Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Tài liệu Sơn mài docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (89.06 KB, 5 trang )

Sơn mài
Sơn mài được coi là một trong các chất liệu hội họa ở Việt Nam. Đây là sự
tìm tòi và phát triển kỹ thuật của nghề sơn (nghề sơn ta) thủ công truyền thống của
Việt Nam thành kỹ thuật sơn mài riêng. Tuy nhiên, từ dùng để gọi sơn mài (tiếng
Anh: lacquer) thường được hiểu sang các đồ dùng sơn mỹ nghệ của Nhật, Trung
Quốc. Xin lưu ý, kỹ thuật mài là điểm khác biệt lớn giữa đồ thủ công sơn mỹ nghệ
và tranh sơn mài Việt Nam.
Tranh sơn mài sử dụng các vật liệu màu truyền thống của nghề sơn như sơn
then, sơn cánh gián làm chất kết dính, cùng các loại son, bạc thếp, vàng thếp, vỏ
trai, v.v. vẽ trên nền vóc màu đen. Đầu thập niên 1930, những họa sĩ Việt Nam
đầu tiên học tại trường Mỹ thuật Đông Dương đã tìm tòi phát hiện thêm các vật
liệu màu khác như vỏ trứng, ốc, cật tre, v.v. và đặc biệt đưa kỹ thuật mài vào tạo
nên kỹ thuật sơn mài độc đáo để sáng tác những bức tranh sơn mài thực sự. Thuật
ngữ sơn mài và tranh sơn mài cũng xuất hiện từ đó. Tranh có thể được vẽ rồi mài
nhiều lần tới khi đạt hiệu quả mà họa sĩ mong muốn. Sau cùng là đánh bóng tranh.
Người ta thường lưu ý rằng sơn mài có những điểm "ngược đời": muốn lớp
sơn vừa vẽ khô, tranh phải ủ trong tủ ủ kín gió và có độ ẩm cao. Muốn nhìn thấy
tranh lại phải mài mòn đi mới thấy hình.
Hầu hết họa sĩ đồng ý rằng: kỹ thuật vẽ sơn mài khó và có tính ngẫu nhiên
nên nhiều khi các họa sĩ dày dặn kinh nghiệm cũng bất ngờ trước một hiệu quả đạt
được sau khi mài tranh.
Các nguyên liệu sử dụng trang trí
Một sản phẩm sơn mài sử dụng khá nhiều nguyên liệu: đó là sơn, màu và
các nguyên liệu khác. Có thể kể ra đây một vài nguyên liệu phổ biến như:

Sơn: khai thác từ cây sơn, ngoài ra còn dùng dầu trẩu, dầu
trám, nhựa thông và nhựa dó

Màu: sơn mài cổ truyền dùng 2 màu cơ bản là cánh gián đen
và đỏ, loại màu chế từ khoáng chất vô cơ (ví dụ: son) nên không bị phân
huỷ trước ánh sáng và thời gian.



Các sản phẩm từ bạc như bạc thếp, bạc dán, bạc xay, bạc
dầm

Các sản phẩm từ vàng như vàng thếp

Các vật liệu khác: vỏ trứng, vỏ trai, vỏ ốc, bột điệp

Ngày nay, người ta đã chế tạo thành công các loại sơn công
nghiệp có thể thay thế các loại sơn mài cổ truyền do có nhiều ưu điểm, nhất
là dễ dàng trong sản xuất tranh và màu sắc thì vô cùng phong phú.
Các công đoạn chính của công nghệ sơn mài
Có thể nói công nghệ sơn mài chỉ có nguyên lý chung nhưng khác biệt
trong kinh nghiệm, kỹ thuật của từng cá nhân, từng gia đình cũng như nó được
biến đổi kỹ thuật làm tranh khác với làm tượng, lại khác với trang trí đồ vật, sơn
phủ hoàng kim Có thể chia làm một số công đoạn chính sau: bó hom vóc, trang
trí, mài và đánh bóng.
Bó hom vóc
Việc hom bó cốt gỗ (đồ vật cần sơn) ngày xưa thường được người làm sử
dụng giấy bả, loại giấy chế từ gỗ dó nên rất dai, có độ bền vững hơn vải. Cách bó
hom vóc được tiến hành như sau: dùng đất phù sa (ngày nay người thợ có thể dùng
bột đá) trộn sơn ta giã nhuyễn cùng giấy bản rồi hom, chít các vết rạn nứt của tấm
gỗ. Mỗi lớp sơn lại lót một lớp giấy (hoặc vải màn) sau đó còn phải đục mộng
mang cá để cài và gắn sơn cho các nẹp gỗ ngang ở sau tấm vóc (ván gỗ) để chống
vết rạn xé dọc tấm vải. Sau đó để gỗ khô kiệt mới hom sơn kín cả mặt trước, mặt
sau. Công đoạn này nhằm bảo vệ tấm vóc không thể thấm nước, không bị mối mọt,
không phụ thuộc môi trường làm gỗ co ngót. Xử lý tấm vóc càng kỹ, càng kéo dài
tuổi thọ cho đồ vật cần sơn, mỗi tác phẩm sơn mài có tuổi thọ 400-500 năm.
Trang trí
Khi có được tấm vóc nói trên (hoặc các mô hình chạm khác bình hoa, các

