Ung thư tiền liệt tuyến
( Phần 2)
Việc phân chia giai đoạn ung thư tiền liệt tuyến như thế nào ?
Việc phân chia gia đoạn ung thư tiền liệt tuyến dựa vào mức độ lan rộng của
ung thư. Ung thư tiền liệt tuyến được chẩn đoán dựa vào sinh thiết, thêm vào đó là
đánh giá ung thư có di căn hay chưa, bằng cách sinh thiết các cơ quan lận cận như trực
tràng, bàng quang, hay các hạch vùng chậu.Thêm vào đó cần làm thêm các xét nghiệm
chẩn đoán bằng hình ảnh, chẳng hạn chụp phim xương để xác định ung thư có di căn
đến xương hay chưa. Ngoài ra còn có thể chụp CT Scan, MRI để xác dịnh xem ung thư
bên dưới mô hay cơ quan như bàng quang, hay trực tràng, hay một nơi nào khác của
cơ thể như gan hay phổi.
Tóm lại, bác sĩ chia giai đoạn ung thư tiền liệt tuyến trước tiên là dựa trên kết
quả sinh thiết tiền liệt tuyến và có thể là trên các mẫu sinh thiết khác, và chụp phim.
Chia giai đoạn ung thư, bác sĩ sẽ dùng những chữ in hoa và số khác nhau để xác định
kích thước khối ung thư, và mức độ lan rộng của ung thư. Ngoài ra, việc phân chia
giai đoạn ung thư giúp tiên lượng bệnh và chọn lựa phương pháp điều trị thích hợp.
Có hai hệ thống chính được sử dụng để phân chia giai đoạn ung thư. Theo hội
ung thư Mỹ về sắp xếp giai đoạn, giai đoạn A là ung thư còn rất nhỏ không thể sờ
đụng được khi bác sĩ khám bệnh, cũng không thể thấy được khi làm các xét nghiệm
chẩn đoán hình ảnh, tổn thương này chỉ có thể phát hiện khi quan sát dưới kính hiển
vi. Giai đoạn B, là khối u lớn hơn, có thể sờ thấy được nhưng chỉ nằm khu trú tại tuyến
tiền liệt. Giai đoạn C là khối ung thư ăn lan ra cơ quan lân cận. Giai đoạn D1, ung thư
lan ra gần ở hạch chậu, D2 là ung thư lan xa hơn ( di căn ) chẳng hạn như xương, gan,
phổi.
Một hệ thống khác phân chia giai đoạn ung thư tiền liệt tuyến gọi là u, hạch, di
căn (TNM). Theo cách phân chia này T1 và T2 tương đương giai đoạn A và B như hệ
thống phân loại đã nêu ở trên. T3 được mô tả là ung thư lan ra khỏi bao của tiền liệt
tuyến và T4 là ung thư lan ra mô xung quanh. N1 tương đương giai đoạn D1 và M1
tương đương giai đoạn D2.
Việc chọn lựa điều trị ung thư tiền liệt tuyến như thế nào ?
Quyết định điều trị đã khác trước đây rất nhiều. Cần phải có đủ dữ kiện mới
chọn phương pháp điều trị có hiệu quả, nên cân nhắc giữa lợi ích và nguy cơ của các
phương pháp điều trị mang lại.
Để quyết định điều trị cho bệnh nhân, bác sĩ sẽ xếp loại ung thư tiền liệt tuyến
như còn tại chỗ, u lớn nhưng chưa lan ra, hay di căn. Chọn lựa điều trị tuỳ theo mức độ
lan của ung thư, nếu ung thư khu trú tại chỗ điều trị bao gồm : phẫu thuật, xạ trị,
hormone liệu pháp, đông lạnh và các biện pháp này có thể kết hợp với nhau. Còn đối
với các trường hợp ung thư tiền liệt tuyến đã di căn thường không điều trị được.Điều
trị ung thư tiền liệt tuyến di căn bao gồm : hormone liệu pháp, hoá trị, tuy nhiên vẫn
chỉ là tạm thời. Mục tiêu của điều trị tạm thời là cho khối u chậm phát triển, giảm triệu
chứng cho người bệnh.
Các yếu tố khác được xem xét để chọn lựa phương pháp điều trị bao gồm tuổi
tác, tổng trạng, thang điểm Gleason, và giai đoạn ung thư. Kết quả xét nghiệm PSA
đôi khi cũng giúp quyết định chọn lựa phương pháp điều trị. Chẳng hạn, mức PSA
tăng giới hạn (4-10 nanogram/ml), chứng tỏ có khả năng bị ung thư tiền liệt tuyến.
Nếu các xét nghiệm khác cũng cho thấy có khả năng là bị ung thư thì phẫu thuật hoặc
xạ trị cần được thực hiện. Ngược lại, lượng PSA tăng cao (chẳng hạn trên 30 - 40
nanogram/ ml) có khả năng là ung thư di căn. Nếu ung thư di căn, thì việc điều trị lúc
này chỉ còn hạn chế trong biện pháp hormone hay hoá trị.
