Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

Giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý NSNN cho giáo dục đào tạo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (746.11 KB, 82 trang )


MỞ ĐẦU
Trong công cuộc đổi mới của đất nước, với mục tiêu xây dựng một
nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”
và đến năm 2020 “cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện
đại”, Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định: “Giáo dục và đào tạo là quốc sách
hàng đầu” và “Muốn tiến hành CNH - HĐH thắng lợi phải phát triển mạnh
giáo dục - đào tạo, phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát
triển nhanh và bền vững”.
Được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, đầu tư từ NSNN cho giáo
dục đào tạo ngày càng tăng đã giúp ngành giáo dục đào tạo đạt được nhiều
thành tựu trên cả 3 mặt: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài
góp phần quan trọng vào công cuộc phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Tuy nhiên, đầu tư tăng nhưng việc thực thi chưa đạt được hiệu quả cũng như
mục tiêu đặt ra, chất lượng, hiệu quả giáo dục còn thấp so với yêu cầu,
phương pháp giáo dục lạc hậu do chậm đổi mới, đội ngũ giáo viên vừa thiếu
vừa thừa, chưa đồng bộ, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của một bộ phận còn
thấp, CSVC còn rất thiếu và lạc hậu…
Từ thực tiễn ấy thì bên cạnh nỗ lực tăng đầu tư NSNN cho giáo dục đào
tạo, việc không ngừng hoàn thiện cơ chế quản lý NSNN cho giáo dục và đào
tạo là hết sức quan trọng.
Luận văn “Hoàn thiện cơ chế quản lý Ngân sách nhà nước cho giáo dục
và đào tạo của Việt Nam” phân tích cơ chế quản lý NSNN cho giáo dục đào
tạo Việt Nam hiện nay, đánh giá những mặt tích cực và những mặt hạn chế
đồng thời cũng đưa ra nguyên nhân của những hạn chế đó. Từ đó, luận văn đã
chỉ rõ sự cần thiết cũng như đề xuất một số giải pháp để hoàn thiện cơ chế
quản lý NSNN cho giáo dục đào tạo.

1

Đề tài được trình bày thành 3 chương:


Chương 1: Giáo dục đào tạo và cơ chế quản lý NSNN cho giáo dục đào tạo.
Chương 2: Thực trạng cơ chế quản lý NSNN cho giáo dục đào tạo tại
Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý NSNN cho giáo dục
đào tạo.

2

Chương 1
GIÁO DỤC ĐÀO TẠO VÀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ NSNN
CHO GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
1.
1.1. GIÁO DỤC ĐÀO TẠO TRONG NỀN KTQD
1.1.1. Những vấn đề cơ bản về giáo dục đào tạo
Giáo dục được quan niệm như một hoạt động đặc thù riêng có ở xã hội
loài người với mục đích rõ ràng là duy trì và phát triển xã hội loài người như
một thực thể có tổ chức - dù còn chưa hoàn thiện như ngày nay. Thực chất đó
là quá trình hình thành và nâng cao phẩm chất, đạo đức, kiến thức, kỹ năng,
khả năng học tập của con người thông qua tất cả các dạng học tập.
Theo quan điểm “giáo dục vị giáo dục” thuần túy, có thể xem giáo dục
như là một cứu cánh vì những giá trị nội tại của nó. Giáo dục, trên nguyên tắc,
giúp người học mở mang trí óc, tăng kiến thức và khả năng suy nghĩ trừu
tượng, hiểu biết sự thật, phát triển đạo đức cá nhân và năng khiếu thưởng thức
nghệ thuật, mỹ thuật và cuối cùng là sống hài hòa với mọi người xung quanh.
Dưới quan điểm “giáo dục vị nhân sinh” thực dụng hơn, giáo dục hôm nay có
thể xem là một phương tiện giúp người học gia tăng khả năng và chất lượng
lao động cho sản xuất ngày mai. Dùng thuật ngữ kinh tế, giáo dục có thể xem
là một quá trình tích lũy vốn con người, tương tự như quá trình tích lũy vốn
vật thể. Theo quan điểm kinh tế này, giáo dục bao gồm giáo dục, đào tạo và
nghiên cứu.

Như các sản phẩm kinh tế khác, quá trình sản xuất giáo dục đòi hỏi sự
tiêu dùng các nguồn lực khan hiếm. Có thể định nghĩa giáo dục là một:
• Hàng hóa mà tất cả người dân đều có quyền hưởng thụ đến một mức tối
thiểu nào đó.

3

• Sản phẩm tích lũy theo nghĩa quá trình sản xuất giáo dục thông thường
đòi hỏi nhiều thời gian.
• Dịch vụ với một vài đặc tính của hàng hóa công.
• Hàng hóa mà lợi ích xã hội của giáo dục lớn hơn lợi ích của giáo dục
cho cá nhân.
• Dịch vụ bền theo nghĩa vốn con người (đầu ra của giáo dục) là một
nhân tố sản xuất lâu dài.
• Hàng hóa chuyển tiếp mà người mua cuối cùng là người tiêu thụ.
1.1.2. Vai trò của giáo dục đào tạo trong nền KTQD
Bất cứ một quốc gia nào cũng phải được xây dựng và phát triển trên
nền tảng con người, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay khi nền kinh tế tri
thức đã trở thành một xu thế thời đại. Theo UNDP, chất lượng cuộc sống
được đánh giá trước hết ở tiêu chí thu nhập, giáo dục, sức khỏe và dinh
dưỡng, mức nghèo khổ, tình trạng môi trường, sự bình đẳng, mức độ tự do cá
nhân, sự phong phú về văn hóa. Như vậy, giáo dục là một trong những mục
đích phát triển kinh tế.
Giáo dục được xem là một hoạt động xã hội rộng lớn có liên quan trực
tiếp đến quyền lợi và nghĩa vụ của mọi người dân, mọi tổ chức kinh tế - xã
hội, đồng thời có tác động mạnh mẽ đến tiến trình phát triển nhanh hay chậm
của một quốc gia. Điều 35 – Hiến pháp năm 1992 của nước ta đã ghi rõ:
“Giáo dục đào tạo là quốc sách hàng đầu”. Quan điểm đó đã được tiếp tục
khẳng định trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa VIII (1996) về định hướng chiến lược phát triển giáo dục đào tạo

trong thời kỳ CNH - HĐH. Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng tại Đại hội lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: “Phát triển
giáo dục - đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp
CNH - HĐH, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để

