Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Tài liệu 7 lưu ý về sử dụng vốn đầu tư pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.47 KB, 4 trang )

7 lưu ý về sử dụng vốn đầu tư







Trong điều kiện đặc biệt hiện nay, vai trò của Nhà nước trong việc kích
cầu đầu tư là rất cần thiết, tạo ra “vốn mồi” để kéo các nguồn vốn khác.

1.Thứ nhất, vốn đầu tư toàn xã hội của Việt Nam đã đạt được tốc độ tăng
tương đối khá và có quy mô lớn (322,6 nghìn tỷ đồng, bằng 44,1% GDP).
Đây là một kết quả tích cực, tạo điều kiện cho Việt Nam là một số ít nước
đạt tăng trưởng kinh tế dương (3,9%) và đã vượt qua giai đoạn khó khăn
nhất của sự suy giảm tốc độ tăng trưởng (quý I đạt 3,1%, quý II đạt 4,5%).

2.Thứ hai, trong điều kiện vốn đầu tư nước ngoài bị sụt giảm do tác động
tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới, thì vốn
đầu tư trong nước đạt 251,6 nghìn tỷ đồng, tăng 35,1%, vừa để bù cho sự sụt
giảm của vốn đầu tư nước ngoài, vừa để ngăn chặn suy giảm kinh tế, thoát
đáy, vượt dốc đi lên. Nội lực được đề cao vào lúc này có ý nghĩa kép.

3.Thứ ba, vốn đầu tư khu vực nhà nước đạt 141,5 nghìn tỷ đồng, chiếm tỷ
trọng lớn nhất (43,9%) trong tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội. Trong
điều kiện đặc biệt hiện nay, vai trò của Nhà nước trong việc kích cầu đầu tư
là rất cần thiết, tạo ra “vốn mồi” để kéo các nguồn vốn khác.

Trong vốn đầu tư của khu vực nhà nước, vốn từ ngân sách nhà nước đạt thấp
(50,6 nghìn tỷ đồng), sau một nửa thời gian mới đạt 35,1% kế hoạch điều
chỉnh. Trong đó tỷ lệ thực hiện của phần vốn do Trung ương quản lý còn đạt


thấp hơn của phần vốn do địa phương quản lý (28,6% so với 39,4%). Đây là
một hạn chế cần phải đẩy nhanh tiến độ thực hiện để tranh thủ lúc giá vật
liệu xây dựng còn đang thấp.
4.Thứ tư, vốn đầu tư của khu vực ngoài Nhà nước ước đạt 110,1 nghìn tỷ
đồng, chiếm 34,1% và tăng 37,4%. Tuy số doanh nghiệp đăng ký kinh doanh
mới tăng cao (40 nghìn, tăng 14%), nhưng lượng vốn đăng ký mới lại giảm
(40%).

5.Thứ năm, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong 6 tháng đầu năm có
những đặc điểm đáng lưu ý. Một, trong 6 tháng có 306 dự án được cấp mới,
với tổng vốn đăng ký đạt 4,7 tỷ USD, giảm tới 86,7% so với cùng kỳ năm
trước. Do vậy, tổng lượng vốn đăng ký (bao gồm vốn đăng ký của các dự án
mới và lượng vốn đăng ký bổ sung của các dự án cũ) trong 6 tháng chỉ đạt
8,9 tỷ USD, giảm 77,4% so với cùng kỳ năm trước. Lượng vốn thực hiện
trong 6 tháng ước đạt 4 tỷ USD, giảm 18,4% so với cùng kỳ năm trước.
Nguyên nhân chủ yếu do các nước còn đang gặp khó khăn do cuộc khủng
hoảng tài chính và suy thoái kinh tế, nên việc đầu tư vốn ra nước ngoài bị
ảnh hưởng.

Trong khi lượng vốn đăng ký của dự án mới bị sụt giảm, thì lượng vốn đăng
ký bổ sung của các dự án cũ đã tăng lên (4%). Điều đó chứng tỏ các nhà đầu
tư đã làm ăn ở Việt Nam với lòng tin và với kỳ vọng “trông giỏ bỏ thóc” vẫn
tiếp tục gia tăng lượng vốn đầu tư.

Sự sụt giảm của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong 6 tháng qua chủ yếu được
xét về hai mặt. Một mặt là so với cùng kỳ năm trước - năm đạt kỷ lục, nhưng
đã lớn hơn lượng vốn đăng ký cả năm của các năm từ 2005 trở về trước. Mặt
khác, lượng vốn thực hiện mới qua 6 tháng, nhưng đã cao hơn mức cả năm
của nhiều năm từ 2003 trở về trước. Về trung và dài hạn, vẫn hứa hẹn nhiều
triển vọng.


6.Thứ sáu, mức giải ngân vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) 6 tháng
qua ước đạt 1.270 triệu USD, tăng 9% so với cùng kỳ năm trước (gồm 1.163
triệu USD vốn vay và 107 triệu USD không hoàn lại).

7.Thứ bảy, hiệu quả đầu tư là vấn đề cần chú ý về hai mặt. Một mặt, trong
điều kiện kích cầu để muốn giải ngân nhanh nên dễ bị lãng phí, thất thoát.
Mặt khác, kinh tế thế giới chưa vượt qua đáy và kinh tế trong nước vẫn còn
đang nỗ lực thoát đáy vượt dốc đi lên, nên việc tiêu thụ gặp khó khăn. Khi
vốn đầu tư tăng, tăng trưởng kinh tế giảm thì hiệu quả đầu tư tăng trưởng bị
giảm là khó tránh khỏi. Đây là một cảnh báo đáng lưu ý.

×