Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Tài liệu CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (265.8 KB, 26 trang )

CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN.
I. THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN.
1. Khái niệm.
Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra hoạt động giao dịch, mua
bán các loại chứng khoán được tiến hành bởi những đối tượng khác
nhau theo quy định của pháp luật.
2. Phân loại.
a. Căn cứ theo tính chất pháp lý
Thị trường chứng khoán chính thức hay còn gọi là Sở giao dịch
chứng khoán là nơi mua bán loại chứng khoán được niêm yết có địa điểm
và thời biểu mua bán rõ rệt, giá cả được xác định theo hình thức đấu giá
hoặc đấu lệnh.
Thị trường chứng khoán phi chính thức hay còn gọi là thị trường
OTC là nơi mua bán chứng khoán bên ngoài Sở giao dịch, không có ngày
giờ nghỉ hay thủ tục quyết định mà do thoả thuận giữa người mua và
người bán.
Thị trường chứng khoán chính thức có giá trị như “bộ mặt” thị
trường chứng khoán quốc gia, các bộ phận thị trường khác thể hiện sự đa
dạng của các giao dịch có thể lựa chọn. Hàng hoá của thị trường tập trung
cũng là những hàng hoá có thể đánh giá có chất lượng hơn so với hàng
hoá của thị trường khác, do tính có tổ chức của nó; điều đó cũng có nghĩa
sự an toàn hay rủi ro, cơ hội kiếm lời là khác nhau trong các giao dịch
trên thị trường.
b. Căn cứ vào quá trình luân chuyển chứng khoán
Thị trường phát hành hay còn gọi là thị trường sơ cấp là nơi các
chứng khoán được phát hành lần đầu bởi các nhà phát hành được bán cho
các nhà đầu tư.
Thị trường thứ cấp diễn ra các giao dịch chứng khoán chưa được
thanh toá. Bộ phận thị trường này không làm tăng nguồn vốn mới cho


nền kinh tế, nhưng có thể hoạt động liên tục, tạo ra khẳ năng thanh khoản
cho chứng khoán đã phát hành. “Thị trường thứ cấp phục vụ cho hai mục
đích chính: thúc đẩy sự tạo vốn cho các doanh nghiệp, chính phủ và tạo
ra các công cụ đầu tư có khả năng sinh lời cho các nhà đầu tư
c. Căn cứ vào phương thức giao dịch
Thị trường giao ngay là thị trường mua bán chứng khoán theo giá
của ngày giao dịch nhưng việc thanh toán và chuyển giao chứng khoán sẽ
diễn ra tiếp theo sau đó vài ngày theo qui định.
Thị trường tương lai là thị trường mua bán chứng khoán theo một
loạt hợp đồng định sẵn, giá cả được thoả thuận trong ngày giao dịch
nhưng việc thanh toán và chuyển giao chứng khoán sẽ diễn ra trong một
ngày kỳ hạn nhất định trong tương lai.
d. Căn cứ vào đặc điểm hàng hoá trên thị trường chứng khoán
- Thị trường trái phiếu là nơi mua bán các trái phiếu.
- Thị trường cổ phiếu là nơi mua bán các cổ phiếu.
- Thị trường phát sinh là nơi mua bán các công cụ có nguồn gốc
chứng khoán.
3. Các nguyên tắc hoạt động cơ bản của thị trường chứng khoán
a. Nguyên tắc trung gian.
Trên thị trường chứng khoán, các giao dịch thường được thực hiện
thông qua tổ chức trung gian và môi giới là các công ty chứng khoán.
Trên thị trường sơ cấp, các nhà đầu tư thường không mua trực tiếp của
nhà phát hành mà mua từ các nhà bảo lãnh phát hành. Trên thị trường thứ
cấp, thông qua nghiệp vụ môi giới kinh doanh các công ty chứng khoán
mua chứng khoán giúp các nhà đầu tư, hoặc mua chứng khoán của nhà
đầu tư này để mua và bán cho các nhà đầu tư khác.
Nguyên tắc này nhằm đảm bảo các loại chứng khoán được giao dịch
là chứng khoán thực và giúp thị trường hoạt động lành mạnh, bảo vệ
quyền lợi của các nhà đầu tư.
b. Nguyên tắc định giá.

Việc định giá chứng khoán trên thị trường phụ thuộc hoàn toàn vào
các nhà trung gian môi giới. Mỗi nhà trung gian môi giới định giá mỗi
loại chứng khoán tại một thời điểm tuỳ theo sự xét đoán và tùy vào số
cung cầu chứng khoán có trên thị trường. Việc định giá chứng khoán
được thực hiện thông qua cuộc thương lượng giữa những người trung
gian môi giới cần mua và cần bán. Giá cả được xác định khi hai bên đã
thống nhất. Tất cả các thành viên có liên quan trên thị trường không ai có
thể can thiệp vào sự tác động qua lại của số cung cầu chứng khoán trên
thị trường và cũng không ai có quyền định giá chứng khoán một cách độc
đoán. Vì thế thị trường chứng khoán được coi là thị trường tự do nhất
trong các thị trường.
c. Nguyên tắc công khai hoá.
Tất cả các hoạt động trên thị trường chứng khoán đều được công
khai hoá về các loại chứng khoán được đưa ra mua bán trên thị trường,
cũng như tình hình tài chính về kết quả kinh doanh của công ty phát hành
và số lượng chứng khoán và giá cả từng loại đều được công khai trên thị
trường và trong các báo cáo. Khi kết thúc một cuộc giao dịch số lượng
chứng khoán được mua bán, giá cả từng loại đều được lập tức thông bán
ngay. Nguyên tắc này nhằm đảm bảo quyền lợi cho người mua và người
bán chứng khoán không bị hớ trong mua bán chứng khoán và người mua
chứng khoán dễ dàng chọn loại chứng khoán theo sở thích của mình.
4. Hàng hóa của thị trường chứng khoán
4.1 Khái niệm
Chứng khoán là những giấy tờ có giá xác định số vốn đầu tư và nó
xác nhận quyền đòi nợ hay quyền sở hữu về tài sản, bao gồm những điều
kiện về thu nhập trong một khoảng thời gian nào đó và có khả năng
chuyển nhượng.
4.2 Phân loại và đặc điểm
a. Căn cứ theo tiêu thức pháp lý
Chứng khoán vô danh là loại chứng khoán không ghi rõ họ tên chủ

sở hữu. Việc chuyển nhượng loại này rất dễ dàng, không cần thủ tục đăng
ký rườm rà.
Chứng khoán ký danh là loại chứng khoán ghi rõ họ tên chủ sở hữu.
Việc chuyển nhượng loại này được thực hiện bằng thủ tục đăng ký tại cơ
quan phát hành.
b. Căn cứ theo tính chất thu nhập
Chứng khoán có thu nhập ổn định là các trái phiếu thu nhập của nó
không phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của công ty.
Chứng khoán có thu nhập không ổn định là các cổ phiếu thường, thu
nhập của nó phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của công ty và
chính sách trả cổ tức.
Chứng khoán hỗn hợp là cổ phiếu ưu đãi, có một phần thu nhập là
không phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của công ty.
c. Căn cứ theo chủ thể phát hành
Chứng khoán Chính phủ là các chứng khoán do các cơ quan của
Chính phủ trung ương hay chính quyền địa phương phát hành như trái
phiếu kho bạc, trái phiếu công trình, trái phiếu Chính phủ, công trái Nhà
nước.
Chứng khoán công ty là chứng khoán do các doanh nghiệp, công ty
cổ phần phát hành như trái phiếu, cổ phiếu và các công cụ có nguồn gốc
chứng khoán.
4.2.1 Trái phiếu
Trái phiếu là giấy tờ có giá xác định số vốn đầu tư và xác nhận
quyền đòi nợ bao gồm những điều kiện và thu nhập trong một khoảng
thời gian nào đó và có khả năng chuyển nhượng.
Từ khái niệm trên ta thấy trái phiếu có đặc điểm là có thu nhập ổn
định, có khả năng chuyển nhượng, có thời gian đáo hạn. Đồng thời trái
chủ không có quyền tham gia bầu cử, ứng cử vào Hội đồng quản trị.
Nhưng trái phiếu đem lại cho trái chủ quyền được ưu tiên trong phân chia
lợi nhuận cũng như thanh lý tài sản khi công ty phá sản.