4

phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”. Để thực hiện CNH
- HĐH đất nước nhất thiết phải phát triển giáo dục mạnh mẽ. Giáo dục là tiền
đề, là yếu tố hàng đầu thuộc năng lực nội sinh, có tầm quan trọng hơn so với
các hệ thống yếu tố khác như tài nguyên thiên nhiên, vốn, cơ sở vật chất kỹ
thuật. Giáo dục là nền tảng phát triển khoa học công nghệ. Nâng cao chất
lượng giáo dục đang diễn ra trên quy mô toàn cầu nhằm tạo ra những thay đổi
sâu sắc trong giáo dục, từ quan niệm về chất lượng giáo dục, xây dựng nhân
cách người học đến cách tổ chức quá trình và hệ thống giáo dục.
Giáo dục và đào tạo có ba chức năng chính:
- Chức năng kinh tế: Thứ nhất, giáo dục là con đường cơ bản nhất để
tích lũy vốn nhân lực - nhân tố quyết định tăng năng suất lao động, góp phần
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Giáo dục tạo nên một lớp người lao động mới có
năng lực cần thiết để đáp ứng đòi hỏi của một nền sản xuất cụ thể. Đây là lực
lượng sản xuất quan trọng bậc nhất đối với sự phát triển kinh tế. Thứ hai, giáo
dục có vai trò quyết định đến phát triển và làm chủ KHCN hiện đại - nhân tố
bảo đảm sự tăng trưởng kinh tế cao và bền vững. Giáo dục đào tạo có chức
năng đặc thù là truyền bá kiến thức khoa học, giảng dạy và đào tạo một cách
có hệ thống cho những người có năng lực học tập và vận dụng những kiến
thức khoa học vào thực tế. Trong điều kiện của cuộc Cách mạng KHKT, hệ
thống giáo dục đào tạo không những đào tạo được đội ngũ cán bộ khoa học
mà còn sản sinh ra kiến thức khoa học, thông qua hệ thống NCKH của các
trường Đại học. Thứ ba, giáo dục góp phần quan trọng thúc đẩy việc hình
thành và chuyển dịch cơ cấu nền KTQD cho phù họp xu hướng phát triển của

mọi thời đại bởi một trong những điều kiện tiên quyết để hình thành và
chuyển dịch cơ cấu nền KTQD chính là số lượng, chất lượng và cơ cấu nguồn
nhân lực của quốc gia. Mà điều kiện tiên quyết đó chỉ có được thông qua sự
phát triển của nền giáo dục quốc dân. Sự phát triển của giáo dục cả về quy

5

mô, cả về chất lượng với một cơ cấu hợp lý về vùng, miền, trình độ, ngành
nghề đào tạo… sẽ góp phần tích cực thúc đẩy quá trình hình thành và chuyển
dịch cơ cấu nền KTQD phù hợp với xu hướng phát triển của thời đại, từ đó
đảm bảo được sự tăng trưởng cao và bền vững của nền kinh tế.
- Chức năng chính trị - xã hội: Chính trị là lĩnh vực hoạt động của xã
hội loài người mà đặc trưng của nó là các vấn đề liên quan đến quyền lực và
lợi ích của con người, cộng đồng giai cấp trong xã hội. Trong lịch sử phát
triển xã hội loài người, từ khi xã hội có giai cấp, có Nhà nước thì giáo dục đào
tạo luôn luôn là một công cụ quan trọng của Nhà nước. Giai cấp cầm quyền
luôn nắm lấy giáo dục đào tạo để chi phối chúng theo hướng củng cố quyền
lực và bảo vệ lợi ích cho mình. Giáo dục đào tạo phục vụ chính trị nhưng giáo
dục đào tạo tồn tại một cách tương đối độc lập với chính trị. Giáo dục đào tạo
là hiện tượng phổ biến và vĩnh cửu còn quan hệ chính trị chỉ hình thành rõ nét
khi xã hội có phân chia giai cấp và Nhà nước xuất hiện. Xét về bản chất, giáo
dục đào tạo thực sự gắn bó với những xu hướng chính trị tiến bộ. Nền giáo
dục đào tạo ở nước ta hiện nay là nền giáo dục đào tạo được ra đời và phát
triển nhờ một thể chế chính trị cách mạng và tiến bộ. Mục tiêu xã hội chủ
nghĩa và độc lập dân tộc được quán triệt một cách sâu sắc trong toàn bộ hệ
thống giáo dục Việt Nam.
Như vậy, giáo dục không chỉ tạo nên một lớp người lao động mới cho
xã hội mà còn làm thay đổi cả bộ mặt chính trị xã hội thông qua mục đích tổ
chức của nền giáo dục, các chính sách giáo dục thể hiện tính nhân văn, tính
đại chúng hay tính đẳng cấp của giáo dục.

- Chức năng tư tưởng văn hóa: Giáo dục đào tạo không chỉ tạo ra con
người phát triển về trí tuệ, về kỹ năng lao động mà còn đảm bảo cho việc hình
thành một ý thức hệ tư tưởng, hình thành một nếp sống mới trên nền tảng của
một nền văn hóa mới, nhân sinh quan mới.

6

Xét về góc độ lịch sử, văn hóa chỉ được hình thành thông qua một quá
trình sáng tạo lâu dài, xây dựng và truyền kinh nghiệm từ đời này sang đời
khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Trong quá trình này không thể thiếu vai
trò của giáo dục đào tạo, đó chính là truyền lại các giá trị văn hóa. Giá trị do
con người sáng tạo ra được tập hợp lại, hệ thống hóa, tri thức hóa trở thành
những kiến thức trong các giáo trình, bài giảng của nhà trường. Như vậy,
chính văn hóa đã mang đến cho giáo dục đào tạo những nội dung thiết yếu và
những nội dung cần truyền đạt. Còn giáo dục đào tạo không phải là một quá
trình thụ động mà là một quá trình sáng tạo. Sự sáng tạo trong quá trình giáo
dục đào tạo làm phong phú hơn những giá trị văn hóa vốn có, làm nảy sinh
những giá trị văn hóa mới.
1.1.3. Hệ thống giáo dục quốc dân
Theo Điều 4 Luật GD năm 2005, hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam
bao gồm Giáo dục chính quy và Giáo dục thường xuyên.
Các cấp học và trình độ đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân bao gồm:
• Giáo dục mầm non có nhà trẻ và mẫu giáo
• Giáo dục phổ thông có tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ
thông
• Giáo dục nghề nghiệp có trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề
• Giáo dục đại học và sau đại học (gọi chung là Giáo dục Đại học)
đào tạo trình độ Cao đẳng, trình độ Đại học, trình độ Thạc sỹ, trình độ
Tiến sỹ.
Gắn với hệ thống giáo dục quốc dân ở nước ta, khối giáo dục bao gồm

giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông; khối đào tạo bao gồm giáo dục
nghề nghiệp và giáo dục đại học.

