Tải bản đầy đủ (.doc) (155 trang)

Tổng hợp 106 bài văn ngữ văn 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (903.73 KB, 155 trang )

100 đề và bài ngữ văn lớp 9
đề số 1
Theo em, Phong cách Hồ Chí Minh có phải là một văn bản thuyết minh
không ? Vì sao ?
Dàn ý
I. Mở bài
- Phong cách Hồ Chí Minh vận dụng kết hợp nhiều phơng thức biểu đạt,
trong đó thuyết minh là phơng thức biểu đạt chính.
- Bài viết giúp ngời đọc hiểu đợc phong cách Hồ Chí Minh là sự kết hợp hài
hoà giữa truyền thống và hiện đại, dân tộc và nhân loại, thanh cao và giản
dị.
II. Thân bài
Tính chất thuyết minh cđa Phong c¸ch Hå ChÝ Minh thĨ hiƯn ë những khía
cạnh sau :
1. Đối tợng thuyết minh của bài là một vấn đề trừu tợng: phong cách của
Bác Hồ. Vẻ đẹp trong phong cách của Bác đợc trình bày rõ trên hai phơng
diện cơ bản :
a) Bác luôn tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hoá nhân loại để tạo nên một
nhân cách, một lối sống rất Việt Nam, rất phơng Đông nhng cũng rất mới, rất
hiện đại.
b) Bác có lối sống vô cùng giản dị nhng lại rất thanh cao, tiêu biểu cho nét
đẹp trong lối sống của dân tộc Việt Nam.
2. Phong cách Hồ Chí Minh đợc trình bày, giới thiệu một cách chính xác,
khách quan bằng những dẫn chứng, t liệu cụ thể, xác thực, không phải do h
cấu, do tởng tợng mà ra.
3. Bài viết đà sử dụng các phơng pháp của văn bản thuyết minh nh : phơng
pháp phân loại, phân tích (các khía cạnh, các phơng diện, các biểu hiện của
vẻ đẹp trong phong cách Hồ Chí Minh về văn hoá, lối sống...); phơng pháp liệt
kê (những nơi Bác đà qua nh châu Phi, châu á, châu Mĩ, châu Âu; những
ngoại ngữ mà Ngời thành thạo (tiếng Pháp, Anh, Hoa, Nga...); phơng pháp so
sánh (lối sống giảng dị của Bác với các vị hiền triết Nguyễn TrÃi, Nguyễn Bỉnh


Khiêm)...
4. Bài viết có sư dơng c¸c u tè nghƯ tht nh kĨ chun, bình luận,
nghệ thuật đối lập, văn viết có cảm xúc, nhng tất cả những yếu tố này chỉ
có vai trò phụ trợ. Nội dung giá trị cơ bản của văn bản này vẫn là những tri
thức xác thực, khách quan về phong cách Hồ Chí Minh.
III. Kết bài
- Phong cách Hồ Chí Minh là một văn bản nhật dụng, thuyết minh là một
trong những phơng thức biểu đạt chính.
- Bài viết đà giúp ngời đọc hiểu đợc vẻ đẹp phong cách Bác Hồ là sự kết
hợp hài hoà giữa bản sắc văn hoá dân tộc và tinh hoa văn hoá nhân loại, là sự
giản dị một cách thanh cao.
- Bài viết làm cho chúng ta thêm tự hào, kính yêu Bác, khơi gợi ở chúng ta ý
nguyện học tập, tu dỡng, rèn luyện theo gơng của Bác.
đề số 2
Dựa vào văn bản Phong cách Hồ Chí Minh, kênh hình trang 6 (Ngữ văn 9 Tập I) và những hiểu biết của em, em hÃy viết một văn bản thuyết minh có sử
dụng các biện pháp nghệ thuật để giới thiệu về nơi ở và làm việc của Bác tại
phủ Chủ tÞch.

-

1

-


I. Tìm hiểu đề
- Kiểu bài : Thuyết minh có sử dụng các biện pháp nghệ thuật.
- Yêu cầu : Thuyết minh, miêu tả, giới thiệu nơi ở và làm việc của Bác, chủ
yếu là ngôi nhà sàn nơi Bác ở.
II. Dàn ý

A. Mở bài
- Nếu có dịp đợc đến Hà Nội, vào lăng viếng Bác, bạn hÃy đừng quên
viếng thăm ngôi nhà sàn đơn sơ nhỏ bé, nơi vị lÃnh tụ kính yêu của chúng
ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đà từng sống và làm việc nhiều năm ở đó.
- Đến đây, bạn sẽ thêm hiểu, thêm tự hào và kính yêu một con ngời vĩ đại
mà vô cùng bình dị đà đi vào lịch sử dân tộc Việt Nam nh một huyền thoại.
B. Thân bài
1. Địa điểm, không gian: Nơi ở và làm việc của Bác nằm giữa một khuôn
viên yên tĩnh thơm ngát hơng hoa.
a) Trớc nhà Bác ở là một cái hồ thả cá. Một hàng rào râm bụt chạy quanh trớc
ngõ nh ở quê nhà Nghệ An của Bác. Bác sống hoà mình với thiên nhiên, với đất
trời, với quê hơng.
b) Xung quanh nhà Bác trồng rất nhiều loài cây và hoa. Hoa cam, hoa b ởi
tháng ba thơm ngào ngạt; hàng dừa xoè bóng mát trên những lối đi; cây vú
sữa, quà của đồng bào miền Nam tặng Bác đợc trồng ở hiên sau nhà; góc vờn
trớc nhà, bốn mùa rau nối nhau tơi tốt.
2. Hình dáng ngôi nhà : Nơi Bác ở và làm việc là một ngôi nhà gác nhỏ đợc
thiết kế nh kiểu nhà sàn của đồng bào Việt Bắc. Nhà làm bằng gỗ, mái lợp
ngói, bốn bề lộng gió.
3. Diện tích sử dụng : Khoảng hơn 70 m 2. Ngôi nhà sàn đó chỉ có vẻn vẹn
vài phòng để tiếp khách, họp Bộ Chính trị, làm việc và ngủ.
4. Đồ đạc trong nhà hết sức mộc mạc, đơn sơ :
a) Phòng họp, phòng tiếp khách chỉ có một bộ bàn ghế, lọ hoa, bộ ấm
chén uống nớc.
b) Phòng làm việc có một bộ bàn ghế nhỏ, một chiếc máy chữ, một chiếc
đài phát thanh Liên Xô cũ để Bác nghe tin tức, đặc biệt tin từ miền Nam và
giúp Bác đỡ cảm thấy cô quạnh trong đêm vắng...
c) Đến thăm phòng ngủ của Bác càng thơng Bác hơn: chiếc giờng nhỏ bằng
gỗ thờng, mộc mạc không mùi sơn, trên trải chiếu cói, một chiếc gối vải đà sờn
cũ. Trên gối, chiếc quạt nan nằm lặng lẽ. Chiếc quạt nan này đà từng thức cùng

vị Chủ tịch trong bao đêm hè oi ả, lòng nặng những lo toan việc nớc. Góc
phòng, bộ quần áo kaki bạc màu giản dị đợc treo gọn gàng trên móc áo. Trên
ngực áo không có một tấm huân chơng, nhng bên trong lần áo vải là một trái
tim nóng bỏng, sáng ngời. Dới chân giờng, đôi dép cao su mòn gót xếp ngay
ngắn. Đôi dép ấy đà từng theo chân Bác đi suốt ngàn dặm đờng đất nớc.
5. Bác sống ở đó, một mình, với một t trang Ýt ái, mét chiÕc vali con víi vµi
vËt kỉ niệm của một cuộc đời dài, rộng và bất tử.
C. Kết bài
- Nơi ở của Bác, vị lÃnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nớc, đơn sơ, giản dị
nh câu chuyện về một vị thần tiên trong thần thoại, cổ tích.
- Nơi ở của Ngời là do chính Ngêi lùa chän, sù lùa chän Êy gióp chóng ta
hiĨu thêm phong cách Hồ Chí Minh, tinh hoa của dân tộc Việt Nam.
đề số 3
Em hÃy đóng vai là những đồ dùng cá nhân của Bác tự giới thiệu về mình.
Bài làm

-

2

-


Bác Hồ đà yên nghỉ, nhng ngày ngày, dòng ngời vào lăng viếng Bác vẫn nối
dài từ sáng đến chiều. Đến thăm nhà Bác ở, ngời ta trầm ngâm trớc từng di
vật đơn sơ, mộc mạc đà gắn bó với Bác trong suốt cả cuộc đời. Dờng nh đoán
biết đợc ý nghĩ, lòng mong muốn của đồng bào, du khách, những đồ vật đÃ
cất lên tiếng nói tự giới thiệu về mình để du khách hiểu thêm về Bác. Chúng
ta hÃy cùng nghe họ tự thuật nhé.
- Chúng tôi là những đồ dùng cá nhân của Bác Hồ. Chúng tôi đợc sống bên

Bác, đợc phục vụ, chăm sóc Bác và đợc Bác yêu mến nâng niu nh những đứa
cháu nhỏ. Chúng tôi gồm : quần áo, giày dép, mũ nón... Chúng tôi sống rất hoà
thuận, luôn bên nhau và luôn bên Bác.
Tôi thuộc dòng họ Quần áo. Họ hàng nhà chúng tôi có hai loại vải đợc Bác
thờng dùng là vải ka ki màu trắng đục và vải lụa màu nâu. áo ka ki cúc cài
kín cổ, vạt buông, có bốn túi lớn, hai túi trên ngực và hai túi ở hai vạt trớc. Anh
chàng này thờng đợc Bác mặc khi đi công tác ở nớc ngoài, khi ngoại giao, tiếp
khách, hoặc khi Bác đi dự những hội nghị, hội thảo quan trọng trong nớc và
quốc tế... Còn tôi, quần áo vải nâu, đợc may rộng nh kiểu quần áo của bà con
nông dân. Tôi đợc chăm sóc Bác thờng xuyên hơn, đợc Bác mặc khi đi thăm
đồng ruộng, gặp gỡ bà con nông dân, các bạn thiếu niên nhi đồng, lúc ở nhà,
khi làm việc trong phòng riêng, lúc tới cây... Bác thơng yêu, nâng niu, đối xử
với chúng tôi bằng tất cả tấm lòng của một Con Ngời. Có khi chúng tôi bị sờn
rách, các cô chú phục vụ định thay áo mới cho Bác, Bác biết, Bác không chịu,
Bác nói vải hÃy còn mới hÃy may vá lại cho Bác mặc. Chúng tôi cảm động đến
nghẹn ngào trớc tấm lòng và phong cách sống vô cùng giản dị của một vị lÃnh
tụ.
Tôi thuộc họ giày dép. Cùng với quần áo, tôi cũng rất vinh dự vì luôn đợc đi
theo Bác. Tôi đợc làm bằng chất liệu cao su, màu đen, có 4 quai, hai quai chéo
ở phía trên và hai quai ngang ở phía dới. Họ hàng chúng tôi, hàng vạn hàng
triệu đôi dép nh thế đà từng theo bớc những chiến sĩ, thanh niên xung phong
chống Pháp rồi chống Mĩ trên khắp các chiến trờng Nam Bắc. Riêng tôi sung
sớng hơn là đợc ở bên Bác, phục vụ, chăm sóc Bác, đợc theo Bác đi trên mọi nẻo
đờng.
Còn tôi là mũ lá. Chúng tôi tuy Bác dùng ít hơn, nhng cũng là nhiều lắm
đối với những ai không đợc ở bên Bác. Họ hàng nhà mũ chúng tôi cũng có hai
loại: mũ cốt vải và mũ lá. Mũ cốt vải làm bằng vải kaki màu xanh hoặc màu
trắng đục. Anh chàng này thờng đợc Bác đội khi đi chiến dịch, khi thăm hỏi
đồng bào, chiến sĩ... Còn tôi, mũ lá đợc làm bằng lá cọ, lá nón. Tôi đợc Bác
dùng khi đi xuống nhà máy, công xởng, khi ra đồng cùng với bà con nông dân

gặt lúa, tát nớc chống hạn hoặc xuống biển với ng dân kéo lới...
Tôi nữa, tôi là khăn len. Tuy tôi chỉ đợc theo Bác vào mùa đông nhng cũng
đợc Bác nâng niu, yêu mến lắm. Tôi đợc dệt bằng sợi len, rộng chừng 30 cm,
dài chừng 1,2m, hai đầu khăn thắt tua rua bay nhè nhẹ mỗi khi gió thổi. Nếu
trời không giá rét quá, tôi đợc Bác quàng quanh cổ Bác. Trời lạnh, tôi đợc Bác
choàng lên đầu. Tôi rất sung sớng vì đợc giúp ích cho Bác.
Chúng tôi là những đồ vật rất bình thờng, mộc mạc, đơn sơ, giản dị, nhng Bác đà chọn chúng tôi. Không những thế, Bác còn yêu thơng, gìn giữ,
nâng niu chúng tôi. Điều đó làm chúng tôi vô cùng sung sớng và hạnh phúc. Vì
vậy, chúng tôi sống bên Bác, đem hơi ấm cho Ngời, bảo vệ Ngời khỏi những
cơn thất thờng của thời tiết, làm mềm sỏi đá dới những nẻo đờng bàn chân
Ngời đi qua. Chúng tôi tuy nhỏ bé nhng chúng tôi tự hào vì đà giúp ích cho
Bác, góp phần làm nên một phong cách Hồ Chí Minh.

