Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Suy tim xung huyết (Phần cuối)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.98 KB, 9 trang )

Suy tim xung huyết
(Phần cuối)

Bệnh cảnh lâu dài của bệnh nhân suy tim xung huyết là gì ?
Nhìn chung, tiến triển của suy tim xung huyết có những giai đoạn ổn định, có
những giai đoạn bùng phát. Tuy nhiên, quá trình của bệnh tùy thuộc từng bệnh nhân,
thay đổi rất nhiều. Những yếu tố liên quan tới tiên lượng của bệnh nhân bao gồm bệnh
tim nền tảng, đáp ứng với điều trị, mức độ tổn thương các cơ quan khác, và những
bệnh nặng khác kèm theo, triệu chứng của bệnh nhân, mức độ suy giảm, và những yếu
tố khác vẫn còn chưa rõ.
Ngày nay, với những thuốc mới hơn tác động lên quá trình tiến triển của bệnh.
Do đó, tiên lượng nhìn chung thấy tốt hơn so với cách đây 10 năm. Trong một vài
trường hợp, đặc biệt khi rối loạn chức năng cơ tim mới bị thì sự cải thiện tự nhiên
không phải là không thường gặp, thậm chí một lúc nào đó chức năng cơ tim trở nên
bình thường.
Một điều quan trọng ở bệnh nhân suy tim xung huyết là nguy cơ bị rối loạn
nhịp tim. Tất cả những trường hợp tử vong xảy ra ở bệnh nhân bị suy tim xung huyết,
thì khoảng 50% liên quan tới suy tim tiến triển, còn 50% được nghĩ là liên quan tới rối
loạn nhịp tim nặng. Tuy nhiên, điều chưa rõ là bằng cách nào để xác định tất cả những
bệnh nhân suy tim xung huyết có những yếu tố nguy cơ cao nhất của rối loạn nhịp tim
và cách tốt nhất để ngăn ngừa hoặc điều trị chúng. Hiện nay, trên lâm sàng có dùng
thuốc chống loạn nhịp và máy khử rung để điều trị.
Những lãnh vực nghiên cứu mới trong suy tim xung huyết là gì?
Mặc dù thuốc có nhiều ưu điểm trong điều trị suy tim xung huyết khoảng trên
20 năm qua nhưng có rất nhiều nghiên cứu đang được xúc tiến. Những loại thuốc mới
đang được thử nghiệm trên lâm sàng bao gồm những thuốc tác dụng lên thụ cảm thể
calcium, ức chế vasopeptidase và những peptides lợi tiểu. Ngoài ra, còn dùng thêm ức
chế men chuyển và ức chế beta, việc dùng những thuốc này dựa trên sự hiểu biết thêm
về quá trình tiến triển và hậu quả để lại do suy tim. Thêm vào đó, liệu pháp gen được
tập trung nghiên cứu và đang được thử nghiệm trên động vật.
Những điều trị mới này đã được chứng minh, là một điều lạc quan chưa từng


thấy trong điều trị suy tim xung huyết. Ở đa số bệnh nhân cải thiện lối sống phù hợp,
dùng thuốc đúng thứ tự, có thể duy trì được hoạt động, và cảm thấy dễ chịu. Việc chọn
lựa những loại thuốc như ức chế men chuyển, ức chế beta để điều trị đã cho thấy có
nhiều điều đáng chú ý. Vào thế kỷ 21 chắc chắn rằng sẽ có thêm nhiều những can
thiệp có hiệu nghiệm hơn.
Sơ lược về suy tim xung huyết .
Suy tim xung huyết là tình trạng mà chức năng bơm máu của tim không đủ để
cung cấp cho nhu cầu của cơ thể.
Có nhiều bệnh có thể làm suy giảm chức năng bơm máu của tim và gây ra suy
tim xung huyết.
Triệu chứng của suy tim xung huyết thì rất thay đổi bao gồm mệt, giảm khả
năng gắng sức, khó thở và phù.
Chẩn đoán suy tim xung huyết dựa trên việc hỏi kỹ về bệnh sử, thăm khám lâm
sàng cẩn thận và làm những xét nghiệm có chọn lọc.
Việc điều trị suy tim xung huyết có thể bao gồm cải thiện lối sống, chú ý đến
những yếu tố có khả năng hồi phục, thuốc, ghép tim và những điều trị cơ học.