7

Hình 1.1: Cấu trúc hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam

GIÁO
DỤC
THƯỜNG
XUYÊN
TIẾN SĨ
THẠC SĨ
ĐẠI HỌC
CAO ĐẲNG
MẪU GIÁO
TIỂU HỌC
THCS
TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG
TRUNG CẤP
CHUYÊN NGHIỆP
DẠY NGHỀ
NHÀ TRẺ
GIÁO
DỤC
NGHỀ
NGHIỆP
GIÁO
DỤC

PHỔ
THÔNG
GIÁO
DỤC
MẦM
NON
GIÁO
DỤC
ĐẠI
HỌC

SAU
ĐẠI
HỌC
18
tuổi
15
tuổi
11
tuổi
6
tuổi
3
tháng
tuổi
SAU
ĐẠI
HỌC
ĐẠI
HỌC

8

1.2. VAI TRÒ CỦA NSNN VỚI GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
1.2.1. Khái niệm và bản chất của NSNN
1.2.1.1. Khái niệm
NSNN với tư cách là một phạm trù kinh tế bao giờ cũng gắn liền với sự
xuất hiện, tồn tại của Nhà nước phát triển đến một trình độ nhất định. Sự xuất
hiện của Nhà nước trong lịch sử đòi hỏi phải có những nguồn lực tài chính để
đáp ứng chi tiêu nhằm phục vụ cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ
của Nhà nước.
NSNN là dự toán thu - chi bằng tiền của Nhà nước trong một khoảng
thời gian nhất định (thường là một năm). Như vậy, NSNN là một kế hoạch tài
chính cơ bản của quốc gia, trong đó gồm kế hoạch thu, kế hoạch chi và được
lập theo phương pháp cân đối (thu phải đủ chi, chi không vượt thu).
Theo Luật NSNN Việt Nam thì: “NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi
của Nhà nước đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định và được
thực hiện trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của
Nhà nước”.
1.2.1.2. Bản chất
- Về phương diện pháp lý: NSNN là một đạo luật dự trù các khoản thu, chi
bằng tiền của Nhà nước trong một thời gian nhất định thường là một năm.
Đạo luật này được cơ quan lập pháp của quốc gia đó ban hành.
- Về bản chất kinh tế: NSNN là hệ thống những mối quan hệ kinh tế giữa
Nhà nước và xã hội, phát sinh trong quá trình Nhà nước huy động và sử dụng
các nguồn tài chính nhằm đảm bảo yêu cầu thực hiện các chức năng của Nhà
nước.
Các quan hệ kinh tế này bao gồm:
+ Quan hệ kinh tế giữa NSNN với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.
+ Quan hệ kinh tế giữa NSNN với các đơn vị HCSN.


9

+ Quan hệ kinh tế giữa NSNN với các tầng lớp dân cư.
+ Quan hệ kinh tế giữa NSNN và thị trường tài chính.
+ Quan hệ kinh tế giữa NSNN với các hoạt động tài chính đối ngoại.
- Về tính chất: NSNN là bảng tổng hợp các khoản thu, chi của Nhà nước,
là mức động viên các nguồn tài chính vào tay Nhà nước, là các khoản cấp
phát của Nhà nước cho các nhu cầu tiêu dùng và đầu tư phát triển, đó cũng là
đóng góp theo nghĩa vụ hay tự nguyện của mỗi thành viên trong xã hội cho
Nhà nước và Nhà nước cấp phát kinh phí đầu tư cho mỗi thành viên xã hội.
1.2.2. Vai trò của NSNN với giáo dục đào tạo
Giáo dục là hoạt động hết sức cần thiết đối với phát triển xã hội và tăng
cường kinh tế. Không thể có một xã hội phát triển ở trình độ cao mà không có
một nguồn lực phát triển cả về thể chất và trí tuệ. Sản phầm của giáo dục là
con người, con người là yếu tố sản xuất hết sức quan trọng. Kỹ năng của con
người có tác động đến năng suất lao động, trình độ quản lý và muốn hình
thành kỹ năng thì phải có giáo dục. Đặc biệt là trong bối cảnh thế giới bước
sang thời đại mới - thời đại trí tuệ và trong môi trường toàn cầu hóa, trong đó,
các yếu tố tri thức và thông tin trở thành những yếu tố hàng đầu và là nguồn
tài nguyên giá trị nhất thì giáo dục trỏ thành đòn bẩy cho sự phát triển kinh tế.
Chính vì vậy, đầu tư cho giáo dục chính là đầu tư cho tương lai, đầu tư hiệu
quả nhất.
Đầu tư tài chính giữ vai trò như một trong những yếu tố có tính chất
quyết định đối với việc hình thành, mở rộng và phát triển hệ thống giáo dục
quốc dân từ giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, đào tạo công nhân, trung
học chuyên nghiệp, đại học đến đào tạo sau đại học. Thông qua quan hệ tín
dụng, tài chính có thể huy động các nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi để đầu tư
cho giáo dục trong việc nâng cấp trang thiết bị, đầu tư cho đội ngũ giáo viên
và cho học sinh vay để tiếp tục sự nghiệp giáo dục. Trong số các nguồn lực tài


