Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

BÀI THU HOẠCH DIỄN ÁN HÌNH SƯ HỒ SƠ 25 NGÔ ĐÌNH HOÀNG (CÓ NHẬN XÉT)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.45 KB, 13 trang )

HỌC VIỆN TƯ PHÁP
KHOA ĐÀO TẠO LUẬT SƯ

BÀI THU HOẠCH DIỄN ÁN
Môn: Kỹ năng tham gia giải quyết các vụ án hình sự
Mã số hồ sơ số: LS.HS25
Diễn lần: 01
Ngày diễn:
Giáo viên hướng dẫn:

BÀO CHỮA CHO BỊ CÁO NGƠ ĐÌNH HOÀNG

Họ và tên:
Sinh ngày
SBD:
Lớp:

Hà Nội, ngày … tháng … năm 2021

1


I. Tóm tắt nội dung vụ án
Khoảng 22h30 ngày 08/10/2017, tổ công tác Y13/KH141/PV11 Công an Thành phố
Hà Nội do đ/c Vũ Mạnh Nam (Phó đội trưởng Đội CSGT số 7) làm tổ trưởng cùng với
các đ/c Trần Hoài Phương (Cán bộ PC45); đ/c Nguyễn Văn Chính (Cán bộ đội CSGT
số 7); đ/c Đinh Văn Nguyện (Cán bộ đội CSGT số 7) và một số đồng chí khác làm
nhiệm vụ đảm bảo trật tự an tồn giao thơng tại ngã ba Phạm Văn Đồng – Trần Quốc
Hoàn, Mai Dịch, Cầu Giấy, Hà Nội thì phát hiện Ngơ Đình Hồng điều khiển xe máy
Honda Wade màu trắng, xám, BKS: 29E1 – 561.51 lưu thông trên đường Phạm Văn
Đồng theo hướng đi Phạm Hùng, phía sau chở 02 người, thấy vậy tổ cơng tác đã ra


hiệu lệnh u cầu Hồng dừng xe và hướng dẫn dắt xe vào trong khu vực kiểm tra
hành chính đã được căng dây phản quang để làm việc. Hồng đã chấp hành theo hiệu
lệnh của đồng chí cảnh sát cịn hai người khách đi xe của Hồng đã lợi dụng sở hở bỏ
đi.
Lúc này, đ/c Trần Hoài Phương mặc thường phục, đeo băng đỏ có chữ 141 – Cơng an
Hà Nội tiến hành kiểm tra hành chính đối với Hoàng, yêu cầu Hoàng tự bỏ các đồ vật
trong người ra để tổ cơng tác kiểm tra. Hồng chấp hành bỏ ví tiền, điện thoại lên trên
xe. Khi được yêu cầu xuất trình giấy tờ xe, giấy tờ cá nhân thì Hồng trả lời là giấy tờ
hiện để ở nhà nên khơng xuất trình được. Lúc này đ/c Phương đã cầm chìa khóa xe của
Hồng và mang đến trên bàn đồng chí Nguyện để giải quyết. Tại đây, đ/c Nguyện tiếp
tục u cầu Hồng xuất trình giấy tờ, nếu khơng có thì buộc phải giữ xe lại. Hồng có
xin khơng bị tạm giữ phương tiện nhưng khơng đồng chí cảnh sát giao thơng đã trả lời
rõ: “nếu khơng có giấy tờ thì khơng giải quyết vụ việc”. Do quá bức xúc với cách xử
lý của đồng chí cảnh sát, Hồng đã có lời lẽ to tiếng, lăng mạ tổ cơng tác. Đ/c Phương
đến gần u cầu Hồng khơng được chửi và phải xuất trình giấy tờ cho tổ cơng tác
kiểm tra. Bị u cầu nhiều lần việc mình khơng thực hiện được, Hồng bực tức ném
tiền xuống đất rồi tiếp tục lăng mạ tổ công tác. Lúc này đồng chí Nam xuất hiện u
cầu Hồng làm việc với mình. Hồng hỏi bây giờ trường hợp của Hồng giải quyết thế
nào. Đ/c Nam trả lời phải xuất trình được giấy tờ mới giải quyết. Hoàng tiếp tục chỉ
tay về phía tổ cơng tác lăng mạ chửi mắng. Thấy vậy, anh Phương đi đến dùng tay kéo
Hoàng ra khỏi khu vực đã căng dây phản quang nhưng Hoàng dùng tay phải gạt tay
anh Phương ra. Bất ngờ đ/c Phương quàng vai vật Hồng xuống đất. Q bất ngờ,
Hồng ơm vai đ/c Phương và bị ngã luôn xuống đất. Lúc này có thêm vài đồng chí tổ
cơng tác khống chế Hồng rồi đưa Hồng về trụ sở Cơng an phường Mai Dịch để làm
việc. Hành vi của Hoàng đã cản trở, làm gián đoạn việc thực thi nhiệm vụ của tổ công
tác trong khoảng 15 phút.
Ngày 20/9/2018, Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an quận Cầu Giấy ra Quyết định
khởi tố vụ án hình sự số 262 về tội “Chống người thi hành công vụ” quy định tại Điều
330 Bộ luật hình sự.
Ngày 20/9/2018, Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an quận Cầu Giấy ra Quyết định

