Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

BÀI THU HOẠCH: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ HIỆU LỰC, GIÁM SÁT CỦA ĐẢNG Ở ĐỊA PHƯƠNG TỈNH HN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.2 KB, 19 trang )

MBTH
1

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC II

BÀI THU HOẠCH
LỚP CAO CẤP LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
HỆ TẬP TRUNG
TÊN MƠN HỌC: XÂY DỰNG ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM
TÊN BÀI THU HOẠCH: GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ CÔNG TÁC KIỂM TRA,
GIÁM SÁT CỦA ĐẢNG Ở ĐỊA PHƯƠNG TỈNH HN
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
ĐIỂM TRUNG BÌNH CHUNG
Bằng số
Bằng chữ

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021


MỤC LỤC
PHẦN I: MỞ ĐẦU............................................................................................1
PHẦN II: NỘI DUNG ......................................................................................2
2.1. Những vấn đề lý luận có liên quan đến cơng tác kiểm tra, giám sát của
Đảng………………………………………………………………………..….2
2.1.1. Khái niệm về kiểm tra, công tác kiểm tra của Đảng, giám sát và công
tác giám sát của Đảng………………………………..………………………..2
2.1.2. Nội dung công tác kiểm tra, giám sát của Đảng......................................3
2.1.3. Vị trí, vai trị của cơng tác kiểm tra, giám sát của Đảng...……………...4


2.1.4. Mối quan hệ giữa công tác kiểm tra và công tác giám sát………..…….6
2.2. Thực trạng công tác kiểm tra, giám sát của Đảng hiện nay ở địa phương
tỉnh HN ……………………………………….....….................................6
2.2.1. Kết quả công tác kiểm tra, giám sát..…….……………… …………….6
2.2.2. Nguyên nhân kết quả……………………………………………….......8
2.2.3. Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân……………………..……….………..9
2.3. Giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của
Đảng ở địa phương tỉnh HN trong giai đoạn hiện nay..………………...10
PHẦN
III:
KẾT
LUẬN....................................................................................16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................…….17


3

PHẦN I: MỞ ĐẦU
Kiểm tra, giám sát là một hoạt động thuộc chức năng lãnh đạo của Đảng,
là khâu quan trọng trong công tác lãnh đạo và cũng là nội dung của cơng tác
xây dựng Đảng, góp phần xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và
tổ chức. Việc tiến hành tốt công tác kểm tra, giám sát ở tổ chức cơ sở Đảng là
một biện pháp quan trọng nhằm ngăn ngừa và khắc phục những hiện tượng
suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận đội ngũ cán
bộ, đảng viên; phát hiện kịp thời những khuyết điểm để khắc phục, góp phần
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng và chất lượng
đội ngũ cán bộ đảng viên. Xuất phát từ yêu cầu và đòi hỏi khách quan của
công tác xây dựng Đảng, tại Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI
của Đảng đã chỉ rõ “Các cấp uỷ, tổ chức đảng phải nâng cao tinh thần trách
nhiệm, thực hiện tốt hơn nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo Điều lệ Đảng”. Tại

Đại hội XIII Đảng ta cũng đã đề ra các chủ trương, nhiệm vụ mới của công tác
kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng để góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm
quyền và sức chiến đấu của Đảng, làm cho Đảng ta luôn trong sạch, vững
mạnh.
Qua quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng và các hướng dẫn của các cơ
qua chức năng cấp trên, địa phương tỉnh HN luôn bám sát nhiệm vụ công tác
xây dựng Đảng, tập trung lãnh đạo chỉ đạo, quán triệt, triển khai thực hiện tốt
cơng tác kiểm tra, giám sát, góp phần quan trọng vào việc bảo vệ đường lối,
quan điểm, các nguyên tắc của Đảng; nâng cao năng lực và sức chiến đấu của
tổ chức đảng, góp phần xây dựng đảng bộ trong sạch, vững mạnh. Tuy nhiên,
bên cạnh những kết quả đạt được, công tác kiểm tra, giám sát của Đảng ở HN
vẫn còn một số tồn tại và hạn chế nhất định, vậy đó là những hạn chế gì, cũng
như cần phải có giải pháp gì để nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra,
giám sát ở địa phương HN, vì lẽ đó tơi chọn đề tài “Giải pháp nâng cao hiệu
lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Đảng ở địa phương tỉnh HN
trong giai đoạn hiện nay” để làm đề tài thu hoạch môn Xây dựng Đảng Cộng
sản Việt Nam.