10

chính đầu tư cho giáo dục đào tạo thì đầu tư từ NSNN là tất yếu, đóng vai trò
chủ đạo trong việc nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục bởi:
- Trong hệ thống tài chính nước ta thì tài chính Nhà nước chiếm một tỷ
trọng lớn. Mà trong tài chính Nhà nước bao gồm NSNN và tín dụng Nhà
nước thì NSNN có tỷ trọng lớn nhất. NSNN đảm bảo nhu cầu tiêu dùng xã
hội theo chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước, trong đó nhu cầu giáo
dục đào tạo đứng hàng đầu. Mặt khác, giáo dục đào tạo là dịch vụ công cộng,
tạo ra những ngoại ứng tích cực và có vai trò quyết định đến sự phát triển
nguồn nhân lực - nhân tố quyết định sự phát triển kinh tế xã hội của một quốc
gia. Đầu tư từ NSNN cho giáo dục nhằm đảm bảo điều kiện tài chính cần thiết
để giải quyết vấn đề phát triển của hệ thống giáo dục quốc dân ở tầm vĩ mô
như về phát triển rộng khắp mạng lưới các cơ sở giáo dục, xây dựng các cơ sở
giáo dục trọng điểm quốc gia, điều chỉnh quy mô và cơ cấu, nâng cao chất
lượng và hiệu quả giáo dục. Bởi vậy, NSNN là nguồn tài chính cơ bản, to lớn
nhất để duy trì và phát triển hệ thống giáo dục quốc dân theo đúng chủ
trương, đường lối của Đảng và Nhà nước
- Thứ hai, đầu tư của NSNN có tác dụng hướng dẫn, huy động các
nguồn vốn khác đầu tư cho giáo dục đào tạo vì giáo dục là dịch vụ công cộng,
tạo ra những ngoại ứng tích cực và có vai trò quyết định đến sự phát triển
nguồn nhân lực – nhân tố quyết định sự phát triển kinh tế xã hội của một quốc
gia. Đầu tư NSNN cho giáo dục như một cú huých ban đầu để khuyến khích
nhân dân đóng góp xây dựng và sửa chữa trường lớp, thu hút các nguồn từ lao
động sản xuất, từ hợp đồng NCKH của các trường, đóng góp của các doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế nhằm thực hiện phương châm “Nhà nước
và nhân dân cùng chăm lo phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo”, đồng thời là
nguồn chính để phát huy nguồn viện trợ và vay của nước ngoài để đầu tư cho
giáo dục đào tạo. Lợi ích của việc đầu tư vào giáo dục đem lại không chỉ cho


11

những người trực tiếp được hưởng giáo dục mà còn cho cả xã hội nói chung.
Tuy nhiên, trong thực tế các cá nhân hầu như không tính đến tác động này
trong việc lựa chọn quyết định có nên đầu tư vào giáo dục hay không. Trong
một số trường hợp, họ có thể không biết đến tác động ngoại ứng tích cực của
giáo dục. Trong trường hợp khác, họ biết tác động đó song thiếu sự khuyến
khích và tạo điều kiện của Nhà nước để đi đến quyết định đầu tư. Như vậy,
nếu không có sự đầu tư từ NSNN để hỗ trợ và khuyến khích thì mức đầu tư
của tư nhân cho sự phát triển giáo dục sẽ thấp hơn khả năng sẵn có.
- Thứ ba, NSNN đầu tư cho giáo dục đào tạo sẽ đảm bảo từng bước ổn
định đời sống của đội ngũ cán bộ giảng dạy. Tuy đời sống của giáo viên còn
chưa cao nhưng NSNN đã đảm bảo tiền lương chính cho đội ngũ cán bộ giảng
dạy toàn ngành. Ngoài ra còn dành một phần NSNN để ưu đãi riêng cho
ngành giáo dục đào tạo như phụ cấp giảng dạy, phụ cấp thâm niên, phụ cấp
trách nhiệm, phụ cấp dạy thêm giờ, thêm lớp…
- Thứ tư, NSNN có vai trò điều phối cơ cấu giáo dục toàn ngành.
Thông qua định mức chi ngân sách giáo dục đào tạo hàng năm đã góp phần
định hướng sắp xếp cơ cấu các cấp học, mạng lưới trường. Tập trung NSNN
cho những chương trình mục tiêu quốc gia như chống mù chữ, phổ cập giáo
dục, xây dựng hệ thống trường dân tộc nội trú, khuyến khích phát triển giáo
dục ở vùng núi và dân tộc ít người, tăng cường cơ sở vật chất các trường
học…
- Thứ năm, đầu tư từ NSNN cho giáo dục nhằm đảm bảo công bằng xã
hội trong giáo dục. Ở các quốc gia không phải mọi công dân đều có khả năng
chi trả các khoản chi phí trực tiếp hay gián tiếp liên quan đến việc trực tiếp
hưởng thụ giáo dục. Nếu giáo dục được cung cấp hoàn toàn theo cơ chế thị
trường mà không có sự đầu tư từ NSNN thì bộ phận dân cư không có khả
năng chi trả các khoản chi phí giáo dục sẽ không có cơ hội được học tập, từ


12

đó dẫn đến mất công bằng xã hội trong giáo dục. Hơn nữa, công bằng xã hội
trong giáo dục còn là điều kiện quan trọng để đạt đến công bằng xã hội nói
chung.
- Thứ sáu, đầu tư của Nhà nước cho giáo dục nhằm để khắc phục khiếm
khuyết của thị trường vốn. Nghiên cứu kinh tế học giáo dục, các nhà kinh tế
đều cho rằng, thị trường vốn cho việc đầu tư vào giáo dục là không hoàn hảo.
Có nhiều rủi ro cho cả người vay và người cho vay khi đầu tư vào giáo dục.
Hầu như không có cơ sở cho việc xác định khả năng chắc chắn có việc làm và
có được mức thu nhập sau khi đã kết thúc khóa học để có thể trả được các
khoản nợ vay cho việc học tập của các cá nhân. Do vậy, các chủ thể cho vay
vốn không dễ dàng chấp nhận bỏ vốn để cho vay đầu tư vào việc học tập của
các cá nhân. Khắc phục khiếm khuyết của thị trường vốn cần thiết phải có sự
can thiệp và đầu tư của Nhà nước cho giáo dục.
Tóm lại, đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, nguồn lực tài
chính để phát triển giáo dục chủ yếu là từ nguồn NSNN. NSNN đóng vai trò
quan trọng, là yếu tố chính quyết định đối với sự nghiệp giáo dục quốc dân.
1.2.3. Cơ cấu chi tiêu NSNN cho giáo dục đào tạo
Chi NSNN là quá trình phân phối, sử dụng quỹ NSNN theo những
nguyên tắc nhất định cho việc thực hiện các nhiệm vụ của Nhà nước. Thực
chất, chi NSNN chính là việc cung cấp các phương tiện tài chính cho các
nhiệm vụ của Nhà nước.
Hiện nay, theo Luật NSNN, nội dung chi tiêu NSNN được phân theo
tính chất kinh tế của các khoản chi được sử dụng. Theo tính chất kinh tế, chi
NSNN cho giáo dục được phân ra theo các nội dung:
- Chi thường xuyên bao gồm các khoản chi lương và các khoản chi
củng cố CSVC, thiết bị trường lớp như: SGK, thiết bị dạy học… Đội ngũ cán
bộ giáo viên trong ngành giáo dục đào tạo được hưởng lương từ NSNN, do