Xét nghiệm PSA cũng có thể được thực hiện theo từng giai đoạn sau khi điều trị
giúp đánh giá kết quả điều trị. Chẳng hạn, khi lượng PSA tăng, có nhiều khả năng khối
ung thư tiền liệt tuyến đang phát triển hoặc di căn mặc dù đang được điều trị. Ngược
lại, lượng PSA giảm chứng tỏ bệnh có cải thiện. Khi lượng PSA về mức 0 cho thấy
ung thư tiền liệt tuyến đã được kiểm soát hoàn toàn hoặc đã được chữa khỏi.
Điều trị phẫu thuật ung thư tiền liệt tuyến như thế nào ?
Điều trị phẫu thuật ung thư tiền liệt tuyến thường là phẫu thuật cắt bỏ tận gốc,
tức lấy đi toàn bộ tiền liệt tuyến. Phẫu thuật này được làm ở khoảng 36% bệnh nhân bị
ung thư tiền liệt tuyến còn khu trú tại chỗ. Tai biến xãy ra khi mỗ ung thư là tai biến
lúc gây mê, chảy máu chỗ mổ, liệt dương chiếm tỷ lệ 30%-70% , tiểu không tự chủ
chiếm 3%-10% bệnh nhân.
Những tiến bộ gần đây giúp làm giảm biến chứng của phẫu thuật cắt bỏ tận
gốc.Các tiến bộ của phẫu thuật xuất phát từ việc hiểu rõ hơn về chìa khoá giải phẫu,
sinh lý năng lực tình dục và tiểu tiện.Đặc biệt, các kỹ thuật phẫu thuật cắt tiền liệt
tuyến mới đây giúp làm giảm tỷ lệ liệt dương và tiểu không kiểm soát.
Nếu sau khi mỗ, mà bệnh nhân bị liệt dương thì có thể điều trị bằng sildenafil
(Viagra) viên uống (hiện ở Việt Nam chưa có thuốc này), hoặc chích thuốc alprostadil
(Caverject) vào dương vật, bằng phương pháp bơm hoặc dùng dụng cụ tác động lên
dương vật ( dương vật giả ). Tiểu không kiểm soát thường hồi phục theo thời gian,
đặc biệt là tập luyện và dùng thuốc để kiểm soát són tiểu. Tuy nhiên, đôi lúc tiểu
không kiểm soát đòi hỏi phải cấy ghép loại cơ vòng nhân tạo quanh niệu đạo. Cơ vòng
này được tạo từ loại cơ trong cơ thể hoặc từ vật liệu khác dùng để kiểm soát dòng
nước tiểu qua niệu đạo.
Xạ trị trong điều trị ung thư tiền liệt tuyến được thực hiện như thế nào ?
Mục tiêu của xạ trị là nhằm phá huỷ các tế bào ung thư và ngăn không cho
chúng phát triển hay tiêu diệt chúng. Vì tế bào ung thư phân chia nhanh, cho nên nó
dễ bị tổn thương hơn các tế bào bình thường xung quanh. Các thử nghiệm lâm sàng đã
hướng tới việc dùng tia xạ để điều trị ung thư tiền liệt tuyến còn khu trú. Thử nghiệm
này cho thấy rằng xạ trị mang lại kết quả sống sót sau 10 năm tương đương với
phương pháp mỗ. Tiểu không kiểm soát và liệt dương xãy ra do phương pháp mỗ có lẽ
cao hơn so với xạ trị. Tuy nhiên, cần phải có thêm dữ kiện nữa để đánh giá nguy cơ và
lợi ích của xạ trị trên 10 năm. Đặc biệt, tái phát ung thư đôi lúc có thể xãy ra sau xạ
trị.
Việc chọn lựa xạ trị và phuẫu thuật để điều trị ung thư tiền liệt tuyến khu trú tại
chỗ tuỳ thuộc vào sự chọn lựa của bệnh nhân, tuổi tác, các bệnh khác phối hợp cũng
như mức độ lan rộng của ung thư. Khoảng 30% bệnh nhân bị ung thư tiền liệt tuyến
khu trú tại chỗ được điều trị bằng xạ trị. Đôi khi bác sĩ ung thư phải kết hợp xạ trị với
mỗ hoặc hormon liệu pháp trong cố gắng tối đa để đạt hiệu quả điều trị tốt ung thư
giai đoạn sớm hoặc muộn.