4

PHẦN II: NỘI DUNG
2.1. Những vấn đề lý luận có liên quan đến công tác kiểm tra, giám
sát của Đảng
2.1.1. Khái niệm về kiểm tra, công tác kiểm tra của Đảng, giám sát
và công tác giám sát của Đảng
Khái niệm về kiểm tra: Kiểm tra là xem xét, đánh giá, kết luận về những
hoạt động của tổ chức hoặc của con người để nhận xét, đánh giá những kết
quả đạt được so với yêu cầu, mục đích, chỉ tiêu đã xác định; tìm ra những ưu
điểm, khuyết điểm, từ đó rút ra kinh nghiệm cho những hoạt động tiếp theo.

Đối với Đảng Cộng sản, kiểm tra là hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên,
hướng vào việc xây dựng và thực hiện các quyết định, giải quyết các vấn đề
trong sinh hoạt và nội bộ của Đảng, hoàn thiện quy trình lãnh đạo, giữ vững
kỷ luật, với mục đích đảm bảo cho các quyết định đã đề ra được thực hiện
nghiêm túc và có kết quả cao.
Khái niệm về công tác kiểm tra của Đảng: Công tác kiểm tra của Đảng là
toàn bộ hoạt động của các cấp ủy, tổ chức đảng có thẩm quyền và ủy ban kiểm
tra các cấp trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra theo quy định của Điều lệ Đảng
và quy định của các cơ quan có thẩm quyền của Đảng và Nhà nước.
Chủ thể công tác kiểm tra của Đảng gồm: Chi bộ, đảng ủy bộ phận, ban
thường vụ đảng ủy cơ sở, đảng ủy cơ sở; cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy từ cấp
trên cơ sở trở lên; Uỷ ban kiểm tra; các ban đảng, văn phòng cấp ủy gọi chung
là các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp ủy; ban cán sự đảng, đảng đoàn;
Đối tượng kiểm tra gồm: Chi ủy, chi bộ, đảng ủy bộ phận, ban thường vụ đảng
ủy cơ sở, đảng ủy cơ sở; cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy, thường trực cấp ủy từ
cấp trên cơ sở trở lên; ủy ban kiểm tra, các cơ quan tham mưu, giúp việc của
cấp ủy; ban cán sự đảng, đảng đoàn; đảng viên.
Khái niệm về giám sát: Giám sát của Đảng là việc các tổ chức đảng quan
sát, theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động nhằm kịp thời tác động để cấp ủy, tổ
chức đảng cấp dưới và đảng viên được giám sát chấp hành nghiêm chỉnh
Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quy định
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Tổ chức đảng cấp trên giám


5

sát tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên. Tổ chức đảng và đảng viên thực hiện
nhiệm vụ giám sát theo sự phân công.
Khái niệm về công tác giám sát của Đảng: Cơng tác giám sát của Đảng
là tồn bộ hoạt động của các cấp ủy, tổ chức đảng có thẩm quyền và Ủy ban