13

vậy chi thường xuyên phải đảm bảo trả lương cho đội ngũ giáo viên nên nó
đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì hoạt động của ngành. Bên cạnh đó,
CSVC và thiết bị trường lớp cũng là bộ phận quan trọng không thể thiếu trong
việc đảm bảo chất lượng giáo dục. Vì thế, các khoản chi cho việc phát hành
SGK, thiết bị dạy học cũng đóng vai trò quan trọng nhằm đảm bảo chất lượng
giáo dục đào tạo. Kế hoạch chi thường xuyên được lập chủ yếu dựa trên các
định mức phân bổ và kế hoạch chi thường xuyên của năm trước.
- Chi đầu tư bao gồm các khoản chi xây dựng CSVC, củng cố và phát
triển mạng lưới trường lớp cho sự phát triển của nền giáo dục quốc dân. Chi
đầu tư đóng vai trò quan trọng trong phát triển giáo dục. Chi đầu tư phát triển
của NSNN cho giáo dục bao gồm chi xây mới, cải tạo, nâng cấp trường học,
phòng học, phòng thí nghiệm, phòng thực hành, thư viện, công sở làm việc và
mua sắm các trang thiết bị phục vụ cho công tác giảng dạy, học tập và NCKH
ở các cơ sở giáo dục đào tạo. Cơ chế quản lý NSNN cho giáo dục đào tạo.
- Chi NSNN cho CTMT Quốc gia về giáo dục nhằm thực hiện những
mục tiêu cụ thể có tính cấp bách trong phát triển nền giáo dục quốc dân ở
từng thời kỳ. Tùy thuộc vào những mục tiêu cụ thể có tính cấp bách về giáo
dục ở từng thời kỳ mà mỗi quốc gia lựa chọn những CTMT Quốc gia về giáo
dục khác nhau. CTMT Quốc gia giáo dục thường được thực hiện, bao gồm:
phổ cập giáo dục, xóa và chống mù chữ; hỗ trợ giáo dục những vùng, miền có
điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn như vùng dân tộc ít người, vùng sâu, vùng
xa, miền núi, hải đảo; tăng cường CSVC của các cơ sở giáo dục như xóa
phòng học cấp 4 và phòng học ca ba, tăng cường CSVC của các cấp học và
bậc học; nâng cao chất lượng và chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản
lý giáo dục như đào tạo và bồi dưỡng giáo viên các trường sư phạm, tăng
cường năng lực đào tạo nghề; đổi mới chương trình, nội dung SGK…

14


1.3. CƠ CHẾ QUẢN LÝ NSNN CHO GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
1.3.1. Khái niệm cơ chế quản lý NSNN cho giáo dục và đào tạo.
Quản lý là yêu cầu tất yếu để đảm bảo sự hoạt động bình thường của
mọi quá trình và hệ thống kinh tế - xã hội. Thực chất của quản lý là thiết lập
và thực hiện hệ thống các phương pháp và biện pháp khác nhau, tác động một
cách có ý thức tới đối tượng của quản lý nhằm đạt được kết quả nhất định.
Quản lý NSNN được hiểu là việc sử dụng NSNN làm công cụ quản lý
hệ thống xã hội thông qua việc sử dụng những chức năng vốn có của nó.
Quản lý NSNN là việc làm cần thiết gắn với việc chi NSNN nhằm tạo ra
những khoản chi đảm bảo đúng mục đích sử dụng và đạt hiệu quả cao.
Cơ chế quản lý NSNN là hệ thống các nguyên tắc, các hình thức và
phương pháp quản lý điều hành NSNN trong từng giai đoạn phát triển kinh tế.
Cơ chế quản lý NSNN bao gồm các cơ chế thu, chi ngân sách, cân đối ngân
sách, cấp phát ngân sách. Yêu cầu của cơ chế quản lý NSNN trong nền kinh
tế thị trường là ưu tiên sử dụng NSNN để thực hiện những nhiệm vụ của Nhà
nước, những công việc mà thị trường không thể thực hiện hoặc không thể
giao cho thị trường thực hiện. Bên cạnh đó, sử dụng ngân sách nhà nước phải
tránh tư tưởng bao cấp, bao biện, làm thay cho thị trường. Trái lại, NSNN
phải tạo ra môi trường để thu hút, khuyến khích sự tham gia của các nguồn
tài chính khác trong thị trường bổ sung cho nguồn lực NSNN.
1.3.2. Nội dung cơ chế quản lý NSNN cho giáo dục đào tạo
1.3.2.1. Cơ chế phân cấp ngân sách
Trong cơ chế quản lý NSNN, cơ chế phân cấp ngân sách có vị trí rất
quan trọng, thể hiện mối quan hệ phân cấp, phân quyền, phối hợp hoạt động
giữa các cấp chính quyền trong việc quản lý, điều hành ngân sách. Yêu cầu
đối với cơ chế phân cấp ngân sách là Ngân sách Trung ương phải giữ vai trò
chủ đạo tập trung các nguồn thu có tính chất quốc gia và giải quyết các nhu