Phân loại
Căn cứ vào hình thức phát hành
- Trái phiếu vô danh
- Trái phiếu kí danh
Căn cứ vào chủ thể phát hành
- Trái phiếu chính phủ
- Trái phiếu dài hạn kho bạc (treasury bonds)
- Trái phiếu đô thị (municipal bonds)
- Công trái nhà nước (state bonds):
- Trái phiếu công ty (corporate bonds)
Căn cứ vào lợi tức trái phiếu
- Trái phiếu có lãi suất ổn định (level coupon bond)
- Trái phiếu chiết khấu (zero coupon bonds)
- Trái phiếu lãi suất thả nổi (floating rate bond)
4.2.2 Cổ phiếu
Cổ phiếu là những giấy tờ có giá xác định số vốn đầu tư và nó xác
nhận quyền sở hữu về tài sản và những điều kiện về thu nhập trong một
khoảng thời gian nào đó và có khả năng chuyển nhượng. Có hai loại cổ
phiếu là cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi.
4.2.2.1 Cổ phiếu thường
Cổ phiếu thường là cổ phiếu không có thời gian đáo hạn, không có
thu nhập ổn định mà thu nhập của nó phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh
doanh hay chính sách chi trả cổ tức của công ty. Cổ phiếu thường có khả
năng chuyển nhượng dễ dàng. Người nắm giữ cổ phiếu thường có quyền
tham gia bầu cử vào Hội đồng quản trị nhưng không được ưu tiên trong
phân chia lợi nhuận cũng như thanh lý tài sản khi công ty phá sản. Ngoài
ra cổ phiếu thường còn đem lại quyền đặt mua cổ phiếu mới cho các cổ
đông.
4.2.2.2 Cổ phiếu ưu đãi
Cổ phiếu ưu đãi là loại cổ phiếu có sự ưu tiên hơn cổ phiếu thường

trong việc phân chia lợi nhuận cũng như chi trả cổ tức và thanh lý tài sản
khi công ty phá sản.
Cổ phiếu ưu đãi cũng như cổ phiếu thường là nó không có thời gian
đáo hạn. Nó tồn tại ở sự tồn tại của công ty. Nó cũng có khả năng chuyển
nhượng nhưng phải thêm một số điều kiện nhất định. Cổ tức của cổ phiếu
ưu đãi lẫn cổ phiếu thường đều không phải là nợ của công ty do đó không
có thu nhập ổn định trong điều kiện bình thường và nó có thể được mua
lại bởi nhà phát hành.
Cổ phiếu ưu đãi còn có một số điều khoản kèm theo. Thứ nhất, cổ
phiếu ưu đãi có tính chất tham dự trong phân chia lợi nhuận khi công ty
làm ăn có lãi, vượt một mức nào đó. Thứ hai, cổ phiếu ưu đãi có tính chất
bỏ phiếu. Trong điều kiện bình thường, cổ phiếu ưu đãi không có tính
chất bỏ phiếu. Nhưng khi công ty làm ăn thua lỗ, cổ phiếu ưu đãi sẽ có
tính chất bỏ phiếu. Thứ ba, cổ phiếu ưu đãi có tính chất tích luỹ hay
không tích luỹ tức là do côgn ty làm ăn không hiệu quả, công ty sẽ không
trả cổ tức. Nhưng khi công ty làm ăn có lãi công ty có thể trả cổ tức cho
những năm bị thua lỗ trước đó hoặc không trả cổ tức của những năm
chưa trả được
4.2.2.3 Các công cụ phát sinh
Công cụ phát sinh là những công cụ được phát hành trên cơ sở
những công cụ đã có như cổ phiếu nhằm nhiều mục tiêu khác nhau như
phân tán rủi ro, bảo vệ lợi nhuận hoặc tạo lợi nhuận.
Phân loại
Quyền lựa chọn là một công cụ cho phép người nắm giữ nó được
mua (nếu là quyền chọn mua) hoặc bán (nếu là quyền chọn bán một khối
lượng nhất định hàng hoá với một mức giá xác định và trong một thời
hạn nhất định. Các hàng hoá này có thể là cổ phiếu, trái phiếu hay hợp
đồng tương lai.
Hợp đồng tương lại là một thoả thuận trong đó một người mua và
một người bán chấp thuận thực hiện một giao dịch tại một thời điểm xác

định trong tương lai với một mức giá được ấn định vào ngày hôm nay.
Hợp đồng tương lai được niêm yết trên sở giao dịch, nó xoá bỏ rủi ro tín
dụng vì nó được công ty thanh toán bù trừ phục vụ như là một trung gian
trong tất cả các giao dịch. Người bán và người mua đều bán mua qua
công ty thanh toán bù trừ. Hợp đồng tương lai đều được tiêu chuẩn hoấ
về việc giao nhận một khối lượng cụ thể của một hàng hoá cụ thể đáp
ứng các tiêu chuẩn chất lượng tối thiểu, theo một thời hạn được ấn định
trước. Hợp đồng tương lai còn được chuyển giao theo giá thị trường tức
là bất kỳ món lợi nào cũng được giao nhận hàng ngày. Cụ thể là nếu giá
của hàng hoá cơ sở biến động khác với giá đã thoả thuận (giá thực hiện
hợp đồng) thì bên bị thiệt hại do sự thay đổi giá này phải trả tiền cho bên
được lợi từ sự thay đổi giá đó. Việc thanh toán như thế được tiến hành
hàng ngày
5. Chức năng và vai trò của thị trường chứng khoán.
5.1 Chức năng cơ bản của thị trường chứng khoán
Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế
- Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng
- Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán
- Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp
- Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách vĩ mô
5.2 Vai trò của thị trường chứng khoán
5.2.1 Đối với nền kinh tế vĩ mô nói chung
Chứng khoán và thị trường chứng khoán tồn tại như một tất yếu
khách quan của nền kinh tế thị trường và giữ vai trò đặc biệt quan trọng
đối với nền kinh tế.
Xuất phát từ nguồn gốc ra đời của chứng khoán và thị trường chứng
khoán, có thể khẳng định, thị trường chứng khoán là công cụ quan trọng
trong việc huy động vốn trung và dài hạn.
Trường chứng khoán còn là công cụ thực hiện chính sách tài chính
tiền tệ quốc gia và các chính sách vĩ mô khác.