khởi tố bị can đối với Ngơ Đình Hồng về tội “Chống người thi hành công vụ”.
2


II. Xây dựng kế hoạch hỏi
Mục đích bảng hỏi: Làm sáng tỏ sự việc, đồng thời chứng minh hành vi của bị cáo không đủ căn cứ cấu thành tội chống
người thi hành công vụ
Người tiếp
Vấn đề cần
nhận câu hỏi chứng minh
Bị cáo Ngơ Hồng khơng
Đình Hồng
dùng vũ lực
hay đe dọa
dùng vũ lực
với tổ cơng
tác

Mục đích của
Hồng khơng
phải để cản
trở người thi
hành cơng vụ
thực
hiện

Câu hỏi

Mục đích hỏi


Tại sao khi anh Phương đến
kéo anh ra ngoài khu vực căng
dây, anh lại gạt tay anh
Phương?

Từ cái gạt tay của Hoàng, Phương mới thực
hiện hành vi quật ngã Hoàng để khống chế.
Tuy nhiên, cần phải hiểu cái gạt tay của
Hồng khơng phải hành vi dùng vũ lực
nhằm gây thương tích cho đ/c Phương. Tuy
nhiên, hành vi gạt tay của Hoàng chỉ theo
bản năng, không phải dùng đến sức mạnh
thể chất để tác động hay đe dọa tác động
đến thân thể người khác.
Anh Phương khai rằng anh nắm Phủ nhận lời khai của Phương. Các nhân
tóc anh ấy giật ngược ra sau, có chứng khác cũng đồng ý rằng Hồng khơng
đúng như vậy khơng?
có hành vi xô đẩy hay đánh đập Phương

Tại sao anh lại dùng tay và Dùng tay và chân ghìm chặt anh Phương
chân ghìm chặt anh Phương?
khơng phải hành vi dùng vũ lực vì đây chỉ
là bản năng nhằm ngăn chặn những hành vi
tiếp theo của Phương.
Tại sao anh đứng chửi bới tổ Việc chửi bới, lăng mạ tổ công tác là hành
công tác?
vi bộc phát do quá bức xúc chứ khơng
nhằm mục đích cản trở hay gây khó khăn
cho người thi hành công vụ.


3

Trả lời
Tôi chỉ gạt tay anh
Phương ra theo bản
năng. Tơi khơng muốn
đi khi mà chìa khóa xe
của tôi vẫn để trên bàn
đ/c Nguyện

Không. Theo bản năng
khi bị quật ngã, tơi
chẳng may bám vào tóc
đ/c Phương nhưng do
trượt tay nên tôi bám
vào cổ đ/c
Sau khi bị quật ngã, tơi
sợ đ/c Phương làm gì
tơi nên tơi chỉ muốn
giữ chặt đ/c Phương
Tơi q bức xúc vì
khơng ai giải quyết cho
tơi.


cơng vụ của
họ

Bị cáo có
hành vi sai

trái do bị kích
động về tinh
thần

Khi csgt có hiệu lệnh dừng xe
và yêu cầu kiểm tra hành chính,
anh có tn thủ hay khơng?
Tại sao anh khơng có giấy tờ?
Anh đã trình bày việc anh để
qn giấy tờ ở nhà với các
đồng chí tổ cơng tác chưa?
Anh nghĩ thế nào khi bị anh
Phương giữ chìa khóa xe?