15


cầu chi tiêu có tính chất trọng điểm trên phạm vi cả nước. Ngân sách địa
phương phải được phân cấp một số nguồn thu và nhiệm vụ chi nhất định để
đảm bảo thực hiện chức năng quản lý Nhà nước của chính quyền địa phương
trên địa bàn. Mối quan hệ giữa ngân sách TW và ngân sách địa phương phải
được giải quyết hài hòa thông qua cơ chế điều tiết và trợ cấp ngân sách giữa
TW và địa phương. Việc địa phương quản lý ngân sách có thể giúp huy động
và phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn và làm cho cung cấp dịch vụ phù hợp hơn,
đáp ứng tốt hơn nhu cầu và mong muốn của người dân địa phương với hiệu
quả cao hơn phù hợp với điều kiện và tình hình cụ thể tại địa phương. Tuy
nhiên, nếu phân cấp không tốt sẽ dẫn đến những rủi ro như sự chồng chéo,
làm suy yếu sự điều phối TW và địa phương, tăng bất bình đẳng và làm
xuống cấp dịch vụ trong một số ngành quan trọng.
Việt Nam có bốn cấp chính quyền. Ở cấp TW, quyền lập pháp thuộc về
Quốc hội, cơ quan mà theo điều 84 của Hiến pháp có trách nhiệm quyết định
NSNN. NSNN gồm không chỉ ngân sách của chính quyền TW mà còn có cả
ngân sách tổng hợp của các cấp tỉnh – huyện – xã. Cơ cấu của ngân sách
mang tính thứ bậc: Ngân sách mỗi cấp không chỉ được HĐND cấp đó quyết
định mà còn phải được chính quyền cấp trên phê chuẩn. Chính quyền ở mọi
cấp hoạt động theo một hệ thống song trùng lãnh đạo và chịu trách nhiệm giải
trình. Từng cấp ngân sách phải chịu trách nhiệm lập dự toán ngân sách hàng
năm (bao gồm các khoản thu, chi trên phạm vi địa bàn), chịu trách nhiệm
hướng dẫn, giám sát việc thực hiện ngân sách cấp dưới. Cấp huyện tổng hợp
dự toán ngân sách xã, báo cáo lên tỉnh. Tỉnh tổng hợp dự toán ngân sách các
huyện báo cáo lên Bộ Tài chính.
Dự toán ngân sách cấp xã do Ban tài chính xã lập. Dự toán ngân sách
cấp huyện do Phòng tài chính huyện lập và dự toán ngân sách cấp tỉnh do Sở
tài chính tỉnh lập.

16


Mục đích của phân cấp quản lý ngân sách giữa các cấp chính quyền là
nhằm giảm bớt sự ỷ lại của cơ quan cấp dưới, đồng thời xóa bớt sự bao biện,
làm thay của chính quyền cấp trên. Nhờ đó mà sự phân định trách nhiệm,
quyền hạn trong quản lý NSNN một cách rõ ràng hơn và tạo ra các điều kiện
cần thiết cho việc nâng cao hiệu quả quản lý ở lĩnh vực này.
1.3.2.2. Cơ chế lập dự toán và phân bổ NSNN cho giáo dục đào tạo
o Căn cứ để lập kế hoạch phân bổ NSNN
Căn cứ để lập kế hoạch phân bổ NSNN cho giáo dục đào tạo là:
- Đường lối, chính sách, chủ trương của Đảng và Nhà nước, nhiệm vụ
công tác được giao trong năm kế hoạch.
- Luật NSNN và Thông tư Ngân sách hàng năm của Bộ Tài chính.
Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về việc xây dựng kế hoạch phát triển
ngành giáo dục, thông tư hướng dẫn của Bộ Tài chính về việc lập dự toán
NSNN và các văn bản hướng dẫn của Bộ giáo dục và đào tạo.
- Kế hoạch phân bổ ngân sách năm trước.
- Những nhiệm vụ cụ thể của ngành giáo dục đào tạo.
- Định mức phân bổ ngân sách cho giáo dục theo quy định
- Các quy định về phân cấp quản lý ngân sách trong ngành giáo dục.
o Công tác lập dự toán và phân bổ NSNN
Trình tự lập dự toán ngân sách và phân bổ NSNN hàng năm được thực
hiện như sau:
i) Trước ngày 31 tháng 5, Thủ tướng Chính phủ ban hành chỉ thị về
việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán NSNN năm sau.
ii) Căn cứ vào quyết định của Thủ tướng Chính phủ, trước ngày 10
tháng 6, Bộ Tài chính ban hành Thông tư hướng dẫn về yêu cầu, nội dung,
thời hạn lập dự toán NSNN và thông báo số kiểm tra về dự toán ngân sách với
tổng mức và từng lĩnh vực thu, chi ngân sách đối với các Bộ, cơ quan ngang

17


Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở Trung ương và tổng số thu, chi,
một số lĩnh vực chi quan trọng đối với từng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương.
iii) Căn cứ vào quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Thông tư hướng
dẫn, số kiểm tra về dự toán ngân sách của Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và đầu
tư và yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể của cơ quan, địa phương, Bộ Giáo dục đào tạo,
các Bộ, các cơ quan liên quan thuộc Chính phủ thông báo số kiểm tra về dự
toán NSNN cho các đơn vị trực thuộc; UBND cấp tỉnh tổ chức hướng dẫn và
thông báo số kiểm tra về dự toán ngân sách cho các đơn vị trực thuộc và
UBND cấp huyện; UBND cấp huyện thông báo số kiểm tra về dự toán ngân
sách cho các đơn vị trực thuộc và UBND cấp xã.
iv) Các đơn vị sử dụng ngân sách lập dự toán thu, chi ngân sách thuộc
phạm vi, nhiệm vụ được giao, gửi cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp. Cơ quan
quản lý cấp trên trực tiếp (trường hợp không phải là đơn vị dự toán cấp I) xem
xét, tổng hợp dự toán của các đơn vị cấp dưới trực thuộc gửi đơn vị dự toán cấp
I.
v) Bộ tài chính chủ trì phối hợp với Bộ Kế hoạch và đầu tư tổng hợp,
lập dự toán NSNN trình Chính phủ. Trong quá trình làm việc, lập dự toán
NSNN, xây dựng phương án phân bổ ngân sách TW, nếu có ý kiến khác nhau
giữa Bộ Tài chính với Bộ Giáo dục, các Bộ và cơ quan liên quan thuộc Chính
phủ thì Bộ Tài chính phải trình Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ những
ý kiến còn khác nhau để quyết định theo thẩm quyền. Nguyên tắc này cũng
được áp dụng trong quá trình lập dự toán ngân sách, xây dựng phương án
phân bổ ngân sách ở địa phương.
vi) Chính phủ trình Quốc hội dự toán NSNN và phương án phân bổ
ngân sách TW hàng năm; dự toán điều chỉnh NSNN trong trường hợp cần