bộ đồ khác), người chế các món đồ phải làm các công đoạn gắn, dán các chất liệu
tạo màu cho tác phẩm trước tiên như: vỏ trứng, mảnh xà cừ, vàng, bạc sau đó phủ
sơn rồi lại mài phẳng, tiếp đến dùng màu.
Với kỹ thuật sơn phủ tượng và đồ nội thất như: hương án, hoành phi, câu
đối người thợ phải làm trong phòng kín và quây màn xung quanh để tránh gió
thổi các nguyên liệu: quỳ vàng, quỳ bạc, tránh bụi bám vào nước sơn còn ướt.
Mài và đánh bóng
Vì dầu bóng đã pha màu để vẽ nên độ bóng chìm trong cốt màu tạo thành
độ sâu thẳm của tranh, do đó sau mỗi lần vẽ phải mài. Người xưa sử dụng lá chuối
khô làm giấy nháp. Đến nay, nguyên tắc đánh bóng tranh lần cuối chưa có gì thay
thế phương pháp thủ công vì loại tranh này không được phép phủ dầu bóng. Đó
chính là điểm độc đáo của tranh sơn mài. Sự thành công của một bức tranh sơn
mài phụ thuộc rất lớn vào công đoạn sau cùng. Có một số thứ để mài và đánh bóng
như: than củi xoan nghiền nhỏ, tóc rối, đá gan gà v.v
Làng nghề sơn mài
Tập tin:Em bé.jpg
Hai người bạn - Tranh sơn mài
Việc làm sơn mài luôn phụ thuộc thời tiết - nó rất thích hợp mùa xuân và
những ngày mưa đầu hạ. Điều đó làm ta thấy sự phân bố làm nghề sơn mài không
những chia theo khu vực sản phẩm mà còn có yếu tố liên kết phục vụ lẫn nhau.
Làng nghề sơn mài Phù Lào (Tiên Sơn - Bắc Ninh) thường lấy quỳ vàng,
quỳ bạc của làng Kiêu Kị (Gia Lâm), lấy giấy dó của làng Đông Cao, lấy vải màn
của làng Đình Cả, lấy vóc hoặc sản phẩm chạm khắc của làng Phù Khê, lấy nguồn
sơn thô của Phú Thọ, Yên Bái và lấy nguồn dầu trẩu, dầu trám của Lạng Sơn, Cao
Bằng
Hà Nội ngày nay vẫn là đầu mối tập trung nguyên liệu và các bậc chế tác
nghệ thuật sơn mài nổi tiếng. Đa phần họ có gốc thành viên của các làng nghề
truyền thống nhập cư Hà Nội và tạo nên 36 phố phường ngày trước.
Sơn mài thời hiện đại
Hiện nay, tranh sơn mài sử dụng nguyên liệu là sơn Nhật được dùng khá

phổ biến. Do sơn ta có hạn chế là dễ gây tác động phụ cho người sử dụng (bị "sơn
ăn"), ngoài ra, khi dùng sơn ta, tranh lại phụ thuộc vào thời tiết khá nhiều. Khi thời
tiết có độ ẩm cao thì sơn càng nhanh khô, nếu thời tiết khô ráo (độ ẩm thấp) thì
sơn rất lâu khô. Do vậy, sơn ta ít khi được dùng tại các nước có khí hậu khô ráo.
Trong khi đó, sơn Nhật lại nhanh khô và làm cho việc ai đó muốn vẽ tranh ở nước
ôn đới cũng có thể thực hiện được. Nhưng khi sử dụng sơn Nhật, để tranh được
bóng, bây giờ người ta thường dùng một lớp sơn trong (sơn cánh gián) phủ ra bên
ngoài tranh, còn nếu tranh sơn mài dùng sơn ta, chỉ cần lấy nắm tóc rối xoa lên
tranh, hoặc dùng bàn tay có độ ẩm (có ít mồ hôi) xoa lên tranh, tranh sẽ rất bóng.
Tuy nhiên, tranh sơn màu dùng sơn ta vẫn được ưa chuộng hơn vì sự công phu
trong quá trình làm tranh và khi nhìn, nó tạo độ sâu cho bức tranh hơn.
Sơn mài ngày nay không chỉ còn ứng dụng sản xuất tranh sơn
mài, hoành phi hay câu đối nó còn được phát triển để sản xuất các
mặt hàng nội thất cao cấp như bàn ghế, Các họa sĩ nổi tiếng với tranh
sơn mài
Trước thập niên 1930, người ta chỉ dùng sơn ta trong trang trí đồ thờ cúng,
làm hàng mỹ nghệ. Vào thời gian này, một số họa sỹ Việt Nam đầu tiên đang học
như Trần Quang Trân, Nguyễn Gia Trí, Phạm Hậu, Nguyễn Khang, Trần Văn Cẩn
và nghệ nhân Đinh Văn Thành đã mạnh dạn thử nghiệm đưa kỹ thuật sơn ta vào
làm tranh nghệ thuật.
Những bức tranh sơn mài nổi tiếng

Hội chùa (1939) của Lê Quốc Lộc (tác phẩm tiêu biểu cho
tranh chất liệu sơn mài thế kỷ 20)

Nam Bắc một nhà (1961) của Nguyễn Văn Tỵ (tác phẩm tiêu
biểu cho tranh chất liệu sơn mài thế kỷ 20)

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×