Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

KINH tế CHÍNH TRỊ GIÁI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH tế số ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (314.95 KB, 25 trang )

1

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
2
NỘI DUNG
3
I. Các khái niệm Kinh tế tri thức và kinh tế số
3
II. Sự cần thiết đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,hiện đại hóa gắn
7
với phát triển kinh tế tri thức, kinh tế số ở Việt Nam
III. Thực trạng phát triển kinh tế số ở Việt Nam
14
IV. Một số giải pháp phát triển kinh tế số ở Việt Nam
17
KẾT LUẬN
24
TÀI LIỆU THAM KHẢO
25


2

MỞ ĐẦU
Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa là một trong những nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu của quá trình phát triển vì nó đưa cả nền sản xuất vật chất và đời
sống văn hóa - xã hội của đất nước lên trình độ mới. Đối với sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội, cơng nghiệp hóa có vai trị tạo điều kiện, tiền đề vật
chất - kỹ thuật cho chế độ xã hội chủ nghĩa. Ở mỗi thời kỳ lịch sử, căn cứ vào


tình hình kinh tế - xã hội, cơng nghiệp hóa có nội dung và bước đi cụ thể, phù
hợp. Đại hội XIII của Đảng nêu rõ chủ trương: “Tiếp tục đẩy mạnh cơng
nghiệp hố, hiện đại hố trên nền tảng của tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi
mới sáng tạo”, Trong đó, chủ trương đẩy mạnh chuyển đổi số, phát triển kinh
tế số là một trong những biểu hiện cụ thể thể hiện ý chí, khát vọng phát triển
đất nước.
Ngày nay, trên thế giới, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang
phát triển như vũ bão, nhiều cơng nghệ mới ra đời, trong đó cơng nghệ thơng
tin phát triển rất nhanh, nó đã và sẽ tiếp tục giữ vai trò tổng hợp trong sự tác
động của con người đối với quá trình sản xuất và các hoạt động khác, đồng
thời nó cũng đóng vai trị chuyển đổi một thời đại phát triển từ nền kinh tế
công nghiệp sang nền kinh tế dựa vào tri thức. Và nền kinh tế dựa vào tri thức
đến lượt nó lại mở đường cho các nền kinh tế đang phát triển tiếp nhận công
nghệ mới, nhất là công nghệ thông tin để cơ cấu lại nền kinh tế coi phát triển
công nghệ thông tin là hướng ưu tiên hàng đầu để hội nhập kinh tế quốc tế,
thực hiện chiến lược phát triển rút ngắn thông qua các hoạt động tiếp nhận
chuyển giao kỹ thuật, công nghệ, vốn và tri thức kinh doanh, kinh nghiệm
quản lý tiên tiến.
Rõ ràng là xu thế tồn cầu hóa kinh tế và sự phát triển kinh tế số, kinh
tế tri thức đang làm thay đổi mạnh mẽ nội dung và bước đi của quá trình cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đảng ta đã xác định: cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
ở nước ta phải dựa vào tri thức, theo con đường đi tắt, rút ngắn.


3

Nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ XIII, khẳng định rõ, đẩy mạnh
nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới
sáng tạo, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ
tư, thực hiện chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số, nâng cao năng suất,

chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Xuất phát từ thực tế đó, với vốn kiến thức đã tích lũy được.Trong bài
thu hoạch này em xin đề cập một số vấn đề có liên quan đến “Sự cần thiết
đẩy mạnh Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri
thức và kinh tế số ở Việt Nam. Một số giải pháp phát triển kinh tế số ở
Việt Nam”.


4

NỘI DUNG
I. Các khái niệm Kinh tế tri thức và Kinh tế số
1. Khái niệm Kinh tế tri thức
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OEDC 1996) định nghĩa “Nền
kinh tế tri thức là nền kinh tế ngày càng phụ thuộc trực tiếp vào việc sản xuất
phân phối và sử dụng tri thức và thông tin". Tổ chức Diễn đàn hợp tác kinh tế
Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) có điều chỉnh lại: "Kinh tế tri thức là nền
kinh tế mà trong đó sự sản sinh ra, truyền bá và sử dụng tri thức là động lực
chủ yếu nhất cho sự tăng trưởng, tạo ra của cải, tạo việc làm trong tất cả các
ngành kinh tế ". Định nghĩa này nhấn mạnh việc sử dụng tri thức trên tất cả
các lĩnh vực.
Theo GS. Đặng Hữu, Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sản sinh
ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển
kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống Như vậy, có thể nói
kinh tế tri thức là nền kinh tế, trong đó khoa học cơng nghệ trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp, là yếu tố quyết định hàng đầu việc sản xuất ra của
cải, sức cạnh tranh và triển vọng phát triển; Nhân tố quan trọng nhất trong nền
kinh tế kinh thức là việc chiếm hữu, phân phối nguồn trí lực, sáng tạo và sử
dụng tri thức trong những ngành sản xuất có hàm lượng khoa học kỹ thuật
cao. Kinh tế tri thức là kinh tế phát triển trong xã hội tri thức hóa ở mức độ

cao.
Nền kinh tế tri thức có một số đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, nền kinh tế chủ yếu dựa vào tri thức. Hay nói cách khác tri
thức là lực lượng sản xuất trực tiếp. Đối với nền kinh tế tri thức, trong quá
trình quản lý, điều khiển sản xuất, đồng thời trực tiếp đều có tri thức tham gia
vào là một thành tố trong các sản phẩm cũng như nguyên liệu sản xuất,
yếu tố đầu vào của sản xuất cùng với các nguồn lực khác (vốn, nhân lực, tài
nguyên thiên nhiên...) tạo nên quá trình sản xuất.
Thứ hai, kinh tế tri thức dựa ngày càng nhiều vào các thành tựu của
khoa học và cơng nghệ. Đồng thời có tốc độ hoạt động nhanh và đổi mới