kiểm tra các cấp trong thực hiện nhiệm vụ giám sát theo quy định của Điều lệ
Đảng và quy định của các cơ quan có thẩm quyền của Đảng và Nhà nước.
Chủ thể công tác giám sát: Chi bộ, đảng ủy bộ phận, ban thường vụ đảng
ủy cơ sở, đảng ủy cơ sở; cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy từ cấp trên cơ sở trở
lên; Ủy ban kiểm tra; các ban đảng, văn phòng cấp ủy gọi chung là các cơ
quan tham mưu, giúp việc của cấp ủy; Đối tượng giám sát: Chi ủy, chi bộ,
đảng ủy bộ phận, ban thường vụ đảng ủy cơ sở, đảng ủy cơ sở; cấp ủy, ban
thường vụ cấp ủy, thường trực cấp ủy từ cấp trên cơ sở trở lên; ủy ban kiểm
tra, các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp ủy; ban cán sự đảng, đảng đồn;
đảng viên.
2.1.2. Nội dung cơng tác kiểm tra, giám sát của Đảng
Về nội dung công tác kiểm tra: Một là, xác định đường lối, quan điểm,
nguyên tắc, quy chế, quy định về công tác kiểm tra; Hai là, xây dựng tổ chức,
xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra; xác định chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt
động, các mối quan hệ của Ủy ban kiểm tra các cấp từ Trung ương đến cơ sở;
Ba là, lãnh đạo các tổ chức đảng, các tổ chức trong hệ thống chính trị thực
hiện thắng lợi các chủ trương, nghị quyết, quy chế, quy định của Đảng về
công tác kiểm tra; Bốn là, phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức trong
hệ thống chính trị và của nhân dân trong cơng tác kiểm tra; Năm là, phối hợp
thực hiện công tác cán bộ của Ủy ban kiểm tra các cấp; Sáu là, tổng kết thực
tiễn, phát triển lý luận về công tác kiểm tra.
Về nội dung công tác giám sát: Một là, xác định đường lối, quan điểm,
nguyên tắc, quy chế, quy định về công tác giám sát; Hai là, xây dựng tổ chức;
xác định chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động, các mối quan hệ công tác
chủ yếu về công tác giám sát; Ba là, tổ chức thực hiện các quy chế, quyết
định, nội dung, chương trình giám sát; Bốn là, phát huy vai trò của các tổ chức
trong hệ thống chính trị tham gia cơng tác giám sát; Năm là, phối hợp thực


6


hiện công tác cán bộ của Ủy ban kiểm tra các cấp; Sáu là, tổng kết thực tiễn,
phát triển lý luận về cơng tác giám sát.
2.1.3. Vị trí, vai trị của công tác kiểm tra, giám sát của Đảng
Một là, kiểm tra, giám sát là những chức năng lãnh đạo của Đảng: Thực
tiễn đã khẳng định, lãnh đạo không chỉ là đề ra chủ trương, đường lối, tổ chức
thực hiện, bố trí cán bộ, động viên tư tưởng, mà cịn phải kiểm tra, giám sát.
Không những kiểm tra, giám sát việc thực hiện đường lối, Cương lĩnh chính
trị, chủ trương, chính sách, mà kiểm tra ngay bản thân Cương lĩnh chính trị,
đường lối, chính sách đó và kiểm tra cả các tổ chức tiến hành kiểm tra nhằm
bảo đảm đường lối, chính sách được xác định đúng, được quán triệt và thực
hiện thắng lợi trong thực tiễn. Trong điều kiện đảng cầm quyền, cùng với công
tác cán bộ, công tác kiểm tra, giám sát trở thành công việc then chốt, trọng
tâm nhất. V.I.Lênin đã viết: “Theo ý tôi, điều chủ yếu là chuyển trọng tâm từ
việc soạn thảo các sắc lệnh và mệnh lệnh (đấy là chúng ta u mê đến ngu xuẩn)
sang việc lựa chọn người và kiểm tra sự thực hiện. Đó là vấn đề then chốt”.
“Tìm người, kiểm tra cơng việc, tất cả là ở đó”. Nếu không làm như thế, “tất
cả mọi mệnh lệnh và quyết định sẽ chỉ là mớ giấy lộn”; Chủ tịch Hồ Chí Minh
đánh giá rất cao vai trị của cơng tác kiểm tra, coi đây là công tác không thể
thiếu và có tính quyết định đối với hiệu quả lãnh đạo. Người khẳng định: “Khi
đã có chính sách đúng, thì sự thành cơng hoặc thất bại của chính sách đó là do
nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ và do nơi kiểm tra. Nếu ba
điều ấy sơ sài, thì chính sách đúng mấy cũng vơ ích”.
Hai là, kiểm tra, giám sát là một bộ phận quan trọng trong tồn bộ cơng
tác xây dựng Đảng: Đối với cơng tác xây dựng Đảng, kiểm tra, giám sát là
một bộ phận quan trọng. Công cuộc đổi mới càng đi vào chiều sâu, càng đòi
hỏi tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng. Để hồn thành sứ mệnh lịch sử của
mình, Đảng phải không ngừng tự đổi mới, tự chỉnh đốn, trước mắt thực hiện
tốt những vấn đề cơ bản và cấp bách, những biểu hiện suy thối về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống mà Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XIII của