Thị trường chứng khoán đóng vai trò tạo khả năng thanh khoản cho
các chứng khoán.
Thị trường chứng khoán Việt Nam có mối quan hệ mật thiết với quá
trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước.
Thị trường chứng khoán chứa đựng những yếu tố tác động trong thị
trường tài chính.
5.2.2 Đối với các chủ thể tham gia trên thị trường chứng khoán
và các tổ chức liên quan
a. Đối với chính phủ.
Thị trường chứng khoán cung cấp các phương tiện để huy động vốn
và sử dụng các nguồn vốn một cách có hiệu quả cho nền kinh tế quốc
dân. Chính phủ huy động vốn bằng việc bán trái phiếu và dùng số tiền đó
để đầu tư vào các dự án cần thiết của mình.
Thị trường chứng khoán còn góp phần thực hiện quá trình cổ phần
hoá. Chính thị trường chứng khoán có thực mới có thể tuyên truyền sự
cần thiết của thị trường chứng khoán một cách tốt nhất. Từ đó khuyến
khích việc cổ phần hoá nhanh lên các doanh nghiệp quốc doanh.
Thị trường chứng khoán là nơi để thực hiện các chính sách tiền tệ.
Lãi suất thị trường có thể tăng lên hoặc giảm xuống do việc chính phủ
mua hoặc bán trái phiếu.
Ngoài ra thị trường chứng khoán là nơi thu hút các nguồn vốn đầu tư
gián tiếp từ nước ngoài qua việc nước ngoài mua chứng khoán.
b. Đối với các doanh nghiệp.
Thị trường chứng khoán giúp các công ty thoát khỏi các khoản vay
kh có chi phí tiền vay cao ở các ngân hàng. Các doanh nghiệp có thể phát
hành cổ phiếu hoặc trái phiếu. Hoặc chính thị ttường chứng khoán tạo ra
tính thanh khoản để cho công ty có thể bán chứng khoán bất kỳ lúc nào
để có tiền. Như vậy, thị trường chứng khoán giúp các doanh nghiệp đa
dạng hoá các hình thức huy động vốn và đầu tư.
Thị trường chứng khoán là nơi đánh giá giá trị của doanh nghiệp và

của cả nền kinh tế một cách tổng hợp và chính xác (kể cả giá trị hữu hình
và vô hình) thông qua chỉ số giá chứng khoán trên thị trường. Từ đó tạo
ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới, cải tiến sản phẩm.
Thị trường chứng khoán còn là nơi giúp các tập đoàn ra mắt công
chúng. Thị trường chứng khoán chính là nơi quảng cáo ít chi phí về bản
thân doanh nghiệp.
c. Đối với nhà đầu tư.
Thị trường chứng khoán là nơi mà các nhà đầu tư có thể dễ dàng tìm
kiếm các cơ hội đầu tư để đa dạng hoá đầu tư, giảm thiểu rủi ro trong đầu
tư.
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG GIAO DỊCH
CHỨNG KHOÁN CHÍNH THỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
1. Về cơ quan quản lý thị trường chứng khoán.
Xuất phát từ vai trò Nhà nước xã hội chủ nghĩa, từ đặc điểm của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nhà nước có
vị trí, vai trò rất quan trọng, mặc dù có những hình thái biểu hiện cụ thể
khác nhau trong giai đoạn hiện nay. Đối với thị trường chứng khoán,
nguyên tắc thực hiện sự can thiệp của Nhà nước cũng được thể hiện rất rõ
ràng tại các văn bản pháp luật điều chỉnh trực tiếp thị trường. Nghị định
số 75/CP ngày 28/11/1996 đã cho ra đời một cơ quan quản lý chức năng
riệng đối với thị trường chứng khoán Việt Nam. Văn bản này xác định rõ
mô hình, vị trí, chức năng nhiệm vụ của cơ quan quản lý nhà nước về
chức khoán.
Đối với Việt Nam, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước đã được thành
lập để quản lý và giám sát thúc đẩy cho thị trường phát triển theo định
hướng XHCN và bảo vệ quyền lợi cho các nhà đâu tư. Đây là bước đi
đúng phù hợp với điều kiện của Việt Nam và xu hướng quốc tế.
2. Về sở giao dịch chứng khoán.
Đối với Việt Nam, Sở giao dịch chứng khoán sẽ do Nhà nước sử

hữu, để đảm bảo an toàn, công bằng theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Việc thành lập, đình chỉ hoạt động hoặc giải thể Sở giao dịch chứng
khoán do Thủ tướng chính phủ quyết định theo đề nghị của Uỷ ban
chứng khoán Nhà nước. Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam là một tổ
chức hoạt động không vì lợi nhuận đặt dưới sự quản lý trực tiếp của Uỷ
ban chứng khoán Nhà nước.
Vì vậy, để đạt được mục tiêu hình thành và phát triển thị trường
chứng khoán, Nhà nước tạo ra những tiền đề cần thiết, những đảm bảo
pháp lý cho thị trường chứng khoán được hình thành và phát triển. Thực
tế trong thời gian qua cho thấy, Nhà nước đã làm “bà đỡ” cho thị trường
chứng khoán với rất nhiều góc độ và biện pháp khác nhau: tạo điều kiện
hàng hoá cho thị trường, tạo điều kiện hình thành cơ quan quản lý nhà
nước về thị trường chứng khoán, tạo cơ hội cho người đầu tư và nhà kinh
doanh…
Xác định tính sở hữu nhà nước đối với Trung tâm Giao dịch chứng
khoán. Nghị định số 48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998 ghi nhận vấn đề
này. Để chính thức cho ra đời thị trường chứng khoán tập trung của Việt
Nam, Nhà nước đã thành lập Trung tâm giao dịch chứng khoán. Quyết
định số 127/1998/QĐ-TTg ngày 11/7/1998 của Thủ tướng chính phủ đã
thành lập Trung tâm Giao dịch chứng khoán Hà nội và Trung tâm giao
dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh nay là Sở giao dịch chứng
khoán Hà Nội và Sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh.
Ngày 20/11/2008, Bộ Tài chính ban hành Quyết định số 108/2008-
QĐ-BTC về việc ban hành Quy chế tổ chức và quản lý giao dịch chứng
khoán công ty đại chúng (CtyĐC) chưa niêm yết tại Trung tâm Giao dịch
Chứng khoán Hà Nội (HaSTC). Đây là cơ sở pháp lý quan trọng trong
việc triển khai thị trường UPCoM (Thị trường giao dịch cổ phiếu của
CTĐC chưa niêm yết).
3. Giao dịch ngoài Sở.
Đối với Việt Nam, để công khai hoá tất cả các hoạt động giao dịch,

Nhà nước đã và đang thành lập phát triển Sở giao dịch chứng khoán tập
trung cho tất cả các chứng khoán (kể cả công ty và và nhỏ) có đủ điều
kiện niêm yết, hay không đủ điều kiện niêm yết được mua bán tại Sở giao
dịch chứng khoán. Tuy nhiên, việc giao dịch những chứng khoán của
công ty lớn (đủ điều kiện niêm yết) tách biệt với khu vực giao dịch những
chứng khoán của những công ty vừa và nhỏ không đủ điều kiện niêm yết.
Hiện nay ngoài hai sở giao dịch chứng khoán lớn là Hà Nội và TP
Hồ Chí Minh còn có thị trường chứng khoán phi chính thức hay còn gọi
là thị trường OTC là nơi mua bán chứng khoán bên ngoài Sở giao dịch,
không có ngày giờ nghỉ hay thủ tục quyết định mà do thoả thuận giữa
người mua và người bán Hiện nay đang có hơn 3.600 doanh nghiệp (DN)
còn lại hiện đang giao dịch cổ phiếu trên thị trường tự do với việc trao
đổi, mua/bán cổ phiếu chưa chịu sự điều chỉnh bởi những quy định pháp
lý.
4. Hệ thống giao dịch.
Việt Nam đang áp dụng hệ thống ghép lệnh. Hệ thống này đơn giản
cho phép có được giá cả, cạnh tranh tốt nhất nên đang được nhiều nước
mới nổi áp dụng. ở Việt Nam trong thời gian đầu khi thị trường chưa phát
triển, khối lượng giao dịch còn nhỏ, nên áp dụng phương thức ghép lệnh
từng đợt để giảm bớt sự biến động của giá cả.
Trong điều kiện chi phí cho hệ thống tự động hoá ngày càng có xu
hướng giảm thì Việt Nam cần thiết và sử dụng chương trình tự động hoá
ngay từ đầu. Nếu bắt đầu bằng giao dịch thủ công, sau đó lại thay thế
bằng hệ thống tự động thì sẽ tốn kém. Để tiết kiệm chi phí cho thời gian
đầu ở Việt Nam chỉ lắp đặt thiết bị với công suất xử lý thấp. Các thiết bị
lắp đặt ở trạng thái mở để khi khối lượng giao dịch tăng lên có thể lắp đặt
thêm nhằm mổ rộng công suất xử lý của hệ thống.
Ngày 12/1/2009, Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội chính thức triển
khai giao dịch trực tuyến. Ngày 8/2/2010, Sở Giao dịch Chứng khoán Hà
Nội chính thức triển khai giao dịch trực tuyến

