Suy tim xung huyết
(Phần 2)
Điều trị suy tim xung huyết bằng cách nào ?
Cải thiện lối sống :
Sau khi chẩn đoán suy tim xung huyết, việc điều trị nên được tiến hành ngay
lập tức. Có lẽ mặt điều trị quan trọng nhất mà chưa được quan tâm lắm là cải thiện lối
sống. Muối gây ra sự gia tăng tích tụ dịch trong cơ thể. Bởi vì cơ thể thường xuyên bị
xung huyết do quá tải dịch nên rất nhạy cảm với lượng muối và nước ăn vào. Hạn chế
muối và nước thường rất cần thiết bởi vì xu thế dịch thường tích tụ ở phổi và xung
quanh mô. Chế độ ăn không thêm muối vẫn còn chứa 4 đến 6 gam muối mỗi ngày. Ở
bệnh nhân bị suy tim xung huyết nên ăn ít hơn 2 gam muối mỗi ngày.
Cần đọc kỹ nhãn hiệu thực phẩm và loại bỏ hết lượng muối trong thức ăn là
điều rất quan trọng. Vì vậy, tổng lượng muối đưa vào cơ thể phải được điều chỉnh.
Mặc dù nhiều bệnh nhân bị suy tim xung huyết dùng thuốc lợi tiểu để đào thải bớt
lượng dịch quá tải này, nhưng uống quá nhiều nước và những dịch khác sẽ làm cho
hoạt động của thuốc lợi tiểu sẽ trở nên kém hiệu quả. Phương châm uống tối đa “ 8 ly
nước mỗi ngày giúp cơ thể khoẻ mạnh “ không được áp dụng cho bệnh nhân bị suy
tim xung huyết. Bệnh nhân bị suy tim xung huyết tiến triển khuyên nên hạn chế dịch,
tổng số lượng dịch từ các nguồn cung cấp phải dưới 1,5 lít mỗi ngày. Những chỉ dẫn
về lượng muối và dịch kể trên có thể thay đổi tuỳ thuộc vào mức độ nặng của suy tim
ở từng bệnh nhân.
Một phương pháp quan trọng để theo dõi lượng dịch xuất nhập thích hợp là
thường xuyên theo dõi cân nặng. Dấu hiệu sớm nhất của sự ứ dịch trong cơ thể là cân
nặng tăng. Thậm chí nó xuất hiện trước khi khó thở hoặc phù hai chân, hay phần khác
của cơ thể xảy ra. Khi tăng 1-1,5kg trong vòng 2-3 ngày thì nên đi khám bác sĩ ngay .
Bác sĩ sẽ gia tăng liều thuốc lợi tiểu đang sử dụng hoặc có phương pháp khác để ngăn
chặn ở giai đoạn sớm của sự ứ dịch trước khi nó trở nên nặng hơn.
Tập Aerobic một phương pháp không được khuyến khích đối với bệnh nhân
suy tim xung huyết, đã cho thấy trở nên có nhiều ưu điểm trong việc duy trì khả năng
hoạt động và chất lượng cuộc sống và thậm chí cải thiện được sự sống còn. Với cùng
một mức độ suy tim như nhau, nhưng mỗi bệnh nhân có đáp ứng khác nhau.Tập thể
dục thường xuyên đến khi bệnh nhân dung nạp được, sẽ có nhiều lợi điểm
Các yếu tố có khả năng hồi phục được.
Tuỳ thuộc vào nguyên nhân gây ra suy tim, mà nên tìm ra những yếu tố có khả
năng hồi phục được suy tim. Ví dụ như suy tim do thiếu máu cơ tim, có thể cải thiện
được bằng cách phẫu thuật động mạch vành hoặc đặt stent trong động mạch vành để
tăng dòng máu nuôi cơ tim. Suy tim do bệnh lý van tim có thể cải thiện bằng mổ nong
hoặc thay van.Suy tim do tăng huyết áp lâu ngày sẽ cải thiện nếu như kiểm soát tốt
huyết áp. Cũng vậy, suy tim do nghiện rượu có thể cải thiện rõ khi ngưng uống rượu.