-

3

-


Khi vào thăm nhà Bác, đứng nhìn chúng tôi, nhiều ngời đà khóc. Chắc họ
đang nghĩ đến Bác và cảm ®éng tríc tÊm lßng bao la réng lín, lèi sèng giản
dị thanh cao của Ngời.
đề số 4
Em hÃy viết một bài văn giới thiệu phong cách Hồ Chí Minh dới dạng cuộc
đối thoại giữa một bạn học sinh trong nớc và một bạn học sinh Việt kiều đang
chuẩn bị vào lăng viếng Bác.
Bài làm
Tại khuôn viên trớc lăng Bác, có hai bạn học sinh, một bạn là Việt kiều mới về
thăm quê vào lăng viếng Bác. Họ gặp nhau, làm quen với nhau và sau đây là

câu chuyện thú vị giữa họ.
- Xin chào bạn !
- Chào bạn !
- Mình tên là H. , rất vui đợc làm quen với bạn.
- Mình tên là M. , rất vui đợc làm quen với bạn.
- Mình xa Việt Nam từ năm 2 tuổi, nay mới có dịp về thăm quê, đợc vào
lăng viếng Bác. Mình rất muốn đợc hiểu thêm về Bác, về phong cách của Bác.
M. có vui lòng làm hớng dẫn viên cho mình không?
- Mình rất sẵn lòng.
- Mình đợc biết, Hồ Chí Minh là một trong những nhân vật tiêu biểu nhất
của thế kỉ XX. Vậy bạn có thể nói rõ thêm cho mình biết về tầm vóc văn hoá
của Bác đợc không ?
- Bác Hồ không những là một vị lÃnh tụ thiên tài, nhà yêu nớc, nhà cách
mạng vĩ đại của dân tộc Việt Nam mà còn là một nhà văn hoá lớn của thế giới
thế kỉ XX. Hiếm có vĩ nhân nào trên thế giới đà hội tụ đợc danh hiệu Anh
hùng dân tộc và Danh nhân văn hoá thế giới nh UNESCO đà phong tặng Ngời.
Phong cách của Bác là sự kết hợp hài hoà giữa truyền thống và hiện đại; giữa
dân tộc và nhân loại; uyên thâm nhng lại rất Việt Nam; vĩ đại, thanh cao nhng vô cùng giản dị. Vẻ đẹp văn hoá chính là nét nổi bật trong phong cách Hồ
Chí Minh.
- Bạn nói, Bác Hồ là một danh nhân văn hoá thế giới, uyên thâm nhng lại rất
Việt Nam nghĩa là thế nào ? Vốn tri thức văn hoá sâu rộng của Bác đà đợc
hình thành ra sao ?
- Trong cuộc đời yêu nớc và hoạt động cách mạng của mình, Bác đà đi rất
nhiều nơi, có dịp tiếp xúc với văn hoá nhiều nớc, nhiều vùng trên thế giới, cả ở
phơng Đông và phơng Tây. Bôn ba khắp năm châu bốn biển để tìm đờng
cứu nớc, trên những con tàu vợt trùng dơng, Ngời đà ghé lại nhiều hải cảng, đÃ
thăm các nớc châu Phi, châu á, châu Mĩ. Năm 1911, Ngời đến Pháp, năm
1912 - 1913 Ngời sèng ë MÜ, tõ 1913 - 1917 ë Anh vµ sau đó Ngời lại trở lại
Pháp. Đến đâu, Ngời cũng ham mê tìm hiểu, học hỏi.
Để tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, con đờng quan trọng đầu tiên là

phải thông thạo ngoại ngữ. Ngời biết rất nhiều ngoại ngữ, nói và viết thạo
nhiều thứ tiếng nh tiếng Pháp, Anh, Hoa, Nga ... Ngêi viÕt b¸o b»ng tiÕng
Ph¸p, tiÕng Trung, sáng tác truyện ngắn bằng tiếng Pháp, sáng tác thơ bằng
tiếng Hán. Các tác phẩm nổi tiếng của Ngời nh: Bản án chế độ thực dân Pháp
- tác phẩm chính luận, các truyện ngắn Vi hành, Lời than vÃn của Bà Trng
Trắc, Những trò lố hay là Varen và Phan Bội Châu, tập thơ Nhật kí trong tù...
không chỉ có ý nghĩa chính trị, thời sự mà còn giàu giá trị nghệ thuật, có
sức sống lâu bền trong lòng ngời đọc.
Trong cuộc đời cách mạng đầy gian nan vất vả, Ngời đà từng phải làm
nhiều nghề để sống và hoạt động cách mạng nh bồi bàn, đầu bếp, viết sách
báo... Nhng cũng chính qua công việc, qua lao động, Ngời đà tìm hiểu, học

-

4

-


hỏi đợc rất nhiều điều bổ ích cho công tác cách mạng cũng nh để hình
thành nên phong cách Hồ Chí Minh.
- Vậy phong cách Hồ Chí Minh có phải là sự tổng cộng giản đơn tinh hoa
của các nền văn hoá thế giới không ? Bác đà tiếp thu các nền văn hoá nhân loại
nh thế nào ?
- ồ, câu hỏi của bạn thật là thú vị !... Có thể nói, ít có vị lÃnh tụ nào lại am
hiểu về các dân tộc và nhân dân thế giới, văn hoá thế giới sâu sắc nh Chủ
tịch Hồ Chí Minh. Đến đâu Ngời cũng học hỏi, tìm hiểu văn hoá, nghệ thuật
đến mức khá uyên thâm. Nhng điều quan trọng là Ngời không chịu ảnh hởng
thụ động mà tiếp thu một cách có chọn lọc tinh hoa văn hoá nớc ngoài. Một
mặt, Ngời chịu ảnh hởng của tất cả các nền văn hoá, tiếp thu mọi cái đẹp, cái

hay; mặt khác, Ngời cũng phê phán những hạn chế, tiêu cực. Những ảnh hởng
của văn hoá quốc tế đó đà nhào nặn với cái gốc văn hoá dân tộc không gì lay
chuyển đợc ở Ngời, để trở thành một nhân cách rất Việt Nam.
- Thật là kì diệu, một con ngời kì diệu !... Vậy còn lối sống, Bác sống, sinh
hoạt ra sao ?
- Là một lÃnh tụ có cơng vị cao nhất của Đảng và Nhà nớc nhng Bác có một
lối sống vô cùng bình dị, rất Việt Nam, rất phơng Đông.
Nơi ở và làm việc của Ngời hết sức đơn sơ. Lần đầu tiên trong lịch sử Việt
Nam và có lẽ cả thế giới, có một vị Chủ tịch nớc lấy chiếc nhà sàn bằng gỗ bên
cạnh chiếc ao nh cảnh làng quê quen thuộc làm ''cung điện" của mình. Chiếc
nhà sàn đó chỉ vẻn vẹn có vài phòng. Đó cũng là nơi tiếp khách, họp Bộ Chính
trị, đồng thời là nơi Bác làm việc và nhỉ ngơi.
T trang của Bác hết sức giản dị, ít ỏi : bộ quần áo bà ba nâu, chiếc áo trấn
thủ, đôi dép lốp thô sơ đà đợc một tác giả phơng Tây ca ngợi nh một vật thần
kì, một chiếc vali con đựng vài bộ quần áo ...
Việc ăn uống của Ngời cũng rất đạm bạc. Những món ăn dân tộc không chút
cầu kì nh cá kho, rau luộc, da ghém, cà muối, cháo hoa... là thức Bác a thích.
Ngời sống trong ngôi nhà đơn sơ ấy, một mình, với một vài t trang Ýt ái, vµi
vËt kØ niƯm nhá nhoi cđa một cuộc đời dài, đầy truân chuyên và giông bÃo
cách mạng. Có lẽ, hiếm có một vị lÃnh tụ, một vị tổng thống hay một vị vua
hiền ngày trớc lại sống đến mức giản dị nh Bác.
- Liệu lối sống giản dị quá nh vậy ... có làm giảm vị thế ...
- à, mình hiểu ý bạn. Lối sống của Bác giản dị nhng lại vô cùng thanh cao,
sang trọng. Đây không phải là lối sống khắc khổ của những con ngời tự vui
trong cảnh nghèo khó, cũng không phải là cách tự thần thánh hoá, tự làm cho
khác đời, cho hơn ngời mà là một quan niệm sống đẹp có cội rễ từ các nhà
hiền triết phơng Đông xa : cái đẹp là sự giản dị, tự nhiên.
Cách sống của Bác gợi ta nhớ đến các sống của các vị hiền triết trong lịch sử
dân tộc nh Nguyễn TrÃi, Nguyễn Bỉnh Khiêm. Họ sống ở quê nhà với những thú
quê đạm bạc :

Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao...
Lối sống thanh cao đó cũng là một cách di dỡng tinh thần có khả năng đem
lại hạnh phúc, sự bình yên cho tâm hồn và thể xác con ngời.
Nói nh một chính khách Pháp, "Hồ Chí Minh là ngời mang tính cách á Đông
nhất, nhng cịng lµ ngêi cëi më nhÊt víi t tëng phơng Tây". Cốt lõi của phong
cách Hồ Chí Minh là sự kết tinh văn hoá dân tộc và tinh hoa văn hoá nhân loại.
Từ những năm 1923, khi gặp Ngời ở Maxcơva, nhà thơ Xô viết Ôxíp
Mandenstam đà dự cảm : "...Từ Nguyễn ái Quốc đà toả ra một thứ văn hoá,
không phải là văn hoá châu Âu, mà có lẽ là nền văn hoá của tơng lai". Năm
1990, UNESCO tổ chức lễ kỉ niệm 100 năm ngày sinh của Bác. Trong bài phát

-

5

-


biểu của Tiến sĩ M. Amed, giám đốc UNESCO khu vực châu á - Thái Bình Dơng có đoạn : "Hồ Chí Minh đà thành công trong việc liên kết nhiều sắc thái
văn hoá vào một nền văn hoá Việt Nam duy nhất. Ngời đà làm đợc việc này
nhờ sự hiểu biết sâu sắc và tôn trọng những đặc điểm văn hoá khác nhau...
Cuộc đời của Ngời mang những ảnh hởng và giá trị truyền thống dân tộc, có
những đóng góp vào việc tạo nên một nền văn hoá hiện đại"... Tóm lại, chúng
ta tự hào vì có Bác...
- ...
- Bạn làm sao thế, bạn không đợc khoẻ phải không ? Bạn có cần tôi giúp gì
không ?
- Không ... mình không sao, mình khoẻ... Mình đang nghĩ, mình đà đợc
gặp một Ông Tiên. Một Ông Tiên ngoài đời thật chứ không phải trong truyện cổ

tích. Ông Tiên ấy đang ở gần đây, bên cạnh chúng mình. Mình thật sung sớng
và cảm động. Cảm ơn bạn, ngời đồng hành đầy hiểu biết. Bây giờ chúng
mình hÃy xếp hàng vào lăng viếng Bác nhé. Mai đây, hễ có dịp, mình sẽ lại
xin bố mẹ về thăm quê, vào lăng viếng Bác. Chúng mình sẽ còn gặp lại nhau
chứ ?
- Nhất định là nh vậy rồi. Nào, chúng mình cùng đi gặp Tiên Ông thôi !
đề số 5
Em hÃy tóm tắt những luận điểm, luận cứ chính của văn bản Đấu tranh cho
một thế giới hoà bình.
Bài làm
1. Luận điểm chính : Chiến tranh hạt nhân là một hiểm hoạ khủng khiếp
đang đe doạ loài ngời và sự sống trên trái đất, vì vậy nhiệm vụ cấp bách của
toàn thể nhân loại là đoàn kết đấu tranh để loại bỏ nguy cơ Êy.
2. HƯ thèng ln cø :
- Kho vị khÝ h¹t nhân đang tàng trữ có khả năng huỷ diệt, xoá bỏ mọi dấu
vết của sự sống trên trái đất và các hành tinh khác trong hệ mặt trời.
- Cuộc chạy đua vũ trang vô cùng tốn kém đà làm mất đi cơ hội cải thiện
đời sống cho hàng tỉ ngời nghèo khổ nhất trên thế giới. Những con số cụ thể,
những ví dụ so sánh trong các lĩnh vực xà hội, y tế, tiếp tế thực phẩm, giáo
dục... với những chi phí khổng lồ cho chạy đua vũ trang đà cho thấy tính chất
cực kì phi lí của việc chạy đua vũ trang.
- Chiến tranh hạt nhân không chỉ đi ngợc lại lí trí của loài ngời mà mà còn
đi ngợc lại với quy luật của tự nhiên, phản lại sự tiến hoá.
- Vì vậy, tất cả chúng ta phải có nhiệm vụ ngăn chặn cuộc chiến tranh hạt
nhân, đấu tranh cho một thế giới hoà bình, vì một cuộc sống tốt đẹp hơn
cho tất cả mọi ngời.
đề số 6
Dựa vào văn bản Đấu tranh cho một thế giới hoà bình, em hÃy viết một văn
bản thuyết minh về nguy cơ chiến tranh hạt nhân (có sử dụng yếu tố miêu tả
và các biện pháp nghệ thuật).

Bài làm
Chiến tranh và hoà bình luôn là mối quan tâm hàng đầu của toàn nhân
loại bởi nó liên quan đến cuộc sống, sinh mệnh của hàng triệu con ngời và sự
còn mất của mỗi quốc gia. Lịch sử loài ngời gắn liền với nhiều cuộc chiến tranh
tàn khốc khiến nhân loại bao phen rơi vào cảnh máu chảy đầu rơi, nồi da nấu
thịt. Nguy cơ chiến tranh luôn đe doạ sự sống trên khắp hành tinh. Đặc biệt,
ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ của vũ khí hạt nhân đà trở thành mối hiểm
hoạ khủng khiếp nhất đe doạ toàn bộ sự sống, loài ngời trên trái đất.

