TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
BÀI TẬP LỚN
MƠN HỌC: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
ĐỀ BÀI: Hồ Chí Minh là “nhà tư tưởng lỗi lạc”, “anh hùng giải phóng dân
tộc”, “nhà văn hóa kiệt xuất của dân tộc Việt Nam”. Bằng sự tìm hiểu của bản
thân, anh, chị minh chứng quan điểm nêu trên?
Họ và tên sinh viên:
MSV:
Lớp tín chỉ:
Giảng viên:
HÀ NỘI – 2022
Mục lục
Mở đầu......................................................................................................................... 3
Chương 1: Hồ Chí Minh là nhà “tư tưởng lỗi lạc”........................................................5
1. Quan niệm và tiêu chí để xem xét một nhà tư tưởng, nhà lý luận..........................5
2. Những nhân tố hình thành nên nhà tư tưởng Hồ Chí Minh....................................5
a. Sự chuẩn bị về mặt lý luận..................................................................................5
b. Tầm nhìn chiến lược, bao quát thời đại..............................................................5
1
c. Năng lực tổng kết thực tiến, dự báo tương lại.....................................................6
3. Con đường Hồ Chí Minh từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác- Lênin. .7
4. Trình bày khái quát những đóng góp về tư tưởng - lý luận của Hồ Chí Minh đối với cách
mạng Việt Nam, với sự phát triển của đất nước trong tương lai và ý nghĩa lớn lao đối với
thời đại hiện nay.........................................................................................................9
Chương 2: Hồ Chí Minh là “anh hùng giải phịng dân tộc”..........................................9
Chương 3: Hồ Chí Minh là “nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam”.............................10
1. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khởi xướng phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân,
chủ nghĩa đế quốc, giải phóng các dân tộc thuộc địa, giành lại độc lập tự do. Đó khơng
phải chỉ là một sự nghiệp chính trị phi thường mà cịn là một sự nghiệp văn hóa cao cả. 11
2. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhìn thấy vai trị và sức mạnh của văn hóa, đã sớm đưa văn hóa
vào chiến lược phát triển đất nước...........................................................................12
3. Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà hoạt động và sáng tạo văn hóa lớn........................13
Kết luận...................................................................................................................... 15
Tài liệu tham khảo....................................................................................................16
Mở đầu
Từ lâu, nhiều nhà lãnh đạo hàng đầu của Đảng ta đã khẳng định Chủ tịch Hồ Chí
Minh là “nhà tư tưởng vĩ đại, nhà lý luận kiệt xuất, anh hùng giải phóng dân tộc”. Tư tưởng
Hồ Chí Minh là một hệ thống các quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản
của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt
đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Tư tưởng Hồ Chí Minh khơng chỉ có giá
trị dân tộc mà cịn có ý nghĩa thời đại, góp phần vào giải quyết những vấn đề đang đặt ra cho
thế kỷ hiện nay: độc lập dân tộc, dân chủ, nhân ái, khoan dung, hịa bình, hữu nghị, hợp tác
cùng phát triển.
2
Địa vị có một khơng hai trong lịch sử dân tộc của Hồ Chí Minh được xác lập và củng
cố vững chắc nhờ công lao to lớn và sự nghiệp vĩ đại mà Người đã cống hiến cho cách mạng
Việt Nam.
Người đã tìm ra đường lối cứu nước, giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng
vơ sản; đó là con đường kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong
sáng, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại,
từ đó chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối, mở ra một thời đại mới vô cùng oanh liệt
trong lịch sử dân tộc, thời đại Hồ Chí Minh.
Người đã có cơng đầu trong việc truyền bá và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác –
Lênin vào Việt Nam, vận dụng thế giới quan và phương pháp luận Mác – Lê nin để đánh thức
các tiềm năng tinh thần truyền thống Việt Nam, bồi dưỡng những nhân tố bảo đảm cho thắng
lợi của cách mạng Việt Nam.
Người đã xây dựng những tiền đề tư tưởng chính trị và tổ chức cho sự ra đời của một
chính đảng của giai cấp cơng nhân ở Việt Nam và đã thống nhất các tổ chức cộng sản đầu
tiên ở trong nước để sáng lập nên Đảng cộng sản Việt Nam. Dù ở nước ngoài hay ở trong
nước, Người ln ln chăm sóc, giáo dục, rèn luyện và lãnh đạo Đảng ta vượt qua mọi thử
thách khó khăn, đưa cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi to lớn như ngày nay.
Người đã dày công xây đắp nên khối đoàn kết dân tộc vững chắc làm nền tảng sức
mạnh chiến thắng mọi kẻ thù. Tư tưởng lớn của Người được diễn đạt cơ đọng trong khẩu
hiệu chiến lược “Đồn kết, đồn kết, đại đồn kết. Thành cơng, thành cơng, đại thành công”
đã trở thành nguồn cổ vũ, động viên thành ngọn cờ tập hợp, vẫy gọi đối với mọi người Việt
Nam yêu nước trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như trong sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
Người là người cha thân yêu của các lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam, “từ
nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu”, đã bồi dưỡng cho họ tinh thần quyết chiến, quyết
thắng, làm nên những chiến công vang dội, được cả loài người khâm phục và ca ngợi.
Người đã khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước dân chủ nhân dân
đầu tiên ở Đông Nam Á, người đặt nền móng cho việc xây dựng một nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa, “của dân, do dân, vì dân”.
Người là nhà chiến lược thiên tài đã cùng với Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
thắng lợi hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, mở ra thời kỳ sụp đổ hệ
thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân cũ và làm thất bại một bước chủ nghĩa thực dân mới,
góp phần tác động sâu xa vào tiến trình lịch sử thế giới trong thế kỷ XX.
Người đã khai phá con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở một nước nông nghiệp lạc
hậu, chưa qua chủ nghĩa tư bản, bị chiến tranh tàn phá, từng bước làm cho “người nghèo thì
đủ ăn, người đủ ăn thì khá giàu, người khá giàu thì giàu thêm”, để đi tới một xã hội dân giàu,
nước mạnh, trong đó dân là chủ, cán bộ nhà nước chỉ là công bộc của dân.
Người là nhà giáo dục vĩ đại, đã định hướng cho sự ra đời một nền văn hóa - đạo đức
mới, một xã hội với nhân cách mới, góp phần cùng với Đảng đào tạo ra một thế hệ chiến sĩ
cách mạng kiểu mới, từ những lãnh tụ lớp đầu cho đến đội ngũ cán bộ, chiến sĩ hoạt động ở
cơ sở, tất cả một lòng một dạ sống, chiến đấu theo tấm gương của Người; tận trung với nước,
tận hiếu với dân, cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ tư, khiêm tốn, giản dị... và chính họ đã
góp phần đưa ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh đến thắng lợi rực rỡ như ngày nay.
Cơng lao to lớn, sự nghiệp vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa Người lên địa vị
người anh hùng giải phóng dân tộc vĩ đại, nhà tư tưởng lỗi lạc, nhà lý luận sáng tạo của cách
3
mạng Việt Nam, được các dân tộc đang đấu tranh giải phóng và nhân loại tiến bộ hết lịng ca
ngợi và khâm phục.
Việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh đang ở bước đầu, còn phải được tiếp tục đi
sâu nghiên cứu ở tầm học thuyết, nhằm làm rõ hơn nữa cả cơ sở lý luận và thực tiễn, cả
nghiên cứu lý thuyết và nghiên cứu ứng dụng vào cuộc sống, cần được lý giải một cách sâu
sắc và thuyết phục hơn nữa, xứng đáng với tầm vóc của nhà tư tưởng lỗi lạc, xứng đáng với
vị trí là nền tảng tư tưởng của Đảng ta và cách mạng Việt Nam.
Chương 1: Hồ Chí Minh là nhà “tư tưởng lỗi lạc”
1. Quan niệm và tiêu chí để xem xét một nhà tư tưởng, nhà lý luận
V.I. Lênin cho rằng: ““Nhà tư tưởng” chỉ xứng đáng với danh hiệu nhà tư tưởng khi
nào họ đi trước phong trào tự phát, chỉ đường cho nó, khi nào họ biết giải quyết, trước những
người khác, tất cả các vấn đề lý luận, chính trị, sách lược và các vấn đề về tổ chức mà
“những yếu tố vật chất” của phong trào húc phải một cách tự phát”.
Thực tế lịch sử chính trị của nhân loại cho thấy, không phải cứ sáng lập tổ chức chính
trị, xã hội, giữ nhiều chức vụ cao và quan trọng thì cứ thế nghiễm nhiên được gọi là lãnh tụ.
Lãnh tụ là một chuyện, cịn lãnh tụ đó có phải là nhà tư tưởng hay khơng lại là một chuyện
4
khác. Đã là một con người bình thường thì ai cũng có tư tưởng, chỉ với nghĩa là ý tưởng,
thậm chí cao hơn là quan điểm. Song, để được gọi là nhà tư tưởng phải đạt được tổng hợp
các tiêu chí: 1) Có hệ thống quan điểm tồn diện, sâu sắc về các vấn đề chính trị - xã hội đối
với cộng đồng quốc gia - dân tộc hoặc đối với cộng đồng quốc tế. 2) Có hệ thống quan điểm
tồn diện, sâu sắc về các vấn đề chính trị - xã hội, khoa học và cách mạng, khả thi, có ý nghĩa
định hướng cho sự phát triển của xã hội theo hướng văn minh, tiến bộ... 3) Người đó phải
dấn thân vào cuộc sống thực tiễn, trở thành nhân vật cốt yếu nhất trong việc thực hiện tích
cực và hiệu quả nhất những quan điểm đã nêu của mình. 4) Quan điểm của người đó trên
thực tế đã được cộng đồng thừa nhận và thực hiện để làm cơ sở tư tưởng, kim chỉ nam cho
hành động.
So với những tiêu chuẩn và yêu cầu trên, Hồ Chí Minh xứng đáng được gọi là nhà tư
tưởng. Đúng là Đảng Cộng sản Việt Nam đã ghi câu “Tư tưởng Hồ Chí Minh” vào Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Cương lĩnh năm 1991, bổ
sung, phát triển năm 2011). lấy tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác - Lê-nin làm
nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động.
2. Những nhân tố hình thành nên nhà tư tưởng Hồ Chí Minh
a. Sự chuẩn bị về mặt lý luận
Đầu những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh xuất hiện trong lịch sử cách mạng
hiện đại Việt Nam với tư cách là nhà lý luận tiên phong, người đầu tiên đề ra con đường cứu
nước, giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng. cách mạng vô sản, qua đó chấm dứt sự
khủng hoảng về chính sách, mở ra thời kỳ đấu tranh và thắng lợi của cách mạng Việt Nam và
giải phóng dân tộc trên thế giới.
Các phong trào Văn Thân - Cần Vương phát động đấu tranh chỉ để “phị vua, giúp
nước”, khơng do một lý thuyết nào lãnh đạo. Các phong trào, tổ chức yêu nước: Đơng Du,
Duy Tân, Việt Nam Quốc dân Đảng ít chú ý đến lý luận, học thuyết, chưa xác định mục tiêu
chiến lược và sách lược một cách rõ ràng, nhất quán.
Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước tức là đi tìm một học thuyết có khả năng
dẫn dắt cuộc đấu tranh của dân tộc đi tới mục tiêu Tổ quốc dộc lập, đất nước phồn vinh, nhàn
dân hạnh phúc. Gặp được “Luận cương" của Lênin, Người bừng sáng về lý luận. Thấm
nhuần sâu sắc lời dạy của Lênin: Khơng có lý luận cách mạng thì khơng có phong trào cách
mạng, Người vừa hoạt động thực tiễn, vừa từng bước nâng cao trình độ lý luận.
Nhờ nắm vững những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và vận dụng sáng
tạo vào thực tiễn cuộc sống ở Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã sớm viết nên những tác phẩm lý
luận có giá trị như: Bản án chế độ thực dán Pháp, Đường Kách mệnh,... Đặc biệt, những
Luận cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt và các văn kiện do Người soạn thảo tại Hội nghị hợp
nhất đầu năm 1930 của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về con
đường cách mạng Việt Nam theo con đường cách mạng vô sản - Độc lập dân tộc tiến lên chủ
nghĩa xã hội.
5
b. Tầm nhìn chiến lược, bao quát thời đại
Để trở thành nhà lý luận tiên phong, có khả năng đi trước phong trào, giải quyết trước
những người khác tất cả những vấn đề về đường lối chiến lược, sách lược... mà phong trào
đang vướng mắc nhằm thúc đẩy phong trào tiến lên đòi hỏi ở nhà lý luận những tố chất đặc
biệt, trước hết là tầm nhìn. Những thời kỳ có tính bước ngoặt, lịch sử địi hỏi phải có những
nhân vật “khổng lổ về năng lực suy nghĩ, về nhiệt tình vá tính cách, khổng lồ về mặt có lắm
tài, lắm nghề và về mặt học thức sâu rộng... ít nhiều họ đều có cái tinh thần phiêu lưu của
thời đại họ cổ vũ.” Khi còn ở trong nước, Người đã sáng suốt nhận ra những hạn chế, khuyết
điểm của phong trào đấu tranh do các nhà nho yêu nước lãnh đạo.
Người rất khâm phục các cụ Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Bội
Châu, Phan Châu Trinh... nhưng khơng hồn tồn tán thành cách làm của một người
nào. Người từ chối con đường Đông du của Phan Bối Châu, một mình đi sang phương
Tây, khơng phải đi trong vai thân sĩ, trí thức mà trong tư cách người lao động, sống với giai
cấp công nhân và các tầng lớp cùng khổ trong xã hội tư bản để có thể hiểu được thực chất cái
gì ẩn sau lá cờ “tự do, bình dẳng, bác ái”, quyết khơng để những cái bé ngồi hào nhống
đánh lừa. Hồ Chí Minh được thừa nhận là nhà lý luận tiên phong của phong trào giải phóng
dân tộc trên thế giới bởi Hồ Chí Minh là người đầu tiên đã tìm ra con đường thắng lợi cho sự
nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại cách mạng vơ sản - đó là con đường kết hợp dộc lâp
dân tộc với CNXH. Người đã kiên trì học tập, từng bước vươn lên đỉnh cao của trí tuệ thời
dại.