5

nhanh.Trong nền kinh tế tri thức, cái quyết định ra năng lực cạnh tranh chính
là sự sáng tạo ra cái mới có chất lượng cao hơn, thời gian đi tới người tiêu
dùng nhanh hơn. Trong kinh tế tri thức, vốn quý nhất là tri thức. Sáng tạo trở
thành động lực trực tiếp của sự phát triển
Thứ ba, cơ cấu lao động được chuyển dịch theo hướng ngày càng coi
trọng lao động trỉ tuệ. Một xã hội học tập – phương thức phát triển cơ bản
của nền kinh tế tri thức. Trong nền kinh tế tri thức, cơ cấu lao động chuyển
dịch theo hướng giảm số lao động trực tiếp làm ra sản phẩm, tăng số lao động
xử lý thông tin, làm dịch vụ, di chuyển sản phẩm và làm văn phịng. Lao động
trí tuệ chiếm tỷ trọng ngày càng cao. Nguồn nhân lực nhanh chóng được tri
thức hóa, sự sáng tạo, đổi mới, học tập trở thành nhu cầu thường xuyên đổi
với mọi người. Khoa học công nghệ và sự sáng tạo của con người trở thành
yếu tố quyết định quá trình phát triển. Vì vậy, học tập trở thành nghĩa vụ của
mỗi người. Mỗi người đều phải tự học tập, tiếp thu tri thức mới, có thể biến tri
thức chung của nhân loại thành cái của mình.
Thứ tư, quyền sở hữu trí tuệ ngày càng trở nên quan trọng. Sở hữu trí

tuệ, hay có khi cịn gọi là tài sản trí tuệ, là những sản phẩm sáng tạo của bộ óc
con người. Quyền sở hữu trí tuệ là sự đảm bảo pháp lý cho tri thức và sự đổi
mới sáng tạo sẽ tiếp tục được tạo ra, duy trì và phát triển. Trong nền kinh tế tri
thức, nguồn lực trí tuệ và năng lực đổi mới là hai nhân tố then chốt để đánh
giá khả năng cạnh tranh, tiềm năng phát triển và sự thịnh vượng của một quốc
gia. Việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ được xem là một nguyên tắc cơ bản
trong sự vận động và phát triển của nền kinh tế tri thức
Thứ năm, kinh tế tri thức là nền kinh tế tồn cầu hóa.Mối quan hệ hợp
tác kinh tế, công nghệ giữa các quốc gia ngày càng tăng cường, đồng thời sự
cạnh tranh gay gắt diễn ra không chỉ ở một quốc gia mà mang tính tồn cầu.
Nền kinh tế tri thức ra đời trong điều kiện kinh tế thế giới hóa tồn cầu, dịch
vụ nào cũng dựa trên nguồn cung ứng từ nhiều nước và được tiêu thụ trên
toàn thế giới, thị trường của các doanh nghiệp phải là thị trường toàn cầu.


6

Nền kinh tế tri thức còn được gọi là nền kỉnh tế tồn cầu hóa nối mạng, hay là
nền kinh tế toàn cầu dựa vào tri thức. Trong nền kinh tế đó, mạng thơng tin
trở thành kết cấu hạ tầng quan trọng nhất.
2. Khái niệm kinh tế số:
Cuộc cách mạng cơng nghiệp 4.0 với xu hướng số hóa hay cơng cuộc
chuyển đổi số đang thực sự xuất hiện mạnh mẽ ở mọi lĩnh vực. Trọng tâm của
nó chính là chuyển đổi số, tích hợp của số hóa, kết nối hay siêu kết nối và xử
lý dữ liệu thông minh. Vậy kinh tế số là gì?
Nhóm cộng tác kinh tế số Oxford đưa ra định nghĩa “Kinh tế số là
một nền kinh tế vận hành chủ yếu dựa trên công nghệ số”, đặc biệt là các
giao dịch điện tử tiến hành thông qua Internet. Kinh tế số hiện diện trên tất
cả các lĩnh vực và nền kinh tế (công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ; sản xuất,
phân phối, lưu thơng hàng hóa, giao thơng vận tải, logistic, tài chính ngân

hàng, …). Chính vì vậy, nội hàm của nền kinh tế số cũng dần trùng với nội
hàm của nền kinh tế.
Theo Diễn đàn Kinh tế tư nhân Việt Nam năm 2019 thì kinh tế số được
hiểu là toàn bộ hoạt động kinh tế dựa trên nền tảng số, và phát triển kinh tế số
là sử dụng công nghệ số và dữ liệu để tạo ra những mơ hình kinh doanh mới.
Hiện nay các trang thương mại điện tử, quảng cáo trực tuyến hay các
ứng dụng về ăn uống, vận chuyển, giao nhận,… cũng tích hợp cơng nghệ số
để đáp ứng nhu cầu thuận tiện cho khách hàng. Nhưng ở tầm vĩ mô hơn,
kinh tế số cũng có những đóng góp khơng nhỏ trong sự hội nhập của các
doanh nghiệp Việt Nam vào chuỗi cơng nghệ tồn cầu.
Tính kết nối giữa các chủ thể và chu trình kinh tế nhờ vào các thành
tựu của cơng nghệ thơng tin và Internet giúp kết nối hóa các nguồn lực,
lược bỏ nhiều khâu trung gian và tăng cơ hội tiếp cận chuỗi giá trị tồn cầu.
Tóm lại, Kinh tế số là nền kinh tế sử dụng kiến thức, thơng tin được số
hóa để hướng dẫn, nâng cao phân bổ nguồn lực, năng suất, mang lại tăng
trưởng kinh tế chất lượng cao. Một nền kinh tế trong đó bao gồm các mơ hình
kinh doanh và quản lý tạo ra sản phẩm, dịch vụ số hoặc hỗ trợ cung cấp dịch