Xơ vữa động mạch, ngõ vào của nhiều bệnh chứng

Thứ tự ưu tiên không phải lúc nào cũng đồng nghĩa với luận lý khoa học.
Hai tiếng tim mạch là thí dụ điển hình. Tuy nhắc tim rồi mới nhớ đến mạch,
nhưng trên thực tế thì trong đa số trường hợp bệnh tim lại bắt đầu từ mạch máu.

Trái tim là cơ quan có khả năng chịu đựng áp lực và bù trừ chức năng rất cao.
Ngoại trừ trường hợp bất khả kháng do dị tật bẩm sinh, tim không dễ gì ngã bệnh
trong một sớm một chiều
Điểm yếu của hệ tuần hoàn chính là mạng lưới mạch máu trải dài nhiều cây số
nhằm phủ kín bề mặt cơ thể và toàn bộ nội tạng. Muốn làm tròn chức năng cung ứng
dưỡng khí và dưỡng chất đến tận mọi vùng sâu, vùng xa của cơ thể, tim phải trông cậy

vào các mao mạch nhỏ li ti như chân rết nối liền với mọi ngõ ngách của cơ quan và tế
bào.
Khi chướng ngại vật là xơ vữa
Đây chính là điểm éo le trong toàn bộ vấn đề. Đã là mạch máu nhỏ đến độ chỉ
nhìn thấy dưới kính hiển vi điện tử thì vi mạch dễ gì có cấu trúc bền vững! Chính vì
thế mà mao mạch dễ bị thương tổn bởi nhiều lý do. Vì nguyên nhân nào đó, chẳng hạn
do hậu quả của tình trạng viêm nhiễm, tác hại của độc chất trong môi trường ô nhiễm,
khói thuốc lá..., một vài chỗ trong mạch máu bỗng nhiên không còn trơn láng. Nếu
ngay lúc đó dòng máu lại chảy qua một cách chậm chạp, vì quá đậm đặc do chứa
nhiều chất mỡ hay do tiểu cầu tập trung quá độ bởi tình trạng căng thẳng thần kinh
(stress), thì chất mỡ trong máu có đủ thời giờ và phương tiện để bám chặt vào thành
mạch máu. “Thừa nước đục thả câu”, chất vôi, chất đạm, tiểu cầu... cũng dừng lại
“nghỉ chân”, tạo thành những mảng xơ và làm cho mạch máu bắt đầu chai cứng. Hậu
quả của điều này là trái tim phải gắng sức đẩy máu vượt qua những chướng ngại từ xa
càng lúc càng nhiều, trong khi cơ quan nằm quanh vùng mạch máu lại bị xơ vữa do
thiếu dưỡng khí và dưỡng chất vì đường tiếp tế bị gián đoạn.
Đến lúc nào đó trái tim kiệt sức và mạch máu phải chai cứng, đứt đoạn hay tắc
nghẽn! Điều gì sẽ xảy ra nếu hiện tượng xơ vữa mạch máu xuất hiện ngay trên thành
tim, trong não, trên đáy mắt? Hậu quả không gì khác hơn là nhồi máu cơ tim, bại liệt
vì tai biến mạch máu não! Trái tim, cơ quan cao cấp của cơ thể, phải chấp nhận thất
bại một cách oan uổng chỉ vì một sự khởi đầu... rất tầm thường. Có đáng phải trả giá
như thế không?
Cần chiến lược phòng bệnh lâu dài
Thử xoay ngược vấn đề. Liệu có cách nào bảo vệ mặt trong của thành mạch
máu? Có thể nào giữ cho dòng máu tuy không loãng như nước lã, nhưng cũng đừng
quá đậm đặc? Có cách nào ổn định các thành phần trong dòng máu sao cho độ nhớt
của máu đừng vượt quá mức độ bình thường? Câu trả lời dứt khoát là có, nếu thầy
thuốc và bệnh nhân chú ý nhiều hơn đến mục tiêu phòng bệnh dựa vào hoạt chất sinh
học có nguồn gốc thiên nhiên.
Xơ vữa mạch máu là bệnh có thể dễ phòng ngừa nếu phương án dự phòng được

