dựng trung tâm thanh toán bù trừ toàn
21
Lãi suất và chính sách lãi xuất
quốc; khuyến khích các NHTM mở rộng và kết nối mạng lưới giao dịch thanh
toán thẻ và các hình thức hiện đại khác.
- Giải pháp sắp xếp và cơ cấu lại các loại hình TCTD.
- Giải pháp phối hợp đồng bộ các chính sách kinh tế vĩ mô khác.
KIẾN NGHỊ
Lãi suất cho vay của các NHTM đã được điều chỉnh lên 18%/năm, trên
thực tế không ít trường hợp lên đến 20%/năm. Đã có những lo ngại chính
đáng về việc các doanh nghiệp và nhà đầu tư sẽ gặp khó khăn lớn do chịu lãi
suất quá cao, trong khi tỷ suất lợi nhuận trung bình vào khoảng 15-16%/năm.
Trong tình hình lạm phát còn có thể kéo dài cho đến khi trở lại trạng thái bình
thường, với lãi suất cho vay của các NHTM quá cao thì các doanh nghiệp nhỏ
và vừa là đối tượng gặp khó khăn nhất; nhiều doanh nghiệp không biết có
vượt qua được thách thức to lớn hiện nay không.
Tôi cho rằng, Chính phủ và Chinh quyền địa phương cần tiến hành khảo
sát, nghiên cứu thực trạng các doanh nghiệp này để có chủ trương và giải pháp
hữu hiệu, giúp đỡ họ giải quyết những vấn đề đang gặp phải trong bối cảnh
tình hình kinh tế - xã hội của đất nước hiện nay và phù hợp với đặc điểm của
từng địa phương. Đây là vấn đề không chỉ có tính thời sự trong việc chống
lạm phát, mà còn có tính cơ bản và lâu dài, vì kinh nghiệm quốc tế cũng như
của nước ta cho thấy rằng, phát triển mạnh doanh nghiệp nhỏ và vừa là cách
làm có hiệu quả nhất để giải quyết tình trạng thiếu việc làm, nâng cao hiệu quả
kinh tế - xã hội của tăng trưởng bền vững.

Mặt khác, cũng cần lưu ý rằng, việc áp dụng cơ chế lãi suất mới cũng có
tác động tích cực đối với đầu tư và kinh doanh, buộc các nhà đầu tư và doanh
nghiệp phải tính toán cẩn trọng hơn, áp dụng các biện pháp tiết kiệm chi phí,
hạ giá thành, chú ý đến hiệu quả kinh tế trong kinh doanh. Nếu có sự giám sát
chặt chẽ, chắc chắn với lãi suất cho vay cao, nhiều dự án đầu tư sẽ không thể
tiếp tục thực hiện, phải đình hoãn, góp phần kiềm chế lạm phát.
Việc áp dụng quy định của NHNN về cơ chế mới điều hành lãi suất cần
được coi là một giải pháp tiền tệ, chỉ có tác động trong một chừng mực nhất
22
Lãi suất và chính sách lãi xuất
định; do vậy phải được vận hành đồng thời với việc thực hiện quyết liệt hệ
thống các giải pháp mà Chính phủ đã đề ra.
Tôi kiến nghị, đã đến lúc cần đánh giá thật khách quan kết quả thực
hiện và tính phù hợp của các giải pháp kiềm chế lạm phát của Chính phủ, để
có những điều chỉnh, bổ sung thích hợp với thực trạng kinh tế - xã hội hiện
nay của đất nước, cũng như sự biến động của thị trường thế giới, trên cơ sở
các dự báo về những kịch bản có thể xảy ra trong tương lai gần
23
Lãi suất và chính sách lãi xuất
KẾT LUẬN
V i nh ng i u ã c trình bày trên, tôi hi v ng ã mang nớ ữ đ ề đ đượ ở ọ đ đế
m t cái nhìn t ng i hoàn ch nh v v n lãi su t và chính sách lãi su tộ ươ đố ỉ ề ấ đề ấ ấ
c a ngân hàng nhà n c Vi t Nam trong th i gian qua. ủ ướ ệ ờ
V i nh ng gi i pháp c nêu ra, chúng tôi hi v ng chúng s làớ ữ ả đượ ọ ẽ
nh ng g i ý h u ích cho nh ng ng i liên quan trong công tác c a h . T tữ ợ ữ ữ ườ ủ ọ ấ
nhiên là i v i nh ng t ch c khác nhau thì tính kh thi c a các gi i phápđố ớ ữ ổ ứ ả ủ ả
này s có nh ng tác ng khác nhau. Vì th nên nh ng ph n h i là i u c nẽ ữ độ ế ữ ả ồ đ ề ầ
thi t chúng tôi có c h i hòan thi n h n nh ng nghiên c u sau này. ế để ơ ộ ệ ơ ữ ứ
Xin chân thành c m n! ả ơ
24

×