7

vụ số cho chính phủ, doanh nghiệp và người dân. Phát triển kinh tế số là sự
hội tụ của nhiều cơng nghệ mới, như: dữ liệu lớn, điện tốn đám mây, Internet
vạn vật - IOT, blockchain - Chuỗi khối, Trí tuệ nhân tạo AI, mạng không dây
5G. Công nghệ mới cho phép con người xử lý khối lượng công việc lớn, đưa
ra quyết định thông minh hơn. Điều này cũng đồng nghĩa với phân tích dữ
liệu lớn tạo ra cấp độ mới trong phát triển kinh tế số.
II. Sự cần thiết đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức, kinh tế số ở Việt Nam
Cơng nghiệp hóa là con đường tất yếu của mọi quốc gia trong quá trình

phát triển do tác động của quy luật phát triển lực lượng sản xuất;tác động thúc
đẩy bởi tiến bộ về tri thức, khoa học và công nghệ; do tác động của cạnh tranh
trong nền kinh tế thị trường.
Đến nay, lịch sử nhân loại đã chứng kiến 4 cuộc cách mạng công
nghiệp, cũng là các cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật nói chung. Cuộc cách
mạng thứ nhất, khai sinh ra nền cơng nghiệp cơ khí, tạo ra dây chuyền sản
xuất hàng loạt, sản xuất hàng hóa, kinh tế thị trường…(vào cuối thế kỷ
XVIII). Cuộc thứ hai, đưa đến sự ra đời của nền công nghiệp và xã hội điện
khí hóa; tạo tiền đề để chủ nghĩa tư bản chuyển từ tự do cạnh tranh lên độc
quyền đế quốc (cuối thế kỷ XIX). Cuộc thứ ba, mở ra thời đại điện tử hóa, tin
học hóa (giữa thập kỷ 70 của thế kỷ XX). Cuộc thứ tư, đánh dấu bước ngoặt
chuyển đổi số của toàn bộ đời sống vật chất và tinh thần của con người (từ
đầu thế kỷ XXI). Mỗi cuộc cách mạng tạo ra một trình độ cơng nghệ ngày
càng hiện đại cho q trình cơng nghiệp hóa lâu dài của nhân loại.
Trên cơ sở tổng kết cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa từ đầu
thập kỷ 90 của thế kỷ XX đến nay và bám sát bối cảnh, yêu cầu, nhiệm vụ
mới, Đại hội XIII của Đảng nêu rõ chủ trương: “Tiếp tục đẩy mạnh cơng
nghiệp hố, hiện đại hố trên nền tảng của tiến bộ khoa học, công nghệ và đổi
mới sáng tạo”.


8

Cùng với xu hướng tất yếu của cơng nghiệp hóa rút ngắn ở các nước đi
sau, Việt Nam xác định q trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với phát triển kinh tế tri thức, kinh tế số là cần thiết vì những lý do sau:
1. Đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tể tri
thức và kinh tế sế là sự lựa chọn tối ưu đễ rút ngắn khoảng cách tụt hậu.
Ở đây, hiện đại hóa được hiểu là q trình làm cho nền kinh tế và đời
sống xã hội mang tính chất và trình độ tiên tiến nhất của thời đại hiện nay.

Đối với Việt Nam, hiện đại hóa là quá trình tăng tốc, rút ngắn lộ trình để đuổi
kịp các nước phát triển. Kinh tế tri thức là giai đoạn phát triển cao của lực
lượng sản xuất, cao hơn so với các nền kinh tế trước nó là kinh tể nông nghiệp
và kinh tế công nghiệp. Sự ra đời và phát triển của nền kinh tế tri thức là kết
quả tất yếu của quá trình phát triển lực lướng sản xuất xã hội.
Kinh tế số là trình độ phát triển kinh tế dựa trên nền tảng số. Sự phát
triển cao của lực lượng sản xuất mà trực tiếp là sự phát triển mạnh mẽ song
hành giữa các công nghệ số hóa (điển hình là Internet vạn vật) và kinh tế số
đã tạo nên sự biến đổi to lớn và nhanh chóng đối với nền kinh tế và mọi mặt
của đời sống con người.
CNH là một giai đoạn tất yếu của mỗi quốc gia. Đối với nước ta, từ một
nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, muốn tiến lên CNXH, nhất thiết phải trải qua
CNH. Cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa (CNH-HĐH) giúp phát triển lực lượng
sản xuất, làm thay đổi căn bản công nghệ sản xuất, tăng năng suất lao động.
Chuyển đổi số đã trở thành xu thế tất yếu của mọi quốc gia. Thật vậy,
từ năm 2020, đại dịch COVID-19 đã đẩy nhanh quá trình này trên thế giới.
Thực tế cho thấy việc ứng dụng công nghệ số, phát triển hạ tầng số, chuyển
đổi số, đưa các hoạt động thường nhật lên môi trường số là một trong nhưng
giải pháp then chốt để đưa cuộc sống trở lại trạng thái bình thường, cho phép
phục hồi và phát triển kinh tế xã hội.
Tóm lại, trong điều kiện mới, gắn cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa với
phát triển kinh tể tri thức và kinh tế số là xu hướng lựa chọn tối ưu của các
nước đang phát triển như Việt Nam


9

2. Đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hỉện đại hóa gắn với phát triển kinh tể tri thức
và kinh tế sổ là đòi hỏi bẳt buộc để phát triển sức sản xuất của chủ nghĩa xã
hội hiện thực.

Trong kinh tế tri thức tạo ra giá trị, nâng cao năng lực cạnh tranh chủ
yếu là do tìm ra cái chưa biết; cái chưa biết là cái có giá trị nhất. Tìm ra cái
chưa biết, tạo ra cái mới cũng tức là loại trừ cái đã biết. Vòng đời của một sản
phẩm, một cơng nghệ từ lúc nảy sinh, phát triển, chín muồi đến tiêu vong
ngày càng rút ngắn. Tốc độ đổi mới rất nhanh chóng. Nền kinh tế tri thức hình
thành và phát triển là nhờ năng lực sáng tạo của con người, năng lực tạo ra tri
thức mới và vận dụng tri thức, biến tri thức thành của cải, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, phát triển con người và phát triển xã hội. Sáng tạo và đổi mới
là động lực của sự phát triển kinh tế-xã hội, là nguồn gốc của nền kinh tế tri
thức ngày nay. Phát triển kinh tế tri thức là xu thế phát triển tất yếu khách
quan, lôi cuốn tất cả các quốc gia, không loại trừ ai.
Phương thức sản xuất tương ứng với cơ sở vật chất trong một xã hội
nhất định, phù hợp với trình độ công nghệ tương ứng mà lực lượng lao động
xã hội sử dụng để sản xuất ra của cải vật chất theo nhu cầu.Sự biến đổi của cơ
sở vật chất- kỹ thuật được đánh giá thông qua sự phát triển của lực lượng sản
xuất. Phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa tất yếu phải dựa trên cơ sở vật
chất –kỹ thuật ở trình độ phát triển. Thật vậy, Lênin cho rằng năng suất lao
động là cái quyết định sự thắng lợi của một chế độ xã hội mới.
Trong chủ nghĩa xã hội, cơ sở vật chất là nền công nghiệp lớn hiện đại
với cơ cấu kinh tế hợp lý; trình độ xã hội hóa cao, dựa trên nền tảng khoa học
và cơng nghệ tiên tiến. Nó vừa kế thừa những thành quả văn minh mà nhân
loại đã dạt dược trong chủ nghĩa tư bản, vừa được phát triển và hoàn thiện
dựa trên những thành tựu mới nhất của khoa học và cơng nghệ, tham gia tích
cực và có hiệu quả vào phân công lao động và hợp tác quốc tế.
Các nước muốn quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội thì bắt buộc phải tạo lập
được cơ sở vật chất - kỹ thuật để xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực. Hơn
nữa đối với các nước có xuất phát điểm thấp như Việt Nam thì yêu cầu xây