Nhằm ứng dụng công nghệ hiện đại cho hoạt động giao dịch chứng
khoán, nâng cao chất lượng phục vụ các công ty chứng khoán và đáp ứng
nhu cầu giao dịch của nhà đầu tư. Giao dịch trực tuyến cho phép hệ thống
giao dịch của các công ty chứng khoán thành viên kết nối trực tiếp với hệ
thống giao dịch của Sở giao dịch để thực hiện giao dịch chứng khoán, tự
động hóa và rút ngắn quá trình nhận lệnh, xử lý và xác nhận giao dịch
của nhà đầu tư. Lệnh giao dịch của nhà đầu tư được nhập trực tiếp vào hệ
thống của Sở giao dịch thông qua hệ thống máy chủ của công ty chứng
khoán, kết quả và thông tin giao dịch được trả tức thời về hệ thống của
công ty chứng khoán. Thời gian truyền lệnh được rút ngắn.
5. Về hoạt động thị trường
Cũng như bất kỳ thị trường chứng khoán tập trung nào khác, Trung
tâm giao dịch chứng khoán của Việt Nam thực hiện các hoạt động liên
quan đến giao dịch chứng khoán. Nhiệm vụ mang tính đặc trưng của bất
kỳ một thị trường chứng khoán tập trung nào là phải thực hiện hoạt động
niêm yết, giao dịch và đăng ký chứng khoán. Chính nội dung này giúp
cho bất kỳ người quan tâm nào cũng phân biệt thị trường tập trung với
các loại thị trường khác. Thị trường chứng khoán Việt Nam cũng không
nằm ngoài đặc trưng đó và nó đã được pháp luật quy định cụ thể.
6. Nhược điểm của thị trường chứng khoán
a. Yếu tố đầu cơ.
Đầu cơ là yếu tố có tính toán của người chấp nhận rủi ro. Họ có thể
mua cổ phiếu ngay với hy vọng giá cổ phiếu sẽ tăng trong tương lai và
thu hồi được lợi nhuận trong từng thương vụ. Yếu tố này gây ảnh hưởng
lan truyền làm cho giá cổ phiếu có thể tăng giả tạo. Tuy nhiên thị trường
không cấm yếu tố này. Nhà đầu tư khi đầu tư vào cổ phiếu sẽ có ba mặt
lợi: Một là được chia cổ tức hàng năm (hàng quý ); hai là được hưởng
giá trị cổ phần gia tăng do công ty hoạt động tốt có lợi nhuận và có tích
lũy nội, đến một lúc nào đó công ty nhập quỹ tích lũy vào vốn điều lệ thì
người đầu tư được tăng thêm số lượng cổ phần; ba là được hưởng lợi do

chênh lệch giá mua bán cổ phiếu.
Nhà đầu tư cổ phiếu khi tham gia tích cực mua đi bán lại cổ phiếu để
kiếm lợi nhuận chênh lệch giá, lúc đó họ trở thành những người kinh
doanh chứng khoán. Người kinh doanh chứng khoán ít quan tâm đến mặt
lợi nhuận thứ nhất và thứ hai như đã đề cập. Người kinh doanh chứng
khoán sẽ mua vào khi có dấu hiệu giá lên, sẽ bán ra khi có dấu hiệu giá
cổ phiếu hạ. Do đó hoạt động của nhà kinh doanh chứng khoán gắn liền
với hoạt động đầu cơ chứng khoán. Đầu cơ chứng khoán được công nhận
thì thị trường chứng khoán mới hoạt động sôi nổi liên tục.
Nhìn chung thị trường chứng khoán (TTCK) phải chấp nhận đầu
cơ.Nhưng có những hành động đầu cơ bị cấm. Những hành động đầu cơ
bị cấm đó là:
Tính chất: Là hành động nhằm tạo ra sức ép lớn về quan hệ cung cầu
một loại chứng khoán nào đó trên thị trường dẫn đến hình thành một giá
chứng khoán không giống với giá tồn tại bình thường, có lợi cho người
đầu cơ, gây thiệt hại cho những người khác.
Mục tiêu: Tạo nên một giá giả tạo nhằm: tìm cách nâng giá lên rồi
bán tống bán tháo số chứng khoán cho người mua; giữ giá ổn định ở một
mức cao hơn giá thực tế của nó để bán (cao hơn giá trị thực tế của cổ
phiếu); và tìm cách giảm giá xuống rồi mua chứng khoán về càng nhiều
càng tốt.
Các hành động đầu cơ, đầu cơ được thực hiện bằng nhiều thủ đoạn
khác nhau, trong đó có các loại chính sau đây: Bán giả, thu hút và hùn
vốn.
Bán giả: Là những hành động có giao dịch mua bán chứng khoán
nhưng không có việc chuyển giao sở hữu chứng khoán. Đó là hành động
hai người đâu cơ bày ra những vụ giao dịch, họ đưa ra một giá khác biệt
với chiều hướng diễn biến của thị trường mà cả hai đều chấp thuận nhưng
không có việc thanh toán chứng khoán và tiền. Một loại hành động khác:
một người đầu cơ đưa ra những lệnh phối hợp cho hai người môi giới,

ông ta bán cổ phiếu cho người môi giới này, rồi mua lại chính loại cổ
phiều đó thông qua người môi giới kia với giá không phù hợp với giá thị
trường. Hoặc người đầu cơ bán đi một số chứng khoán nhờ một người
khác thân quen có thể tin tưởng được (thường là người trong gia đình
hoặc bạn bè thường tin tưởng nhau hơn) đồng lõa mua lại toàn bộ số
chứng khoán đó theo giá như các hành động bán ra trên. Mục đích của
các hành động này là để kéo giá thị trường tới một mức giả tạo (không
phù hợp với chiều hướng và quan hệ cung cầu bình thường trên thị
trường) tạo ra cơ hội kiếm lời hoặc để tránh một mức lỗ.
Thu hút: Là hành động để đưa hầu hết số cổ phiếu một loại nào đó
đang lưu thông trên thị trường tập trung vào một hoặc một vài người,
khiến cho thị trường khan hiếm, giá tăng. Khi giá đã lên tới đỉnh điểm,
người đầu cơ cho rằng đó là mức lợi tối đa thì họ sẽ bán ra. Họ bán số cổ
phiếu của mình và vay cổ phiếu của người khác để bán (bán khống). Thu
hút là một hành động rất nguy hiểm đối với những người bán khống
trước đó (người đầu cơ trước bằng cách thu hút), vì những người bán
khống trước đó đã dến thời hạn cần mua để thanh toán.
Hùn vốn: Là hành vi liên kết tạm thời giữa hai hay nhiều người trong
một vụ mua bán chứng khoán để cùng mua cho giá tăng lên, để cùng bán
cho giá hạ. Khi giá đã tăng lên hoặc hạ xuống đến một điểm tối ưu, một
người trong số đó mua vào hoặc bán hết ra. Sự hùn vốn nếu có người "tay
trong" là những người đang giữ những vị trí quan trọng có thể tiếp cận
hoặc những người nắm rõ thông tin nội bộ nhanh nhất và chính xác nhất
để nhận và sử dụng thông tin đó cho nhóm hùn vốn thực hiện mua bán
chứng khoán có lợi, thì sự hùn vốn này trở thành vi móc ngoặc. Nhưng
tất cả các hành vi đầu cơ nói trên đều bị cấm. Hiện nay Nhà nước đang
hoàn thiện hệ thống pháp luật để điều chỉnh vấn đề này một cách triệt để.
Các nhà đầu tư nước ta còn thiếu nhiều kinh nghiệm trong đầu tư và
sử dụng cổ phiếu và hạn chế về khối lượng vốn đầu tư.nhà đầu tư cá nhân
trong nước thường chạy theo động thái giao dịch của nhà đầu tư nước