-

6

-


Trong thế kỉ XX, nhân loại đà phải trải qua hai cuộc chiến tranh thế giới vô
cùng khốc liệt và nhiều cuộc chiến tranh dân tộc, sắc tộc khác, làm thiệt
mạng hàng trăm triệu ngời, làm bánh xe lịch sử quay chậm lại hàng trăm năm.
Chiến tranh thế giới thứ hai đà kết thúc cách đây sáu mơi năm, nhng nguy
cơ chiến tranh vẫn luôn tiềm ẩn. Đặc biệt, đó cũng là thời điểm đánh dấu
sự ra đời của ngành công nghiệp hạt nhân mà sự tiến bộ ghê gớm của nó đÃ
có tầm quan trọng quyết định đối với vận mệnh thế giới sau này. Năm 1945
ấy, cũng là năm Mĩ đà ném xuống Nhật Bản hai quả bom nguyên tử làm hơn
40 vạn ngời chết, biến hai thành phố đông dân Hi-rô-xi-ma và Na-ga-da-ki
thành đống đổ nát, gây kinh hoàng cho toàn thế giới.
Kể từ đó, cuộc chạy đua vũ trang, cuộc chiến tranh hạt nhân chính thức
bắt đầu, loài ngời hằng ngày luôn bị đặt trớc nguy cơ tuyệt diệt.
Chỉ cần một vài ví dụ và làm một phép tính đơn giản nh nhà văn Côlôm-bi-a, Gác-xi-a Mac-két, chúng ta đà có thể hình dung loài ngời đang ở
trên bờ vực thẳm nh thế nào. Theo Mac-két, tính đến ngày 8/8/1986, hơn

50.000 đầu đạn hạt nhân đà đợc bố trí khắp hành tinh. Nói một cách nôm
na, điều đó có nghĩa là tất cả mọi ngời trên trái đất, không trừ ngời già, trẻ
con, mỗi ngời đang ngồi trên một thùng 4 tấn thuốc nổ. Chỉ cần bấm một cái
nút, tất cả khối thuốc nổ đó nổ tung lên, làm tiêu biến hết thảy không phải
một lần mà là mời hai lần mọi dấu vết của sự sống trên trái đất, tiêu diệt tất
cả các hành tinh đang xoay quanh mặt trời và bốn hành tinh khác nữa, phá
huỷ thế thăng bằng của hệ mặt trời.
Sự sống đợc nhen nhóm và tồn tại trên trái đất này không hề dễ dàng.
Cũng theo G. Mac-két, cha nói những gì to lớn, chỉ lấy những sự vật, sự việc
nhỏ bé làm bằng chứng, chúng ta đà thấy rất rõ. Từ khi có sự sống trên Trái Đất,
phải trải qua 380 triệu năm con bớm mới bay đợc, 180 năm nữa hoa hồng mới nở
chỉ để làm đẹp cho đời. Theo nhà văn Nguyễn Tuân, một giọt mật mà con
ong làm ra là kết quả của 2.700.000 chuyến bay đi tìm hoa hút mật, một nửa
lít mật ong là kết qủa của dặm đờng lao động miệt mài 8.000.000 cây số
mới có đợc... Huống hồ những toà nhà chọc trời, những cánh đồng xanh mát,
những cây cầu vững chÃi là mồ hôi công sức của hàng triệu ngời ... Vậy mà,
chỉ trong tích tắc, tất cả những thành tựu khó khăn và nhọc nhằn đó có thể
biến thành tro bụi.
ĐÃ có nhiều thảm hoạ hạt nhân nh các vụ nổ nhà máy hạt nhân ở Nga
(Trécnôbn), ấn Độ... làm hàng nghìn ngời chết, gây ô nhiễm môi trờng
nghiêm trọng. Đáng tiếc là, sau những thảm hoạ ấy, cuộc chạy đua vũ trang
vẫn tiếp tục, các nhà máy sản xuất vũ khí hạt nhân vẫn không ngừng mọc lên
trên thế giới; các loại vũ khí hạt nhân nh tàu ngầm, tên lửa, máy bay tối tân
hiện đại vẫn không ngừng đợc bổ sung ... Nhân loại vẫn từng ngày từng giờ
phải đối mặt với nguy cơ bị huỷ diệt bởi vũ khí hạt nhân.
Thế giới cũng đà có những cố gắng để giảm bớt mối đe doạ này, chẳng
hạn các hiệp ớc cắt giảm vũ khí tiến công chiến lợc đợc kí kết giữa Liên Xô
(nay là Liên bang Nga) với Mĩ. Nhng chiến tranh và hiểm hoạ hạt nhân vẫn
luôn là mối đe doạ to lớn và thờng xuyên đối với các dân tộc, các quốc gia và
toàn thể loài ngời. Xung đột và chiến tranh vẫn diễn ra hàng ngày ở nhiều

nơi, nhiều khu vực trên thế giới, gần đây nhất là cuộc chiến của Mĩ, Anh ở
Irắc, cuộc xung đột đẫm máu kéo dài giữa Ixraen và Palextin, chủ nghĩa
khủng bố hoành hành khắp nhiều nơi. Các nhà máy hạt nhân ở ấn Độ,
Pakistan, Iran, Triều Tiên, Trung quốc... luôn là nguyên nhân của những cuộc
tranh cÃi, đàm phán gay gắt, không kết quả. Vì vậy, nhận thức đúng về
nguy cơ chiến tranh và tham gia vào cuộc đấu tranh cho hoà bình là yêu cầu
đặt ra cho mỗi công dân trên hành tinh.

-

7

-


Chúng ta đang sống trong thời đại hoàng kim của khoa học kĩ thuật và
công nghệ. Song, chúng ta cũng đang phải từng giây từng phút đối mặt với
chiến tranh hạt nhân có nguy cơ bùng nổ bất cứ lúc nào. Bởi vậy, con ngời
không thể thờ ơ trớc vận mệnh của chính mình và vận mạng của toàn thể
nhân loại. Điều chúng ta có thể làm đợc là, mỗi ngời cần phải ý thức sâu sắc
đợc nguy cơ tiềm ẩn đó, cùng nhau đoàn kết đấu tranh ngăn chặn nó, vì
một thế giới hoà bình và hạnh phúc.
đề số 7
Chạy đua vũ trang là đi ngợc lại lí trí của con ngời và quy luật của tự nhiên.
I. Tìm hiểu đề
- Đề bài này chỉ có một mệnh đề, không có câu mệnh lệnh, không nêu rõ
kiểu đề, yêu cầu thực hiện. Các em tự phải xác định vấn đề cần bàn và
kiểu văn bản thích hợp để làm sáng tỏ vấn đề đó.
- Kiểu đề : Nghị luận kết hợp với thuyết minh.
- Phạm vi kiến thức cần sử dụng : Văn bản Đấu tranh cho một thế giới hoà

bình và những thông tin xác thực về tác hại của chiến tranh mà em đợc biết.
II. Dàn ý
A. Mở bài
- Chiến tranh đồng nghĩa với đau thơng, chết chóc, đổ máu và huỷ diệt.
- Chạy đua vũ trang là đua nhau tăng cờng vũ khí để chuẩn bị chiến
tranh.
- Chạy đua vũ trang là đi ngợc lại lí trí của con ngời và tự nhiên.
B. Thân bài
1. Chạy đua vũ trang là đi ngợc lại lí trí của con ngêi
a) Chi phÝ cho viƯc s¶n xt vị khÝ hạt nhân vô cùng tốn kém, tốn kém
đến mức cực kì phi lí.
b) Chi phí tốn kém đó đà làm mất đi khả năng để con ngời đợc sống tốt
đẹp hơn.
- Theo Tuyên bố của Hội nghị cấp cao thế giới về trẻ em năm 1990, hằng
ngày có vô số trẻ em khắp nơi trên thế giới phải chịu bao nỗi bất hạnh vì là
nạn nhân của chiến tranh và bạo lực; hàng triệu trẻ em phải chịu đựng những
thảm hoạ của đói nghèo, dịch bệnh, mù chữ, môi trờng xuống cấp. Mỗi ngày có
tới 40.000 trẻ em chết do suy dinh dỡng và bệnh tật.
- Năm 1981, UNICEF đà định ra một chơng trình để cứu trợ cấp bách về y
tế, tiếp tế thực phẩm và nớc uống, xoá nạn mù chữ, cải thiện điều kiện vệ
sinh cho 500 triệu trẻ em nghèo khổ nhất thế giới. Để thực hiện đợc chơng
trình này phải cần tới 100 tỉ đô la, nhng tất cả đà tỏ ra là một giấc mơ không
thể thực hiện đợc bởi số tiền quá lớn. Trong khi đó, số tiền này chỉ gần bằng
chi phí cho 100 máy bay ném bom chiến lợc B.1B của Mĩ và 7.000 tên lửa vợt
đại châu.
- Giá của 10 chiếc tàu sân bay mang vũ khí hạt nhân đủ để thực hiện
một chơng trình phòng bệnh trong 14 năm cho hơn một tỉ ngời, cứu hơn 14
triệu trẻ em châu Phi thoát khỏi cái chết.
- Chỉ hai chiếc tàu ngầm mang vũ khí hạt nhân là đủ tiền xoá nạn mù chữ
cho toàn thế giới, vv...

Điều mong muốn lớn nhất của tất thảy con ngời trên trái đất này là sự sống
sinh sôi, cuộc đời của con ngời ngày càng tốt đẹp hơn lên. Nhng, cuộc chạy
đua vũ khí hạt nhân đà đi ngợc lại mong muốn, khát vọng của con ngời. Cha
nói đến việc chiến tranh hạt nhân bùng nổ, chỉ sự tồn tại của vũ khí hạt
nhân không thôi cũng đà gieo vào lòng chúng ta nỗi ám ảnh khủng khiếp về
"cái cảnh tận thế" do những bệ phóng hạt nhân mang lại, khiến chúng ta luôn

-

8

-


sống trong nỗi lo lắng, bất an. Chi phí quá tốn kém cho việc sản xuất vũ khí
hạt nhân đà làm mất đi của thế giới nhiều điều kiện để cải thiện cuộc sống,
cớp đi nhiều cơ hội để cứu giúp hàng tỉ ngời, đặc biệt là trẻ em, thoát khỏi
nghèo đói, bệnh tật và chết chóc.
2. Chạy đua vũ trang là đi ngợc lại lí trí của tự nhiên
a) Lí trí của tự nhiên có thể hiểu là quy lt cđa tù nhiªn, logÝc tÊt u cđa
tù nhiªn.
b) ChiÕn tranh hạt nhân không chỉ đi ngợc lại lí trí của con ngời, tiêu diệt
loài ngời mà còn phản lại sự tiến hoá của tự nhiên, huỷ diệt mọi sự sống trên
trái đất.
- Sự sống ngày nay trên trái đất là kết quả của một quá trình tiến hoá lâu
dài hàng trăm triệu năm của tự nhiên với biết bao cuộc hoài thai nhọc nhằn,
đau đớn. Theo G. Mac-két, cha nói những gì to lớn, chỉ lấy những sự vật, sự
việc nhỏ bé, từ khi có sự sống trên Trái Đất, phải trải qua 380 triệu năm con bớm mới bay đợc, 180 năm nữa hoa hồng mới nở chỉ để làm đẹp cho đời. Theo
Nguyễn Tuân, một giọt mật mà con ong làm ra là kết quả của 2.700.000
chuyến bay đi tìm hoa hút mật, một nửa lít mật ong là kết qủa của dặm đờng lao động miệt mài 8.000.000 cây số mới có đợc...

- Nhng nếu chiến tranh hạt nhân nổ ra, chỉ cần một tích tắc, tất cả
những thành tựu khó khăn và nhọc nhằn đó sẽ bị xoá sạch dấu vết; mọi thành
quả của quá trình tiến hoá tự nhiên sẽ trở lại điểm xuất phát ban đầu hoặc
biến thành tro bụi vì những phát minh vĩ đại của chính con ngời. Nh vậy,
chiến tranh hạt nhân chính là sự phản lại quy luật và sự tiến hoá của thế giới
tự nhiên. Năm 1945, Mĩ ném hai quả bom nguyên tử xuống Hi-rô-xi-ma và Naga-da-ki thuộc Nhật Bản, biến hai thành phố đông dân này trở về thời kì
hồng hoang là một ví dụ tiêu biểu.
C. Kết bài
- Cuộc chạy đua vũ khí hạt nhân là một tai hoạ khủng khiếp đối với sự
sống, loài ngời.
- Đấu tranh ngăn chặn chiến tranh hạt nhân, vì một thế giới hoà bình, vì
cuộc sống ấm no hạnh phúc của con ngời là nhiệm vụ của tất cả chúng ta.
đề số 8
Văn bản "Đấu tranh cho một thế giới hoà bình" của G.Mac-ket là một bài
văn nghị luận sinh động.
I. Tìm hiểu đề
- Đề bài này cũng chỉ có một mệnh đề, không có câu mệnh lệnh, không
nêu rõ kiểu đề, yêu cầu thực hiện. Các em tự phải xác định vấn đề cần bàn
và kiểu văn bản thích hợp để làm sáng tỏ vấn đề.
- Kiểu đề : Nghị luận.
- Yêu cầu : Bằng lí lẽ và dẫn chứng, em phải phân tích, chứng minh, đánh
giá làm sáng tỏ vấn đề : Văn bản Đấu tranh cho một thế giới hoà bình có phải
là một bài văn nghị luận sinh động hay không.
II. Dàn ý
A. Mở bài
- G. Mác-két nổi tiếng là tác giả của nhiều tiểu thuyết và truyện ngắn đợc viết theo khuynh hớng hiện thực huyền ảo. Ông là nhà văn châu Mĩ Latinh
đà đoạt giải Nô-ben văn học năm 1982. Qua tác phẩm của mình, Mác-két đÃ
từng đấu tranh không mệt mỏi vì hoà bình và hạnh phúc của con ngời và sự
sống trên trái đất.
- Đấu tranh cho một thế giới hoà bình là một bài văn nghị luận sinh động.

Bằng lập luận chặt chẽ, chứng cứ phong phú, xác thực ; bằng trái tim nhiệt
huyết của một nhà văn vì hoà bình, hạnh phúc của con ngời, Mác-két đÃ

-

9

-


phân tích làm rõ nguy cơ chiến tranh hạt nhân đang đe doạ sự sống con ngời, kêu gọi mọi ngời hÃy đoàn kết, đấu tranh ngăn chặn, xoá bỏ nguy cơ đó.
B. Thân bài
1. Đấu tranh cho một thế giới hoà bình là một văn bản nghị luận bởi tác giả
đà đặt ra một vấn đề và bàn bạc, nêu quan điểm của mình về vấn đề đó.
Luận điểm chính mà tác giả nêu ra trong bài viết này là : "Chiến tranh hạt
nhân là một hiểm hoạ khủng khiếp đang đe doạ loài ngời và sự sống trên trái
đất, vì vậy nhiệm vụ cấp bách của toàn thể nhân loại là đoàn kết đấu
tranh để loại bỏ nguy cơ ấy".
2. Để làm sáng tỏ vấn đề và thuyết phục ngời đọc, tác giả đà triển khai
luận điểm đó trong một hệ thống luận cứ sắc bén, toàn diện, mạch lạc và
chặt chẽ :
a) Kho vũ khí hạt nhân đang tàng trữ có khả năng huỷ diệt, xoá bỏ mọi dấu
vết của sự sống trên trái đất và các hành tinh khác trong hệ mặt trời.
b) Cuộc chạy đua vũ trang vô cùng tốn kém đà làm mất đi cơ hội cải thiện
đời sống cho hàng tỉ ngời nghèo khổ nhất trên thế giới. Những con số cụ thể,
những vÝ dơ so s¸nh trong c¸c lÜnh vùc x· héi, y tế, tiếp tế thực phẩm, giáo
dục... với những chi phí khổng lồ cho chạy đua vũ trang đà cho thấy tính chất
cực kì phi lí của việc chạy đua vũ trang.
c) Chiến tranh hạt nhân không chỉ đi ngợc lại lí trí của loài ngời mà mà còn
trái với quy luật tự nhiên, phản lại sự tiến hoá.