10


dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật càng trở lên cấp thiết hơn. Cho nên con đường
cơ bản để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội ở nước ta
trong bối cảnh hiện nay thì cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức và kinh tế số là tất yếu.
3. Phát triển kinh tế trí thức và kinh tế số trong q trình đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với là địi hỏi thiết yếu để xây dựng quan hệ sản
xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thật vậy,việc đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức và kinh tế số vừa là quá trình tạo ra lực lượng sản xuất
mới, đồng thời là điều kiện để xây dựng và phát triển quan hệ sản xuất tiên
bộ, phù hợp. Đó là sự phù hợp của quan hệ sản xuất trên tất cả ba mặt: sở
hữu; tổ chức, quản lý sản xuất; phân phối kết quả sản xuất với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất. Là sự phù hợp với mục tiêu, nhiệm vụ phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta; phù hợp với
đặc điểm cụ thể của xã hội Việt Nam và với đặc điểm, xu thế hội nhập kinh tế
quốc tế. Đồng thời, đó là quan hệ sản xuất tiến bộ, vì nó khắc phục được
những cái lạc hậu, tiêu cực của các quan hệ sản xuất trước đây, cũng như đang
tồn tại trên thế giới.
Đối với thực tế Việt Nam, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp chính là
quan hệ sản xuất mới phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó chính
là q trình thực hiện xã hội hóa sản xuất trên thực tế. Tóm lại, đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức là con đường
cơ bản để xây dựng quan hệ sản xuất tiến bộ.
4. Đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn vớỉ phát triển kinh tế tri thức
và kinh tế số do yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong bối cảnh tồn cầu hóa thế giới, một số nước đang phát triển, tuy
chưa có cơng nghiệp hiện đại, cơng nghệ cao nhưng biết chủ động hội nhập
kinh tế, tranh thủ tiếp thu công nghệ cao trên cơ sở nguồn nhân lực thích hợp,
thì vẫn có thể bước đầu phát triển kinh tế tri thức.



11

Trong thế giới ngày nay, q trình cơng nghiệp hóa của mỗi quốc gia
không thể tiến hành biệt lập, khép kín mà phải đặt trong chuỗi sản xuất - kinh
doanh tồn cầu. Đối với Việt Nam, địi hỏi này trở nên bức thiết gấp bội vì
nền kinh tế nước ta đã hội nhập rất sâu với nền kinh tế thế giới: giá trị tổng
kim ngạch xuất nhập khẩu bằng 160-200% GDP trong những năm vừa qua.
Trên ý nghĩa rất lớn, q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta cũng
là quá trình cơ cấu lại nền kinh tế theo lợi thế cạnh tranh; đảm bảo tự chủ kinh
tế quốc gia thông qua đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất lao động và hiệu
quả sản xuất - kinh doanh. Để định hướng cho quá trình chuyển đổi quan
trọng này, Đại hội XIII chỉ rõ: “Cơ cấu lại công nghiệp, nâng cao trình độ
cơng nghệ, đẩy mạnh chuyển đổi sang cơng nghệ số, nâng cao tính tự chủ của
nền kinh tế, có khả năng tham gia sâu, có hiệu quả vào các chuỗi giá trị tồn
cầu”.
Tuy có nhiều cơ hội để hội nhập kinh tế quốc tế, và trong 35 năm đổi
mới, nước ta đã mở rộng quan hệ hợp tác sâu, rộng với các quốc gia trên thế
giới, nhưng nước ta cũng có rất nhiều thách thức như cạnh tranh khốc liệt,
khơng cân sức với các nước có nền kinh tế phát triển cao hơn về hàng hóa và
dịch vụ trên cả thị trường trong và ngoài nước; tình trạng “chảy máu chất
xám”; chệnh lệch giá nghèo,...; tăng trưởng xuất khẩu chưa vững chắc; cơ
cấu hàng hóa xuất khẩu cịn phụ thuộc nhiều vào doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngồi; nhập siêu vẫn cịn là nguy cơ,... Để khắc phục tình trạng này và
để hội nhập kinh tế quốc tế sâu hơn, đầy đủ hơn, chúng ta phải chủ động và
tích cực hơn nữa trong việc tận dụng các cơ hội của hội nhập kinh tế quốc tế,
triệt để khai thác lợi thế, tổ chức lại sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng
sản phẩm và hạ giá thành. Con đường cơ bản và lâu dài để đáp ứng yêu cầu
này chỉ có thể là đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển

kinh tế tri thức và kinh tế số.
5. Do bản thân những tác động cửa cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với
phát triển kinh tế trì thức và kinh tế số trong đời sống xã hội.
Ngoài những sự cần thiết nêu trên, việc đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,