thực hiện không chỉ đúng lúc, mà càng sớm càng tốt. Hơn thế nữa, muốn bảo vệ mạch
máu để giảm bớt gánh nặng cho trái tim thì biện pháp phòng bệnh cần được tiến hành
liên tục sao cho các yếu tố gây xơ vữa mạch máu không tìm được cơ hội thuận tiện.
Dùng thuốc ngừa xơ vữa theo kiểu “xuân thu nhị kỳ” thì không uống thuốc nhiều khi
còn tốt hơn. Không mong gì lật đổ được ngôi vị đứng đầu về tỉ lệ tử vong của bệnh
tim mạch nếu thiếu chiến lược phòng bệnh lâu dài.
Trên thực tế không thiếu phương tiện phòng bệnh, từ cách ăn uống cho đến
dược phẩm có nguồn gốc thiên nhiên. Nhưng sở dĩ bệnh tim mạch vẫn còn là mối đe
dọa chỉ vì phần lớn người bệnh, hay chính xác hơn, người sắp bị bệnh, thiếu kiên nhẫn
theo đuổi giải pháp phòng ngừa.
Muốn chống xơ phải trị vữa!
Nhiều công trình nghiên cứu trong thời gian gần đây đã chứng minh:
. Cholesterol không phải là yếu tố đơn thuần dẫn đến tình trạng xơ vữa động
mạch.
. Lượng cholesterol toàn phần trong máu dù có tăng cao vẫn chưa là điều kiện
cần và đủ để mạch máu bị chai cứng trước khi đi vào tình trạng tắc nghẽn.
. Cholesterol chỉ bám được vào mạch máu khi có sự tiếp tay của một số hoạt
chất giúp dán chặt cholesterol vào thành mạch. Các chất này thường gặp trên người
thường bị bội nhiễm (C reactive protein), hút thuốc (homocystein), hay ở đối tượng có
cuộc sống căng thẳng (ICAM)... Người tuy có nhiều cholesterol trong máu, nhưng nếu
không thừa các chất trên, vẫn không bị đe dọa vì xơ vữa mạch máu.
. Ngược lại, người có lượng cholesterol trong máu tuy ở mức bình thường
nhưng lại quá dư các chất “cò mồi”, lại là đối tượng hàng đầu của tai biến mạch máu
não, nhồi máu cơ tim, đột quỵ... với tỉ lệ không kém nhóm tăng cholesterol!
. Một số hoạt chất trong rau quả, cây thuốc rõ ràng có tác dụng chống xơ vữa
mạch máu thông qua cơ chế bảo vệ tính đàn hồi của thành mạch máu, chống hiện
tượng đông máu nội mạch và ngăn ngừa tình trạng co thắt mạch máu.
Thêm vào đó, bên cạnh việc chủ động giải quyết nguyên nhân xuất phát từ thói
quen sinh hoạt, mâu thuẫn trong gia đình, nghề nghiệp, xã hội..., chế độ dinh dưỡng
chú trọng các vitamin và khoáng tố có tác dụng chống xơ vữa đã được chứng minh

trong thực nghiệm và trên lâm sàng, như sinh tố C, E, folate, B12, kẽm, selen... là một
trong các biện pháp nên được chú ý hàng đầu cho người đã phát hiện tình trạng xơ vữa
mạch máu.
Không hẳn lúc nào cũng cần đến hoạt chất cầu kỳ phức tạp mới ngừa được
bệnh tim mạch!

×