Người đă vượt qua 3 dại dương, 4 châu lục, đặt chân lên khoảng gần 30 nước. Trong
các nhà hoat động chính trị đầu thế kỷ XX, Hồ Chí Minh là một trong những ngươi đi nhiều
nhất, nên cũng hiểu nhiều, biết rộng vế các nước đế quốc và thuộc địa. Đến New York Người
không chỉ thấy tượng thần tự do mà còn được chứng kiến cuộc sống quằn quại rên siết của
người da đen bị ngươi da trắng giết hại táo bạo theo lối hành hình kiểu Lynsơ.
Từ đó, Người kêu gọi “muốn cứu vãn những nịi giống này, ta phải lật đổ chủ nghĩa đế
quốc”. Để giành được thắng lợi, Người nêu lên sự cần thiết phải thực hiện sự liên minh chiến
đấu giữa chính quốc và thuộc địa, giai cấp vô sản ở phương Tây và nhân dân các dân tộc bị
áp bức ở thuộc địa phải gắn bó với nhau như hai cánh của một con chim để cùng di tới tương
lai đã được hé mở qua tấm gương của cách mạng Nga.
c. Năng lực tổng kết thực tiến, dự báo tương lại
Hồ Chí Minh là một lãnh tụ mácxít. Năng lực tiên tri dự báo của Người được hình
thành nhờ nắm vững và vận dụng sán tạo lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin, trẽn cơ sở vốn văn hóa, kiến thức lịch sử và thực tiễn phương Đơng và phương Tây
sâu sắc. Nói cách khác, Người đã sống và hiểu sâu sắc thời đại của mình, dã từng bước học
tập vươn lên đỉnh cao của trí tuệ thời đại để mà tiên tri, dự báo.
Thời đại mà Hồ Chí Minh bước vào hoạt động chính trị là thời điểm có nhiều biến
động trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nổi bật là hai sự kiện quan trọng nhất làm thay
đổi nội dung của thời đại: CNTB đã chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn tư
bản độc quyền (tức giai đoạn đế quốc chủ nghĩa) và đã hình thành hệ thống thuộc địa của
chúng: thắng lợi của Cách mạng XHCN tháng Mười Nga mở ra bước phát triển mới cho lịch
sử nhân loại.
6
Với một thiên tài trí tuệ hiếm có, nắm vững khoa học Mác-Lênin - quy luật vận động
và phát triển của lịch sử, thơng tin chính xác và kỹ năng phân tích nhạy bén... Người đã có
thể nhìn thấy tương lai từ sự tổng kết lịch sử và tổng kết thực tiễn.
Những nhân tố dân tộc và thời đại kết hợp với những nhân tố thuộc về phẩm chất
hiếm có ở Hồ Chí Minh đã tạo nên nhà tư tưởng lỗi lạc, nhà lý luận tiên phong của cách
mạng Việt Nam.
3. Con đường Hồ Chí Minh từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác- Lênin
Hành trang lớn nhất Người mang theo là lòng yêu nước, thương dân sâu sắc và đơi
bàn tay lao động với quyết tâm tìm ra chân lý để trở về cứu dân, cứu nước khỏi ách nô
lệ. Chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam vốn là sản phẩm tinh thần cao đẹp của lịch sử
Việt Nam, là chuẩn mực cao nhất của đạo lý làm người, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ đời
sống văn hóa của nhân dân ta... Nó đã trở thành dòng chủ lưu xuyên suốt lịch sử mấy ngàn
năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Đối với người Việt Nam, “nước” phải gắn chặt
với “dân” và Chủ nghĩa yêu nước mang nội dung nhân dân sâu sắc.
Những bậc anh hùng, hào kiệt của dân tộc ta trước đây đã nhận thức rất rõ chân lý
đó. Những bế tắc và thất bại của phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã
chứng tỏ sự phá sản của chủ nghĩa trung quân. Chủ nghĩa yêu nước ở Người vừa kế thừa tinh
hoa của Chủ nghĩa yêu nước truyền thống, vừa bao hàm một tinh thần đổi mới phù hợp với
yêu cầu giải phóng dân tộc và xu thế của thời đại. Quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước của
Người mang ý nghĩa đó.
Trước Nguyễn Tất Thành đã có những người Việt Nam xuất dương cứu nước. Những
chuyến đi của Tôn Thất Thuyết, của những nhân vật trong phong trào Đông Du chủ yếu để
tìm ngoại viện. Rõ ràng, trước lúc ra đi Người đã nhận thức một cách rõ ràng, cái mà dân tộc
cần trước tiên chưa phải là súng đạn, của cải, mà là cách đuổi giặc cứu nước, là làm cách
mạng, hay nói cách khác là lý luận cách mạng và phương pháp cách mạng. Với những
chuyến đi, những cuộc khảo nghiệm trong 10 năm ròng , bàn chân của Người đã từng in dấu
trên 3 đại dương, 4 châu lục và khoảng ba chục quốc gia, đặc biệt Người đã dừng chân khảo
sát khá lâu ở ba nước đế quốc lớn nhất thời đó là Mỹ, Anh và Pháp.
Đâu đâu Người cũng chịu đựng mọi gian khổ, hịa mình vào cuộc sống của những
người lao động, sẵn sàng làm mọi thứ nghề lao động chân tay như nấu bếp, làm vườn, vẽ
thuê... không chỉ để kiếm sống mà cao hơn nữa đó là để trải nghiệm, thấu hiểu hơn về cuộc
sống của những người dân lao động trên khắp thế giới. Từ đó, Chủ nghĩa yêu nước ở Người
có những chuyển biến mới. Những nhận biết căn bản đó càng giục giã Người quyết tâm tìm
con đường giải phóng mà Người đã từng nung nấu, ấp ủ từ ngày rời Tổ quốc. Thành phố
Paris hoa lệ sống trong bầu khơng khí sơi động với những cuộc đấu tranh của giai cấp cơng
nhân Pháp và sự chuyển mình của những người cánh tả trong Đảng Xã hội Pháp theo đường
lối Quốc tế Cộng sản của V.I. Lênin.
Người thanh niên - Nguyễn Tất Thành nhiệt tình hăng hái ấy vừa bước đến Paris đã
lao ngay vào hoạt động chính trị. Anh cùng với Phan Văn Trường, Phan Chu Trinh - những
người mà Anh đã trao đổi thư từ khi còn ở nước Anh lập ra Hội những người yêu nước Việt
Nam, nhằm đưa phong trào yêu nước của Việt kiều ở Pháp đi theo một hướng tích cực. Ngày
7
18/6/1919, lấy tên Nguyễn Ái Quốc, thay mặt Hội những người yêu nước Việt Nam ở
Pháp, Người đã gửi tới hội nghị Véc-xây bản Yêu sách của nhân dân Việt Nam địi chính phủ
Pháp phải thừa nhận các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam.