12

hiện đại hỏa gắn với phát triển kinh tế tri thức và kinh tế số ở nước ta cịn do
chính tác động tích cực của q trình này đối với đời sống kinh tế, chính trị và
xã hội.Nó giúp cải thiện điều kiện lao động, giải phóng người lao động, phát
triển trí tuệ, đưa tri thức và cơng nghệ số mới vào các lĩnh vực đời sống xã
hội, thúc đẩy xã hội học tập, làm chủ, tiếp thu và sáng tạo tri thức mới, nhờ đó
nâng cao mức sống và chất lượng cuộc sống xã hội.
Chính vì vậy, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII nêu rõ: “Nâng cao
tiềm lực khoa học công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực của đất nước, tạo cơ
sở đẩy mạnh chuyên đổi số nền kinh tế quốc gia và phát triển kinh tế số”
III. Thực trạng phát triển kinh tế số ở Việt Nam
Tính đến nay, kinh tế số Việt Nam phát triển mạnh cả về nền tảng hạ
tầng lẫn thị trường kinh doanh. Internet đã trở thành một phần thiết yếu của
các ngành thương mại dịch vụ như ngân hàng, giao thông, y tế… , ước tính
mức độ đóng góp của Internet là khoảng 2-3% GDP của Việt Nam và dự báo
sẽ tăng đến 40-50% GDP trong tương lai. Năm 2007, số người sử dụng
Internet ở Việt Nam là 17,7 triệu người; đến năm 2017 đã tăng lên 64 triệu,
xấp xỉ 67% dân số. Dựa trên số liệu của Tập đoàn Miniwatts Marketing, Việt
Nam hiện xếp thứ 13 trong top 20 quốc gia có số dân sử dụng mạng Internet
đơng nhất thế giới.
Hình 1: Tốc độ tăng trưởng kinh tế số của Việt Nam và một số nước Đông Nam
Á (%)



13

Theo báo cáo “Nền kinh tế số Đông Nam Á 2020”, tốc độ tăng trưởng
kinh tế số của Việt Nam luôn tăng trưởng ở mức hai con số, dẫn đầu khu vực
cùng với Indonesia. Nền kinh tế số tại Việt Nam từ 3 tỷ USD năm 2015 đã
tăng lên 12 tỷ USD vào năm 2019 và 14 tỷ USD năm 2020. Dự kiến đến năm
2025 bứt phá lên 52 tỉ USD, bao gồm các lĩnh vực: Thương mại điện tử
(TMĐT), du lịch trực tuyến, truyền thông trực tuyến và gọi xe cơng nghệ
Có ba thị trường nổi bật trong hệ sinh thái số ở Việt Nam là viễn thông,
công nghệ thơng tin và thương mại điện tử. Trong đó, thương mại điện tử,
một trong những cấu phần trọng yếu nhất của kinh tế số Việt Nam đã tăng
trưởng vượt bậc về doanh thu và quy mơ thị trường.
Hình 2: Doanh thu TMĐT B2C Việt Nam năm 2015 - 2019 (tỷ USD)

Các doanh nghiệp Thương mại điện tử (TMĐT) Việt Nam luôn chiếm
thị phần lớn. Theo số liệu báo cáo Bảng xếp hạng các doanh nghiệp TMĐT
hàng đầu tại Việt Nam do iPrice insights cập nhật vào ngày 03/03/2020 cho
thấy, Shopee Việt Nam tiếp tục dẫn đầu trong cả năm 2019 về lượng truy cập
website, đạt trung bình 38 triệu lượt/tháng. Theo sau lần lượt là
Thegioididong với 28 triệu lượt/tháng, Sendo với 27,2 triệu lượt/tháng,
Lazada với 27 triệu lượt/tháng và Tiki với 24,5 triệu lượt/tháng. Tuy nhiên,


14

hiện nay tất cả các doanh nghiệp TMĐT trong nước đều phải mua giao diện
lập trình ứng dụng (API) của Google để có thơng tin về khách hàng của mình.
Đại dịch Covid-19 đã góp phần khơng nhỏ thúc đẩy q trình phát triển
kinh tế số đi nhanh hơn. Nhiều phương thức trực tuyến trong điều hành, làm

việc, đào tạo của các cơ quan quản lý, doanh nghiệp, trường học,... đã phát
triển ở Việt Nam trong suốt thời gian thực hiện các chỉ thị phòng chống
Covid. Hiện nay, phổ biến nhất trong các doanh nghiệp đó là số hóa trong lưu
trữ, xử lý dữ liệu từ sản xuất đến đưa sản phẩm ra thị trường. Mạng lưới 5G
của Việt Nam cũng đã bắt đầu triển khai trong năm 2021.Chi phí giá cước
dịch vụ Internet vừa phải, cước dịch vụ internet băng thông rộng cố định ở
mức thấp nhất trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Cùng với đó, thương
mại điện tử, giao dịch kinh tế không dùng tiền mặt ngày càng phát triển tại
Việt Nam, tạo cơ hội cho các doanh nghiệp kịp thời nắm bắt, ứng dụng các
công cụ của kinh tế số cũng như quá trình thực hiện Chính phủ điện tử được
triển khai nhanh và quyết liệt hơn.
Hình 3. Tổng quan nền kinh tế số Việt Nam giai đoạn 2014 – 2019


15

Đạt được những thành quả trên đây, không thể không nhắc đến những
điều kiện thuận lợi. Đó là: (1) Chính phủ Việt Nam đã có nhiều chính sách,
thể hiện quyết tâm lớn trong định hướng, hành động và tận dụng mọi cơ hội
của cuộc CMCN 4.0 nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế số ở Việt Nam; (2)
Nước ta có nguồn lực dân số trẻ cao (theo kết quả Tổng điều tra dân số Việt
Nam năm 2019, 55,5% dân số có độ tuổi dưới 35), cho nên cách thức tiêu
dùng, có nền tảng tốn học và cơng nghệ thơng tin tương đối tốt, thuận lợi cho
việc phát triển kinh tế số; (3) nền tảng hạ tầng kinh tế số của Việt Nam khá
thuận lợi cho việc chuyển đổi và ứng dụng số; (4) các hình thức của kinh tế số
ở Việt Nam phát triển đa dạng, và có xu hướng phát triển mạnh mẽ hơn trong