Đảng đã chỉ ra: “Cơng tác phịng, chống tham nhũng, lãng phí ở một số địa
phương, bộ, ngành chưa có chuyển biến rõ rệt; cơng tác phòng ngừa tham


7

nhũng ở một số nơi cịn hình thức. Việc phát hiện, xử lý tham nhũng, lãng phí
vẫn cịn hạn chế, nhất là việc tự kiểm tra, tự phát hiện và xử lý tham nhũng,
lãng phí trong nội bộ cơ quan, đơn vị cịn yếu; tình trạng nhũng nhiễu, tiêu
cực trong một số cơ quan, đơn vị khu vực hành chính, dịch vụ cơng chưa được
đẩy lùi. Tham nhũng, lãng phí trên một số lĩnh vực, địa bàn vẫn còn nghiêm
trọng, phức tạp, với những biểu hiện ngày càng tinh vi, gây bức xúc trong xã
hội. Tham nhũng vẫn là một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của
Đảng và chế độ ta”; Một Đảng cầm quyền, lãnh đạo cả hệ thống chính trị nếu
khơng được kiểm tra, giám sát chặt chẽ rất dễ lộng quyền, lạm quyền, quan
liêu, tham nhũng. Đây cũng là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm suy
yếu và tan rã Đảng. Vì vậy, tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động của tổ
chức đảng và đảng viên hiện nay trở nên vô cùng bức thiết, nó xuất phát từ địi
hỏi khách quan của công tác xây dựng Đảng và yêu cầu của giai đoạn cách
mạng mới, từ vị trí, vai trị của Đảng ta trước dân tộc và tồn xã hội.
Ba là, cơng tác kiểm tra, giám sát là nhiệm vụ của toàn Đảng; là nhiệm
vụ trực tiếp, thường xuyên của mọi tổ chức đảng và đảng viên: Công tác kiểm
tra, giám sát là nhiệm vụ của toàn Đảng, tức là của mọi tổ chức đảng và đảng
viên, thực hiện nhiệm vụ theo quy định của Điều lệ Đảng và sự phân công của
tổ chức đảng có thẩm quyền. Để bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, đòi hỏi
các cấp ủy, tổ chức đảng, Ủy ban kiểm tra các cấp phải chú trọng và thường
xuyên tiến hành công tác kiểm tra, giám sát các tổ chức đảng và đảng viên
chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng;
Mỗi tổ chức đảng và đảng viên dù công tác ở lĩnh vực, cương vị nào đều phải
tham gia xây dựng, tổ chức thực hiện và kiểm tra, giám sát việc thực hiện

đường lối, chủ trương của Đảng. Đó là nhiệm vụ trực tiếp, thường xuyên của
mọi tổ chức đảng và đảng viên. Tiến hành công tác kiểm tra, giám sát là
nhiệm vụ trực tiếp, thường xuyên của mọi tổ chức đảng và đảng viên; là tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng, làm cho Đảng thực hiện đầy đủ các chức năng,
nhiệm vụ của mình, góp phần xây dựng, chỉnh đốn Đảng, bảo đảm lãnh đạo
thắng lợi sự nghiệp cách mạng.
Bốn là, công tác kiểm tra, giám sát là một nội dung trong phương thức