d) Vì vậy, tất cả chúng ta phải có nhiệm vụ ngăn chặn cuộc chiến tranh hạt
nhân, đấu tranh cho một thế giới hoà bình, vì một cuộc sống tốt đẹp hơn
cho tất cả mọi ngời.
3. Đấu tranh cho một thế giới hoà bình giàu sức thuyết phục và gây đợc ấn
tợng mạnh vì Mác-két đà sử dụng nghệ thuật lập luận chặt chẽ, sắc bén kết
hợp với chứng cứ phong phú, xác thực, cụ thể.
a) Để cho thấy tính chất hiện thực và sự khủng khiếp của nguy cơ chiến
tranh hạt nhân, tác giả đà bắt đầu bài viết bằng việc nêu cụ thể thời gian
(hôm nay ngày 8-8-1986) và đa ra số liệu cụ thể đầu đạn hạt nhân với một
phép tính rất đơn giản, rất dễ hiểu : 50.000 đầu đạn hạt nhân chia bình
quân cho đầu ngời trên thế giới, mỗi ngời phải hứng chịu trung bình 4 tấn
thuốc nổ. Nếu chỗ thuốc nổ đó nổ tung lên sẽ làm tiêu biến hết thảy không
phải một lần mà là mời hai lần mọi dấu vết của sự sống trên trái đất, tiêu diệt
tất cả các hành tinh đang xoay quanh mặt trời và bốn hành tinh khác nữa,
phá huỷ thế thăng bằng của hệ mặt trời...
Cách vào đề trực tiếp, việc lựa chọn đợc những con số xác thực, rõ ràng
của tác giả đà thu hút ngay sự chú ý và gây ấn tợng mạnh đối với ngời đọc. Đọc
qua một lần, chúng ta có ngay cái cảm giác rùng mình về sự mong manh của
sự sống, con ngời trên trái đất ; về khả năng huỷ diệt ghê gớm của vũ khí hạt
nhân; về tính chất hệ trọng của nguy cơ chiến tranh hạt nhân.
b) Để làm rõ tính chất phi lí của cuộc chạy đua vũ trang, tác giả đà đa ra
hàng loạt so sánh hết sức thuyết phục giữa chi phí cho vũ khí hạt nhân với chi
phí cho các hoạt động cứu trợ, phát triĨn x· héi, y tÕ, tiÕp tÕ thùc phÈm, gi¸o
dơc, đặc biệt ở các nớc nghèo :
- Nếu bỏ khoản chi phí cho 100 máy bay ném bom chiến lợc B.1B của Mĩ
và 7.000 tên lửa vợt đại châu sẽ có đủ số tiền hơn 100 tỉ đô la để cứu trợ
cấp bách cho 500 triệu trẻ em nghèo khổ nhất thế giới.
- Giá của 10 chiếc tàu sân bay mang vũ khí hạt nhân đủ để thực hiện
một chơng trình phòng bệnh trong 14 năm cho hơn một tỉ ngời, cứu hơn 14
triệu trẻ em châu Phi thoát khỏi c¸i chÕt.


-

10

-


- Chỉ hai chiếc tàu ngầm mang vũ khí hạt nhân là đủ tiền xoá nạn mù chữ
cho toàn thế giới, vv...
Thế nhng, tất cả những chơng trình cứu trợ trên chỉ là giấc mơ bởi số
tiền đó đà đợc giành vào việc sản xuất ra những vũ khí giết ngời hàng loạt.
Chi phí quá tốn kém cho việc sản xuất vũ khí hạt nhân đà làm mất đi của
thế giới nhiều điều kiện để cải thiện cuộc sống, cớp đi nhiều cơ hội để cứu
giúp hàng tỉ ngời, đặc biệt là trẻ em, thoát khỏi nghèo đói, bệnh tật và chết
chóc...
Phép lập luận so sánh với những con số và hình ảnh biết nói đà thuyết
phục sâu sắc ngời đọc, khiến ngời đọc không khỏi sững sờ, ngạc nhiên trớc
một sự thật hiển nhiên nhng lại cực kì phi lí, phi lí nhng lại đang tồn tại trên
trái đất này.
c) Để làm sáng tỏ luận cứ Chạy đua vũ trang là đi ngợc lại lí trí của tự
nhiên, tác giả đà đa ra những chứng cứ từ khoa học địa chất và và cổ sinh
học về nguồn gốc, sự tiến hoá của sự sống trên trái đất là kết quả của một quá
trình tiến hoá lâu dài hàng trăm triệu năm: Phải trải qua 380 triệu năm con bớm mới bay đợc, 180 năm nữa hoa hồng mới nở chỉ để làm đẹp cho đời. Nhng
chỉ cần bấm nút một cái, tất cả những thành tựu khó khăn và nhọc nhằn đó sẽ
bị xoá sạch dấu vết, trở lại điểm xuất phát ban đầu hoặc biến thành tro bụi.
Từ đó, tác giả đi đến kết luận đầy thuyết phục: Chiến tranh hạt nhân không
những đi ngợc lại lí trí của con ngời mà còn phản lại quy luật và sự tiến hoá
của tự nhiên.
d) Sau khi chỉ ra một cách rõ ràng về hiểm hoạ hạt nhân, phần kết bài

cũng là thông điệp mà tác giả muốn gửi tới loài ngời : Tất cả mọi ngời hÃy cất
lên tiếng nói đòi hỏi một thế giới không có vũ khí và một cuộc sống hoà bình,
công bằng. Tiếng nói ấy, nếu vẫn không ngăn chặn đợc hiểm hoạ hạt nhân
thì chí ít nó cũng nói lên đợc ý nghĩ và nguyện vọng của loài ngời mong
muốn đợc sống trên trái đất này trong hoà bình, tình yêu và hạnh phúc.
Kết thúc bài viết, Mác-két nêu một đề nghị: Cần lập ra một ngân hàng lu
giữ trí nhớ để các thời đại sau có thể biết đợc đà từng có cuộc sống trên trái
đất này, trớc khi thảm hoạ hạt nhân xảy ra. Đề nghị của Mac-két có vẻ viễn tởng, hài hớc nhng điều ông quan tâm là chân thật, rằng : Nhân loại cần giữ
gìn kí ức của mình, lịch sử sẽ lên án những thế lực hiếu chiến đà đẩy nhân
loại đến thảm hoạ tuyệt diệt.
4. Đấu tranh cho một thế giới hoà bình giàu sức thuyết phục còn bởi cảm
xúc mÃnh liệt và nhiệt huyết chứa chan của tác giả. Một nhà văn thế kỉ XVIII
đà từng nguyền rủa thuốc súng nh một sự sáng tạo của quỷ sứ. Đến lợt Mác-két,
ông cũng nguyền rủa "những phát minh dà man nào, nhân danh những lợi ích
ti tiện nào" làm cho cuộc sống bị xoá bỏ khỏi vũ trụ này. Ông khẳng định :
"Trong thời đại hoàng kim này của khoa học, trí tuệ của con ngời chẳng có gì
để tự hào vì đà phát minh ra một biện pháp, chỉ cần bấm nút một cái là đÃ
đa cả quá trình vĩ đại và tốn kém của hàng bao nhiêu triệu năm trở lại điểm
xuất phát của nó"...
C. Kết bài
- Nh vậy, bằng lập luận sắc bén, chứng cứ phong phú, xác thực và nhiệt
huyết của một nhà văn vì hoà bình, hạnh phúc của con ngời, Mác-két đà nêu
ra một cách rõ ràng, đầy sức thuyết phục về mối hiểm hoạ hạt nhân đối với
nhân loại ; chØ râ sù tèn kÐm v« cïng phi lÝ cđa cuộc chạy đua vũ trang; từ đó
thức tỉnh và kêu gọi mọi ngời phải hành động để ngăn chặn nguy cơ chiến
tranh hạt nhân, đấu tranh vì một thế giới hoà bình.
- Đấu tranh cho một thế giới hoà bình là một bài văn nghị luận xuất sắc
của G. Mac-két.

-


11

-


đề số 9
Em hÃy tóm tắt văn bản Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền đợc bảo
vệ và phát triển của trẻ em đợc trích in trong Ngữ văn 9, tập I.
bài làm
Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền đợc bảo vệ và phát triển của trẻ
em năm 1990 đà nêu rõ thực trạng cuộc sống của trẻ em trên thế giới hiện nay,
tầm quan trọng của vấn đề chăm sóc, bảo vệ trẻ em và sự quan tâm sâu
sắc của cộng đồng quốc tế đối với vấn đề bảo vệ, chăm sóc trẻ em.
Văn bản Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền đợc bảo vệ và phát triển
của trẻ em in trong Ngữ văn 9 là một phần trích từ điều 1 đến điều 17 của
văn bản trên , chia làm 4 phần :
Phần 1 (điều 1 và 2) khẳng định quyền đợc sống, quyền đợc phát triển
của trẻ em, kêu gọi khẩn thiết cả nhân loại hÃy quan tâm và hành động để
bảo đảm tất cả những quyền lợi này cho trẻ em.
Phần 2 (điều 3 - 7) nêu lên những thách thức trong việc bảo đảm các
quyền lợi của trẻ em. Đó là thực trạng cuộc sống đói nghèo, cực khổ trên nhiều
mặt của trẻ em, tình trạng trẻ em bị rơi vào những hiểm hoạ khôn lờng, tình
trạng trẻ em không đợc chăm sóc, bảo vệ...
Phần 3 (điều 8 - 9) chỉ ra những cơ hội, những điều kiện thuận lợi cơ
bản giúp cho các quyền của trẻ em đợc thực hiện tốt. Đó là sự liên kết, nhất trí
của cộng đồng quốc tế trong vấn đề chăm sóc và bảo vệ trẻ em; là sự hợp tác
và đoàn kết quốc tế trong nhiều lĩnh vực tạo điều kiện thuận lợi cho việc
đảm bảo các quyền và phúc lợi cho trẻ em.
Phần 4 (điều 10-17) nêu lên một cách cụ thể, toàn diện nhiệm vụ cấp thiết

của cộng đồng quốc tế và từng quốc gia trong việc bảo vệ các quyền của trẻ
em. Đó là, tăng cờng sức khoẻ và chế độ dinh dỡng cho trẻ em, trẻ em tàn tật
hoặc có hoàn cảnh sống đặc biệt khó khăn phải đợc quan tâm đặc biệt ; trẻ
em phải đợc học hết bậc giáo dục cơ sở; đảm bảo quyền bình đẳng giữa trẻ
nam và trẻ nữ; khuyến khích trẻ em tham gia các hoạt động văn hoá, xà hội...
đề số 10
Dựa vào văn bản Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền đợc bảo vệ và
phát triển của trẻ em, em hÃy viết một văn bản thuyết minh (có sử dụng yếu tố
miêu tả và nghị luận) về thực trạng cuộc sống của trẻ em trên thế giới hiện nay.
Dàn ý
A. Mở bài
- Trẻ em là tơng lai của mỗi dân tộc và của toàn nhân loại. Trẻ em có quyền
đợc sống, quyền đợc bảo vệ và quyền đợc phát triển.
- Nhng thực tế cuộc sống tuổi ấu thơ của trẻ em lại không hoàn toàn nh
vậy.
B. Thân bài
1. Trẻ em có quyền đợc sống và đợc đáp ứng các nhu cầu cơ bản để tồn tại
nh đợc nuôi dỡng, đợc chăm sóc sức khoẻ... Nhng trong thực tế, theo thế giới
Tuyên bố về sự sống còn của trẻ em..., hằng ngày có hàng triệu trẻ em phải
chịu đựng thảm hoạ của đói nghèo, khủng hoảng kinh tế, tình trạng vô gia c,
dịch bệnh, mù chữ, môi trờng xuống cấp... Hơn 500 triệu trẻ em nghèo khổ
nhất thế giới không có những điều kiện thiết yếu để tồn tại nh thiÕu thùc
phÈm, níc ng, thiÕu thc ch÷a bƯnh... ë nhiều nớc đang phát triển, đặc
biệt những nớc kém phát triển nhất ở châu Phi, trẻ em đang phải chịu tác
động nặng nề của nợ nớc ngoài, của tình hình kinh tế không giữ đợc mức
độ tăng trởng đều đặn hoặc không có khả năng tăng trởng.

-

12


-


- Mỗi ngày có tới 40.000 trẻ em chết do suy dinh dìng, bƯnh tËt, kĨ c¶ héi
chøng suy gi¶m miễn dịch (HIV, AIDS) hoặc do thiếu nớc sạch, thiếu vệ sinh
và do tác động của vấn đề ma tuý. TØ lƯ tư vong cđa trỴ em nãi chung, trỴ sơ
sinh nói riêng ở nhiều nơi trên thế giới hiện nay, theo Tuyên bố thế giới... cao
đến mức không thể chấp nhận đợc.
- Việt Nam là nớc thứ hai trên thế giới kí và phê chuẩn Công ớc của Liên hiệp
quốc về quyền trẻ em. Đảng và Nhà nớc ta đà cố gắng rất nhiều trong việc xoá
đói, giảm nghèo, đảm bảo quyền đợc sống cho trẻ em. Tuy nhiên, ở một số
vùng nông thôn và miền núi khó khăn vẫn còn rất nhiều trẻ em thiếu ăn, suy
dinh dỡng, không đợc chăm sóc về mặt y tế.
2. Trẻ em có quyền đợc bảo vệ khỏi mọi hình thức phân biệt đối xử, bị
bỏ rơi, bị bóc lột và xâm hại. Nhng trong thực tế, cũng theo Tuyên bố thế giới
về quyền đợc bảo vệ của trẻ em, hằng ngày có vô số trẻ em khắp nơi trên thế
giới bị phó mặc cho những hiểm hoạ khôn lờng. Chiến tranh vẫn nổ ra liên
miên trên khắp thế giới. Cuộc chiến ở Cô-sô-vô, Nam T; cuộc chiến tranh của
Mĩ và Anh ở Irắc; cuộc chiến ở Ap-ga-nis-tan; các cuộc xung đột ở Trung
Đông; chủ nghĩa khủng bố hoành hành khắp nơi... đà biến trẻ em thành nạn
nhân của chiến tranh và bạo lực, thậm chí, ở một số nớc châu Phi, ngời ta
tuyển mộ cả trẻ em vào quân đội, tay lăm lăm súng ống giáp mặt với giết
chóc...
Bên cạnh đó, hàng triệu trẻ em là nạn nhân của nạn phân biệt chủng tộc,
chế độ Apácthai, nạn khủng bố, bắt giữ con tin... mà gần đây nhất là vụ
khủng bố đẫm máu ở một trờng học nớc Nga (Beslan) làm hàng trăm trẻ em bị
giết, hàng trăm trẻ em sống sót trong nỗi kinh hoàng khôn tả...
Cũng do chiến tranh và tình hình chính trị phức tạp, nhiều trẻ em trở
thành ngời tị nạn, phải từ bỏ gia đình sống tha hơng để trốn tránh nỗi hiểm