16


những năm tới. Xu hướng số hóa, chuyển đổi và ứng dụng công nghệ số trên
nhiều lĩnh vực, ngành kinh tế; (5) hệ thống chính trị và nền kinh tế vĩ mơ Việt
Nam ln duy trì ổn định.
Tuy có những thuận lợi đáng kể trong việc phát triển nền kinh tế số
nêu trên. Việt Nam vẫn còn đối mặt với nhiều khó khăn trong việc đẩy mạnh
kinh tế số để đáp ứng mục tiêu phát triển cơng nghiệp hóa,hiện đại hóa nền
kinh tế dựa trên nền tảng kinh tế số như đại hội XIII đề ra. (Văn kiện Đại hội
XIII xác định, đến năm 2025 kinh tế số đạt tỷ trọng 20% GDP, đến năm 2030
kinh tế số chiếm khoảng 30% GDP). Các khó khăn bao gồm: (1) hệ thống thể
chế, chính sách cũng như các thiết chế thực thi, giải quyết tranh chấp và hiệu
lực của cơ quan thực thi liên quan đến phát triển kinh tế số còn yếu, chưa
đồng bộ và hiệu quả nên chưa khai thác hết tiềm năng để phát triển kinh tế số.
(2) cơ sở dữ liệu của nhiều bộ, ngành, địa phương đang xây dựng cịn manh
mún và phân tán, khơng có sự kết nối liên thơng. vì vậy khó có thể cạnh tranh
với thế giới. (3) các doanh nghiệp kinh tế số ở Việt Nam đang chịu sự cạnh
tranh của doanh nghiệp nước ngoài. (Chỉ trong 10 năm Việt Nam mất khoảng
50% thị phần quảng cáo do nước ngoài chiếm lĩnh); (4) Nhận thức của người
dân và một bộ phận cán bộ quản lý nhà nước về kinh tế số còn hạn chế, kỹ
năng sử dụng internet an toàn thấp và chưa theo kịp với tốc độ phát triển của
công nghệ. (5) chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu chuyển đổi
sang kinh tế số. Việt Nam đang có sự thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng
cao, nhất là nhân lực công nghệ thông tin và truyền thông. Giáo dục Việt Nam
chưa theo kịp xu thế phát triển nhanh chóng của kinh tế số, kinh tế sáng tạo
của CMCN 4.0 trên thế giới hiện nay.
Báo cáo kinh tế Việt Nam thường niên do Viện Nghiên cứu kinh tế và
chính sách (VEPR), Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội cơng bố cuối
tháng 5/2019 cho thấy có tới 85% doanh nghiệp cơng nghiệp Việt Nam vẫn
nằm ngồi nền kinh tế số, chỉ có 13% ở cấp độ mới bắt đầu; Việt Nam đang
thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là nhân lực công nghệ thông tin
và truyền thông. Rõ ràng, nhận thức về kinh tế số, nhu cầu và hành động theo



17

xu thế kinh tế số còn chậm chạp, chưa đồng đều, thống nhất từ trên xuống
dưới, từ chính quyền đến doanh nghiệp và người dân là một hạn chế góp phần
làm chậm xu hướng số hóa nền kinh tế Việt Nam.
IV. Một số giải pháp phát triển kinh tế số ở Việt Nam.
Để thực hiện được mục tiêu hướng tới sự phát triển bền vững, một
trong những giải pháp đã được đồng chí Tổng Bí thư đặt ra là đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với kinh tế tri thức đồng thời coi giáo
dục đào tạo, khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu để tập trung đầu tư,
phát triển. Trên thực tế, tháng 9/2019, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số
52-NQ/TW đặt mục tiêu đến năm 2025, nền kinh tế số Việt Nam sẽ đạt 20%
GDP, phát triển được một cộng đồng doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam
lớn mạnh. Ngày 3/6/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định
số 749/QĐ-TTg phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm
2025, định hướng đến năm 2030” với mục tiêu Việt Nam thuộc nhóm 50
nước dẫn đầu về chính phủ điện tử, liên quan đến phát triển kinh tế số, nâng
cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, mục tiêu đến năm 2025 là kinh tế số
chiếm 20% GDP; tỷ trọng kinh tế số trong từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu
10%; đến năm 2030, kinh tế số chiếm 30% GDP; tỷ trọng kinh tế số trong
từng ngành, lĩnh vực đạt tối thiểu 20%.
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng cũng đề xuất đột phá chiến
lược“Phát triển mạnh mẽ khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển
đổi số để tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh.
Có thể chế, cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội, thúc đẩy đổi mới sáng tạo,
ứng dụng, chuyển giao công nghệ; nâng cao năng lực nghiên cứu, làm chủ
một số cơng nghệ mới; hình thành năng lực sản xuất mới có tính tự chủ và
thích ứng, chống chịu của nền kinh tế; lấy doanh nghiệp làm trung tâm

nghiên cứu phát triển, ứng dụng và chuyển giao công nghệ, ứng dụng công
nghệ số. Phát triển hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, hệ sinh thái khởi
nghiệp sáng tạo”. Vì vậy, việc triển khai thực hiện các giải pháp và nhiệm vụ
đầy khó khăn thử thách này sẽ đòi hỏi sự đồng lòng và quyết tâm của toàn


18

Đảng, tồn dân, trong đó thế hệ trẻ sẽ đóng một vai trò quan trọng, đặc biệt là
ở nhiệm vụ phát triển kinh tế số dựa trên nền tảng khoa học công nghệ và đổi
mới sáng tạo.
Để thực hiện các định hướng, quan điểm và chỉ tiêu đề ra về chuyển đổi
số, phát triển kinh tế số, các văn kiện Đại hội XIII đã đề ra đồng bộ các nhiệm
vụ, giải pháp cụ thể.
Một là, về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, Báo cáo chính trị yêu cầu cần phải quan tâm tới
thể chế cho chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, như xây dựng khung khổ
pháp luật, môi trường thuận lợi thúc đẩy phát triển, khởi nghiệp, đổi mới sáng
tạo, chuyển đổi số, phát triển kinh tế số; hỗ trợ, khuyến khích sự ra đời, hoạt
động của những lĩnh vực mới, mơ hình kinh doanh mới. Phát triển thị trường
hàng hóa, dịch vụ theo phương thức tổ chức, giao dịch văn minh, hiện đại,
thương mại điện tử. Phát triển đồng bộ, nâng cao hiệu quả hoạt động của các
thị trường tài chính, tiền tệ, thị trường chứng khốn, thị trường bảo hiểm...
trên nền tảng cơng nghệ số với kết cấu hạ tầng, công nghệ và phương thức
giao dịch hiện đại.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 và Phương
hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025 cụ thể
hóa, thể hiện rõ hơn những chủ trương hoàn thiện thể chế kinh tế được nêu
trong Báo cáo chính trị. Theo đó, “thực hiện chuyển đổi số quốc gia một cách
toàn diện để phát triển kinh tế số, xây dựng xã hội số. Phấn đấu đến năm