Với bản yêu sách đó, Nguyễn Ái Quốc đã gây tiếng vang lớn không những trong dư
luận xã hội nước Pháp mà còn dội mạnh về nước, tạo nên bước ngoặt mới trong phong trào
giải phóng dân tộc. Cịn đối với bọn thực dân Pháp thì chúng đi từ kinh ngạc đến lồng lộn hò
hét cuối cùng ra lệnh điều tra tung tích Nguyễn Ái Quốc và lập cơ quan chuyên trách theo
dõi những hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc và Việt kiều yêu nước để áp dụng
những biện pháp ngăn chặn. Người đã đọc đi, đọc lại nhiều lần và qua lăng kính Chủ nghĩa
yêu nước chân chính Người tìm thấy ở đó con đường đi đúng đắn giải phóng dân tộc và đất
nước khỏi ách thực dân. Từ đó, Người hồn tồn tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba.
Tháng 12/1920, tại Đại hội Tua, bằng quyết định sáng suốt về mặt tổ chức là bỏ phiếu
ủng hộ Quốc tế Cộng sản, tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và trở thành người cộng
sản Việt Nam đầu tiên. Lịch sử cho thấy, có nhiều con đường đến với Chủ nghĩa Cộng
sản, trở thành người cộng sản. Nguyễn Ái Quốc trở thành người cộng sản theo con đường
riêng của mình. Từ một người dân thuộc địa trong hồn cảnh phong trào cơng nhân chưa phát
triển, ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin chưa rọi tới, nhưng xuất phát từ Chủ nghĩa yêu
nước chân chính, Người đã vượt qua mn vàn khó khăn, trở ngại để tìm hiểu, khảo nghiệm
cuộc sống của các dân tộc trên thế giới và trực tiếp tham gia phong trào cơng nhân của chính
quốc là một nước cơng nghiệp phát triển, rồi tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin và trở thành
người cộng sản.
Tiêu chuẩn cao nhất cho sự lựa chọn và định hướng của Người là kiên quyết đứng về
phía học thuyết và tổ chức cách mạng nào thực sự quan tâm đến cuộc sống và quyền lợi của
các dân tộc bị áp bức, bênh vực, ủng hộ và chỉ ra con đường đúng đắn để giải phóng dân
tộc. Tiêu chuẩn hết sức thiết thực đó của một thanh niên yêu nước một nước thuộc địa lại phù
hợp với chân lý của thời đại khi mà cách mạng giải phóng dân tộc đã trở thành một bộ phận
của cách mạng vơ sản thế giới. Đây chính là điểm gặp gỡ có ý nghĩa then chốt giữa con
người Nguyễn Ái Quốc, dân tộc Việt Nam với Chủ nghĩa Cộng sản, với thời đại Lênin. Thực
hiện bước ngoặt đó, Người đã hồn thành chặng đường đầu của hành trình cứu nước, đã tìm
ra chân lý của thời đại và bắt đầu cuộc đấu tranh đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân
dân ta vào quỹ đạo cách mạng vô sản thế giới bằng việc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về
nước, chuẩn bị dần dần, từng bước về chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự ra đời một Đảng
mác-xít ở Việt Nam, đây là nhân tố cơ bản và đầu tiên bảo đảm mọi thắng lợi của cách mạng
nước ta.
4. Những đóng góp về tư tưởng - lý luận của Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam, với
sự phát triển của đất nước trong tương lai và ý nghĩa lớn lao đối với thời đại hiện nay.
Ngay từ khi đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, ánh sáng chân lý của thời đại, trái tim của
Người luôn hướng về nhân dân các dân tộc bị áp bức, chiến đấu khơng mệt mỏi vì hịa
bình, độc lập, tự do, hạnh phúc. Người đã hết lòng, hết sức xây dựng sự đồn kết nhất trí giữa
các Đảng Cộng sản anh em trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản
trong sáng, không ngừng vun đắp quan hệ gắn bó, hữu nghị giữa các dân tộc Đơng
Dương, các nước láng giềng. Người đã tìm ra các giải pháp đấu tranh giải phóng lồi
8
người. Đóng góp lớn nhất của Hồ Chí Minh đối với thời đại là từ xác định đúng đắn con
đường cứu nước cho dân tộc đến việc xác định được một con đường, một hướng đi và một
phương pháp để thức tỉnh hàng trăm triệu người bị áp bức trong thuộc địa lạc hậu.
Hồ Chí Minh đã nỗ lực khơng ngừng để kết nối Cách mạng Việt Nam với Cách mạng
thế giới, Người đã làm sống lại những giá trị tinh hoa của dân tộc Việt Nam. Sự nghiệp cứu
nước của Người đã xóa bỏ tất cả những tủi nhục nơ lệ đè nặng trên vai dân tộc ta. Chính vì
vậy mà khơng chỉ nhân dân Việt Nam kính u Chủ tịch Hồ Chí Minh mà nhân dân, bạn bè
thế giới cũng rất yêu quý Người, dành cho Người những tình cảm trân trọng và tốt đẹp nhất.
Chương 2: Hồ Chí Minh là “anh hùng giải phịng dân tộc”
Nhiều cuộc khởi nghĩa, đấu tranh anh dũng, bất khuất giành độc lập dân tộc và thống
nhất Tổ quốc đều lần lượt thất bại, phong trào cứu nước của nhân dân ta đứng trước khủng
hoảng sâu sắc về đường lối. Với khát vọng cháy bỏng giành độc lập, tự do cho dân, cho
nước, Người đã bôn ba khắp năm châu bốn biển, vừa lao động, học tập, vừa quan sát, nghiên
cứu lý luận và kinh nghiệm các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới, Người hiểu rõ cội
nguồn những khổ đau của nhân dân lao động là ở sự áp bức, bóc lột của chủ nghĩa tư bản đế
quốc và hình thành nên ý thức giai cấp rõ rệt.
Với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam do Người sáng lập vào năm 1930, cùng
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, đường lối cách mạng Việt Nam đã cơ bản được hình
thành, con đường cứu nước đúng đắn của Việt Nam đã cơ bản được xác định. Điều này
không chỉ khai thơng bế tắc trong đường lối giải phóng dân tộc, mà còn giải quyết đúng đắn,
sáng tạo và lãnh đạo thực hiện thắng lợi các vấn đề trọng yếu của cách mạng Việt Nam.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Lãnh tụ Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã
đồn kết một lịng, phát huy tối đa sức mạnh toàn dân tộc, đưa cách mạng Tháng Tám năm
1945 đi đến thắng lợi, lật đổ chế độ thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Trong bản Tuyên ngôn độc
lập đọc ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố trước quốc dân, đồng
bào và toàn thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành
một nước tự do độc lập”.