Bị cáo có thái độ chấp hành

Bị cáo đã trình bày vấn đề của mình. Việc
của cảnh sát là hướng dẫn bị cáo chứ không
phải lặp đi lặp lại nhiều lần yêu cầu bị cáo
xuất trình giấy tờ
Xét trong tình huống này, bị cáo hồn tồn
hợp tác và chấp hành hiệu lệnh của cảnh
sát. Như vậy, hành động thu giữ chìa khóa
xe khơng góp phần để cảnh sát thực hiện
quyền kiểm sốt người, phương tiện và
khơng cần thiết trong trường hợp này. Mặt
khác, hành động này xâm phạm quyền về
tài sản, gây tâm lý hoang mang, lo sợ cho bị
cáo.
Anh có được hướng dẫn quy Bị cáo khơng được hướng dẫn quy trình

trình hay thủ tục để tạm giữ theo quy định
phương tiện không?
Anh hiểu thế nào về câu nói Câu nói này mang tính mập mờ, khó hiểu
“Có giấy tờ thì mới giải quyết” và khiến người vi phạm bức xúc
của đ/c Nguyện?
Anh có thể nhờ ai mang giấy tờ Nếu được hướng dẫn nhờ người mang giấy
ra cho anh không?
tờ ra, bị cáo sẽ không bị giữ xe
Bị cáo có phải lao động duy Bị cáo có hồn cảnh đáng thương nên tâm
nhất trong gia đình khơng?
lý bức xúc khi bị thu xe là có thể hiểu
Lái xe ơm có phải cơng việc
4

Tơi để qn giấy tờ ở
nhà và đã trình bày rất
nhiều lần với đồng chí
cảnh sát

Tức là tơi khơng có
giấy tờ thì khơng được
làm việc với cán bộ
Có, tơi có thể nhờ bạn
Bị cáo là lao động duy
nhất trong gia đình
Ban ngày bị cáo làm


chính của bị cáo khơng?


Người có
quyền lợi và
nghĩa vụ liên
quan Trần
Hồi Phương

Người

quyền lợi và
nghĩa vụ liên
quan

Mạnh Nam

Hành vi của
bị cáo không
cấu thành tội
chống người
thi hành công
vụ

Anh cho biết sau sự việc anh có
bị thương hay xây xát cơ thể
khơng?
Nếu trong ca làm việc mà anh
Hoàng cung cấp được giấy tờ
hợp lệ thì tổ cơng tác sẽ cho đi
phải khơng?
Tại sao anh khơng hướng dẫn
Hồng nhờ người nhà mang ra

giấy tờ?
Hành vi của Anh có thấy bị cáo xơ đẩy hay
bị cáo không túm áo đ/c Phương không?
cấu thành tội
chống người Hành vi của Hồng khiến hoạt
thi hành cơng động của tổ công tác tạm dừng
trong bao lâu? Cụ thể là tổ nào
vụ
vẫn hoạt động và tổ nào bị
dừng hoạt động?
Đ/c Chính thuộc phân cơng tổ
A phải khơng?
Bị cáo có
hành vi sai
trái do bị kích
động về tinh
thần

cơng nhân. Bị cáo chỉ
lái xe ôm mưu sinh vào
buổi tối để nuôi bố mẹ
già.
Hành vi của bị cáo không gây thương tổn
cho anh Phương => Khơng dùng vũ lực
Có thể, tuy nhiên khơng ai hướng dẫn bị
cáo
Chứng minh anh Phương cố tình làm khó bị
cáo
Chứng minh bị cáo không sử dụng vũ lực
=> Không cấu thành tội phạm

Thực tế là chỉ tổ A dừng hoạt động trong 15
phút, tổ B + C vẫn hoạt động bình thường.

Đ/c Chính thuộc tổ A nhưng vẫn tiến hành
thực hiện cơng vụ trong khi Hồng chửi
mắng tổ cơng tác.(BL84)
Anh nghĩ gì khi anh Hồng hỏi Chứng minh tổ cơng tác cố tình làm khó bị
cách giải quyết thì tất cả các cáo
đồng chí đều trả lời “Khơng có
giấy tờ thì khơng giải quyết?”

5


Người

quyền lợi và
nghĩa vụ liên
quan Nguyễn
Văn Chính

Hành vi của Khi sự việc xảy ra, anh vẫn
bị cáo không đang làm nhiệm vụ phải
cấu thành tội khơng?
chống người
thi hành cơng
vụ

Đ/c Chính thuộc tổ A nhưng vẫn tiến hành
thực hiện công vụ trong khi Hồng chửi

mắng tổ cơng tác.(BL84), nên tổ A chỉ có
Nam, Phương, Nguyện tạm dừng hoạt động
để giải quyết vấn đề của Hoàng.