2030, hoàn thành xây dựng chính phủ số, đứng trong nhóm 50 quốc gia hàng
đầu thế giới và xếp thứ ba trong khu vực ASEAN về chính phủ điện tử, kinh
tế số”.
Hai là, để tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại, đổi mới mơ hình tăng trưởng
kinh tế, phát triển các ngành, lĩnh vực, vấn đề chuyển đổi số, phát triển kinh tế
số luôn được xác định là một yêu cầu lớn, một nội dung quan trọng, là mũi
nhọn được khuyến khích, ưu tiên phát triển để nâng cao năng suất, chất lượng,


19

hiệu quả, sức cạnh tranh của các ngành, lĩnh vực, của nền kinh tế, phát triển
nhanh và bền vững đất nước.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 và Báo cáo
đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 20162020 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025
cũng đưa ra nhiều nhiệm vụ, giải pháp cụ thể để làm rõ hơn và triển khai thực
hiện các chủ trương, quan điểm của Báo cáo chính trị về chuyển đổi số, phát
triển kinh tế số. Đó là: “Thực hiện chuyển đổi số trong quản trị quốc gia, quản
lý nhà nước, sản xuất kinh doanh, tổ chức xã hội và quản lý tài nguyên quốc
gia. Đẩy nhanh chuyển đổi số đối với một số ngành, lĩnh vực đã có điều kiện,
đặc biệt là khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa. Ứng dụng và phát triển công
nghệ mới, ưu tiên công nghệ số, kết nối 5G và sau 5G, trí tuệ nhân tạo, chuỗi
khối, in 3D, Internet kết nối vạn vật, an ninh mạng, năng lượng sạch, công
nghệ môi trường để chuyển đổi, nâng cao năng suất, hiệu quả nền kinh tế” (3),
“thúc đẩy phát triển kinh tế số, xã hội số, sản xuất thông minh, các mơ hình
sản xuất kinh doanh mới, kinh tế chia sẻ, thương mại điện tử. Thực hiện
chuyển đổi số trong tất cả các doanh nghiệp và cơ quan nhà nước”.
Đối với chuyển đổi số, phát triển kinh tế số trong các ngành, lĩnh vực
kinh tế, Chiến lược phát triển 10 năm 2021-2030 đề ra nhiều nhiệm vụ, định
hướng phát triển rất cụ thể. Công nghiệp công nghệ thông tin, công nghiệp

gắn với công nghệ số chiếm phần lớn trong số các ngành công nghiệp được
ưu tiên phát triển.
Việc phát triển doanh nghiệp công nghệ thông tin, viễn thông, công
nghệ số cũng được nhấn mạnh cần phát triển một số doanh nghiệp viễn thông,
công nghệ thông tin, doanh nghiệp chủ lực thực hiện vai trị dẫn dắt về hạ
tầng cơng nghệ số, làm nền tảng cho nền kinh tế số, xã hội số gắn với bảo
đảm an toàn, an ninh thông tin và chủ quyền quốc gia trên không gian mạng.
Phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025
đề ra nhiệm vụ: “Đẩy mạnh công nghiệp hóa dựa trên nền tảng khoa học cơng
nghệ, đổi mới sáng tạo và công nghệ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần


20

thứ tư; trong đó, tập trung phát triển những ngành ưu tiên có mức độ sẵn sàng
cao như cơng nghiệp cơng nghệ thơng tin, điện tử viễn thơng, an tồn, an ninh
mạng; cơng nghiệp chế tạo thơng minh; tài chính - ngân hàng, thương mại
điện tử; nông nghiệp số, du lịch số, cơng nghiệp văn hóa số; y tế, giáo dục và
đào tạo”
Để thực hiện có kết quả các chủ trương, nhiệm vụ về chuyển đổi số,
phát triển kinh tế số,kinh tế tri thức trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng, cần
tập trung giải quyết một số nội dung sau:
Thứ nhất, chuyển đổi và nâng cao nhận thức về chuyển đổi số, phát
triển kinh tế số trong toàn xã hội. Đặc biệt trang bị kiến thức, thống nhất tư
tưởng và hành động về kinh tế số, từ đó làm chuyển biến mạnh mẽ tư duy
lãnh đạo quản lý cũng như điều hành kinh tế - xã hội trong điều kiện kinh tế
số.
Thứ hai, xây dựng, hoàn thiện thể chế, pháp luật, chính sách nhằm tạo
khn khổ cho phát triển kinh tế số. Thành lập cơ quan thiết chế chuyên trách,
có thẩm quyền, trách nhiệm cao trong việc phát triển kinh tế số, thơng thường

cơ quan này thường thuộc Chính phủ với sự tham gia, phối hợp của các bộ
ngành có liên quan. Nhà nước cần ban hành các nghị định về chia sẻ dữ liệu,
xác thực điện tử, bảo vệ dữ liệu cá nhân và bảo đảm quyền riêng tư của cá
nhân cũng như việc xử lý, giải quyết những tranh chấp, xung đột về hoạt động
kinh doanh, thương mại và dân sự trên môi trường số.
Xây dựng cơ chế quản lý phù hợp với môi trường kinh doanh số, đáp
ứng yêu cầu quản lý, điều chỉnh các mối quan hệ mới phát sinh trong quá
trình chuyển đổi số, phát triển kinh tế số.
Đồng thời tập trung xây dựng một số doanh nghiệp công nghệ mạnh về
tiềm lực, quy mơ, có trình độ cao về nghiên cứu phát triển, ứng dụng công
nghệ số làm đầu tàu hỗ trợ, hướng dẫn các doanh nghiệp khác chuyển đổi số,
phát triển kinh tế số.
Thứ ba, xây dựng, phát triển hạ tầng số.