Suy tim do những nguyên nhân khác có thể cải thiện hoặc hồi phục hoàn toàn nếu như
kiểm soát được nguyên nhân.
Thuốc
Cho tới giờ này, việc chọn lựa thuốc trong điều trị suy tim vẫn còn hạn chế, chủ
yếu tập trung vào việc kiểm soát triệu chứng là chính. Tuy nhiên, có một số thuốc có
thể cải thiện triệu chứng và quan trọng là kéo dài sự sống còn.
Thuốc ức chế men chuyển (ACE) :
Thuốc ACE đã được được dùng để điều trị tăng huyết áp hơn 20 năm nay.
Thuốc này đã cho thấy có hiệu quả trong điều trị suy tim.Thuốc này ức chế sự hình
thành angiotensin II, là một hormon có nhiều tác hại tiềm tàng đối với tim và hệ tuần
hoàn ở bệnh nhân bị suy tim xung huyết. Trong nhiều nghiên cứu trên hàng ngàn bệnh
nhân cho thấy, thuốc cải thiện đáng kể triệu chứng suy tim, ngăn ngừa bệnh diễn tiến
xấu hơn và kéo dài cuộc sống cho người bệnh. Mặt khác, thuốc ức chế men chuyển
còn ngăn ngừa bệnh suy tim tiến triển và nhồi máu cơ tim. Nhiều bằng chứng cho thấy
việc dùng thuốc này trong điều trị suy tim rất tốt, nó cần thiết đến nỗi là loại thuốc
phải có trong điều trị suy tim.
Tác dụng phụ của thuốc thường gặp là ho khan, ăn không ngon miệng, hạ huyết
áp, làm bệnh suy thận năng thêm, rối loạn chất điện giải và hiếm hơn là phản ứng dị
ứng. Tuy nhiên, khi dùng thuốc có theo dõi cẩn thận, đa số bệnh nhân suy tim đều
dung nạp tốt mà không có vấn đề gì đáng để ý cả. Sau đây là một số thuốc ức chế men
chuyển thường dùng là: captopril ( Capoten), Enalapril ( Renitec,Vasotec), Lisinopril
(Zestril, Prinivil ), Benazepril (Lotensin ) và Ramipril (Altace).
Đối với bệnh nhân không dùng thuốc ức chế men chuyển, nhóm thuốc khác có
thể thay thế là nhóm thuốc ức chế thụ thể angiotensin có thể được sử dụng ( ARBs ).
Thuốc này tác dụng trên con đường hormon giống như ức chế men chuyển nhưng nó
lại ức chế trực tiếp hoạt động của angiotensin II tại vị trí tác dụng. Một vài nghiên cứu
nhỏ gần đây cho thấy khả năng sống còn của bệnh nhân suy tim xung huyết lớn tuổi
giống như là ức chế men chuyển. Tuy nhiên, những nghiên cứu với số lượng lớn hơn
có xem xét kỹ đã cho thấy được ức chế thụ thể angiotensin II ( ARBs ) trội hơn ức chế
men chuyển. Tác dụng phụ của thuốc này cũng tương tự như với ức chế men chuyển
mặc dù ho khan ít gặp hơn. Ví dụ về loại thuốc này bao gồm Losartan ( Cozaar),
Candesartan( Atacand ), Telmisartan( Micardis), Valsartan ( Diovan) và Irbesartan(
Avapro).
Ức chế beta ( Beta-blockers)
Vài hormon như là epinephrine ( adrenaline), Norepinephrine và những hormon
tương tự khác tác dụng lên thụ thể beta ở những mô khác nhau trong cơ thể và tạo ra
hiệu quả kích thích. Tác dụng của những hormon này trên receptor beta ở tim là làm
gia tăng sự co bóp của cơ tim. Ức chế beta là thuốc mà nó ức chế hoạt động của các
hormon kích thích này trên thụ thể beta của mô cơ thể. Vì vậy nó được xem như là ức
chế thụ thể beta hơn là ức chế chức năng của tim. Từ lâu, ức chế beta đã không được
dùng ở bệnh nhân suy tim xung huyết. Tuy nhiên, ở bệnh nhân suy tim xung huyết
dưới tác dụng của các hormon trên sẽ làm bất lợi cho cơ tim theo thời gian. Những
nghiên cứu gần đây cho thấy hiệu quả lâm sàng khá ấn tượng của ức chế beta trong
việc cải thiện chức năng tim và khả năng sống còn của bệnh nhân suy tim xung huyết,
người mà đã dùng ức chế men chuyển rồi.