6


III. Soạn theo luận cứ bào chữa cho Ngơ Đình Hồng
ĐỒN LUẬT SƯ TỈNH …
VĂN PHỊNG LUẬT SƯ …
----------***----------

CỘNG HỊA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
----------***----------

BẢN LUẬN CỨ
Bào chữa cho bị cáo Ngô Đình Hồng
Kính thưa Hội Đồng Xét Xử (HĐXX),
Tơi là Luật sư … – thuộc Văn phòng Luật sư … - Đoàn Luật sư tỉnh ...
Theo lời mời của bị cáo Ngơ Đình Hồng, tơi có mặt với tư cách là người bào chữa cho bị
cáo Hồng tại phiên tịa hơm nay. Trước hết, tôi xin được bày tỏ sự cám ơn tới HĐXX đã tạo
điều kiện cho tôi được nghiên cứu hồ sơ vụ việc, tham dự phiên tòa. Qua các tài liệu có trong
hồ sơ vụ án, căn cứ các chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, sau khi nghe quan điểm của
vị đại diện Viện kiểm sát, tơi xin được khẳng định bị cáo Ngơ Đình Hồng khơng phạm tội
Chống người thi hành cơng vụ. Tơi cho rằng VKS quận Cầu Giấy – Tp. Hà Nội truy tố bị cáo
Ngơ Đình Hồng về tội: “Chống người thi hành công vụ” theo Điều 330 khoản 1 BLHS là
chưa phù hợp với hành vi của bị cáo.
Thứ nhất, bị cáo không sử dụng vũ lực hay đe dọa sử dụng vũ lực hay dùng thủ đoạn khác
đối với người thi hành công vụ. Tất cả hành vi mà bị cáo thực hiện mà đại diện VKS cho

rằng đó là hành vi sử dụng vũ lực là gạt tay đ/c Phương khi bị kéo ra khỏi vùng căng dây,
dùng tay và chân để giữ chặt đồng chí sau khi bị quật ngã. Đồng chí Trần Hồi Phương có
khai rằng sau khi xảy ra sự việc thì khơng bị thương và Biên bản kiểm tra dấu vết trên thân
thể ngày 08/10/2017 của đồng chí Trần Hồi Phương có kết luận: “Khơng phát hiện thấy dấu
vết gì trên thân thể”. Tuy nhiên, Biên bản kiểm tra dấu vết trên thân thể ngày 09/10/2017 của
bị cáo Ngơ Đình Hồng kết luận “01 vết xước dài 2 cm ở mu bàn tay trái và 01 vết xước dài
2 cm ở cổ tay trái”. Hành vi của bị cáo tại thời điểm đó khơng phải hành vi vũ lực mà đơn
thuần là hành động theo phản xạ tự nhiên nhằm ngăn chặn những hành động tiếp theo của đ/c
Phương. Mặc dù bị cáo có những hành động phản xạ nhưng mục đích khơng phải để gây
thương tổn cho đồng chí Phương. Nhiều nhân chứng của vụ án cũng xác nhận là bị cáo
không xô đẩy, túm áo của ai trong tổ công tác. Như vậy, việc bị cáo “túm tóc anh Phương giật
ra phía sau và túm cổ anh Phương đẩy ra” như trong Cáo trạng là không đúng.
Thứ hai, hành vi của bị cáo không nhằm cản trở người thi hành công vụ thực hiện công vụ
của họ. Việc chửi bới, lăng mạ tổ công tác là hành vi bộc phát do quá bức xúc chứ không