nguy. Có nhiều trẻ em tàn tật đà trở thành nạn nhân của sự lÃng quên, ruồng
bỏ, hoặc bị đối xử tàn nhẫn, bị bóc lột.
ở Việt Nam, đây đó, chúng ta vẫn có thể chứng kiến cảnh trẻ em bị đánh
đập, xâm hại, bị lôi kéo vào con đờng nghiện hút, bị bắt buộc làm việc
nặng quá sức, bơ vơ không ai chăm sóc do cha mẹ li hôn...
3. Trẻ em có quyền đợc đáp ứng các nhu cầu cho sự phát triển một cách
toàn diện nh đợc học tập, đợc vui chơi giải trí, đợc tham gia các hoạt động
văn hoá, thể thao... Nhng trong thùc tÕ hiƯn nay, cã h¬n 100 triƯu trẻ em
không đợc đến trờng hoặc cha trải qua giáo dục cơ sở.
C. Kết bài
- Thực trạng cuộc sống của trẻ em trên thế giới hiện nay là một thách thức lớn
đối với cộng đồng quốc tế, là mối quan tâm sâu sắc của lơng tâm loài ngời.
- Các quyền của trẻ em cần phải đợc tôn trọng và thực hiện một cách đầy
đủ, có trách nhiệm.
- Mỗi học sinh chúng ta hÃy bằng khả năng và hành động thực tiễn của
mình, phát huy tinh thần tơng ái tơng trợ, yêu thơng giúp đỡ, nhờng cơm xẻ áo
cho những bạn nhỏ gặp hoàn cảnh khó khăn cũng là một hình thức hữu hiệu
góp phần bảo vệ quyền lợi của trẻ em.
đề số 11
Suy nghĩ của em về tầm quan trọng của vấn đề bảo vệ, chăm sóc trẻ em,
về sự quan tâm của cộng đồng quốc tế, chính phủ Việt Nam và chính
quyền địa phơng các cấp đối với trẻ em hiện nay.
I. Tìm hiểu đề
- Kiểu bài : Nghị luận
- Yêu cầu : Em có thể dựa vào văn bản Tuyên bố thế giới... trong Ngữ văn 9
và những hiểu biết của em về vấn đề này để làm bài. Đề bài cho phép và

-

13


-


khun khÝch suy nghÜ cđa riªng em. Tuy nhiªn, em nên làm rõ đợc một số ý
cơ bản sau.
II. Dàn ý
A. Mở bài
- Bảo vệ, chăm sóc trẻ em là một trong những nhiệm quan trọng hàng đầu
của mỗi quốc gia, dân tộc bởi "Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai" (UNESCO).
B. Thân bài
1. Tầm quan trọng của vấn đề bảo vệ, chăm sóc trẻ em
a) Tơng lai của mỗi dân tộc và của toàn nhân loại phụ thuộc vào sự chăm
sóc, giáo dục thế hệ trẻ ; phụ thuộc vào sức khoẻ, trí tuệ, năng lực... của thế
hệ trẻ. Trong "Th gửi học sinh nhân ngày khai trờng", Bác Hồ viết: "Non sông
Việt Nam có trở nên vẻ vang hay không, dân tộc Việt Nam có đợc vẻ vang sánh
vai các cờng quốc năm châu đợc hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công
học tập của các cháu". Trẻ em là ngời sẽ quyết định tơng lai, vị thế của mỗi
dân tộc trên trờng quốc tế.
b) Qua vấn đề bảo vệ, chăm sóc trẻ em, chúng ta có thể nhận ra đợc trình
độ văn minh và phần nào bản chất của một xà hội.
2. Sự quan tâm của cộng đồng quốc tế, chính phủ Việt Nam, chính
quyền địa phơng và các tổ chức xà hội đối với trẻ em hiện nay.
a) Vấn đề bảo vệ, chăm sóc trẻ em đang đợc cộng đồng quốc tế quan
tâm thích đáng :
- Năm 1989, Công ớc Liên hiệp quốc về quyền trẻ em ra đời đà ghi nhận các
quyền cơ bản của trẻ em nh các nhóm quyền sống còn, nhóm quyền bảo vệ,
nhóm quyền phát triển và nhóm quyền tham gia. Công ớc này thể hiện sự tôn
trọng và quan tâm của cộng đồng quốc tế đối với trẻ em, là điều kiện cần
thiết để trẻ em đợc phát triển đầy đủ trong bầu không khí hạnh phúc, yêu thơng và thông cảm.

- Năm 1990, Tuyên bố thế giới... đà đề ra những nhiệm vụ cụ thể và toàn
diện nhằm bảo vệ và chăm sóc trẻ em cùng với một bản kế hoạch hành động
khá chi tiết trên từng mặt cơ bản. Tuyên bố này một lần nữa thể hiện sự quan
tâm thích đáng của cộng đồng quốc tế đối với các quyền lợi và tơng lai của
trẻ em.
b) Vấn đề bảo vệ, chăm sóc trẻ em đợc chính phủ Việt Nam đặc biệt
quan tâm. Việt Nam là nớc thứ hai trên thế giới kí và phê chuẩn Công ớc của
Liên hiệp quốc về quyền trẻ em. sau Hội nghị cấp cao thế giới về trẻ em năm
1990, Hội đồng Bộ trởng nớc Cộng hoà xà hội chủ nghĩa Việt Nam đà quyết
định Chơng trình hành động vì sự sống còn, quyền đợc bảo vệ và phát
triển của trẻ em Việt Nam từ năm 1991 đến 2000, đặt thành một bộ phận
của chiến lợc, kế hoạc phát triển kinh tế, xà hội của đất nớc.
c) Trên cơ sở đờng lối, chiến lợc phát triển đó, chính quyền địa phơng
các cấp đà vạch kế hoạch, hành động cụ thể nhằm đảm bảo các quyền lợi của
trẻ em nh các chính sách hỗ trợ kinh tế đối với trẻ em nghèo để các em có thể
đến trờng, quan tâm xây dựng cơ sở vật chất, trờng học, thiết bị dạy học...
để nâng cao chất lợng giáo dục, kêu gọi các tổ chức xà hội và nhân dân
đóng góp xây dựng trờng lớp, giúp đỡ trẻ em khuyết tật, đóng góp quỹ vì ngời nghèo, vì trẻ em bị nhiễm chất độc màu da cam, khuyến khích mở các lớp
học tình thơng, các trung tâm bảo trợ trẻ em mồ côi, tàn tật, lang thang không
nơi nơng tựa...
3. Suy nghĩ của em về sựu quan tâm của cộng đồng quốc tế, các chính
quyền địa phơng đối với vấn đề quyền lợi của trẻ em :
(Gợi ý : Em có vui và hoan nghênh những nỗ lực cố gắng của cộng đồng
quốc tế, chính phủ Việt Nam... về vấn đề này hay không ? Vì sao ? ý kiến

-

14

-



®Ị xt cđa em, nÕu cã, ®Ĩ chÝnh phđ, chÝnh quyền địa phơng nơi em
sinh sống thực thi tốt hơn việc bảo đảm quyền lợi cho trẻ em ?)
C. Kết bài
- Vấn đề bảo vệ, chăm sóc trẻ em đà ®ỵc céng ®ång qc tÕ nãi chung,
chÝnh phđ ViƯt Nam, các cấp chính quyền địa phơng và các tổ chức xà hội
Việt Nam nói riêng ý thức đầy đủ và có kế hoạch hành động cụ thể, thiết
thực.
- Để xứng đáng với sự quan tâm, chăm sóc ấy, mỗi học sinh chúng ta cần
phải không ngừng nỗ lực vơn lên trong học tập và rèn luyện để có thể gánh
vác trọng trách là ngời chủ tơng lai của nớc nhà sau này.
đề số 12
Em hÃy tóm tắt văn bản Chuyện ngời con gái Nam Xơng trong 15 đến 20
dòng.
I. Tìm hiểu đề
- Kiểu đề : Tóm tắt văn bản tự sự.
- Yêu cầu : Tóm tắt cô đọng trong 15 - 20 dòng. Đây là một văn bản dài,
em phải tìm các sự kiện, chi tiết cơ bản nhất để qua 15 dòng này có thể
dựng lại đầy đủ nội dung, diễn biến chính của câu chuyện.
II. Bài làm
Xa có chàng Trơng Sinh, vì chiến tranh loạn lạc bị bắt đi lính, bỏ lại mẹ
già và ngời vợ trẻ ngoan hiền tên là Vũ Nơng đang bụng mang dạ chửa. Mẹ Trơng Sinh vì quá nhớ thơng chàng mà ốm chết, Vũ Nơng hết lòng chăm sóc rồi
lo ma chay chu tất cho bà. Giặc tan, Trơng Sinh trở về. Vốn tính đa nghi,
nghe lời trẻ thơ không suy xét, Trơng Sinh nghi Vũ Nơng không chung thuỷ,
mắng đuổi nàng đi. Vũ Nơng bị oan bèn gieo mình xuống sông tự vẫn. Cho
đến một đêm, hai cha con ngồi bên đèn, đứa con chỉ chiếc bóng trên tờng
và nói đó là ngời đêm đêm đà đến với mẹ, Trơng Sinh mới biết vợ bị oan.
Phan Lang là ngời cùng làng với Vũ Nơng, do có ơn với thần rùa Linh Phi, khi chết
đuối đợc Linh Phi cứu mạng. Phan Lang gặp lại Vũ Nơng dới thuỷ cung. Khi

Phan Lang trở về trần gian, Vũ Nơng gửi chiếc hoa vàng cùng lời nhắn Trơng
Sinh. Trơng Sinh nghe Phan Lang kể, thơng nhớ vợ vô cùng, bèn lập đàn giải oan
trên bờ Hoàng Giang. Vũ Nơng trở về trên một chiếc kiệu hoa giữa dòng, đa tạ
chàng rồi biến mất.
đề số 13
Em hÃy đóng vai Vũ Nơng kể lại cuộc đời mình, có sử dụng yếu tố miêu
tả.
Tìm hiểu đề
- Kiểu bài : Kể chuyện có sử dụng yếu tố miêu tả.
- Yêu cầu : Sử dụng yếu tố miêu tả khi miêu tả khung cảnh và miêu tả nội
tâm để làm rõ hơn tâm trạng của Vũ Nơng trớc các sự kiện, biến cố của cuộc
đời nàng. Câu chữ có thể khác nhng nội dung thì phải trung thành tuyệt đối
với nguyên bản.
Bài làm
Tôi tên là Vũ Nơng, quê ở Nam Xơng. Mọi ngời trong làng yêu mến thờng
khen tôi là nết na, thuỳ mị, xinh đẹp. Họ cầu mong cho tôi sẽ lấy đ ợc một ngời chồng xứng đáng và đợc hởng hạnh phúc. Tôi đà gặp và thành vợ chàng Trơng. Chàng rất mực yêu thơng tôi, nhng lại cũng rất đa nghi. Biết vậy, tôi cố
gắng từ lời ăn tiếng nói cho đến hành động đều giữ đúng khuôn phép nên
gia đình luôn đợc êm ấm.

-

15

-


Cuộc sống của tôi đang êm ềm trôi qua thì chiến tranh xảy ra, chồng tôi
phải ghi tên tòng quân. Buổi tiễn chồng ra biên ải, lòng tôi trĩu nặng lo âu,
phiền muộn. Nghĩ chàng phải đi vào nơi gió cát nghìn trùng xa cách, đói rét,
bệnh tật, việc quân khó liệu, thế giặc khôn lờng, lòng tôi thơng chàng vô

hạn. Tôi không mong chàng lập công để đợc ấn phong hầu mà chỉ mong
chàng bình an trở về là tôi đà thoả nguyện. Giờ phút chia tay đà hết. Chàng
dứt áo ra đi, tôi thẫn thờ dõi theo bóng chàng, mắt nhoà lệ, lòng tái tê chua
xót.
Ngày tháng khắc khoải trôi qua. Trong lòng tôi, mùa xuân tơi vui bớm lợn
đầy vờn ; hay mùa đông giá băng ảm đạm, mây che kín núi cũng chỉ là một,
bởi nỗi nhớ chàng luôn đằng đẵng, thờng trực trong lòng. Đến kì sinh nở, tôi
sinh đợc một bé trai và đặt tên cháu là Đản. Nhng mẹ chồng tôi, vì nhớ thơng
con mà ốm đau mòn mỏi. Tôi đà hết lòng thuốc thang, động viên nhng vì
bệnh tình trầm trọng, cụ đà qua đời. Cảm động trớc tình mẫu tử thiêng liêng
mẹ dành cho chồng tôi, xót thơng mẹ vô hạn, tôi đà lo ma chay chu tất cho
mẹ.
Sau bao nhiêu chờ đợi mỏi mòn, nhớ thơng khôn xiết, cuối cùng Trơng Sinh
đà trở về. Tôi vô cùng sung sớng và hạnh phúc. Nhng cuộc đời, có ai mà đoán
trớc đợc số phận. Chàng về tới nhà, biết mẹ đà qua ®êi liỊn bÕ con ®i viÕng
mé mĐ. Lóc trë vỊ, chàng bỗng dng nổi giận la mắng om sòm. Chàng cho
rằng tôi đà phản bội chàng, không giữ tình yêu chung thuỷ với chàng. Tôi bàng
hoàng sửng sốt. Nớc mắt tôi ứa ra. Tôi vừa khóc thổn thức vừa giải thích :
"Thiếp vốn con nhà nghèo khó, đợc nơng tựa nhà giàu, vẫn lấy sự nết na thuỳ
mị, công dung ngôn hạnh làm đầu. Vợ chồng sum họp cha đợc bao lâu, chia
xa chỉ vì lửa binh chứ không vì lí do gì khác. Trong ba năm cách biệt, thiếp
một mực giữ gìn tiết hạnh, không tô son điểm phấn, không bén gót chốn
chơi bời, một mực nhớ thơng và chung thuỷ với chàng. Xin chàng hÃy tin thiếp,
đừng nghi oan cho thiếp mà tội nghiệp". Nhng bao nhiêu lời nói chân thành,
tha thiết cũng không làm chàng tin. Hàng xóm thơng tôi cũng bênh vực và
biện bạch giúp nhng rốt cuộc chẳng có kết quả gì. Chàng mắng nhiếc tôi
thậm tệ rồi đánh đuổi tôi đi. Lòng tôi đau đớn, xót xa, cay đắng đến
tuyệt vọng. Tôi đà nơng dựa vào chàng những mong có một gia đình đầm
ấm, hoà thuận, hạnh phúc. Nhng giờ đây, trâm gÃy bình tan, tình cảm vợ
chồng sứt mẻ. Dù vẫn thơng chồng, thơng con tha thiết, nhng tôi đâu còn

mặt mũi nào mà sống ở trên đời này thêm nữa. Nghĩ vậy, tôi bèn tắm gội
sạch sẽ rồi ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than rằng : "Con duyên
phận hẩm hiu, bị chồng con ruồng bỏ. Nếu con giữ gìn trinh tiết mà bị oan
thì khi thác xuống xin đợc làm Mị Nơng hoặc cỏ Ngu mĩ. Nếu con phản bội
chồng con thì chết đi xin làm mồi cho cá tôm, diều quạ và chịu để mọi ngời
phỉ nhổ". Sau đó, tôi gieo mình xuống sông tự vẫn. Thần linh thấu hiểu và
thơng tình đà cho các nàng tiên dới thuỷ cung cứu vớt, cho tôi nơng nhờ trong
cung điện của Linh Phi.
Xuống thiên cung, tôi gặp lại Phan Lang - ngời cùng làng. Nghe Phan Lang
kể gia cảnh chồng con tôi, nhà cửa, vờn tợc hoang vu, phần mộ mẹ cha cỏ gai
rợp mắt, lòng tôi xót thơng, ai oán. Đợc biết chàng Trơng đà hiểu dúng ngọn
ngành sự việc và vẫn thơng nhớ tôi, tôi rất vui, bối rối nhng lại cũng cảm thấy
tủi cực bởi mình vẫn cha đợc minh oan. Khi Phan Lang trở lại trần gian, tôi bèn
gửi cho Trơng Sinh một chiếc hoa vàng và nhắn chàng nếu còn nhớ tới chút
tình xa nghĩa cũ xin lập một đàn giải oan ở bến sông, tôi sẽ về. Trơng Sinh
liền làm theo. Tôi ngồi trên kiệu hoa về gặp chàng. Thấy tôi, chàng vội gọi.
Nhìn chàng và nghe tiếng chàng gọi, lòng tôi bồi hồi, xót xa khôn xiết. Nhng
giữa chúng tôi đà có một khoảng cách không sao hàn gắn đợc. Tôi cũng ®·