Ngay sau khi giành được độc lập, chính quyền cách mạng non trẻ của ta đứng trước
tình thế vơ cùng khó khăn, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng tồn Đảng đã sáng suốt đề ra đường
lối đúng đắn, chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua thác ghềnh, bảo vệ Đảng và giữ vững
chính quyền cách mạng. Trên cơ sở đường lối kháng chiến “toàn dân”, “toàn diện”, “trường
kỳ”, “dựa vào sức mình là chính” phát huy truyền thống đồn kết, u nước của tồn dân tộc,
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân lần lượt đánh bại mọi âm mưu, kế
hoạch xâm lược của kẻ thù, đặc biệt là thắng lợi trong Chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 với
đỉnh cao là Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, buộc
thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ (năm 1954), chấm dứt cuộc chiến tranh xâm
lược Việt Nam.
Với tinh thần “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu
làm nô lệ”, “không có gì q hơn độc lập, tự do”; thực hiện Di chúc thiêng liêng của Người;
trên cơ sở đường lối đúng đắn, sáng tạo của Đảng, với sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc
kết hợp với sức mạnh thời đại, quân và dân ta đã lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh
9
của đế quốc Mỹ, giải phóng hồn tồn miền Nam, thu giang sơn về một mối, hoàn thành sự
nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ miền Bắc, đưa cả nước đi lên chủ
nghĩa xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Lãnh tụ thiên tài của Đảng và nhân dân ta, Người là tấm
gương mẫu mực về đạo đức cách mạng, hết lòng, hết sức cống hiến, hy sinh vì sự nghiệp
cách mạng của Đảng và dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện
Đảng Cộng sản Việt Nam, xây dựng nền Cộng hoà Dân chủ Việt Nam, xây dựng Mặt trận
Dân tộc thống nhất Việt Nam, tổ chức và huấn luyện các lực lượng vũ trang nhân dân Việt
Nam, Người đặt nền tảng quan hệ với các dân tộc trên thế giới. Người đã cùng Đảng Cộng
sản Việt Nam vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào những điều kiện nhất định của nước ta
và phát triển sáng tạo chủ nghĩa đó. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành
nền tảng tư tưởng của Đảng, soi đường cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc Việt
Nam giành được thắng lợi ngày càng to lớn hơn.
Là một nhà lãnh đạo sáng suốt của Đảng và nhân dân, nhưng Chủ tịch Hồ Chí khơng
bao giờ coi mình đứng cao hơn nhân dân, khơng để ai sùng bái cá nhân mình, chỉ tâm niệm
suốt đời là người phục vụ trung thành và tận tụy của nhân dân, “như một người lính vâng
mệnh lệnh quốc dân ra mặt trận”.
Cuộc đời của Người là biểu tượng cao đẹp về chí khí cách mạng kiên cường, tinh thần
độc lập tự chủ, lòng yêu nước, thương dân nồng nàn, đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí
cơng vơ tư, tác phong khiêm tốn, giản dị. Người để lại cho chúng ta một tấm lịng nhân hậu,
một tình u đối với đất nước, nhân dân và đảng, một trí tuệ anh minh, mẫn tiệp; một tầm
nhìn xa rộng, sâu sắc; một mẫu mực tuyệt vời về cách sống, cách nghĩ, cách viết, cách nói,
cách làm việc.
Chương 3: Hồ Chí Minh là “nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam”
Đi đến đâu, trong hồn cảnh nào, Người cũng ln có ý thức tự học, tự học từ ngoại
ngữ, đến trau dồi kiến thức về văn hóa, phong tục, tập quán... Trên nền tảng văn hóa phương
Đơng vững vàng, sâu sắc, Người từng bước hấp thụ văn hóa nhân đạo và dân chủ của
phương Tây. Chính truyền thống dân tộc tốt đẹp, vốn sống phong phú, vốn văn hóa rộng lớn
đã dẫn Người đến với chủ nghĩa Mác – Lê nin, đỉnh cao và kết tinh thành tựu văn hóa lồi
người và bổ sung những đặc trưng phù hợp với dân tộc mình. Sự gặp gỡ với các nền văn hóa
làm phong phú thêm văn hóa dân tộc vốn rất bền chặt, sâu sắc trong Hồ Chí Minh và cuộc
đời, sự nghiệp của Người trở thành “tấm gương về nhân sinh quan và thế giới quan cao đẹp,
làm sáng lên một chủ nghĩa nhân văn trùng với những ước mơ cổ truyền của dân tộc Việt
Nam và các dân tộc, kết tinh những tư tưởng và tình cảm lớn của lồi người”.
1. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khởi xướng phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, chủ
nghĩa đế quốc, giải phóng các dân tộc thuộc địa, giành lại độc lập tự do. Đó khơng phải chỉ là
một sự nghiệp chính trị phi thường mà cịn là một sự nghiệp văn hóa cao cả.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đem ánh sáng cách mạng, ánh sáng văn hóa cho nhân dân
Việt Nam và góp phần đem lại ánh sáng cho nhân dân các thuộc địa, xua tan bóng tối của chủ
nghĩa thực dân, đế quốc, của dốt nát, đói nghèo, bệnh tật đè nặng lên cuộc sống của các dân
tộc bị áp bức. “Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng với lồi người loại trừ một trở lực to lớn trên
10
con đường tiến lên thế giới văn minh, xóa đi một vết nhơ trong lịch sử là chế độ thuộc địa”.
Trong những năm đi ra thế giới, xem xét cuộc sống, Nguyễn Ái Quốc đã nghĩ đến một xã hội
mới, dân chủ, công bằng, nhân đạo, khác hẳn cái xã hội đầy rẫy áp bức, bất cơng ở Tổ quốc
mình cũng như ở các nước khác, nghĩ đến một xã hội văn minh cho dân tộc mình và các dân
tộc khác. Người là một con người đầy tình nhân đạo và tinh thần quốc tế.
Trên hành trình 30 năm chân khơng nghỉ, trí óc khơng ngừng suy tính, lãnh tụ Nguyễn
Ái Quốc cùng đồng chí, đồng bào đã lập nên một trong những chiến cơng chói lọi nhất của
dân tộc trong thời đại Hồ Chí Minh, mở ra bước ngoặt lớn của cách mạng, đưa Việt Nam
bước sang kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Đó là một cuộc
thay đổi cực kỳ to lớn trong lịch sử của nước ta, nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành
người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh. Đứng trước vận mệnh ngàn cân treo sợi tóc, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nhận trách nhiệm người cầm lái chèo chống đưa con thuyền Tổ quốc đi
đến bến bờ hạnh phúc của nhân dân. Theo lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Người, cả
dân tộc muôn người như một “quyết không chịu mất nước, khơng chịu làm nơ lệ”, đồn kết
một lịng chống Pháp.