7


nhằm mục đích cản trở hay gây khó khăn cho người thi hành công vụ. Khi xảy ra vụ việc, bị
cáo hoàn toàn chấp hành hiệu lệnh của cảnh sát giao thông. Khi được yêu cầu kiểm tra giấy
tờ, bị cáo không mang nên đã xin tổ công tác không tạm giữ xe của mình. Vi phạm của bị cáo
là chở quá số người quy định vi phạm Điều 8 khoản 2 điểm e Nghị định 46/2016/NĐ-CP và
Điều 21 khoản 2 Nghị định 46/2016/NĐ-CP. Trường hợp phải tạm giữ phương tiện, tổ công
tác phải nêu căn cứ áp dụng và lý do tạm giữ phương tiện. Tổ công tác cần giải thích luật cho
bị cáo và hướng dẫn bị cáo nộp phạt và chấp hành hiệu lệnh. Thực tế là tổ công tác cũng
chưa thực hiện đúng nhiệm vụ và trách nhiệm của họ khi tiếp xúc với người dân có hành vi
sai phạm. Xét trên khía cạnh khác, khi người dân bức xúc chưa hiểu vấn đề, việc tổ cơng tác
giải quyết và giải thích thắc mắc của người vi phạm cũng là đang thực hiện nhiệm vụ của
chính họ.
Thứ ba, hành vi của bị cáo có ảnh hưởng đến việc thực hiện công vụ của tổ công tác nhưng

không đáng kể. Những người chứng kiến đã xác định khi xảy ra sự việc, các tổ B và tổ C vẫn
làm nhiệm vụ bình thường. Hơn nữa, đ/c Chính thuộc tổ A vẫn tiến hành làm nhiệm vụ phân
luồng trong thời gian xảy ra sự việc. Hành vi của bị cáo khiến những đồng chí cịn lại của tổ
A phải tạm dừng hoạt động nhưng trong thời gian rất ngắn (15 phút). Hành vi chửi bới của bị
cáo chưa ảnh hưởng lớn đến mức tổ công tác không thể thực hiện nhiệm vụ, mà chỉ gây ảnh
hưởng tạm thời cho đến khi bị khống chế.
Thứ tư, hành vi của bị cáo xuất phát từ cách giải quyết không hợp lệ của chính tổ cơng tác.
Một là, khi xảy ra vụ việc, bị cáo hoàn toàn chấp hành hiệu lệnh của cảnh sát giao thơng.
Nhưng khơng hiểu lý do gì, đ/c Phương lại muốn giữ chìa khóa xe của bị cáo. Việc rút chìa
khóa xe của người vi phạm giao thông không được coi là một biện pháp để ngăn chặn và đảm
bảo xử lý vi phạm hành chính nhưng có thể thực hiện nhằm kiểm sốt phương tiện trong
trường hợp người vi phạm khơng hợp tác. Xét trong tình huống này, bị cáo hoàn toàn hợp tác
và chấp hành hiệu lệnh của cảnh sát. Như vậy, hành động thu giữ chìa khóa xe khơng góp
phần để cảnh sát thực hiện quyền kiểm sốt người, phương tiện và khơng hợp pháp trong
trường hợp này. Mặt khác, hành động này xâm phạm quyền về tài sản, gây tâm lý hoang
mang, lo sợ cho bị cáo.
Hai là, khi được yêu cầu kiểm tra giấy tờ, bị cáo không mang nên đã xin tổ cơng tác khơng
tạm giữ xe của mình. Lẽ ra trong trường hợp này, tổ công tác cần phải hướng dẫn, giải thích
để người dân hiểu và thực hiện theo quy định pháp luật. Tuy nhiên, hết lần này đến lần khác,
đáp lại sự van nài của bị cáo thì tổ cơng tác chỉ trả lời là “Khơng có giấy tờ thì khơng giải
quyết”. Tơi vẫn chưa hiểu là tổ cơng tác muốn giải quyết cái gì và giải quyết như thế nào. Vi
phạm của bị cáo là chở quá số người quy định vi phạm Điều 8 khoản 2 điểm e Nghị định
46/2016/NĐ-CP và Điều 21 khoản 2 Nghị định 46/2016/NĐ-CP. Trường hợp phải tạm giữ
phương tiện, tổ công tác phải nêu căn cứ áp dụng và lý do tạm giữ phương tiện. Tổ công tác
8


cần giải thích luật cho bị cáo và hướng dẫn bị cáo nộp phạt và chấp hành hiệu lệnh. Thực tế
là tổ công tác cũng chưa thực hiện đúng nhiệm vụ và trách nhiệm của họ khi tiếp xúc với
người dân có hành vi sai phạm, gây tâm lý bức xúc cho người dân.