-

16

-


thề với đức Linh Phi nên không thể trở về nhân gian đợc nữa. Tôi tạ ơn chàng
đà lập đàn giải oan rồi quay lại thuỷ cung dù trong lòng còn bao l u luyến cõi
trần.
đề số 14

Em hÃy đóng vai Trơng Sinh kể lại cuộc đời mình, có sử dụng yếu tố miêu
tả.
Bài làm
Tôi là Trơng Sinh ở Nam Xơng, cùng quê với Vũ Nơng, sau này là vợ tôi. Câu
chuyện thơng tâm của gia đình tôi đà xảy ra cách đây mấy năm, nhng mỗi
lúc nghĩ đến, tôi vẫn thấy dờng nh mới chỉ xảy ra hôm qua.
Vũ Nơng là một cô gái nết na, thuỳ mị và xinh đẹp. Khuôn mặt nàng
thanh tú, đôi mắt đen dịu hiền, mái tóc dày óng mợt. Nàng đẹp một vẻ đẹp
dịu dàng, đằm thắm và phúc hậu. Tôi đem lòng yêu mến nàng nên đà xin
mẹ cới nàng về làm vợ. Nàng là một ngời vợ hiểu lễ giáo, phép tắc, nói năng
nhỏ nhẹ, một lòng thơng chồng, phụng dỡng mẹ già nên dù tôi có tính đa nghi
nhng gia đình tôi luôn đợc êm ấm.
Cuộc sống của chúng tôi đang êm ềm trôi qua thì chiến tranh xảy ra, tôi
phải ghi tên tòng quân. Buổi tiễn đa, nàng buồn rời rợi, lòng trĩu nặng lo âu,
phiền muộn. Nàng thơng tôi phải đi vào nơi gió cát nghìn trùng xa cách, đói
rét, bệnh tật. Nàng lo cho tôi rồi đây giáp mặt với giặc dữ, cận kề cái chết.
Nàng không mong tôi lập công đợc đeo ấn phong hầu mà chỉ mong tôi bình
an trở về. Tay nàng nắm chặt áo tôi chẳng rời, mắt nàng rng rng khiến tôi
cầm lòng không đợc. Giờ phút chia tay đà đến. Tôi dứt áo ra đi, nàng thẫn thờ
nhìn theo, mắt nhoà lệ. Tôi vừa đi vừa ngoái lại, bóng dáng nhỏ bé của ngời
vợ hiền dần khuất sau ngàn dâu xanh thẳm. Lòng tôi nhớ thơng, chua xót
không cùng.
Khi tôi đang ở nơi khói lửa chiến trờng thì Vũ Nơng đến kì đà sinh đợc
một bé trai. Cháu đợc đặt tên là Đản. Nhng mẹ tôi, vì quá nhớ thơng tôi mà
ốm đau mòn mỏi. Vũ Nơng đà thay tôi hết lòng thuốc thang, động viên nhng
vì bệnh tình trầm trọng, cụ đà qua đời. Hàng xóm kể lại, Vũ Nơng rÊt mùc
th¬ng xãt, lo ma chay chu tÊt nh cha mẹ đẻ. Nàng là một ngời trọn tình, vẹn
nghĩa, trọn đạo hiếu khiến tôi càng yêu thơng, nể phục.
Cuối cùng, tôi cũng đợc bình an trở về sau bao nhiêu gian khổ hiểm nguy.
Mấy năm xa cách nhớ thơng, nay đoàn tụ, vợ chồng mừng mừng, tủi tủi. Hay tin

mẹ qua đời, lòng tôi buồn khổ quá. Tôi hỏi thăm mộ mẹ rồi bế con đi viếng.
Dọc đờng, bé Đản khóc, tôi dỗ : "Nín đi con, bà mất, lòng cha buồn khổ lắm
rồi". Bé Đản liền nói tôi không phải là cha nó, cha nó là ngời trớc đây đêm nào
cũng đến bên mẹ. Tôi choáng váng. Đất dới chân tôi nh sụp xuống. Tôi cứ nghĩ
Vũ Nơng là một ngời vợ ngoan hiền, đức hạnh, ngờ đâu nàng trở nên h hỏng
nh vậy sao? Tôi bỗng thấy căm giận Vũ Nơng. Mối nghi ngờ trong tôi mỗi lúc
càng đợc thổi bùng lên, không có cách gì dập tắt đợc. Về đến nhà, tôi la
mắng om sòm cho hả giận. Vũ Nơng bàng hoàng sửng sốt. Nàng vừa khóc vừa
thanh minh : "Thiếp vốn con nhà nghèo khó, đợc nơng tựa nhà giàu, vẫn lấy sự
nết na thuỳ mị, công dung ngôn hạnh làm đầu. Vợ chồng sum họp cha đợc
bao lâu, chia xa chỉ vì lửa binh chứ không vì lí do gì khác. Trong ba năm
cách biệt, thiếp một mực giữ gìn tiết hạnh, không tô son điểm phấn, không
bén gót chốn chơi bời hoa liễu, một mực nhớ thơng và chung thuỷ với chàng.
Xin chàng hÃy tin thiếp, đừng nghi oan cho thiếp mà tội nghiệp...". Nhng bao
nhiêu lời nói chân thật cũng không làm dịu đợc mối nghi ngờ trong tôi. Hàng
xóm thơng Vũ Nơng cũng ra sức bênh vực và biện bạch cho nàng, nhng t«i

-

17

-


không nghe ai hết. Ngọn lửa hờn ghen đang đốt cháy mọi cảm xúc, ý nghĩ
của tôi. Tôi mắng nhiếc không tiếc lời rồi đánh đuổi nàng đi. Cảm thấy
không thể thuyết phục đợc tôi, Vũ Nơng bất đắc dĩ nói trong đau đớn, xót
xa, cay đắng rằng : nàng đà nơng dựa vào tôi là vì mong có một gia đình
đầm ấm, hạnh phúc. Nhng bây giờ, trâm gÃy bình tan, tình cảm vợ chồng
sứt mẻ, nàng không còn mặt mũi nào mà sống ở trên đời này thêm nữa. Rồi

nàng tắm gội sạch sẽ, ra bến Hoàng Giang than khóc, thề nguyền và gieo
mình xuống sông tự vẫn.
Về phần tôi, mối nghi ngờ không chỉ làm hại Vũ Nơng mà còn làm khổ tôi,
dằn vặt tôi không phút nào yên. Tuy giận Vũ Nơng thất tiết nhng khi nàng tự
vẫn, tôi cảm thấy lòng đau nhói. Tôi lang thang đi tìm vớt xác nàng nhng
không thấy tăm hơi. Hoá ra, lời thỉnh cầu của nàng đà linh nghiệm. Thần linh
thấu hiểu và thơng tình đà cho các nàng tiên dới thuỷ cung cứu vớt, cho nàng
nơng nhờ trong cung điện của Linh Phi.
Hai cha con tôi sống những ngày tháng cô đơn, buồn bà đằng đẵng. Một
đêm, phòng không vắng vẻ, tôi ngồi dới ngọn đèn khuya, bóng in trên vách. Bé
Đản thấy thế liền chỉ tay lên chiếc bóng và nói : "Cha Đản lại đến kia kìa!".
Tôi ngỡ ngàng rồi hiểu ra. Hỡi ơi, tôi đà hại chết Vũ Nơng rồi! Tôi đau đớn, ân
hận, xót xa, day dứt vô hạn. Bây giờ tôi mới hiểu vợ tôi bị oan, rằng nàng đÃ
chết trong nỗi oan ức và tuyệt vọng. Nhng việc đà lỡ rồi, tôi chẳng biết làm
gì hơn là đau khổ, buồn thơng, day dứt.
Một hôm, Phan Lang - ngời cùng làng tôi đến kể cho tôi nghe là đà gặp Vũ
Nơng dới thuỷ cung. Ban đầu tôi không tin, nhng khi chàng đa chiếc hoa vàng
cho tôi, tôi sửng sốt vì đó chính là vật vợ tôi đem theo lúc ra đi. Phan Lang
nói, Vũ Nơng vẫn cảm thấy tủi cực vì cha đợc minh oan, vẫn thơng nhớ chồng
con, đau xót ứa nớc mắt khi nghe kể cảnh buồn tủi của cha con tôi, cảnh nhà
cửa, vờn tợc hoang vu, phần mộ mẹ cha cỏ gai rợp mắt... Đợc biết nàng vẫn thơng nhớ chồng con, tôi rất vui. Lòng tôi chứa chan hi vọng đợc gặp lại nàng. Tôi
làm theo lời nhắn của nàng, lập một đàn giải oan ở bến sông, những mong
nàng sẽ tha thứ cho lỗi lầm của tôi mà trở về, để tôi có thể bù đắp lại những
đau khổ, thiệt thòi mà tôi đà gây ra cho nàng. Quả nhiên, Vũ Nơng đà trở
về. Giữa dòng Hoàng Giang mênh mông sóng nớc bỗng hiện lên một chiếc kiệu
hoa vàng lộng lẫy, rực rỡ. Nàng ngồi trên chiếc kiệu hoa ấy, mắt phợng mày
ngài, dáng vẻ thanh thoát, cử chỉ khoan thai nh một nàng tiên. Theo sau nàng,
hơn 50 chiếc xe cờ tán, võng lọng rực rỡ đầy sông, lung linh trong ánh nến
thoáng ẩn, thoáng hiện. Cả dòng sông nh một lâu đài nguy nga tráng lệ mà
nàng là ngời chủ lâu đài đó. Tôi vội gọi, khẩn thiết, chới với. Nàng nghe tiếng

tôi nhng cứ đứng giữa dòng, đôi mắt buồn thăm thẳm. Rồi nàng nói vọng
vào, cảm tạ tình tôi, nhng đà hứa với Linh Phi nên không trở về trần gian đợc
nữa. Tôi đau khổ quá mức, nhng còn biết làm sao đợc. Tuy vẫn còn thơng nhớ
nhau nhng cốc nớc đầy một khi đà đổ xuống đất thì dù có cố gắng thế nào
cũng không thể vớt lại cho đầy đợc. Giữa chúng tôi đà có những khoảng cách
không thể nào bù đắp.
Còn cha hết cay đắng, ngậm ngùi thì khói sơng đà phủ, bóng nàng loang
loáng mờ nhạt dần rồi biến mất.
Câu chuyện của tôi, những sai lầm của tôi là có thật. Tôi đà đánh mất
hạnh phúc của mình. Kể ra câu chuyện đau lòng này, tôi chỉ muốn mọi ngời
đừng xử sự nông nổi, cả giận mất khôn nh tôi. HÃy tin yêu con ngời, thực lòng
yêu thơng ngời thân để gia đình không rơi vào những bi kịch đau đớn.