Là linh hồn của cuộc kháng chiến, là biểu tượng sáng ngời của tinh thần quyết chiến
quyết thắng, Người đã quy tụ được sức mạnh tổng hợp của dân tộc để chĩa thẳng vào kẻ thù,
khiến cho chúng luôn luôn bị động, bất ngờ và thất bại, còn sức chiến đấu của nhân dân ta thì
như được nhân lên gấp bội, càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng. Đại thắng Xuân
năm 1975 tạo nên bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc, khát vọng non sông thu về một
mối đã thành hiện thực. Một điều không thể không nhắc tới, đó là trong suốt sự nghiệp cách
mạng, với nhiều đối tượng khác nhau ở bên kia chiến tuyến, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln có
phong cách ứng xử văn hóa. Người ln mong muốn thực hiện đường lối ngoại giao hịa
bình, đối thoại, chủ trương giải quyết mọi tranh chấp, xung đột bằng thương lượng với thái
độ hiểu biết, nhân nhượng lẫn nhau.
Trên cương vị Chủ tịch nước, Chủ tịch Đảng, Người chỉ đạo nhiều hoạt động của
Đảng, Nhà nước nhằm xây dựng mối quan hệ rộng rãi với nhiều quốc gia, nhiều tổ chức quốc
tế, nhiều nhân sĩ, trí thức, chính khách, nhà văn hóa có tên tuổi để hình thành một mặt trận
nhân dân thế giới ủng hộ nhân dân ta. Dưới sự lãnh đạo và cổ vũ của Chủ tịch Hồ Chí Minh
cuộc chiến đấu anh hùng, đầy gian khổ, hy sinh của nhân dân Việt Nam chống giặc xâm lược
đã nhận được sự đồng tình, ủng hộ của nhân loại tiến bộ. Hiện tượng chưa từng có trong lịch
sử này chứng tỏ khả năng kết nối, quy tụ của nhà văn hóa kiệt xuất Hồ Chí Minh và trong kí
ức của các chính trị gia, văn nghệ sĩ, bạn bè quốc tế, Hồ Chí Minh ln là biểu tượng của hịa
bình, hữu nghị giữa nhân dân toàn thế giới. Tin theo ngọn cờ cách mạng vĩ đại – văn hóa cao
cả của Người, dân tộc Việt Nam đã từ bóng tối của xiềng xích nơ lệ, đói nghèo, lạc hậu, khổ
đau đứng lên quyết tâm tranh đấu và đã giành được chiến thắng huy hoàng là độc lập, tự do,
hạnh phúc.
2. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhìn thấy vai trị và sức mạnh của văn hóa, đã sớm đưa văn hóa vào
chiến lược phát triển đất nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm sâu sắc về vai trò, nhiệm vụ của văn hóa:
văn hóa vào sâu trong tâm lý của quốc dân, văn hóa phải sửa đổi được tham nhũng, lười
11
biếng, phù hoa, xa xỉ, văn hóa phải làm thế nào cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, độc lập, tự
do, có tinh thần vì nước qn mình, vì lợi ích chung mà qn lợi ích riêng mình. Trên cơ sở
này, hàng loạt chính sách, phong trào văn hóa do Người khởi xướng đã góp phần quan trọng
vào thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc, sự nghiệp xây dựng CNXH ở miền Bắc,
đấu tranh giải phóng ở miền Nam. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, văn hóa giữ vai trò đặc biệt
quan trọng trong cuộc chiến chống lại sự nghèo đói, dốt nát. Để tập hợp, đồn kết toàn dân
tộc, Người ban bố Sắc lệnh tự do tín ngưỡng và đã mời được nhiều nhân sĩ danh tiếng như
các cụ Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Văn Tố tham gia Chính phủ. Làm được như vậy phải là
con người văn hóa có tấm lịng rộng mở “chỉ sợ lịng mình khơng rộng, chứ khơng sợ người
ta khơng theo mình”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh định hướng nền văn hóa mới phải đề cao con người, quan
tâm, chăm lo mọi đối tượng để mỗi thành phần, tầng lớp đều được trao cơ hội vươn
lên. Trong chiến lược văn hóa của Người, một vấn đề được quan tâm hàng đầu là xây dựng
nền giáo dục cách mạng chân chính để con người được phát triển toàn diện và đào tạo thế hệ
kế tục sự nghiệp cách mạng. Tư tưởng giáo dục của Người khơng bó hẹp trong việc giáo dục
học vấn mà hướng tới việc đào tạo con người toàn diện, vừa “hồng” vừa “chuyên”, có tri
thức, có đạo đức, có sức khoẻ để phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Với đường lối làm
thế nào cho văn hóa vào sâu trong tâm lý của quốc dân, nghĩa là văn hóa phải sửa đổi được
tham nhũng, lười biếng, phù hoa, xa xỉ, Người làm việc với Ban Tuyên huấn Trung ương
xuất bản sách “Người tốt, việc tốt", lấy gương người tốt, việc tốt để hằng ngày giáo dục lẫn
nhau là một trong những cách tốt nhất xây dựng con người mới, cuộc sống mới.
Để động viên và phát huy phẩm chất tốt đẹp của con người mới, Chủ tịch Hồ Chí
Minh trong 10 năm đã thưởng 3.972 huy hiệu cho người tốt việc tốt. Là người sống gần gũi
thiên nhiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm thể hiện mối quan tâm đối với mơi trường và mối
quan hệ hịa hợp con người - thiên nhiên trong sự phát triển của một quốc gia. “Sự quan tâm
của Người đối với việc trồng cây và bảo vệ môi trường đã vượt qua biên giới tới mức, trong
các chuyến thăm nước ngoài hoặc mỗi khi tiếp đón khách ngoại quốc, Người hay tổ chức lễ
trồng cây và gọi những cây này là “cây hữu nghị “biểu tượng cho quan hệ giữa Việt Nam và
thế giới cũng thể hiện thái độ tích cực đối với môi trường”. Người phát động phong trào Tết
trồng cây, mong muốn thay dần tập quán ăn uống nặng nề, tốn kém.
Người kêu gọi miền Bắc trồng cây cho đất nước xanh tươi và dặn các tỉnh chú ý nhân
giống cho miền Nam, trồng nhiều cây miền Nam trong vườn kết nghĩa. Theo lời kêu gọi của
Người, dù bom rơi, đạn nổ khi Mỹ leo thang bắn phá miền Bắc, khắp thành thị đến nông thôn
những hàng cây vẫn mọc lên tươi xanh bởi bàn tay vun xới, chăm tưới mỗi ngày. Trong Di
chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn khi Người qua đời, khơng nên lãng phí dựng bia
đá, tượng đồng mà tro cốt được chôn trên một quả đồi và có kế hoạch trồng cây trên và xung
quanh đồi. Trồng cây không chỉ là công việc nông lâm đơn thuần, mà cịn giáo dục tình u
lao động, u thiên nhiên, bảo vệ môi trường, từ trồng cây nghĩ đến trồng người.
Khi lịch sử lùi xa một khoảng thời gian đủ dài, thế giới càng có cơ sở khẳng định ở Hồ
Chí Minh một nhãn quan văn hóa tinh tường, thấu suốt, đã vạch ra những đường lối, chủ
trương, phong trào văn hóa sâu sắc có giá trị bền vững tận mai sau.
3. Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà hoạt động và sáng tạo văn hóa lớn.
Quan tâm đến việc xây dựng phẩm chất đạo đức tốt đẹp cho con người XHCN, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã làm mới những khái niệm văn hóa truyền thống bằng ý nghĩa cách
mạng mới mẻ của thời đại bên cạnh việc đề ra nhiều chuẩn mực đạo đức cần có ở cán
12
bộ, đảng viên. Người cũng đồng thời là nhà báo, nhà thơ, nhà văn cách mạng - chiến sĩ tích
cực trên mặt trận văn hóa tư tưởng. Người am hiểu phong tục tập qn, sống hịa hợp, tơn
trọng văn hóa của nhân dân. Người nói có những phong tục tốt, cần giữ lại, cũng có nhiều tập
qn khơng tốt, cần phải thay đổi nhưng không phải tự ý cán bộ thay đổi ngay một lúc mà
phải vận động từ từ để quần chúng giác ngộ và tự cải cách lấy.
Thấy kiều bào cịn chậm tiến, mê tín, ngồi dịch sách, huấn luyện thanh niên, Thầu
Chín thường bày cho kiều bào tổ chức diễn kịch, thường là kịch lịch sử Việt Nam mất
nước, những câu chuyện phản ánh tâm hồn, ước mơ về cuộc sống tự do hạnh phúc. Ơng cũng
đóng một vài vai, được người xem rất thích, nhiều khi Thầu Chín ứng khẩu đặt câu hát ngay
tại chỗ. Thấy kiều bào hay lễ Đức Thánh Trần, Thầu Chín viết “Bài ca Trần Hưng Đạo”, bài
ca được truyền bá mau chóng, làm cho kiều bào bớt mê tín, dần dần được giác ngộ cách
mạng. Ở Cao Bằng, phong tục địa phương đến chúc Tết thì được tặng quà.
Các hội cứu quốc đến chúc Tết đều được Người tặng một phong bao với mong muốn
đồng bào dùng mua báo. Người khơi dậy truyền thống đùm bọc bầu bí thương nhau. “Những
cái cũ mà vẫn thúc đẩy cuộc sống thì cần phải giữ gìn nó”. Những số liệu thống kê về các tác
phẩm báo chí, thơ ca là minh chứng rõ ràng sức sáng tạo của nhà cách mạng – nhà văn hóa
Hồ Chí Minh.
Báo chí là một phần con người Hồ Chí Minh, giản dị, ngắn gọn nhưng tràn đầy khí thế
thúc giục hành động, mang khí phách dân tộc, thể hiện lương tâm, khát vọng của nhân loại
tiến bộ, yêu chuộng hịa bình. Giai đoạn đầu hoạt động cách mạng, khi mọi điều kiện vơ cùng
khó khăn, thiếu thốn, Người tham gia trực tiếp nhiều khâu từ sáng lập, viết bài, vẽ tranh đến
tổ chức in ấn, phát hành các báo như Người cùng khổ, Thanh niên, Công Nông... Giai đoạn
sau, Người là cây bút tích cực, tiên phong, đi sát các vấn đề thời sự đặt ra của sự nghiệp
kháng chiến kiến quốc, xây dựng CNXH ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam. Chú ý
trình độ tiếp thu, hiểu biết của mọi người để đạt hiệu quả tuyên truyền cao nhất, viết
xong, Người thường đưa người ít chữ xem trước, chữ nào đồng chí đó khơng rõ nghĩa Người
chữa lại ngay.
Do đó, quần chúng rất ham đọc sách báo, bài viết của Người. Cả cuộc đời làm báo với
tổng số 1.636 bài báo, từ bài báo đầu tiên “Vấn đề bản xứ” cho đến bài báo cuối cùng “Nâng
cao trách nhiệm chăm sóc và giáo dục thiếu niên nhi đồng” đều là sự thống nhất trong tấm
lòng trọn đời vì nước, vì dân. Giống như báo chí, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết nhiều thơ ca
tuyên truyền. Sinh thời chỉ tự nhận mình là một nhà hoạt động cách mạng chuyên nghiệp
nhưng thế giới không chỉ vinh danh Hồ Chí Minh là Anh hùng giải phóng dân tộc mà cịn là
Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam.
Người đã làm rạng danh quê hương đất nước và văn hóa dân tộc trong hành trình tìm
tịi, sàng lọc, điều chỉnh và phát triển tinh hoa văn hóa nhân loại. Từ người thanh niên yêu
nước Nguyễn Ái Quốc cho đến khi ở cương vị Chủ tịch nước, Chủ tịch Đảng và hơn tất cả là
trở thành Bác Hồ kính yêu của cả dân tộc, Hồ Chí Minh đã tạo nên thời đại rực rỡ tên vàng
cùng với hệ thống tư tưởng sâu sắc ở nhiều lĩnh vực.
Sự nghiệp văn hóa lớn nhất, quan trọng nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh là đã tìm con
đường cứu nước đúng đắn và lãnh đạo thành công sự nghiệp cách mạng giải phóng dân
tộc, giành độc lập tự do cho đất nước, hạnh phúc cho nhân dân. Sự nghiệp giải phóng dân tộc
13
do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo đã đem lại địa vị xứng đáng cho nền văn hóa dân tộc Việt
Nam. Khơng chỉ vậy, sự nghiệp này cịn có ý nghĩa to lớn đối với nền văn hóa thế giới, đã chỉ
ra cho nhân dân các nước thuộc địa con đường đứng lên đập tan xiềng xích nơ lệ, giành độc
lập, tự do cho đất nước mình, từ đó góp phần vào việc xóa bỏ chế độ thuộc địa trên thế giới.
Người chỉ rõ: “Văn hóa soi đường quốc dân đi”. Cái cốt lõi trong tư tưởng văn hóa Hồ
Chí Minh là lịng u nước, thương dân, thương u con người, hết lòng phụng sự Tổ
quốc, phục vụ nhân dân. Người đề cao lý tưởng cứu nước, cứu dân, “Tổ quốc trên hết”, “Dân
tộc trên hết”, “Khơng có gì quý hơn độc lập, tự do”.
Nhiều nhà nghiên cứu, nhà hoạt động xã hội trong nước và quốc tế khi nói và viết về
Hồ Chí Minh đã dùng những lời trân trọng như vậy. Với ý chí khát vọng cao cả, tầm nhìn
chiến lược thiên tài, Người vừa là nhà quân sự, nhà ngoại giao lỗi lạc, vừa là nhà văn hóa lớn
với trái tim nhân hậu, bao dung. Đối với mỗi người Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh
tụ, cũng là vị cha già dân tộc mà họ hết mực kính trọng và yêu mến - Người đã cho họ từ
thân phận nô lệ lên địa vị làm chủ nước nhà, cho họ hiểu rõ giá trị của tự do, độc lập. Tất cả
hòa quyện vào nhau, thống nhất với nhau, tạo nên sức cảm hóa và thuyết phục mạnh mẽ, một
phong cách đặc biệt - phong cách Hồ Chí Minh. Chiến thắng của nhân dân Việt Nam trong
cuộc đấu tranh giành độc lập tự do đã tạo ra hy vọng cho các dân tộc bị áp bức bởi chủ nghĩa
thực dân trên toàn thế giới trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do cho các dân tộc.