Thưa HĐXX, bị cáo đã van nài nhiều lần vì chiếc xe là tài sản lớn nhất của bị cáo, là công cụ
mưu sinh của bị cáo: Ban ngày đi làm công nhân, buổi tối đi làm xe ơm để trang trải chi phí
sinh hoạt đắt đỏ ở Hà Nội và nuôi bố mẹ già. Tất nhiên, do tức giận tức thời mà to tiếng, chửi
bới với tổ công tác là vi phạm pháp luật. Nhưng sai lầm của bị cáo xuất phát từ tâm lý bức
xúc, lo lắng khi công cụ mưu sinh bị tịch thu khơng rõ lý do là có thể hiểu và thơng cảm. Nay
bị cáo đã biết hành vi chửi bới, lăng mạ tổ cơng tác của mình là sai và vơ cùng hối hận với
hành vi của mình. Nếu vì điều đó mà HĐXX quyết định cách ly bị cáo ra khỏi xã hội thì
khơng thể cho thấy đường lối nhân đạo của nhà nước. Hơn nữa, hành vi của bị cáo hồn tồn
khơng đủ căn cứ cấu thành tội chống người thi hành công vụ do không thỏa mãn yếu tố mặt
khách quan của tội phạm này.
Từ những nội dung đã phân tích ở trên, kính mong HĐXX xem xét tun bố bị cáo Ngơ Đình
Hồng khơng phạm tội vì hành vi của Hồng khơng cấu thành tội chống người thi hành cơng
vụ. Theo đó, về việc bị cáo Ngơ Đình Hồng có thừa nhận về hành vi chửi bới, to tiếng chỉ
xem xét xử lý hành chính theo quy định tại Điều 20 khoản 2 điểm b Nghị định 167/2013/NĐCP Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an tồn xã hội;
phịng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phịng, chống bạo lực gia đình với
hành vi “Có lời nói, hành động đe dọa, lăng mạ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm người thi
hành cơng vụ”.
Trên đây là tồn bộ quan điểm bào chữa của tôi. Trân trọng cảm ơn./.
Luật sư,
Vũ Hà My

9


NHẬN XÉT PHẦN DIỄN ÁN
Nhận xét chung: Các nhân vật có trang phục nghiêm chỉnh, giọng nói mạch lạc rõ ràng, các
bước tham gia phiên tòa: thực hiện đúng, đầy đủ các bước tiến hành phiên tòa theo quy định
pháp luật.
Tên
vai diễn

Thư ký Tòa án
Chủ tọa phiên
tòa

Nhận xét về nội dung diễn án
Đảm bảo các thủ tục bắt đầu phiên tòa.
Đảm bảo các thủ tục bắt đầu phiên tòa, từ việc xác minh nhân thân đương sự,
giải thích cặn kẽ quyền và nghĩa vụ của đương sự, yêu cầu các nhân chứng cam
đoan về lời khai tại tòa, hỏi đương sự có nhu cầu thay đổi ai trong HĐXX hay
khơng, ý kiến và yêu cầu thêm về thủ tục bắt đầu phiên tịa. Tuy nhiên chủ tọa
điều khiển sai trình tự, thiếu phần hỏi đương sự có đề nghị triệu tập người làm
chứng.
Về cách đặt câu hỏi:
Hỏi bị cáo: Các câu hỏi mang tính làm rõ tình tiết sự việc, về hồn cảnh khó
khăn và sự ăn năn của bị cáo
Hỏi người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Trần Hồi Phương: Các câu hỏi
mang tính làm rõ tình tiết sự việc, về nhân thân, công tác, trang phục của anh
Phương; về diễn biến sự việc ngày 08/10/2017
Hỏi người làm chứng: Các câu hỏi mang tính làm rõ tình tiết sự việc như có giao
nhiệm vụ cho Phương khơng (nhằm xác định yếu tố khách thể của tội phạm là
người được giao nhiệm vụ thi hành công vụ), thuật lại diễn biến sự việc, ảnh
hưởng của hành vi gây rối của Hồng.
 Các câu hỏi phù hợp với vai trị của chủ tọa mang tính làm rõ sự việc, đầy đủ

nội dung về buộc tội và gỡ tội.
Luật sư bào
chữa

Về cách đặt câu hỏi: Câu hỏi góp phần làm sáng tỏ hướng bào chữa trong bản
luận cứ. Tuy nhiên luật sư đặt câu hỏi quá nhanh. Nếu trong phiên tòa thực tế thì

người được hỏi rất khó theo tốc độ nói nhanh như vậy.
• Khi hỏi bị cáo, luật sư có những câu hỏi phù hợp về nhân thân, hồn cảnh của