-

18

-


đề số 15
Em hÃy liệt kê các yếu tố miêu tả có trong Chuyện ngời con gái Nam Xơng
và chọn phân tích giá trị biểu đạt của một trong số những yếu tố miêu tả
đó.
Dàn ý
1. Những yếu tố miêu tả trong Chuyện ngời con gái Nam Xơng :
- Vũ Nơng "tính đà thuỳ mị, nết na lại thêm t dung tốt đẹp".
- "Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét gửi ngời ải xa, trông liễu rủ bÃi
hoang, lại thổn thức tâm tình, thơng ngời đất thú !"
- "Ngày qua tháng lại, thoắt đà nửa năm, mỗi khi thấy bớm lợn đầy vờn,

mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn đợc."
- "Nay đà bình rơi trâm gÃy, mây tạnh ma tan, sen rị trong ao, liƠu tµn tríc giã; khãc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nớc thẳm
buồm xa, đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa."
- "Một đêm phòng không vắng vẻ, chàng ngồi buồn dới ngọn đèn khuya..."
- "Một đêm chiêm bao thấy ngời con gái áo xanh đến kêu xin tha mạng..."
- "Linh Phi bấy giờ mặc áo gấm dát ngọc, chân đi giày có vân nạm vàng,
cời bảo Phan Lang r»ng..."
- "Dù tiƯc h«m Êy cã v« sè những mĩ nhân quần áo thớt tha, mái tóc búi
xễ..."
- "Nhà cửa tiên nhân của nơng tử, cây cối thành rừng, phần mộ tiên nhân
của nơng tử, cỏ gai rợp mắt..."
- "Vũ Nơng ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, theo sau có
đến 50 chiếc xe cờ tán, võng lọng, rực rỡ đầy sông, lúc ẩn, lúc hiện."
- Rồi trong chốc lát, bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà biến đi mất...
2. Chọn phân tích giá trị biểu đạt của một yếu tố miêu tả trong trun.
(Gỵi ý : Em cã thĨ chän mét u tè miêu tả bất kì mà em cho là có giá trị
gợi hình, gợi cảm cao).
Ví dụ, em có thể chọn phân tích yếu tố miêu tả trong đoạn sau :
"Nay đà bình rơi trâm gÃy, mây tạnh ma tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trớc
gió; khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nớc thẳm
buồm xa, đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa".
- Cả đoạn này ý nói tình vợ chồng lâu nay gắn bó giữa Trơng Sinh và Vũ
Nơng giờ đà tan vỡ, hạnh phúc đà tiêu tan. Nhng Vũ Nơng không nói trực tiếp ý
đó mà mợn các hình ảnh mang tính biểu tợng để thể hiện sự việc và tâm
trạng của mình. Trâm gÃy bình tan thể hiện sự tan vỡ; mây tạnh ma tan gợi tả
tình cảm vợ chồng nguội lạnh; sen rũ trong ao liễu tàn trớc gió gợi tả sự tàn lụi
của tình yêu, hạnh phúc; khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én
lìa đàn gợi tả những cố gắng níu giữ hạnh phúc trong vô vọng... Tất cả
những hình ảnh đó đà diễn tả một cách ấn tợng và xúc động tâm trạng của
Vũ Nơng. Đó là nỗi đau đớn, luyến tiếc cuộc sống gia đình đầm ấm hạnh

phúc, là nỗi thất vọng đến tuyệt vọng trớc những oan trái của cuộc đời. Tuy là
thủ pháp ớc lệ của văn học trung đại, nhng do tài lựa chọn khéo léo, hợp tình
hợp cảnh nên các hình ảnh miêu tả trên vẫn có tác dụng gợi hình, gợi cảm cao.
Nếu không sử dụng các yếu tố miêu tả nh vậy, tâm trạng của Vũ Nơng không
đợc khắc hoạ sâu sắc, câu chuyện sẽ vì thế mà kém hẳn phần hấp dẫn.
đề số 16
Có ý kiến cho rằng, nguyên nhân cái chết của Vũ Nơng là do Trơng Sinh cả
ghen. ý kiến khác lại khẳng định, đó là do chiến tranh phong kiến... Suy
nghĩ của em về nguyên nhân cái chết của Vũ Nơng?
I. Tìm hiểu đề

-

19

-


- Kiểu bài : Nghị luận văn học.
- Yêu cầu : Em phải nắm vững nội dung, giá trị của tác phẩm, vận dụng
những hiểu biết đó để lí giải nguyên nhân cái chết của Vũ Nơng một cách
thoả đáng. Trong quá trình bộc lộ suy nghĩ, cách lí giải của mình phải kết
hợp bình luận, đối chiếu với hai cách lí giải đà nêu ở đầu bài.
II. Dàn ý
A. Mở bài
- Vũ Nơng, nhân vật chính trong "Chuyện ngời con gái Nam Xơng" là một
ngời phụ nữ nhan sắc, đức hạnh nhng cuộc đời lại chịu nhiều nỗi oan khiên,
ngang trái.
- Xung quanh nguyên nhân cái chết của Vũ Nơng có khá nhiều ý kiến
không thống nhất. Bài viết muốn nêu lên suy nghĩ của riêng em về nguyên

nhân cái chết oan khuất của ngời phụ nữ này.
B. Thân bài
1. Tóm lợc những sự kiện chính của truyện ; phân tích, khái quát những
nét chính về nhân vật Vũ Nơng:
a) Ngoại hình : dung nhan xinh đẹp.
b) Tính cách, phẩm chất :
- Nết na, thuỳ mị : nói năng nhỏ nhẹ, giữ gìn khuôn phép, lễ giáo, đợc
mọi ngời yêu mến.
- Đảm đang tháo vát, hiếu thảo, nhân hậu: một mình nuôi con; thơng
yêu, phụng dỡng mẹ chồng, ma chay chu tất, trọn đạo hiếu.
- Thuỷ chung son sắt : thơng chồng thơng con, giữ trọn phẩm tiết, một
lòng chung thuỷ chờ chồng.
- Trong sáng, ngay thẳng : bị oan khuất, tự vẫn để giải oan...
c) Một ngời phụ nữ xinh đẹp, phẩm hạnh nh vậy lẽ ra phải đợc hởng hạnh
phúc nhng lại có một kết cục thảm thiết. Vậy nguyên nhân nào dẫn đến cái
chết của Vũ Nơng ?
2. Nguyên nhân cái chết của Vũ Nơng :
a) Xung quanh cái chết của Vũ Nơng có rất nhiều cách lí giải khác nhau.
Hai ý kiến, một khẳng định do Trơng Sinh cả ghen, một cho rằng do chiến
tranh phong kiến đều có cơ sở. Tuy nhiên, mỗi ý kiến mới chỉ đúng ở một
khía cạnh.
b) Trơng Sinh cả ghen là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới cái chết của Vũ Nơng : nếu Trơng Sinh biết kìm chế nóng giận, sáng suốt suy xét, tin ở vợ chứ
không tin vào sự ngây thơ của con trẻ... kết cục sẽ khác.
c) Chiến tranh phong kiến là nguyên nhân gián tiếp dẫn đến cái chết của
Vũ Nơng. Có ngời nói, Vũ Nơng chết khi Trơng Sinh đà trở về, nh vậy không
thể nói là Vũ Nơng chết do chiến tranh đợc. Hiểu nh vậy là tách rời cái chết
của Vũ Nơng ra khỏi toàn bộ diễn biến câu chuyện. Chính Trơng Sinh phải đi
lính xa nhà nên mới xảy ra sự hiểu lầm đáng tiếc.
d) Ngoài ra, do con thơ vô tình hại mẹ, do Vũ Nơng yếu đuối, do lễ giáo
phong kiến khắt khe... cũng góp phần đẩy Vũ Nơng đến cái chết. Song, bao

trùm và sâu xa hơn cả, đó là do chế độ xà hội phong kiến đà không bảo đảm
đợc quyền sống, quyền hạnh phúc cho ngời phụ nữ. Số phận họ mỏng manh ;
tai hoạ, oan khiên có thể giáng lên đầu họ bất cứ lúc nào vì những lí do
không đâu mà không đợc bất kì sự bảo vệ nào. Chi tiết "cái bóng" rất ngẫu
nhiên, phi lí nhng chính cái ngẫu nhiên phi lí đó lại đà quyết định số phận
một con ngời. Nh vậy, bi kịch của Vũ Nơng đà vợt ra khỏi giới hạn bi kịch của
một gia đình. Đó là bi kÞch sè phËn cđa mét líp ngêi trong x· hội. Giá trị hiện

-

20

-


thực và giá trị nhân đạo của truyện cũng vì thế mà có tầm khái quát cao
hơn.
C. Kết bài
- Cái chết của Vũ Nơng gieo vào lòng ngời đọc nỗi thơng xót những ngời
phụ nữ bất hạnh trong xà hội cũ.
- Trong xà hội ta hôm nay, tuy phụ nữ đợc pháp luật bảo vệ, Đảng và Nhà nớc tạo diều kiện, nhng vẫn là giới chịu nhiều thiệt thòi, bất hạnh. Đó đây vẫn
còn cảnh những ngời vợ bị chồng tra tấn, đánh đập tàn nhẫn ; những cô gái
bị mua bán, dụ dỗ vào con đờng làm ăn bất lơng; những phụ nữ bị coi thờng,
rẻ rúng vì t tởng trọng nam khinh nữ... Bởi vậy, đấu tranh vì sự bình đẳng
nam nữ, sự phát triển của phụ nữ vẫn là cuộc cách mạng lớn của hôm nay. Yêu
thơng và giúp đỡ những phụ nữ bất hạnh là lơng tâm, trách nhiệm của tất cả
chúng ta.
đề số 17
Em hÃy tóm tắt văn bản Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh trong 10 dòng.
Bài làm

Chúa Trịnh (Trịnh Sâm) vốn ăn chơi xa xỉ đà cho xây dựng nhiều cung
điện, đình đài làm hao tốn rất nhiều tiền của.
Mỗi tháng ba bốn lần, Trịnh Sâm ra cung Thuỵ Liên bên bờ Hồ Tây để đi
chơi ngắm cảnh, binh lính, quan lại theo hầu đông đúc.
Chúa đi đến đâu, mọi thứ chim quý, thú lạ cho đến những cây cổ thụ
to lớn ... đều vơ vét sạch, sai quân lính khiêng về phủ bày biện.
Bọn hoạn quan nhờ gió bẻ măng, nửa đêm thờng lẻn vào nhà dân ăn trộm
cây hoa, chậu cảnh rồi buộc họ tội "đem giấu vật cung phụng" dậm doạ lấy
tiền, khiến ngời dân phải bỏ tiền của kêu xin, hoặc phá tan vờn hoa, cây
cảnh... để khỏi gặp tai hoạ.
đề số 18
Một đêm, bọn hoạn quan trong phủ chúa Trịnh đà lẻn vào một nhà dân ăn
trộm cây cảnh để doạ nạt kiếm tiền. Dựa vào văn bản Chuyện cũ trong phủ
chúa Trịnh, em hÃy đóng vai là một tên trong bọn chúng kể lại cảnh đó (có sử
dụng yếu tố tả cảnh và miêu tả nội tâm).
Tìm hiểu đề
- Kiểu đề : Kể chuyện kết hợp với miêu tả.
- Yêu cầu : Dựa vào các tình tiết chính trong văn bản "Chuyện cũ trong
phủ chúa Trịnh" kết hợp với tởng tợng, hình dung để miêu tả cụ thể hơn các
khung cảnh ăn trộm, tâm trạng của bọn hoạn quan và ngời dân bị doạ nạt tống
tiền.
Bài làm
Ta tên là Ngô Lại, hoạn quan trong phủ chúa Trịnh. Chúa Trịnh vốn là ng ời
ham mê vui chơi, thích ngao du ngắm cảnh và su tầm chim quý, thú lạ. Trong
những chuyến ngao du, hễ thấy nhà dân nào có đồ vật quý giá, ngài thờng
ra lệnh thu lấy bằng hết đem về bày biện trong phủ.
Theo đóm ăn tàn, nhờ gió bẻ măng, bọn ta, phần vì để lấy lòng Chúa,
phần vì muốn kiếm chác chút đỉnh nên nhân cơ hội này nghĩ ra nhiều
mánh hay để kiếm tiền và ra oai với lũ dân đen. Ta nghĩ, thú ăn chơi của
Chúa, mọi ngời đà biết cả rồi. Mà ý Chúa là tối thợng, ai dám chống lại? Ta cứ lẻn

vào bất cứ nhà nào có cây hoa chậu cảnh, chim tốt khiếu hay, nói là : "Tại sao
dám chống lại ý Chúa, giấu vật cung phụng? Ta vâng mệnh Chúa... thì hô...
hô... ta muốn làm gì mà chả đợc.

-

21

-


Khoái chí với ý nghĩ đó, ngày ngày bọn ta đi dò la xem nhà nào có đồ quý
thì biên ngay hai chữ "phụng thủ" (lấy để dâng lên Chúa). Đêm đến, ta sai
ngời lẻn vào lấy trộm. Sáng ra, ta xông thẳng vào gọi chủ nhà dậy quát nạt, vu
cho tội đem giấu vật cung phụng. Thế là vừa đợc của, vừa đợc tiền đút lót
chạy tội.
Một đêm tháng sáu oi ả, mây vần vũ trên bầu trời không trăng không sao
báo hiệu một cơn ma rào sắp tới. Lợi dụng lúc mọi nhà cửa đóng then cài im
ỉm để trốn chạy ma gió, bọn ta ăn vận đồng phục màu đen, nhẹ nhàng lẻn
qua tờng rào vào nhà một lÃo thầy đồ cuối xóm. Nhà này nghèo rớt nhng lại có
mấy chậu phong lan rất đẹp. Nghe đâu của học trò cũ làm việc trên mạn ngợc
mới về thăm, tặng thầy giáo cũ. Ban chiều, bọn ta đà ghé qua và biên giấy
"phụng thủ", hẹn ngày mai sẽ tới đem dâng Chúa. Còn bây giờ, ta đang đứng
dới hai giò phong lan. Ta vội vàng sai bọn lính mang đi rồi rón rén trèo trở ra.
Ơn trời, mọi sự đều trót lọt.
Tờ mờ sáng, khi cơn giông đà tạnh, ngôi sao mai còn vằng vặc phía cuối
trời, bọn ta đà băm bổ xông đến nhà lÃo thầy đồ. Bọn lính lên giọng quát tháo
:
- Cây cảnh đâu, đem phụng thủ !
Lúc ấy, cả nhà thầy đồ mới lục tục chạy ra. Họ dáo dác tìm kiếm, nhng mấy

giò phong lan tối qua còn đung đa dới dàn mớp hơng, nay đà không cánh mà
bay. Vợ thầy đồ mặt tái mét, miệng lẩm bẩm :
- Dạ bẩm quan... bẩm quan... Quả thực nhà con...
- Sao ? Mấy giò phong lan đâu ? Nhà chúng mày đà đem giấu rồi phải
không ?
- Dạ bẩm quan... oan cho chúng con, quả thật, tối qua chúng còn ở đây,
vậy mà sao ... hay là có kẻ nào đó đà lẻn vào ăn trộm...
Ta quắc mắt quát :
- Láo !.. Chúng mày can tội đem giấu vật cung phụng, làm trái lệnh Chúa,
tội đáng chết. Quân bay, giải cả nhà chúng nó về phủ cho ta !
LÃo thầy đồ tái mặt, đám trẻ la khóc om sòm, vợ lÃo ta run lẩy bẩy, quỳ mọp
xuống đất cầu xin :
- Bẩm, xin quan thơng chúng con. Quan là đèn trời soi xét, xin quan tìm
cách cứu giúp chúng con khỏi tai hoạ...
Ta khoái trá nhng cố nén cời và nói :
- Thôi đợc, nghĩ thơng gia cảnh nhà chúng mày cơ khổ, bần hàn, ta sÏ kªu
xin gióp cho. Cã bao nhiªu tiỊn trong nhà, chúng mày phải đem hết ra đây.
Con mẹ run rẩy, lật bật đi mở tráp. Tìm mÃi, tìm mÃi chỉ đợc mấy lạng bạc
lẻ. Không bõ. Ta cáu tiết liền sai sục sạo khắp nhà xem có gì đáng giá không.
Bọn lính khám xét hồi lâu, thu đợc thêm một chiếc l hơng bằng đồng, một
đôi đèn bạc trên bàn thờ. Món đồ cũng kha khá tiền đây ! Ta hài lòng sai
đem đi. Trớc khi đi, bọn lính còn tranh thủ vơ vét tất cả những gì có thể
dùng đợc trong tiếng khóc van ai oán, tức tởi của vợ con thầy đồ.
Trên đờng về phủ, ta hớn hở, chắc mẩm mấy giò phong lan kia đem ra chợ
bán cũng kiếm chác đợc ít nhiều. Tạ ơn Chúa Trịnh đà thơng lũ hoạn quan
chúng con nghèo khổ mà tạo cơ hội cho chúng con làm ăn. Cầu thần linh phù
hộ cho ngài và cho chúng con đêm mai lại hành động trót lọt, làm ăn thuận lợi.
đề số 19
Em thử tởng tợng mình là Trịnh Sâm tự kể lại ý thích, thói quen ăn chơi xa
xỉ của mình, có sử dụng yếu tố miêu tả.