21

Hạ tầng viễn thông băng rộng cần phải trở thành hạ tầng số với năng
lực thu thập, lưu trữ, tạo ra và xử lý dữ liệu số, truyền đưa dữ liệu số, khai
thác giá trị dữ liệu số. “Điện toán đám mây, đặc biệt dịch vụ hạ tầng như là
dịch vụ (infrastructure as a service) sẽ giữ vai trò rất quan trọng trong hạ tầng
số. Đây cũng là trọng tâm đầu tư phát triển trong chiến lược phát triển hạ tầng
số của Việt Nam”. ( Trích phát biểu của Thứ trưởng Bộ TT&TT Phan Tâm tại
Hội nghị bàn tròn Bộ trưởng trực tuyến chiều ngày 13/10/2021)
Phát triển hệ thống hạ tầng số quốc gia đồng bộ, rộng khắp tới mọi
vùng, miền, địa phương, mọi doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, mọi hộ gia
đình; đảm bảo đáp ứng yêu cầu kết nối, lưu trữ, xử lý dữ liệu, thông tin, các
chức năng về giám sát, bảo đảm an ninh, an toàn mạng. Xây dựng, phát triển
hạ tầng băng thông rộng chất lượng cao trên toàn quốc, nhất là ở các thành
phố lớn, các trung tâm cơng nghiệp, dịch vụ, văn hóa, khoa học công nghệ,

giáo dục đào tạo. Nâng cấp mạng di động 4G, phát triển mạng di động 5G.
Mở rộng kết nối Internet trong nước, kết nối Internet khu vực và quốc tế;
chuyển đổi toàn bộ mạng Internet Việt Nam sang ứng dụng giao thức Internet
thế hệ mới. Phát triển hạ tầng kết nối Internet vạn vật, triển khai việc tích hợp
cảm biến và ứng dụng cơng nghệ số vào hệ thống hạ tầng giao thông, điện,
nước, quản lý đô thị. Xây dựng và phát triển đồng bộ hệ thống cơ sở dữ liệu
quốc gia kết nối đồng bộ, thống nhất; hình thành hệ thống dữ liệu tin cậy, ổn
định của Nhà nước, các cấp, các ngành, các địa phương và doanh nghiệp. Xây
dựng hệ hống điện tốn có năng lực đủ mạnh để xử lý, phân tích dữ liệu. Xây
dựng hệ thống hạ tầng thanh toán số quốc gia đồng bộ, thống nhất để thúc đẩy
việc thanh tốn khơng dùng tiền mặt, đáp ứng yêu cầu thanh toán của người
dân và doanh nghiệp; kiểm soát và quản lý chặt chẽ các hình thức thanh tốn
trực tuyến qua biên giới. Nâng cấp hạ tầng kỹ thuật bảo đảm an toàn, an ninh
mạng... Thực hiện xã hội hóa, khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế có đủ năng lực tham gia xây dựng hạ tầng số.
Thứ tư, thúc đẩy chuyển đổi số trong các doanh nghiệp, phát triển các
nền tảng số trong các ngành, lĩnh vực kinh tế.


22

Phát triển, phát huy vai trò của các doanh nghiệp công nghệ thông tin
đã khẳng định được thương hiệu đi đầu trong nghiên cứu, phát triển, làm chủ
công nghệ số và phối hợp, hỗ trợ các doanh nghiệp trong các ngành, lĩnh vực
kinh tế truyền thống, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa, chuyển đổi số,
phát triển kinh tế số.
Xây dựng hệ thống định danh và xác thực điện tử quốc gia phục vụ
giao dịch điện tử giữa người dân với các cơ quan nhà nước và các giao dịch
điện tử dân sự khác một cách dễ dàng, đơn giản, thuận lợi. Xây dựng hệ thống
thanh toán điện tử có khả năng cung cấp dịch vụ thanh tốn điện tử cho tất cả

doanh nghiệp và người dân. Xây dựng, phát triển các nền tảng số cho phát
triển các ngành, lĩnh vực, như: thương mại điện tử, nông nghiệp thông minh;
khám, chữa bệnh từ xa, hồ sơ, bệnh án điện tử; dạy và học từ xa, đào tạo trực
tuyến; hệ thống giao thông thông minh, năng lượng thông minh,...
Thứ năm, tăng cường năng lực khoa học - công nghệ quốc gia để có
thể tiếp thu, làm chủ, vận dụng sáng tạo các tri thức khoa học - công nghệ mới
nhất của thế giới cần thiết cho phát triển của đất nước, từng bước sáng tạo
công nghệ đặc thù của đất nước, xây dựng nền khoa học - công nghệ tiến tiến
của Việt Nam.
Thứ sáu, nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo nguồn nhân lực cho
nền kinh tế số. Trong đó tập trung phát triển, thu hút các chuyên gia về công
nghệ số, các doanh nhân số; Đổi mới giáo dục, đào tạo bồi dưỡng để tái đào
tạo lực lượng lao động bắt kịp với xu hướng công nghệ số; Cập nhật, bổ sung
các chương trình đào tạo về cơng nghệ số, nền tảng số, từ mã hóa đến tư duy
thiết kế và các kỹ năng số cần thiết cho tương lai trong nhà trường; Đẩy mạnh
liên kết đào tạo và thực hành giữa trường với khu vực doanh nghiệp trong ứng
dụng cơng nghệ số; Xây dựng chính sách kết nối cộng đồng khoa học công
nghệ trong nước với nước ngoài, đặc biệt với cộng đồng người Việt Nam ở
nước ngoài.


23


24

KẾT LUẬN
Trong bối cảnh quốc tế mới, tồn cầu hóa gia tăng nhanh chóng, khoa
học cơng nghệ phát triển như vũ bão. Có thể nói, sự phát triển kỹ thuật số đã
và đang thay đổi các nền kinh tế trên tồn cầu với tốc độ chóng mặt. Vì vậy,

phát triển kinh tế tri thức, kinh tế số ngay trong quá trình cơng nghiệp hố,
hiện đại hóa là địi hỏi tất yếu đối với nước ta để đi nhanh tới mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ văn minh, góp phần đưa Việt Nam cơ
bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, bắt kịp sự phát triển
của các nước trong khu vực và trên thế giới. Kinh tế tri thức, kinh tế số vừa là
mục tiêu vừa là động lực của công cuộc xây dựng xã hội mới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo trình kinh tế chính trị Mác
– Lênin, NXB Lý luận chính trị, 2021
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
5. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, Nxb. Tiến bộ.
6. />7.

/>
kinh-te-so-o-viet-nam-134586


25

8.

/>
thuc-va-phat-trien-kinh-te-tri-thuc-tai-viet-nam.
9. />10.


/>
thanh-xu-the-tat-yeu-cua-moi-quoc-gia-26109.html
11. Đặng Hữu (2004), Kinh tế tri thức, Thời cơ và thách thức đối với sự phát
triển của Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.


×