bị cáo; về sự tuân thủ của bị cáo; sai phạm trong quy trình của tổ cơng tác; sự
vi phạm của bị cáo là do không hiểu rõ pháp luật.
• Đối với Vũ Mạnh Nam: Câu hỏi về việc có được xử phạt vi phạm hành chính
khi đang mặc đồng phục hay khơng là khơng cần thiết vì thực tế Phương là
cảnh sát 141 được phân công mặc thường phục, thứ hai là Phương không phải
người xử lý vi phạm hành chính mà dẫn bị cáo ra chỗ đồng chí CSGT Nguyện
để xử lý. Ngồi ra, các câu hỏi khác phù hợp nhằm làm rõ sai phạm của tổ
công tác khi tiếp xúc với người dân vi phạm và gián tiếp chứng minh bức xúc
của bị cáo là có cơ sở. Không nên hỏi về vấn đề yêu cầu kiểm tra giấy tờ của tổ

10


cơng tác vì rất lan man và khơng góp phần chứng minh bị cáo khơng có tội.
Sai phạm của bị cáo là chửi bới, to tiếng với tổ công tác chứ khơng phải kiểm
tra giấy tờ của tổ cơng tác.
• Đối với Trần Hoài Phương: Các câu hỏi phù hợp nhằm làm rõ sai phạm của tổ
công tác khi tiếp xúc với người dân vi phạm và gián tiếp chứng minh bức xúc
của bị cáo là có cơ sở. Tuy nhiên, có một số câu hỏi trùng lặp với câu hỏi đã
hỏi Vũ Mạnh Nam. Câu hỏi về việc cảnh sát 141 mặc thường phục có quyền
xử phạt vi phạm hành chính hay khơng là khơng cần thiết vì thực tế Phương là
cảnh sát 141 được phân công mặc thường phục, thứ hai là Phương không phải
người trực tiếp xử lý vi phạm hành chính mà dẫn bị cáo ra chỗ đồng chí CSGT
Nguyện để xử lý. Khơng nên hỏi về vấn đề yêu cầu kiểm tra giấy tờ của tổ
cơng tác vì rất lan man và khơng góp phần chứng minh bị cáo khơng có tội.
Sai phạm của bị cáo là chửi bới, to tiếng với tổ công tác chứ không phải kiểm
tra giấy tờ của tổ công tác. Những câu hỏi khác góp phần làm bào chữa cho sai

phạm của bị cáo.
Về bản luận cứ của luật sư: Đồng ý với hướng bào chữa của luật sư.
Hướng bào chữa của luật sư: Không đồng ý với quan điểm của đại diện Viện
kiểm sát. Chứng minh hành vi của bị cáo khơng cấu thành tội phạm.
• Về mặt khách quan: Hành vi của bị cáo không phải dùng vũ lực hay đe dọa sử

dụng vũ lực
• Lỗi: Phải là lỗi cố ý trực tiếp tuy nhiên nếu được cảnh báo hành vi của bị cáo

là hành vi chống người thi hành cơng vụ.
• Khách thể của tội phạm: Hành vi của Phương sai về cơng vụ thì người dân
khơng có nghĩa vụ phải chấp hành. Theo quan điểm của luật sư, Đ/c Phương
đang mặc thường phục nên khơng có quyền xử lý vi phạm hành chính. Điều
này khơng phù hợp với thực tế sự việc vì Phương là cảnh sát 141 được phân
công mặc thường phục, thứ hai là Phương không phải người trực tiếp xử lý vi
phạm hành chính mà dẫn bị cáo ra chỗ đồng chí CSGT Nguyện để xử lý.
• Hành vi của bị cáo có thể xử lý theo hướng hành chính hoặc hình sự. Do mức
độ vi phạm không lớn nên chỉ cần bị xử phạt hành chính là đã đủ sức răn đe
• Kết luận: Đề nghị xử phạt hành chính đối với hành vi chống người thi hành
công vụ của bị cáo theo Điều 20 khoản 3 điểm a Nghị định 167/2013/NĐ-CP:
=> Khơng đồng ý vì đây là xử phạt vì hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng
vũ lực để chống người thi hành công vụ. Như vậy là gián tiếp thừa nhận hành
vi của bị cáo là dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực để chống người thi hành
cơng vụ. Điều này vơ hình trung đối ngược lại toàn bộ luận điểm mà luật sư
đưa ra trước đó và khơng thống nhất với hướng bào chữa ban đầu là hành vi
của bị cáo không cấu thành tội phạm.
Về phần tranh luận:
Về việc có hay khơng bị cáo dùng vũ lực: Khơng có ý kiến
Về việc khơng thể dùng luận điệu bị cáo bức xúc mà có hành vi chửi bới và
không thể dùng lý do bị cáo khơng biết vì bị cáo đã học hết lớp 12: Khơng có ý