ngoài thì hiện nay hầu như tình trạng này không còn. Lý giải về điều này,
một nhà đầu tư có thâm niên cho biết, do quan điểm đầu tư khác nhau,
nhà đầu tư nước ngoài là tổ chức lượng vốn lớn và mục tiêu dài hạn hơn
thì chọn CP blue-chips là thích hợp. Trong khi đó các nhà đầu tư trong
nước đa số là cá nhân thì vốn ít, thích đầu tư ngắn hạn theo kiểu lướt
sóng nên sau một thời gian nắm giữ CP blue-chips không đạt hiệu quả thì
sẽ bán ra
b. Mua bán nội gián.
Mua bán nội gián là việc một cá nhân nào đó lợi dụng vị trí công
việc của mình, nắm được những thông tin nội bộ của đơn vị phát hành để
mua hoặc bán cổ phiếu của đơn vị đó một cách không bình thường nhằm
thu lợi cho mình và làm ảnh hưởng tới giá của cổ phiếu trên thị trường.
Đây là hành vi phi đạo đức thương mại và bị cấm ở các nước.
Tại VN, giao dịch nội gián không phải là vấn đề mới nhưng vẫn luôn
nóng bỏng với mức độ ngày càng nghiêm trọng
Việc Ủy ban Chứng khoán nhà nước (UBCKNN) vừa công bố xử
phạt 3 nhà đầu tư (NĐT) cá nhân tổng cộng 165 triệu đồng vì giao dịch nội
gián lại dấy lên mối lo về vấn đề này trên thị trường.
Đó là trường hợp của bà Đào Thị Kiều, cổ đông nội bộ (chính xác là vợ
của ông Nguyễn Tiến Dũng - Tổng giám đốc kiêm thành viên HĐQT) của
CTCP Tập đoàn khoáng sản Hamico (KSH). Đây không phải là vụ xử phạt
đầu tiên về giao dịch nội gián trên thị trường chứng khoán. Đầu tháng
12.2009, UBCKNN cũng công bố xử phạt ông Trần Công Phước - là nhân
viên của CTCP phát triển nhà Thủ Đức (TDH) và ông Phạm Quốc Thắng
50 triệu đồng/người vì đã sử dụng thông tin nội bộ về việc TDH phát hành
CP thưởng theo tỷ lệ 2:1 để mua bán Theo tính toán, giao dịch nội gián
kiểu này đã mang lại một khoản lợi nhuận lớn cho những người tham gia,
các nhà đầu tư Chịu phạt nhỏ nhưng thu lợi lớn. Số tiền bị xử phạt thì chỉ
là "hạt muối bỏ biển", không đủ sức để răn đe chứ chưa nói đến ngăn chặn.
Đó hẳn là một nguy cơ lớn nếu không tìm được giải pháp hữu hiệu ngăn

chặn trong khi các khoản lợi sẽ tăng theo cấp số nhân mà “vốn + chí phí –
tiền xử phạt - nhỏ đến mức đáng sợ so với những gì mà nó đem lại. Dẫu
vậy, chế tài để xử lý các hành vi này mới dừng lại ở kiểu đánh trống bỏ
dùi. Theo Điều 181b của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật
Hình sự: Tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán bị phạt tiền
từ 100 triệu đồng đến 500 triệu đồng, phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm.
Phạm tội có tổ chức, thu lợi bất chính rất lớn, gây hậu quả nghiêm trọng,
tái phạm nguy hiểm thì có thể bị phạt tù từ 2 đến 7 năm.Người phạm tội
còn có thể bị phạt tiền từ 10 đến 150 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ,
cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định 1 - 5 năm.

Hiện tượng cổ đông nội bộ, cổ đông lớn dùng giao dịch nội gián hoặc thao
túng giá chứng khoán như trên đã từng làm cho TTCK chao đảo nhiều lần,
UBCKNN cũng đã phạt hơn chục vụ nhưng vi phạm ngày càng trầm trọng
hơn!?
Chủ tịch UBCKNN Vũ Bằng từng thừa nhận việc điều tra, xử phạt hành vi
vi phạm trên rất khó. Mức phạt thấp, khung pháp lý chưa đầy đủ, và nhất là
giơ cao đánh khẽ đã khiến những vụ thao túng, giao dịch nội gián vẫn có
đất sống.
UBCKNN nhiều lần cảnh báo các Sở GDCK, Cty niêm yết phải dập nhanh
tin đồn, minh bạch thông tin, nhưng khi xảy ra vụ việc thì chính những nơi
này lại xử lý theo kiểu đánh trống bỏ dùi.
Từ 1-1-2010, Điều 181b của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật
Hình sự cũng quy định những hành vi trên có thể phải ngồi tù, nhưng cho
đến nay mức phạt cao nhất chưa đến 70 triệu đồng/hành vi.
Lãnh đạo cả sàn HNX và HOSE đều khẳng định: Với những trang thiết bị,
công nghệ mới thì năm 2010 sẽ dễ dàng phát hiện những vụ thao túng, nội
gián hơn.
Luật đã có, công cụ phát hiện vi phạm không thiếu, và nhà đầu tư chỉ còn
chờ cách xử lý của UBCKNN để TTCK minh bạch hơn, giảm thiểu thiệt