Trong công việc này, chúng ta cần phải kế thừa và vận dụng tốt di sản tinh thần vô giá
mà Hồ Chí Minh đã để lại:
- Tiếp biến văn hoá trên tinh thần độc lập, tự chủ, xuất phát từ nhu cầu và đặc điểm dân tộc,
từ truyền thống văn hoá của đất nước; học người để làm giàu cho mình, hội nhập mà khơng
đánh mất bản sắc dân tộc, vẫn giữ được tinh thần thuần tuý Việt Nam”.
- Khơng tiếp thu “cả gói" mà biết lựa chọn những cái hợp lý, cái cần thiết, tiếp thu trên tinh
thần phê phán, vận dụng có đổi mới, khơng rập khn, giáo điều.
- Tiếp biến văn hoá trong thời đại hiện nay phải có chiến lược tổng thể, tồn diện, chủ động
(phải khắc phục tính thời vụ, vá víu, chữa cháy), đồng thời phải nhớ đừng “chỉ có vay mà
khơng có trả”- như Hồ Chí Minh đã căn dặn - tức là phải nuôi dưỡng khát vọng sáng tạo,
phải chống lại sự dễ dãi, tầm thường, phấn đấu vươn tới những thành tựu đỉnh cao, để có
những sản phẩm xứng đáng góp phần vào kho tàng văn hố của nhân loại.
Kết luận
Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ thiên tài của Đảng và nhân dân ta, Người thầy vĩ
đại của Cách mạng Việt Nam, Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới,
Người chiến sĩ cộng sản quốc tế mẫu mực đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp cách
mạng của Đảng, của dân tộc.
Kỷ niệm 130 năm Ngày sinh của Người là dịp để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thấm
nhuần và khắc sâu những cống hiến vĩ đại của Người đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng,
14
của dân tộc ta và để tăng thêm ý chí và sức mạnh, tiếp tục đưa đất nước ta phát triển như Bác
hằng mong muốn.
Thứ nhất, Người ra đi tìm đường cứu nước và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Mỗi người chúng ta không thể nào quên giữa lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng hoảng về
đường lối cứu nước, nhiều nhà yêu nước đương thời tiếp tục con đường cứu nước theo lối cũ
đã không thành công thì ngày 05/6/1911 người thanh niên Nguyễn Tất Thành (tức là Nguyễn
Ái Quốc, Hồ Chí Minh sau này) ra đi tìm đường cứu nước theo phương hướng mới với khát
vọng cháy bỏng giành độc lập tự do cho nhân dân, cho đất nước. Ngày 03/02/1930 mãi mãi
là mốc son trong lịch sử của dân tộc Việt Nam với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam do
Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì thành lập. Từ mốc son ấy, cả dân tộc đồn kết, bền lịng phấn
đấu dưới sự lãnh đạo của Đảng lập nên những kỳ tích vang dội trong 90 năm qua đã chứng
minh: Kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập
dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội là đường lối đúng đắn, sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam.
Thứ hai, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân tộc ta đã giành
thắng lợi vang dội trong cuộc Cách mạng tháng Tám, thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa và giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Pháp, đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa
xã hội. Ngày 02/9/1945, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản
Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa nay là nước Cộng hịa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chẳng những giai cấp lao động
và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi
khác cũng có thể tự hào rằng: Lần nay là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc
thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành cơng, đã nắm chính quyền
tồn quốc”. Đó là thắng lợi của cuộc kháng chiến 09 năm chống thực dân Pháp và can thiệp
Mỹ kết thúc bằng chiến dịch Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, góp
phần làm sụp đổ chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi toàn thế giới.
Thứ ba, ngày 02/9/1969, Bác Hồ đã vĩnh biệt chúng ta và để lại cho toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân ta bản Di chúc mang tầm tư tưởng và trí tuệ của thời đại. Thực hiện bản Di
chúc bất hủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, dưới sự lãnh đạo của Đảng, 50 năm qua cách
mạng Việt Nam đã không ngừng tiến lên giành được nhiều thắng lợi vẻ vang. Một là, giải
phóng hồn tồn miền Nam, đưa cả nước vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Thực hiện Di
chúc của Người: “Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua
gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc
chắn”. Hai là, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, tiến hành
thắng lợi sự nghiệp đổi mới, đời sống của nhân dân ngày một nâng cao. Ba là, thường xuyên
tiến hành xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tăng cường giáo dục nền tảng tư tưởng của Đảng. Bốn
là, quan tâm đào tạo, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau. Thực hiện Di chúc của Bác:
“Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc làm rất quan trọng và rất cần thiết”,
Đảng ta luôn chú ý đào tạo và bồi dưỡng thế hệ trẻ làm người kế tục sự nghiệp cách mạng
của thế hệ cha anh. Năm là, xây dựng tinh thần quốc tế vô sản chân chính, kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại, nâng cao vị thế đất nước. Kỷ niệm 130 năm Ngày sinh của
15
Chủ tịch Hồ Chí Minh, tồn Đảng, tồn dân và toàn quân ta đang ra sức học tập và làm theo
tư tưởng, đạo đức và phong cách của Người để tiếp tục thấm nhuần và tiếp tục vận dụng vào
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới. Từ những cống hiến vĩ đại của
Người đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, chúng ta tin tưởng rằng tư tưởng,
đạo đức, phong cách của Người là tài sản vơ giá của tồn Đảng, toàn dân và toàn quân ta,
mãi mãi là niềm tự hào, nguồn cổ vũ to lớn đối với các thế hệ người Việt Nam hôm nay và
mai sau, là ánh sáng soi đường cho cách mạng Việt Nam đạt được những kỳ tích vẻ vang hơn
nữa để đưa dân tộc đi tới tương lai tươi sáng.
Tài liệu tham khảo
1. Bộ giáo dục và đào tạo, Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh (2016), Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
2. />3. />
UNESCO-cong-nhan-Ho-Chi-Minh-la-%E2%80%9CAnh-hung-giai-phong-dan-tocNha-van-hoa-kiet-xuat-cua-Viet-Nam%E2%80%9D-(1990-2020).html
4. />
MINH---ANH-HUNG-GIAI-PHONG-DAN-TOC-LANH-TU-THIEN-TAI-CUADANG-VA-NHAN-DAN-NHA-VAN-HOA-KIET-XUAT-CUA-VIET-NAM-NGUOICHIEN-SI-LOI-LAC-CUA-PHONG-TRAO-CONG-SAN-VA-CONG-NHANQUOC-TE.html
5. Hồ Chí Minh – Nhà tư tưởng lỗi lạc – Giáo sư Song Thành
6. Hồ Chí Minh – Biểu tượng của thời đại – Đỗ Hoàng Linh
16