Chìa khoá để thành công trong việc dùng ức chế beta ở bệnh nhân suy tim xung
huyết là bắt đầu với liều thấp và gia tăng liều một cách từ từ. Lúc đầu bệnh nhân có thể
cảm thấy một chút lo lắng và có thể dùng thuốc để hỗ trợ. Tác dụng phụ có thể bao
gồm ứ dịch, hạ huyết áp, mạch chậm, và mệt mỏi. Ức chế beta cũng có thể không được
dùng ở những người có bệnh ở đường hô hấp( ví dụ như hen phế quản, khí phế thủng )
hoặc nhịp tim lúc nghỉ rất chậm.Trong lúc Carvedilol ( Careg) là thuốc đã được nghiên
cứu dùng thường xuyên ở bệnh nhân suy tim xung huyết ( và là ức chế beta duy nhất
đã được sự chấp thuận của FDA trong điều trị suy tim xung huyết), nhiều nghiên cứu
với ức chế beta khác cũng đã có nhiều hứa hẹn. Những nghiên cứu so sánh Carvedilol
trực tiếp với những ức chế beta khác trong điều trị suy tim xung huyết đang được tiến
triển.
Digoxin :
Digoxin đã được dùng trong điều trị suy tim xung huyết hơn 100 năm nay! Nó
là sản phẩm tự nhiên được chiết từ hoa loài cây Foxglove( còn gọi là cây cựa gà ).
Digoxin kích thích cơ tim có thắt mạnh hơn. Nó cũng có những tác dụng khác nhưng
chưa được hiểu rõ ràng, cải thiện triệu chứng của bệnh nhân suy tim xung huyết và có
thể ngăn ngừa suy tim không cho nặng hơn. Tuy nhiên, gần đây những nghiên cứu
ngẫu nhiên với số lượng lớn cho thấy tác dụng của digoxin trên mức độ tử vong. Nó
được dùng cho nhiều bệnh nhân với những triệu chứng suy tim xung huyết rõ ràng,
mặc dù kéo dài tuổi thọ không là tác dụng của nó. Tác dụng phụ bao gồm buồn nôn,
nôn ói, rối loạn nhịp tim và bất thường về điện giải. Tuy nhiên, những tác dụng phụ
này là hậu quả của gia tăng nồng độ digoxin tới ngưỡng độc, có thể theo dõi nồng độ
của digoxin trong máu bằng những xét nghiệm. Liều lượng của digoxin cũng cần phải
điều chỉnh lại đối với những bệnh nhân bị suy thận.
Thuốc lợi tiểu :
Thuốc lợi tiểu thường là phần quan trọng trong điều trị suy tim xung huyết để
ngăn ngừa và làm giảm đi triệu chứng ứ dịch. Bằng cách thúc đẩy lượng dịch lọc qua
thận, thuốc lợi tiểu giúp cải thiện được sự ứ dịch ở phổi và các mô khác. Mặc dù tác
dụng của nó trong việc làm giảm đi các triệu chứng khó thở và phù chân nhưng nó
không cho thấy được kéo dài sự sống còn. Tuy vậy, thuốc lợi tiểu vẫn là chìa khoá
trong việc ngăn ngừa diễn tiến xấu đi tình trạng bệnh của bệnh nhân. Khi nhập viện,
thuốc lợi tiểu được dùng bằng đường tĩnh mạch bởi vì khả năng hấp thu bằng đường
uống bị suy giảm. Tác dụng phụ của thuốc lợi tiểu bao gồm mất nước, bất thường về
điện giải đặc biệt hạ Kali trong máu, rối loạn về thính giác và hạ huyết áp. Điều quan
trọng để ngăn ngừa hạ Kali là bổ sung khi cần thiết. Sự rối loạn về điện giải có thể làm
cho bệnh nhân dễ bị rối loạn về nhịp tim. Ví dụ vài loại thuốc lợi tiểu khác nhau bao
gồm furosemide ( Lasix ), Hydrochlorothiazide, Bumetanide( Bumex), Torsemide(
Demadex) và Metolazone ( Zaroxolyn ).