hại cho nhà đầu tư.
c. Phao tin đồn không chính xác hay thông tin lệch lạc.
Đây là việc đưa ra các thông tin sai sự thật về tình hình tài chính,
tình hình nội bộ của công ty hay về môi trường kinh doanh của công ty
nhằm tăng hay giảm giá cổ phiếu để thu lợi nhuận cho cá nhân.
Việc đưa tin đồn sai sự thật không mới nhưng tác động của nó lại hết sức
lớn. Nó tác động mạnh mẽ đến tâm lí đầu tư, thị truờng lên hay xuống luôn
luôn gắn liền với sự kỳ vọng hoặc phản ứng của công chúng đầu tư đối với
những tin vĩ mô nhất định. Sự điều chỉnh thất thường của sàn chứng khoán
Việt Nam cho thấy đây là một trong những thị trường không ổn định nhất
thế giới trong vài năm qua.
Thị truờng - index càng tăng, tin đồn càng nhiều, đó là kinh nghiệm
của những ai chơi cổ phiếu lâu năm. Và như vòng luẩn quẩn, tin đồn đó lại
giúp đẩy giá cổ phiếu đi lên hơn nữa, đẩy index lên hơn nữa.
Việc nhà môi giới cung cấp thông tin phân tích cho khách hàng, bao
gồm cả những thông tin xác thực cũng như những "tin đồn" trên thị
trường đã trở thành hiện tượng bình thường đối với nhà đầu tư. Thậm chí,
đây còn là nhu cầu thiết thực đối với một số nhà đầu tư lướt sóng, họ sẵn
sàng trả tiền để được nghe những tin đồn một cách nhanh nhất. Trên một
số diễn đàn, rất nhiều phân tích đánh giá thị trường được dựa trên những
"tin đồn" như một cơ sở để nhà đầu tư ra quyết định mua bán. Những tin
đồn được quan tâm nhất hiện nay là nhóm nhà đầu tư lớn này đang
"đánh" mã XYZ, công ty ABC chuẩn bị công bố lợi nhuận đột biến… Có
thể những thông tin ban đầu là chính xác nhưng sau đó thì không biết đâu
mà lường.
d. Mua bán cổ phiếu ngầm.
Mua bán cổ phiếu ngầm là việc mua bán không qua thị trường chứng
khoán. Điều này có thể gây áp lực cho các nhà đầu tư khác đưa tới việc
khống chế hay thay thế lãnh đạo.
Mua bán“ngầm” bất lợi cho nhà đầu tư nhỏ. Sang tháng năm 2010,

các nhà đầu tư nhỏ trên thị trường chứng khoán Việt Nam không chỉ đối
mặt với diễn biến khó lường của kinh tế vĩ mô mà còn phải đối mặt với rủi
ro từ các xu hướng đầu tư “ngầm”.
Theo các nhà phân tích, kể từ khi thị trường chứng khoán bắt đầu
vào xu hướng tăng (cuối tháng 1/2010), thị trường nổi lên 3 xu hướng đầu
tư “ngầm” là xu hướng các VIP (nhà đầu tư lớn) liên kết với nhau đẩy giá
cổ phiếu, xu hướng các công ty chứng khoán phối hợp với các VIP cùng
làm giá, xu hướng các VIP phối hợp với các doanh nghiệp niêm yết làm
giá.
Kịch bản của hoạt động thường có 3 bước lớn
Bước thứ nhất nhóm VIP tranh giành quyền "vét" cổ phiếu và đẩy
giá nhiều lần Để hỗ trợ trên thị trường rỉ ra các tin đồn công ty phát hành
cổ phiếu đang nắm trong tay hàng chục dự án bất động sản lớn; chuẩn bị ra
tin lợi nhuận quý tới rất “khủng”; bán cổ phiếu cho các đối tác ngoại với
giá khá cao…
Bước 2, các VIP bắt đầu lần tìm ai là cổ đông lớn đang nắm nhiều cổ
phiếu doanh nghiệp đó để thương thảo cùng làm giá. Nghĩa là cổ đông lớn
cam kết không bán ra trong thời gian các VIP đẩy giá để việc đẩy giá đảm
bảo thành công.
Bước 3, các VIP tính toán số cổ phiếu trôi nổi trên thị trường có bao
nhiêu, cần gom bao nhiêu, để lại trên thị trường bao nhiêu để trong thời
gian đẩy giá sẽ vét sạch số cổ phiếu trôi nổi đó.Khi đã chuẩn bị đủ 3 bước,
các VIP bắt đầu đẩy giá. Khi giá cổ phiếu đã đạt đến ngưỡng các chỉ báo
kỹ thuật, các nhà đầu tư nhỏ coi là rủi ro, các VIP mới tung tin tốt ra đỡ
giá. Khi thấy tin tốt, các nhà đầu tư nhỏ lao vào mua, các VIP từ từ xả ra
chốt lời. Vụ làm giá khi đó kết thúc.
Do đó khi cổ phiếu được trở về đúng với giá trị thực của nó thì người thu
lợi lớn nhất là các VIP và gánh chịu những rủi ro trên là các nhà đầu tư nhỏ
đã liều mình đầu tư mà không biết rằng đang tự mình chui đầu vào một cái
bẫy đã giăng sẵn. Không hiếm ví dụ cho thấy, cổ phiếu làm giá này có thể

mang lại cho nhà đầu tư may mắn tới 50% lợi nhuận, nhưng khi sang cổ
phiếu làm giá khác, nó cũng lại lấy đi rất nhanh khoản lợi nhuận kiếm
được trước đó, thậm chí, khi không kiểm soát được, nhà đầu tư lao vào cổ
phiếu sau với nguồn vốn lớn hơn nên tỷ lệ thua lỗ lại nặng hơn. Câu
chuyện PVA và VTV là một minh chứng.Không phải ai cũng luôn may
mắn với cổ phiếu làm giá, trừ các VIP, những người đang làm chủ “cuộc
chơi."
Thị trường chứng khoán Việt Nam sau 9 - 10 năm hình thành của
TTCK Việt Nam mới chỉ qua giai đoạn sơ khởi. Còn so với những kỳ vọng
vào sự phát triển lâu dài của thể chế thị trường bậc cao này trong nền kinh
tế Việt Nam thì mọi thành công cũng mới bắt đầu, điểm khởi đầu nào cũng
đầy những khó khăn, bỡ ngỡ.Hoạt động của sàn giao dịch còn gặp nhiều
khó khăn không tránh khỏi.
Ở Việt Nam do thị trường chứng khoán nước ta ra đời muộn cho nên
còn thiếu nhiều đội ngũ có kiến thức sâu về thị trường chứng khoán để
công tác tốt trong việc quản lý Nhà nước, trong công tác kinh doanh chứng
khoán, tư vấn kinh doanh chứng khoán và sẵn sàng chấp nhận rủi ro tham
gia thị trường. Mặt khác khi tham gia đầu tư chứng khoán các nhà đầu tư
cần trang bị cho mình các kiến thức cần thiết và tỉnh táo tiếp nhận những
thông tin đa chiều và có lựa chọn đúng đắn đầu tư hợp lí. Có không ít các
kinh nghiệm từ các chuyên gia được công khai nhưng vận dụng ra sao lựa
chọn thế nào và cơ chế pháp lí tính cạnh tranh công bằng công khai …là
một câu hỏi lớn đối với bất kỳ nhà đầu tư dù lớn hay nhỏ.
e. Việc thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của Sở GDCK
Bảo đảm hoạt động giao dịch chứng khoán trên thị trường được tiến
hành công khai, công bằng, minh bạch và hiệu quả. ở nước ngoài thì hoạt
động tự doanh phải tách rời hoạt động môi giới, ngoài ra phải công bố
hàng ngày. Định kỳ hàng tháng, các Sở GDCK sẽ công bố cái báo cáo gọi
đơn giản là monthly report, nhưng trong đó sẽ có công bố những ai tham
gia TTCK: ngân hàng, bảo hiểm, quỹ đầu tư, chứng khoán…, tất nhiên là