Bài làm

-

22

-


Ta, Trịnh Vơng, thông minh sáng suốt, từng một tay dẹp yên các phe phái
đối lập, lập lại trật tự kỉ cơng xà hội. Nay, binh đao đà tắt, nớc nhà vô sự,
không còn việc gì phải lo lắng, ta chỉ thích ngao du sơn thuỷ,uống rợu,
ngâm thơ cho thoả chí. Ta đà cho xây dựng rất nhiều cung điện, đền đài.
Hiện nay, công việc xây dựng vẫn cứ liên tục, liên tục. Số lợng ngày một nhiều,
không lo thiếu chỗ ăn chơi. Công việc xây dựng tiêu tốn khá nhiều tiền của,
nhng không hề gì, miễn là ta thích.
Ta thờng xuyên ngự ở các li cung trên Tây Hồ, núi Tử Trầm, núi Dũng Thuý.
Đó là những cung điện nguy nga tráng lệ, lại rất nên thơ. Cứ mỗi tháng độ 3, 4
lần ta ra cung Thuỵ Liên trên bờ Tây Hồ ngắm cảnh. Hồ Tây mênh mông,
sóng gợn êm đềm, khói sơng bảng lảng khiến lòng ta vô cùng khoan khoái.
Thỉnh thoảng, bọn nhạc công ngồi trên gác chuông chùa Trấn Quốc hoặc dới
bóng cây một bến đá nào đó quanh hồ hoà vài khúc nhạc du dơng réo rắt,
trầm bổng, ta tởng nh đang lạc giữa chốn Bồng Lai tiên cảnh. Ta rất thích thú
với cảnh binh lính dàn hầu đông đúc vòng quanh bốn bề mặt hồ rộng lớn;
cảnh các nội thần, thái giám hoá trang đầu bịt khăn, mặc áo đàn bà, bày
bách hoá chung quang bờ hồ để bán. Thật vui, thật ngộ nghĩnh. Thuyền ngự
đi đến đâu, các quan hỗ tụng đại thần tuỳ ý ghé vào bờ mua các thứ nh ở
cửa hàng trong chợ. Thật là náo nhiệt. Suốt ngày ta chỉ nghĩ là nên đi đâu,
chơi trò gì, bày đặt ra trò giải trí gì để thoả sức hởng thụ. Các quan lại
trong triều tha hồ cung phụng, chiều theo ý thÝch cđa ta. Cc sèng ®èi víi ta

thËt dƠ chịu!
Ta có cái thú chơi cao sang là su tầm những đồ vật quý trong thiên hạ. Đi
đến đâu, cũng sai bọn hầu cận lùng sục trong dân chúng xem có cái gì
đáng giá là tịch thu ngay đem về phủ Chúa. Bao nhiêu những chim quý, thú
lạ, những phiến đá có hình thù kì lạ, chậu hoa cây cảnh ở chốn nhân gian
đều vào tay ta, không thiếu một thứ. Có khi ta lấy cả những cây đa to, cành
lá rờm rà cổ thụ, mọc trên đỉnh núi, phải sai hàng trăm tên mới khiêng nổi, lại
phải cho 4 đứa đi kèm, tay cầm gơm, tay đánh thanh la đốc thúc quân lính
khiêng đi cho đều tay.
Trong phủ ta, chỗ này bày hình núi non, sông nớc; chỗ kia vuốt hổ, ngà
voi... Nửa đêm thanh vắng, từ trong phủ vang lên tiếng vợn hót chim kêu, thú
gầm dữ dội ; khắp bốn bề lúc thì líu lo ríu rít, lúc thì ồn ào nh trận ma sa
gió táp, vỡ tổ tan đàn làm lay động đất trời. Dân chúng khắp nơi nô nức
truyền nhau, xem là sự lạ.
Ta làm bất cứ những gì mà ta thích. Bởi vì ta là một vị Chúa thông minh,
tài giỏi và có nhiều công lao nhất.
đề số 20
Em hÃy tóm tắt văn bản Hoàng Lê nhất thống chí, hồi thứ mời bốn một cách
đầy đủ, ngắn gọn.
Bài làm
Khi Quang Trung - Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc lần thứ hai để bắt Vũ
Văn Nhậm, sợ thanh thế Tây Sơn, sau khi Nguyễn Huệ đà rút về Phú Xuân,
vua Lê Chiêu Thống sợ hÃi sang cầu cứu triều đình MÃn Thanh. Giặc Thanh ồ ạt
kéo sang, nhân cơ hội này muốn thôn tính nớc ta làm quận, huyện. Đợc tin,
vua Quang Trung rất giận, bèn bàn bạc với tớng sĩ, sắp sẵn kế hoạch tiến
đánh, mở cuộc duyệt binh, đích thân an ủi và kêu gọi binh sĩ đoàn kết
đánh đuổi giặc ngoại xâm.
Quang Trung mở tiệc khao quân, chia quân thành 5 đạo, thân hành cầm
quân ra trận, tối 30 tết lên đờng, hẹn ngày mồng 7 tết sẽ mở tiệc ăn mừng
thắng lợi ở kinh thành Thăng Long.


-

23

-


Quân Tây Sơn ra đến sông Gián, quân giặc trấn thủ ở đó tan vỡ, toán
quân Thanh đi do thám bị bắt sống hết. Nửa đêm mồng 3 tết Kỉ Dậu
(1789), vua Quang Trung tới Hà Hồi, Thợng Phúc, lặng lẽ vây kín thành. Quân
giặc bấy giờ mới biết, rụng rời sợ hÃi xin hàng.
Mờ sáng ngày mồng 5 tết, quân Tây Sơn dàn trận "chữ nhất" tiến sát
đồn Ngọc Hồi. Quân Thanh chống cự không nổi, bỏ chạy tán loạn, giẫm đạp
lên nhau mà chết. Tớng giặc là Sầm Nghi Đống phải thắt cổ tự tử. Phía đông
thành Thăng Long, vua Quang Trung nghi binh dồn giặc xuống đầm Mực, cho
voi giày đạp khiến quân giặc kinh hồn bạt vía, chết nh ngả rạ. Giữa tra hôm
ấy, quân Tây Sơn tới thành Thăng Long. Tổng đốc Tôn Sĩ Nghị đang vui
yến tiệc, nghe tin cấp báo, sợ mất mật. Tớng sĩ chen chúc, giẫm đạp lên nhau
chạy trốn về nớc. Vua Lê Chiêu Thống cũng hốt hoảng chạy trốn sang Trung
Quốc. Quân Tây Sơn toàn thắng trớc sự đại bại của quân Thanh.
đề số 21
Hình ảnh ngời anh hùng dân tộc Quang Trung - Nguyễn Huệ qua văn bản
Hoàng Lê nhất thống chí, Hồi thứ mời bốn.
I. Tìm hiểu đề
- Kiểu bài : Nghị luận văn học.
- Yêu cầu : Phân tích, miêu tả hình tợng ngời anh hùng dân tộc Nguyễn
Huệ qua đoạn trích hồi thứ mời bốn.
II. Dàn ý
A. Mở bài

- Trong lịch sử các triều đại Việt Nam, Quang Trung là một vị vua văn võ
toàn tài, có công lao lớn trong sự nghiệp đánh đuổi giặc ngoại xâm.
- Nhân vật lịch sử đó đà đi vào văn chơng nh một hình ảnh đẹp. Đoạn
trích Hồi thứ mời bốn, Hoàng Lê nhất thống chí đà làm toát lên vẻ đẹp hào
hùng của ngời anh hùng áo vải trong chiến công lẫy lừng đại phá quân Thanh.
B. Thân bài
1. Quang Trung là một vị vua yêu nớc thơng dân
a) Nếu Lê Chiêu Thống là một ông vua hèn hạ, sẵn sàng bán nớc để cứu vÃn
cái ngai vàng sắp sụp đổ của mình thì Quang Trung là một vị vua đầy khí
phách. Khi nghe tin quân Thanh kéo sang thôn tính nớc ta, vua Quang Trung
"giận lắm, liền họp các tớng sĩ, định thân chinh cầm quân đi ngay".
b) Khi nói chuyện với quân lính, ông khẳng định chủ quyền của dân tộc
"đất nào sao ấy", chỉ rõ tội ác và âm mu xâm lợc của giặc, nêu cao truyền
thống đánh giặc giữ nớc của dân tộc ta từ thời Bà Trng, kêu gọi tớng sĩ "đồng
tâm hiệp lực để dựng nên công lớn".
Chỉ vài chi tiết nhỏ, tác giả đà gợi mở cho ngời đọc nhận rõ tấc lòng của
một vị vua vì nghĩa lớn.
2. Vua Quang Trung là ngời có trí tuệ sáng suốt, có tầm nhìn xa trông
rộng.
a) Ông rất sáng suốt trong việc nhận định thời cuộc. Ông không chỉ tính
sẵn "phơng lợc tiến đánh" mà còn tính sẵn cả kế hoạch ngoại giao sau khi
chiến thắng để "dẹp việc binh đao"; sáng suốt trong việc xét đoán và dùng
ngời, khen chê đúng ngời đúng việc. Lời phủ dụ quân lính của ông nh một
bài hịch ngắn, ý tứ chặt chẽ, sâu xa, có tác dụng khích lệ lòng yêu nớc của
nghĩa quân.
b) Quang Trung đặc biệt sáng suốt, nhạy bén trong việc dùng binh: Cuộc
hành binh thần tốc do nhà vua chỉ huy cho đến nay vẫn làm chúng ta không
khỏi kinh ngạc. Chỉ trong 5 ngày, ông vừa tuyển quân, vừa tỉ chøc ®éi ngị,

-


24

-


duyệt binh, vừa hành quân đi bộ từ Huế ra Thăng Long. Ông hoạch định
trong 7 ngày sẽ vào ăn mừng chiến thắng ở Thăng Long, nhng chỉ mới 5 ngày,
quân Thanh đà đại bại, quân Tây Sơn thắng lợi lẫy lừng. Tài dụng binh nh
thần đà chứng tỏ tầm vãc trÝ t phi thêng cđa ngêi anh hïng ¸o vải.
3. Vua Quang Trung là ngời có ý chí, hành động mạnh mẽ, quyết đoán. Từ
đầu đến cuối đoạn trích, ông luôn là một con ngời hành động, hành động
quả qut víi ý chÝ qut t©m cao.
a) Tõ khi nghe tin giặc kéo đến, chỉ trong vòng một tháng, nhà vua đÃ
làm đợc biết bao nhiêu việc : "tế cáo trời đất", lên ngôi vua, hành quân đánh
giặc...
b) Mới khởi binh đánh giặc đà hẹn chắc ngày mừng chiến thắng.
c) Quang Trung là một vị anh hùng lẫm liệt trong chiến trận.
a) Không chỉ ra trận trên danh nghĩa để khích lệ ba quân, hoàng đế
Quang Trung thân chinh cầm quân xông pha chốn tên bay đạn lạc. Ông là một
vị tổng chỉ huy trực tiếp trên chiến trờng: vừa vạch kế hoạch tác chiến, vừa
tổ chức quân sĩ, tự mình thống lĩnh một đạo quân, một mũi tiến công,
thân chinh chinh cỡi voi đi đốc thúc, xông lên phía trớc... Đối lập với Lê Chiêu
Thống đê hèn, một vị hoàng đế quyết hi sinh tính mạng để giành lại vận
mệnh dân tộc là một hình ảnh cao đẹp về sự quên mình vì nghĩa lớn.
b) Hình ảnh Quang Trung cỡi voi xông pha giữa trận mạc, áo bào sạm khói
súng, thống soái ba quân hiệp đồng tiến đánh tứ phía thành Thăng Long
khiến quân giặc kinh hồn bạt vía bỏ chạy tháo mạng... là một hình ảnh đầy
chất thơ.
c) Khung cảnh chiến trờng với khí thế thừa thắng tiến công rộng khắp của

quân Tây Sơn càng tôn lên vẻ đẹp của vị tổng chỉ huy tài giỏi, anh hùng.
C. Kết bài
- Vua Quang Trung trong đoạn trích là hình ảnh ngời sáng của một vị anh
hùng, tiêu biểu cho sức mạnh quật cờng của dân tộc Việt Nam.
- Hình tợng vua Quang Trung để lại trong lòng chúng ta niềm tự hào về
truyền thống đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm của nhân dân ta, cho ta
thêm yêu thêm quý và biết ơn những ngời đà có công lớn với đất nớc.
đề số 22
Sau khi học xong đoạn trích Hồi thứ mời bốn, Hoàng Lê nhất thống chí, em
có cảm nghĩ gì về nhân vật hoàng đế Quang Trung.
Tìm hiểu đề
- Kiểu đề : Nghị luận kết hợp với bộc lộ cảm xúc.
- Yêu cầu : Nêu đợc những cảm xúc và suy nghĩ cuả em về tính cách,
phẩm chất của nhân vật Quang Trung và nghệ thuật xây dựng nhân vật của
tác giả.
- Để thực hiện đợc yêu cầu trên cần phải :
1. Xác định các đặc điểm của nhân vật Quang Trung.
2. Nêu, phát biểu cảm nghĩ qua từng đặc điểm
3. Nêu nghệ thuật xây dựng nhân vật của tác giả.
(Xem thêm dàn ý đề số 21)
đề số 23
Dựa vào văn bản Hoàng Lê nhất thống chí, Hồi thứ mời bốn, kết hợp sử
dụng yếu tố miêu tả nội tâm, em hÃy đóng vai vua Quang Trung kể lại chuyện
đánh bại giặc Thanh xâm lợc.
Bài làm

-

25


-


×