Một loại thuốc lợi tiểu gần đây đã cho thấy hiệu quả đáng ngạc nhiên trên sự
sống còn ở bệnh nhân suy tim xung huyết có triệu chứng đang tiến triển.
Spironolactore ( Aldactone) đã được sử dụng trong nhiều năm như là một thuốc lợi
tiểu yếu trong điều trị nhiều bệnh khác nhau. Trong số những loại thuốc khác nhau đó
thì Aldaclone ức chế hoạt động của hormon Aldosterone. Có nhiều giả thuyết nói về
tác dụng có hại của Aldosterone trên tim và hệ tuần hoàn của bệnh nhân suy tim xung
huyết. Sự phóng thích aldosterone được kích thích một phần bởi angiotensin II trong
máu thấp. Những nhà nghiên cứu gần đây đã cho thấy rằng Spironolactone có thể cải
thiện tỉ lệ sống còn của bệnh nhân suy tim xung huyết. Trong nghiên cứu, sử dụng liều
tương đối nhỏ đã cho thấy ưu điểm của nó trong việc ức chế Aldosterone tốt hơn khi
xem nó như là một thuốc lợi tiểu yếu. Những tác dụng phụ của thuốc này bao gồm
tăng Kali máu và ở nam có hiện tượng vú to.
Ghép tim :
Trong vài trường hợp, mặc dù việc sử dụng phác đồ điều trị tối ưu ở trên nhưng
tình trạng bệnh nhân vẫn xấu đi do sự tiến triển của suy tim. Ở những bệnh nhân này,
ghép tim là phương pháp được chọn. Người được chọn ghép tim nói chung dưới 70
tuổi và không có tình trạng tổn thương nặng hoặc không hồi phục ở những cơ quan
khác. Thêm vào đó, ghép tim chỉ được thực hiện khi tiên lượng điều trị nội khoa tiếp
tục không còn đáp ứng nữa. Do nguy cơ loại bỏ tim được ghép, vì vậy bệnh nhân cần
thiết phải dùng thuốc ức chế hệ thống miễn dịch. Thậm chí, họ cần phải được theo dõi
tình trạng bệnh mạch vành ở tim được ghép.
Mặc dù có hàng ngàn bệnh nhân chờ đợi ghép tim bất cứ lúc nào nhưng số phẫu
thuật được thực hiện mỗi năm bị hạn chế do số người cho tim không đủ. Vì những lý
do này, ghép tim chỉ thực hiện được ở một số lượng rất nhỏ của rất nhiều bệnh nhân
suy tim xung huyết.
Những điều trị cơ học khác.
Do những hạn chế của ghép tim, nhiều dự định gần đây hướng tới phát triển
trực tiếp những dụng cụ hỗ trợ cơ học nhằm giúp đỡ một phần hoặc toàn bộ chức năng
bơm máu của tim. Có một vài dụng cụ có thể dùng cho bệnh nhân và nhiều hơn nữa
đang được thực hiện. Ví dụ như có một dụng cụ hỗ trợ thất trái, nó được xem như là
phương thức tạm thời để hỗ trợ hệ tuần hoàn cho những bệnh nhân rất nặng cho tới khi
ghép tim có thể thực hiện được.
Những nghiên cứu có kiểm chứng về vai trò của những dụng cụ cơ học này
trong một khoảng thời gian dài dựa trên những người được cấy ghép nó vĩnh viễn đang
được xúc tiến. Hạn chế chính hiện tại của những dụng cụ này là nguy cơ bị nhiễm
trùng đặc biệt là ở chỗ mà dụng cụ thoát ra khỏi cơ thể qua da để nối với nguồn năng
lượng bên ngoài .