số tổng và tính theo tỷ lệ phần trăm (bạn có thể tham khảo các file này ở
website các Sở GDCK nước ngoài như TSE - Nhật, KRS - Hàn, SET -
Thái…). Không chi tiết, nhưng như thế là khá đủ cho nhà đầu tư theo dõi.
Ở VN cả 10 năm nay chuyện đó là mật, mật đối với người thường. Nhà
đầu tư chỉ biết mỗi giao dịch phân loại theo trong nước và nước ngoài,
nhiều khi cứ cho là minh bạch rồi. Tại sao việc này khá nghiêm trọng?
Thứ nhất, về việc rò rỉ này chưa biết những số liệu đó lấy từ file nào.
Nói rõ hơn một chút là có 2 file cực kỳ quan trọng đang được Sở GDCK sở
hữu: deal và order. File order cũng cho phép bạn lập sổ lệnh. Có sổ lệnh,
bạn sẽ biết thị trường có xu hướng khớp ở giá nào và nếu bạn là nhà đầu tư
lớn, bạn sẽ có thể "lái" giao dịch cho nó khớp đúng giá bạn muốn.
Thứ hai, nghiêm trọng hơn một chút nếu số liệu bị rò là số cuối ngày
hay số được tạo ra ngay trong giờ giao dịch. Nếu bạn biết thông tin ngay
trong giờ giao dịch, bạn lại càng có cơ hội kiếm tiền hơn nữa, vì bạn "đồng
hành" với tổ chức lớn, với tự doanh của CTCK lớn. Nếu số liệu rò rỉ ngay
trong giờ giao dịch, có 2 khả năng: 1 là có ai đó trong Sở bắn số liệu ra liên
tục, 2 là hack.
Thứ ba, nghiêm trọng nhất là khả năng bị hack. Như đã nói ở trên,
nếu ai đó hack được hệ thống giao dịch, xuất hiện nguy cơ là kẻ đó có thể
thay đổi số liệu của Sở. Đó mới là hậu quả khôn lường.
Thực hiện công bố thông tin theo quy định tại Luật Chứng khoán và
các văn bản hướng dẫn. Việc công bố thông tin trên TTCK mang tính nhạy
cảm và hết sức quan trọng trong hoạt động chứng khoán. Trong thời gian
qua, tính công khai, minh bạch của TTCK thông qua công bố thông tin của
công ty niêm yết đã từng bước được nâng lên, phần lớn các công ty niêm
yết tuân thủ công bố thông tin định kỳ. Tuy nhiên một vài công ty còn
chậm trong công bố thông tin bất thường, đặc biệt là trong giao dịch của
các cổ đông nội bộ. Do vậy, UBCKNN rất chú trọng tới vấn đề công bố
thông tin và yêu cầu các tổ chức tham gia nghiêm chỉnh chấp hành.
Bồi thường thiệt hại cho thành viên giao dịch trong trường hợp Sở Giao

dịch gây thiệt hại cho thành viên giao dịch, trừ trường hợp bất khả
kháng.Nhưng phiên giao dịch sáng 31/5/2010, tôi và rất nhiều NĐT khác
hoảng hốt khi thấy bảng điện tử trên sàn Hà Nội gần như trắng trơn, hầu
hết chỉ xuất hiện các lệnh bán mà rất ít lệnh mua. Rất nhiều người lo lắng
không hiểu chuyện gì đã xảy ra. Do trước đó, cả hai sàn chứng khoán đã có
vài phiên tăng liên tiếp nên rất nhiều người nghĩ ngay đến việc bán cổ
phiếu chốt lời để tránh một phiên điều chỉnh sâu. Một số nhà đầu tư đặt
lệnh bán cổ phiếu nhưng chờ rất lâu không thấy lệnh xuất hiện. Các nhân
viên môi giới cũng không cho biết thông tin cụ thể nào càng khiến NĐT
hoang mang. Do giao dịch liên tục nên việc khớp lệnh trên sàn Hà Nội sớm
hơn sàn TP. HCM nên tác động dây chuyền là nhiều NĐT lo lắng đặt lệnh
bán trên sàn HOSE với giá thấp ngay trong đợt mở cửa. Đến 9h20, sự cố
này mới được HNX thông báo trên website của Sở. Sau đó, đại diện HNX
cũng đã lên truyền hình cho biết đây là sự cố nhỏ và xin lỗi NĐT. Vị này
cũng cho biết có 87 CTCK thực hiện giao dịch trực tuyến trong tổng số
hơn 100 CTCK bị ảnh hưởng. Sau khi khắc phục xong thì chỉ có khoảng
40 CTCK thực hiện được giao dịch trực tuyến bình thường.
Một sự cố được cho là nhỏ thì có thể bỏ qua. Nhưng những ảnh hưởng và
hậu quả lớn của nó gây ra liệu có thể dễ dàng khắc phục? Những NĐT nhỏ
lẻ biết kêu ai khi “sự cố nhỏ” này ảnh hưởng ngay đến túi tiền của bản
thân? Câu hỏi đặt ra là, phải chăng quy trình quản lý và vận hành giao dịch
tại HNX chưa được chuẩn hoá? Đáng lẽ ngay khi gặp sự cố, hệ thống dự
phòng phải được khởi động và thay thế trong thời gian ngắn nhất để tránh
tổn thất lớn. Đồng thời, khi xảy ra sự cố HNX phải có thông báo tức thời
đến các thành viên, NĐT trên mọi phương tiện có thể để tránh những sự
hiểu lầm, những đồn đoán không chính xác. Đây không phải là lần đầu tiên
thị trường gặp sự cố. Trong gần 10 năm hoạt động, cả hai Sở đều đã có
những "sự cố nhỏ" như trên, nhưng hình như sau mỗi sự cố qua đi là lại bị
lãng quên TTCK là một thị trường rất nhạy cảm, chỉ cần những sự cố
nhỏ như trên cũng có thể khiến một số lượng lớn tiền của một bộ phận

NĐT bốc hơi.
Xử lý và trả lời những thắc mắc, khiếu nại, khiếu kiện của các nhà
đầu tư, các tổ chức niêm yết
Lâu nay Ủy ban vẫn có đường dây nóng tiếp nhận thông tin của nhà
đầu tư; có bộ phận tiếp nhận xử lý khiếu nại; tổ chức các đoàn thanh tra
định kỳ và đột xuất kiểm tra, xử lý các hành vi vi phạm trên TTCK. Tuy
nhiên, hiệu quả từ việc nhận xử lý kiến nghị, khiếu nại còn hạn chế, một
phần vì các vụ việc rất phức tạp, thời gian giải quyết kéo dài, một phần vì
nhiều trường hợp nhà đầu tư phản ánh còn chung chung, thiếu bằng
chứng. Thanh tra định kỳ cũng chưa được tiến hành thường xuyên, vì vậy
chưa có đánh giá một cách toàn diện với hoạt động của thị trường. Một
khó khăn khác là lực lượng thanh tra quá mỏng, chưa tới 10 người. Nếu
như ở các nước, thanh tra chứng khoán thực hiện nhiệm vụ chuyên sâu
theo từng mảng như thanh tra hành chính, xét khiếu tố, chống tham
nhũng thì ở Việt Nam, một thanh tra viên có khi phải kiêm nhiệm nhiều
nhiệm vụ. Giới đầu tư đánh giá cao những động thái nghiêm khắc của cơ
quan giám sát thị trường trong thời gian gần đây. Tuy nhiên, họ cho biết
rất ngại khi muốn phản ánh những bức xúc, tiêu cực tới bộ phận thanh tra
của UBCKNN, đường dây nóng tại hai số máy 9340770 và 9340750 (số
lẻ 206) thường xuyên bận hoặc không có người nghe, vì thế họ thường
tìm đến báo chí. Ngay chuyện công bố các quyết định xử phạt trên trang
web của UBCKNN (www.ssc.gov.vn), giới đầu tư cũng mong mỏi được
cải thiện để rõ ràng, minh bạch hơn.
CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN VÀ HOÀN THIỆN
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM HIỆN NAY.
I. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
VIỆT NAM.
Nhà nước giữ vai trò quyết định trong việc xây dựng, quản lý,
khuyến khích và tạo điều kiện cho thị trường phát triển theo đúng đường
lối và định hướng của Đảng và chính phủ.