18


thiết. Quốc hội quyết định dự toán NSNN, phân bổ Ngân sách TW năm sau
trước ngày 15 tháng 11 năm trước.
vii) Căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội về dự toán NSNN, phân bổ Ngân
sách TW, Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội về tỷ lệ phần trăm (%)
phân chia đối với các khoản thu phân chia, Thủ tướng Chính phủ giao nhiệm
vụ thu, chi cho từng bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan
khác ở TW, nhiệm vụ thu, chi, tỷ lệ phần trăm (%) phân chia đối với các
khoản thu phân chia và mức bổ sung từ Ngân sách TW cho từng tỉnh, thành
phố trực thuộc TW. Căn cứ vào nhiệm vụ thu, chi ngân sách được cấp trên
giao, UBND các cấp có trách nhiệm lập dự toán ngân sách địa phương,
phương án phân bổ ngân sách cấp mình trình HĐND cùng cấp quyết định và
báo cáo cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan tài chính cấp trên trực tiếp.
HĐND cấp tỉnh quyết định dự toán ngân sách địa phương, phân bổ
ngân sách cấp tỉnh năm sau trước ngày 10 tháng 12 năm trước. HĐND cấp
dưới quyết định dự toán ngân sách địa phương, phân bổ ngân sách cấp tỉnh
năm sau trước ngày 10 tháng 12 năm trước. HĐND cấp dưới quyết định dự
toán ngân sách địa phương , phân bổ ngân sách năm sau của cấp mình chậm
nhất là mười ngày kể từ ngày HĐND cấp trên trực tiếp quyết định dự toán và
phân bổ ngân sách.
viii) Sau khi được Thủ tướng Chính phủ, UBND giao dự toán ngân sách, các
cơ quan Nhà nước ở TW và địa phương, các đơn vị dự toán có trách nhiệm
phân bổ và giao dự toán ngân sách cho các đơn vị sử dụng ngân sách trực
thuộc, đảm bảo đúng với dự toán ngân sách được giao cả về tổng mức, chi tiết
theo từng lĩnh vực chi, đồng gửi cơ quan tài chính cùng cấp.
1.3.2.3. Cơ chế cấp phát và chấp hành chi NSNN
Căn cứ vào dự toán NSNN được giao và yêu cầu thực hiện nhiệm vụ,
thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách quyết định chi gửi Kho bạc Nhà nước. Kho

19


bạc Nhà nước kiểm tra tính hợp pháp của các tài liệu cần thiết theo quy định của
pháp luật và thực hiện chi ngân sách khi có đủ các điều kiện: đã có trong dự toán
ngân sách được giao; đúng chế độ, tiêu chuẩn, định mức; được thủ trưởng đơn vị
sử dụng ngân sách hoặc người được ủy quyền quyết định chi. Thủ trưởng cơ
quan Kho bạc Nhà nước có quyền từ chối thanh toán, chi trả các khoản chi
không đủ các điều kiện quy định và phải chịu trách nhiệm về quyết định của
mình.
Ở cấp địa phương, cơ quan tài chính có trách nhiệm bố trí nguồn để thực
hiện kịp thời các khoản chi theo dự toán, kiểm tra việc thực hiện chi tiêu và có
quyền tạm dừng các khoản chi vượt nguồn cho phép hoặc sai chính sách, chế độ,
tiêu chuẩn; có quyền yêu cầu cơ quan giao dự toán điều chỉnh nhiệm vụ, dự toán
chi của các đơn vị trực thuộc để đảm bảo thực hiện ngân sách theo đúng mục
tiêu, tiến độ quy định. Cơ quan tài chính cùng cấp có quyền tạm đình chỉ chi
ngân sách của các đơn vị, cá nhân không chấp hành đúng chế độ báo cáo kế
toán, quyết toán và báo cáo tài chính khác và chịu trách nhiệm về quyết định của
mình.
Các khoản chi thường xuyên theo định kỳ được bố trí kinh phí đều
trong năm để chi; các khoản chi có tính chất thời vụ hoặc mua sắm lớn được
bố trí trong dự toán chi quý để thực hiện.
Chi đầu tư phát triển phải đảm bảo cung cấp đủ và đúng tiến độ thực
hiện trong phạm vi dự toán được giao.
Đối với những dự án, nhiệm vụ chi cấp thiết được tạm ứng trước dự
toán để thực hiện.
Các cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có
trách nhiệm đề ra những biện pháp cần thiết nhằm đảm bảo hoàn thành tốt
nhiệm vụ chi ngân sách được giao, thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí, chống
tham ô; chấp hành nghiêm chỉnh kỷ luật tài chính.

20


Trách nhiệm về việc quản lý, sử dụng ngân sách và tài sản của Nhà
nước theo đúng chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức và dự toán được
giao do thủ trưởng cơ quan sử dụng ngân sách chịu trách nhiệm.
Ngoài các cơ quan tài chính, trong Luật NSNN cũng quy định nhiều cơ
quan khác có trách nhiệm giám sát việc thực hiện NSNN như:
- Bộ Kế hoạch và đầu tư phối hợp với Bộ Tài chính và các Bộ, ngành
hữu quan kiểm tra, đánh giá hiệu quả của vốn đầu tư các công trình công cộng
xây dựng cơ bản.
- Ở cấp địa phương, HĐND giám sát việc thực hiện ngân sách ở cấp
mình;
- Chính phủ kiểm tra việc thực hiện NSNN. Định kỳ, Chính phủ báo
cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, UBND báo cáo Thường trực HĐND về tình
hình thực hiện NSNN, các dự án và các công trình quan trọng quốc gia, các
chương trình phát triển kinh tế - xã hội, các dự án và các công trình xây dựng
cơ bản quan trọng khác.
1.3.2.4. Kế toán, kiểm tra và quyết toán NSNN
o Các nguyên tắc phải đảm bảo khi thực hiện
nguyên tắc quyết toán Ngân sách và báo cáo
quyết toán Ngân sách.
- Phải lập đầy đủ các loại báo cáo tài chính và gửi kịp thời các loại báo
cáo đó cho các cơ quan có thẩm quyền xét duyệt theo đúng chế độ đã quy
định.
- Về số liệu quyết toán NSNN:
+ Số quyết toán thu NSNN là số thu đã thực nộp hoặc đã hạch toán
thu NSNN qua Kho bạc Nhà nước.