Xạ trị có thể là xạ trị ngoài thời gian 6-7 tuần hoặc cũng có thể là xạ trị trong
tức cắm chất phóng xạ trực tiếp vào tiền liệt tuyến. Phương pháp xạ trị ngoài là dùng
tia X có năng lương cao chiếu thẳng trực tiếp vào khối ung thư, còn xạ trị trong là
người ta dùng kim cắm xuyên qua tuyến tiền liệt ung thư dưới hướng dẫn cuả siêu
âm.Về mặt lý thuyết, lợi ích của xạ trị trong hơn xạ trị ngoài ở chỗ tia xạ của xạ trị
trong phóng thẳng vào khối ung thư làm giảm tối thiểu thương tổn cho các mô và các
cơ quan lân cận. Tuy nhiên, lợi ích và bất lợi của xạ trị trong và xạ trị ngoài đến nay
vẫn chưa có nghiên cứu.
Hormon điều trị ung thư tiền liệt tuyến là gì ?
Hormon nam còn gọi là testosterone, hormon này kích thích tế bào tiền liệt
tuyến bị ung thư, làm u to ra thêm . Lý tưởng nhất trong tất cả các hormon điều trị là
giảm được sự kích thích tế bào ung thư do testosterone. Bình thường, testosterone
được tinh hoàn sản xuất trong đáp ứng với hormone khác là LH-RH. LH-RH là viết
tắt cuả luteinizing hormone-releasing hormone và còn gọi là hormone hướng sinh dục.
Hormon này được sản xuất trong não vào máu đến tinh hoàn và nó kích thích tinh
hoàn sản xuất và phóng thích testosterone.
Điều trị bằng hormone cũng được kể đến như là biện pháp làm giảm lượng
testosterone trong máu, cũng có thể bằng mỗ hoặc bằng thuốc. Điều trị phẫu thuật tinh
hoàn ( hay còn gọi là thiến) là phương pháp làm giảm hormon. Phẫu thuật này là cắt
bỏ tận gốc nơi sản xuất ra testosterone của cơ thể. Điều trị bằng hormon bao gồm dùng
một hoặc hai loại thuốc. Một loại thuốc được chọn lựa là thuốc kháng LH-RH .Thuốc
này có tác dụng cạnh tranh với LH-RH của cơ thể. Do đó thuốc này ức chế sự phóng
thích LH-RH từ não. Một loại thuốc khác cũng được chọn lựa, là loại thuốc có tác
dụng kháng androgenic, là thuốc kháng nội tiết tố nam.Thuốc này ức chế tác dụng của
testosterone tại tiền liệt tuyến.
Ngày nay, đàn ông thường chọn lựa phương pháp điều trị bằng nội tiết tố hơn là
phẫu thuật, có lẽ vì thấy rằng thiến tinh hoàn gây mất thẩm mỹ và làm người bệnh bất
an hơn.Tuy nhiên, hiệu quả và tác dụng phụ của điều trị bằng hormon cũng ngang như
thiến . Cả hai phương pháp điều trị bằng hormon này đều có tác dụng loại bỏ sự kích
thích tế bào ung thư của testosterone. Tuy nhiên, một số u tiền liệt tuyến không đáp
ứng với các hình thức điều trị này. Đó là những dạng ung thư tiền liệt tuyến không phụ
thuộc với androgen(nội tiết tố nam).Tác dụng phụ chủ yếu của các phương pháp điều
trị hormon( do mất đi nội tiết tố nam) này là làm vú người đàn ông to ra và bất lực (liệt
dương).
Các thuốc kháng LH-RH bao gồm leuprolide (Lupron) hoặc goserelin
(Zoladex), được chích mỗi tháng tại phòng mạch bác sĩ. Thuốc kháng androgen bao
gồm : flutamide (Eulexin) , bicalutamide (Casodex), là những viên thuốc uống thường
được dùng phối hợp với thuốc kháng LH-RH . Thuốc kháng LH-RH thường có tác
dụng một mình.Tuy nhiên, thuốc kháng androgen được chỉ định dùng phối hợp thêm
nếu như ung thư vẫn còn tiến triển mặc dù đang trị bằng thuốc kháng LH-RH . Điều trị
bằng hormon có thể có kết quả tốt nếu như phối hợp thêm xạ trị.
Hiện nay, các nghiên cứu đang được thực hiện nhằm xác định xem liệu pháp
hormon có làm tăng thêm hiệu quả điều trị của xạ trị hay không.
Thường, phương pháp điều trị bằng hormon dành cho những bệnh nhân bị ung
thư tiền liệt tuyến đã tiến triển xa hoặc ung thư đã di căn. Đôi khi, người bệnh chỉ bị
ung thư tiền liệt tuyến còn khu trú nhưng vẫn điều trị bằng phương pháp hormon vì
người bệnh có thêm những bệnh nặng khác phối hợp, hay đơn giản là người bệnh từ
chối mỗ hay xạ trị. Điều trị bằng hormon thường áp dụng cho ít hơn10% bệnh nhân bị
ung thư tiền liệt tuyến còn khu trú. Nên nhớ rằng, điều trị bằng hormon chỉ là tạm thời.
Mục đích là kiểm soát bệnh ung thư hơn là chữa bệnh ung thư vì bệnh ung thư không
thể chữa được.