Uỷ ban chứng khoán Nhà nước là cơ quan nhà nước quản lý thống
nhất, nhằm tạo điều kiện cho thị trường hoạt động thông suốt, hiệu quả và an
toàn.
Việt Nam sẽ xây dựng một thị trường chứng khoán có tổ chức, hoạt
động công bằng, hiệu quả an toàn, bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư, phù hợp
với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của đất nước, từng bước hội nhập với
thị trường chứng khoán của các nước trong khu vực và thế giới.
Việt Nam sẽ xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán từ qui
mô nhỏ đến qui mô lớn, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện phù hợp với
điều kiện và tình hình cụ thể của đất nước.
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM.
Thị trường chứng khoán là phong vũ biểu của nền kinh tế, các mối
quan hệ về huy động và luân chuyển vốn trên thị trường chứng khoán
được hình thành và biến đổi trên cơ sở phản ánh của các điều kiện kinh tế
vĩ mô. Chính vì vậy, các chính sách nhằm đảm bảo tính vững chắc và ổn
định của nền kinh tế có tầm quan trọng rất lớn đối với sự phát triển của
thị trường chứng khoán.
Sự ổn định kinh tế vĩ mô và sự nhất quán trong chiến lược phát triển,
vai trò của hệ thống quản lý có tính chất quyết định đối với sự thành bại
của một thị trường. Vì vậy, chúng ta cần sớm xem xét các văn bản pháp
quy hiện hành để điều chỉnh một cách đồng bộ, phù hợp các mâu thuẫn
trong các văn bản pháp qui đó. Điều thực sự cần thiết khi soạn ra các văn
bản pháp qui là các cơ quan quản lý nên tham khảo ý kiến của các công ty
phát hành, các công ty chứng khoán hay của các chuyên gia trên lĩnh vực
chứng khoán.
Sự phát triển thị trường chứng khoán và chương trình cổ phần hoá
có mối quan hệ mật thiết với nhau. Do đó, cần đẩy nhanh tốc độ cổ phần
hoá để lựa chọn một số doanh nghiệp có thể phát hành cổ phiếu và trái
phiếu. Để đẩy nhanh tốc độ cổ phần hoá thì chúng ta cần phải có các văn

bản pháp lý đủ mạnh để làm căn cứ buộc các doanh nghiệp phải cổ phần
hoá. Ngoài ra, Nhà nước còn phải tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi,
“bình đẳng”, có chính sách ưu đãi thuế cho các công ty cổ phần để các
công ty này có thể phát triển được. Hơn nữa, Nhà nước phỉa có thêm các
giải pháp như giúp đỡ người lao động vay vốn để mua cổ phần, xoá bỏ
qui định hạn chế mua cổ phần, tăng cường kiểm tra tiến độ cổ phần hoá
và tăng cường tuyên truyền ưu điểm của cổ phần hoá. Chúng ta không chỉ
cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước mà còn nên xúc tiến việc cổ
phần hoá các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán đều là các thị trường
được sử dụng để thực hiện việc huy động và luân chuyển các nguồn vốn,
hai thị trường này mang tính chất cạnh tranh và bổ sung lẫn nhau. Chính
vì vậy, muốn xây dựng thị trường chứng khoán lớn mạnh thì phải có các
chính sách tác động đến thị trường tiền tệ và tận dụng các cơ sở sẵn có
của thị trường tiền tệ để phát triển thị trường chứng khoán theo một số
hướng điều chỉnh linh hoạt lãi suất huy động và cho vay trên thị trường
tiền tệ để tạo điều kiện thuận lợi cho việc huy động vốn thông qua những
công cụ chứng khoán, khuyến khích các tổ chức hoạt động trên thị trường
tiền tệ, tham gia vào thị trường chứng khoán trên cơ sở có sự quản lý chặt
chẽ của Nhà nước và việc phân định rõ chức năng và phạm vi hoạt động.
Bất kỳ một thị trường nào muốn hoạt động được thì cần phải có cung và
cầu đối với hàng hoá trên thị trường. Do đó trong thời kỳ đầu mới ra đời
thị trường chứng khoán, chúng ta cần tập trung đẩy mạnh các nguồn cung
về chứng khoán theo hướng khuyến khích các doanh nghiệp có đủ điều
kiện phát hành chứng khoán ra công chúng (cả về phát hành lần đầu và
phát hành thêm cổ phiếu mới). Chúng ta cần thực hiện các biện pháp hỗ
trợ, ưu đãi, cho các doanh nghiệp huy động vốn thông qua phát hành
chứng khoán. Để đẩy mạnh cầu chứng khoán, chúng ta cần khuyến khích
các tổ chức, cá nhân tham gia mua chứng khoán trên cơ sở các biện pháp
phát triển kinh tế nhanh, bền vững, kiểm soát lạm phát, nâng cao đời sống

nhân dân nhằm tăng trưởng mức tiết kiệm trong dân cư. Thực hiện chính
sách dần dần mở cửa thị trường một cách thích hợp để khuyến khích đầu
tư nước ngoài, việc phát triển hệ thống trung gian tài chính hoạt động trên
thị trường chứng khoán, hệ thống giám sát có hiệu quả, tăng cường phổ
biến, phổ cập kiến thức về thị trường chứng khoán. Thêm vào đó, cần
phải xúc tiến nhanh việc thành lập thị trường phi chính thức và thị trường
chứng khoán tại Hà nội hay các trái phiếu cần có lãi suất hẫp dẫn hơn lãi
suất tiền gửi tiết kiệm.
Các cơ quan chức năng Nhà nước phải quản lý chặt chẽ các tiêu
chuẩn phát hành, đảm bảo chứng khoán phát hành phải là chứng khoán có
chất lượng, ban hành chế độ kế toán, kiểm toán thống nhất để nâng cao
chất lượng của các thông tin về thị trường chứng khoán trên thị trường,
tạo điều kiện cho các nhà đầu tư có thể hiểu được các thông tin đó và ra
quyết định đầu tư chính xác. Thực hiện chế độ công bố thông tin bắt
buộc, xử lý nghiêm minh các vi phạm trong phát hành và giao dịch chứng
khoán.
Nhà nước cần có chính sách tạo nguồn nhân lực cho thị trường
chứng khoán qua việc mở các lớp đào tạo tại các trường, trên truyền hình,
đài, báo về các kiến thức từ cơ bản đến chuyên sâu về chứng khoán và thị
trường chứng khoán. Trong hoạt động đó, chúng ta có thể lựa chọn những
người có tài thực sự để tạo điều kiện phát triển và hoàn thiện thị trường
chứng khoán.
Về niêm yết, chúng ta cho phép phát hành và niêm yết giao dịch
chứng khoán. Trong giai đoạn đầu việc “gộp” hai nội dung trên thành một
hoạt động nhiêm yết tại Việt Nam là cần thiết và phù hợp, bởi lẽ thị
trường ban đầu còn ở quy mô nhỏ, sơ khai, số lượng chứng khoán được
giao dịch còn khiêm tốn nên chúng ta hoàn toàn có thể kiểm soát được
diễn biến thị trường; mặt khác, quy định như vậy cũng tạo điều kiện cho
nhà phát hành giảm bớt thủ tục, chi phí về thời gian và tiền bạc. Để niêm
yết được chứng khoán, các doanh nghiệp cần phải có đủ điều kiện, trong

đó điều kiện về bản sao giấy phép phát hành, kết quả chào chứng khoán,
bản cáo bạch được coi là những điều kiện quan trọng. Để niêm yết chứng
khoán cho tổ chức phát hành Trung tâm (Sở) phải tiến hành các hoạt

×