11


kiến
Về việc hành vi của bị cáo làm gián đoạn cơng việc của tổ cơng tác: Luật sư cho
rằng có làm gián đoạn nhưng không nghiêm trọng và không đến mức bị phạt tù.
Đại diện Viện
kiểm sát

Bị cáo Ngơ
Đình Hồng
Hội thẩm 2
Hội thẩm 1
Người làm
chứng Lê Văn
Linh
Người làm
chứng Vũ
Mạnh Nam
Người làm

Về cách đặt câu hỏi: Nhiều câu hỏi có lợi cho bị cáo chứ khơng thiên về hướng
buộc tội. Ví dụ, câu hỏi về lý do bị cáo chửi mắng tổ cơng tác là câu hỏi có lợi
cho bị cáo, lẽ ra đại diện VKS không nên hỏi.
Đối với bị cáo: Câu hỏi bị cáo có cam đoan về lời khai của mình hay khơng là
khơng cần thiết và khơng mang nhiều ý nghĩa buộc tội. Câu hỏi về trang phục
của Phương là khơng cần thiết vì trong biên bản ghi lời khai, bị cáo biết Phương
là cảnh sát 141. Các câu hỏi đối với bị cáo chưa sắc sảo, khơng góp phần buộc
tội bị cáo, cũng một phần là do bị cáo thay đổi lời khai so với biên bản ghi lời

khai, tuy nhiên đại diện vks cũng không khai thác sâu thêm.
Đối với Vũ Mạnh Nam: Phù hợp.
Đối với Nguyễn Văn Chính: Câu hỏi về sự chấp hành của Nam là lợi cho Nam,
đại diện VKS không nên hỏi. Câu hỏi có người nào đang chờ được giải quyết
hay không khá hay.
Đối với Nguyễn Lê Linh và Vũ Văn Nam: Làm rõ tình tiết vụ án nhằm buộc tội
bị cáo.
Luận tội của đại diện Viện kiểm sát: Biết cách xây dựng bản luận tội. Tuy
nhiên, KSV chưa chứng minh được bị cáo hiểu rõ luật mà vẫn cố tình sai phạm
trong phần đặt câu hỏi trước đó. Tuy nhiên, đại diện VKS vẫn đưa vào bản luận
tội. Những phần khác hợp lý.
Phần tranh luận:
Đưa ra được những vấn đề cần tranh luận:
Về việc có hay khơng bị cáo dùng vũ lực
Về việc không thể dùng luận điệu bị cáo bức xúc mà có hành vi chửi bới và
khơng thể dùng lý do bị cáo khơng biết vì bị cáo đã học hết lớp 12
Về việc hành vi của bị cáo làm gián đoạn công việc của tổ công tác do mỗi tổ lại
có nhiệm vụ riêng nên việc làm gián đoạn nhiệm vụ của tổ A vơ hình trung làm
gián đoạn của cả những tổ còn lại.
Trả lời tốt câu hỏi, hiểu vụ án, có khả năng tự gỡ tội cho mình. Tuy nhiên, theo
hồ sơ vụ án, bị cáo không hề đẩy Phương ra mà là kẹp chặt Phương. Nhiều nhân
chứng cũng đồng ý với điều này.
Câu hỏi sát với nội dung vụ án.
Các câu hỏi dành cho nhân chứng Chính là khơng cần thiết vì Chính khơng có
điều kiện theo dõi vụ việc do phải làm nhiệm vụ, thay vì hỏi Chính thì nên hỏi
Nam hoặc Linh
Trả lời khá tốt các nội dung được hỏi, hiểu vụ án.
Trả lời được câu hỏi, hiểu vụ án. Tuy nhiên, khi được hỏi về những thành viên tổ
công tác, Nam chưa trả lời đúng bởi tổ công tác chia làm 3 tổ A, B, C. Nam mới
chỉ liệt kê được các thành viên của tổ A

Trả lời được câu hỏi, hiểu vụ án.
12


chứng Nguyễn
Lê Linh
Người làm
chứng Vũ Văn
Nam

Trả lời được câu hỏi, hiểu vụ án

13



×