21

+ Số quyết toán chi NSNN là số chi đã thực thanh toán hoặc đã hạch
toán chi theo quy định của Luật NSNN và các khoản chi chuyển nguồn sang

năm sau để chi tiếp theo quy định.
- Số liệu trong báo cáo quyết toán Ngân sách phải chính xác, trung
thực, đầy đủ. Nội dung báo cáo quyết toán Ngân sách phải theo đúng các nội
dung trong dự toán được giao và theo Mục lục NSNN; Thủ trưởng đơn vị sử
dụng Ngân sách phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác,
trung thực, đầy đủ của báo cáo quyết toán của đơn vị, chịu trách nhiệm về
những khoản thu, chi hạch toán, quyết toán sai chế độ.
o Trình tự công tác kế toán, kiểm toán và
quyết toán NSNN.
i) Các tổ chức, cá nhân có nhiệm vụ chi NSNN phải tổ chức hạch toán
kế toán, báo cáo và quyết toán theo đúng chế độ kế toán của Nhà nước.
Kho bạc Nhà nước tổ chức thực hiện hạch toán kế toán NSNN; định kỳ báo
cáo việc thực hiện dự toán chi ngân sách cho cơ quan tài chính cùng cấp và cơ
quan Nhà nước hữu quan.
ii) Cuối năm ngân sách, Bộ trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn việc khóa
sổ kế toán và lập báo cáo quyết toán ngân sách theo đúng các nội dung ghi
trong dự toán năm được giao và theo Mục lục NSNN.
Các khoản chi NSNN đến ngày 31 tháng 12 chưa thực hiện được hoặc chưa
chi tiết hết, nếu được cơ quan có thẩm quyền cho phép tiếp tục thực hiện
trong năm sau thì được chi tiếp trong thời gian chỉnh lý quyết toán và hạch
toán quyết toán vào chi Ngân sách năm trước, nếu được chuyển nguồn để
thực hiện thì hạch toán vào ngân sách năm sau.
iii) Căn cứ vào hướng dẫn của Bộ trưởng Bộ Tài chính, Thủ trưởng các
đơn vị có nhiệm vụ chi Ngân sách kiểm tra và duyệt quyết toán chi Ngân sách

22

của các đơn vị trực thuộc, chịu trách nhiệm về quyết toán đã được duyệt. Lập
quyết toán chi Ngân sách của đơn vị mình gửi cơ quan quản lý cấp trên.
Đối với các dự án đầu tư xây dựng cơ bản, khi kết thúc năm Ngân sách, chủ

đầu tư phải lập báo cáo quyết toán tình hình sử dụng vốn Ngân sách trong
năm; khi dự án hoàn thành phải lập và báo cáo quyết toán công trình theo quy
định của pháp luật.
Số liệu quyết toán phải được đối chiếu và được Kho bạc Nhà nước nơi giao
dịch xác nhận.
iv) Cơ quan Tài chính các cấp ở địa phương thẩm định quyết toán chi
Ngân sách của các đơn vị cùng cấp và quyết toán Ngân sách cấp dưới, tổng
hợp, lập quyết toán ngân sách địa phương trình UBND cùng cấp để UBND
xem xét trình HĐND cùng cấp phê chuẩn, báo cáo cơ quan Hành chính Nhà
nước và cơ quan Tài chính cấp trên trực tiếp.
v) Bộ Tài chính thẩm định quyết toán chi Ngân sách của các Bộ Giáo
dục và các cơ quan liên quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở TW và quyết
toán ngân sách địa phương; tổng hợp, lập quyết toán NSNN trình Chính phủ.
vi) Cơ quan kiểm toán Nhà nước thực hiện việc kiểm toán, xác định
tính đúng đắn, hợp pháp của Báo cáo quyết toán NSNN các cấp, cơ quan, đơn
vị có liên quan theo quy định của Pháp luật.
vii) HĐND cấp tỉnh phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương chậm
nhất 12 tháng sau khi năm ngân sách kết thúc; HĐND cấp tỉnh quy định thời
hạn phê chuẩn quyết toán Ngân sách của HĐND cấp dưới nhưng chậm nhất
không quá 6 tháng sau khi năm ngân sách kết thúc.
viii) Chính phủ phê chuẩn quyết toán Ngân sách địa phương, lập và
trình Quốc hội quyết toán NSNN, quyết toán các dự án và công trình quan
trọng quốc gia do Quốc hội quyết định.

23

ix) Quốc hội phê chuẩn quyết toán NSNN chậm nhất 18 tháng sau khi
năm ngân sách kết thúc.

24


Chương 2
THỰC TRẠNG CƠ CHẾ QUẢN LÝ NSNN
CHO GIÁO DỤC ĐÀO TẠO TẠI VIỆT NAM
2.
1.4. KHÁI QUÁT SỰ PHÁT TRIỂN CỦA HỆ THỐNG GIÁO DỤC
VIỆT NAM
Nền kinh tế Việt Nam sau hơn 20 năm đổi mới đã thu được những
thành tựu to lớn: góp phần giải phóng sức sản xuất, tạo ra sự chuyển biến
mạnh mẽ, khắc phục về căn bản khủng hoảng kinh tế - xã hội, thúc đẩy nền
kinh tế tăng trưởng nhanh, cải thiện đời sống nhân dân. Về cơ bản đã xóa bỏ
mô hình phát triển kinh tế theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung và chuyển sang
cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước theo định hướng XHCN.
Cùng với quá trình đổi mới kinh tế - xã hội, giáo dục đào tạo Việt Nam
trong thời gian qua đã đạt được những thành tựu to lớn về các mặt: nâng cao
dân trí, phát triển quy mô, tăng cường CSVC nhà trường, xây dựng đội ngũ
giáo viên, đào tạo nhân lực và đã có những thay đổi về cơ cấu, cơ chế và
chính sách. Việt Nam đã đạt được những mục tiêu lớn trong Chiến lược phát
triển giáo dục: về cơ bản xóa được xã trắng về giáo dục mầm non, hoàn thành
và tiếp tục củng cố vững chắc kết quả xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học,
đảm bảo đúng tiến độ và chất lượng phổ cập giáo dục trung học cơ sở theo
chuẩn quốc gia, một số tỉnh, thành phố đã bắt đầu thực hiện phổ cập giáo dục
trung học phổ thông. Bình đẳng nam, nữ về giáo dục được đảm bảo. Giáo dục
vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa có tiến bộ rõ rệt, quy mô, mạng lưới
giáo dục về cơ bản đã đảm bảo cho con em các dân tộc được học tập ngay tại
xã, thôn,bản. Chất lượng giáo dục đã có tiến bộ.
- Mạng lưới trường lớp: Đã xây dựng được hệ thống giáo dục quốc dân
thống nhất, khá hoàn chỉnh, phủ kín tới các xã, phường trong cả nước bao

25

×