8

lãnh đạo của Đảng: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) viết: “Đảng Cộng sản Việt
Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo bằng
cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng
cơng tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát...”.
Thông qua công tác kiểm tra, giám sát, Đảng thực hiện sự lãnh đạo đối với
Nhà nước và xã hội.
2.1.4. Mối quan hệ giữa công tác kiểm tra và công tác giám sát
Công tác kiểm tra và giám sát có mối quan hệ chặt chẽ, tác động lẫn
nhau. Trong quá trình giám sát, nếu phát hiện đối tượng được giám sát có
những hoạt động chưa đúng với quy định của Đảng, Nhà nước, có thiếu sót,
khuyết điểm thì chủ thể giám sát kịp thời nhắc nhở, cảnh báo, đề nghị thực
hiện đúng các quy định; nếu thấy có những việc làm sai trái thì kiến nghị với
cấp có thẩm quyền biết để có biện pháp chấn chỉnh, kiểm tra, xử lý. Nếu phát
hiện có dấu hiệu vi phạm thì tiến hành kiểm tra xem xét, kết luận và xử lý kỷ
luật (nếu đến mức phải xử lý). Ngược lại, qua kiểm tra có thể đánh giá được
chất lượng, hiệu quả công tác giám sát, nắm chắc được thực chất tình hình và
có cơ sở khi phải xem xét, xử lý kỷ luật tổ chức đảng, đảng viên vi phạm, nhất
là về tinh thần tự giác khắc phục, sửa chữa sai lầm, khuyết điểm đã được nhắc

nhở, cảnh báo ngay từ khi giám sát. Có thể thấy, muốn thực hiện tốt cơng tác
giám sát phải có quan sát, theo dõi, xem xét, đánh giá tình hình thực tế của đối
tượng được giám sát; ngược lại, muốn thực hiện tốt công tác kiểm tra thì phải
thường xuyên giám sát để đưa ra quyết định có nên kiểm tra hay khơng. Thực
hiện tốt cơng tác giám sát, thì cơng tác kiểm tra càng chủ động, kịp thời và
chất lượng, hiệu quả càng cao.
2.2. Thực trạng công tác kiểm tra, giám sát của Đảng hiện nay ở địa
phương tỉnh HN
2.2.1. Kết quả công tác kiểm tra, giám sát
Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng có đổi mới, tạo sự lan tỏa từ tỉnh
đến cơ sở. Nhiều nội dung kiểm tra, giám sát thực hiện vượt tiến độ và tăng


9

cao. Các chương trình, kế hoạch kiểm tra, giám sát hoàn thành vượt kế hoạch
1 tháng so với chỉ tiêu đặt ra.
Qua vai trò tự kiểm tra, giám sát của tổ chức đảng, đảng viên được đề cao
hơn trước đây, giải quyết kịp thời đơn thư tố cáo, khiếu nại, nhiều vi phạm
được tổ chức đảng tự phát hiện, xử lý kịp thời. Quan tâm củng cố kiện toàn
đội ngũ cán bộ của Ủy ban kiểm tra cấp tỉnh, huyện và cơ sở. Đẩy mạnh thực
hiện nhiều nội dung tuyên truyền các quy định, hướng dẫn mới của Trung
ương và hoạt động công tác kiểm tra, giám sát thi hành kỷ luật đảng. Đặc biệt,
công khai kết quả sau các kỳ họp Uỷ ban kiểm tra Tỉnh ủy, tạo được sự đồng
thuận cao trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, góp phần phục vụ tốt cơng tác
lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy.
Bên cạnh đó, trong thời gian qua việc triển khai, quán triệt và thực hiện
Quy định 30 của Ban Chấp hành Trung ương, nghị quyết, quy định, kết luận,
hướng dẫn của Trung ương và Nghị quyết 02 của Tỉnh ủy xề xây dựng Đảng,
Chỉ thị 08 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về công tác kiểm tra, giám sát được

tiến hành kịp thời, đồng bộ từ tỉnh đến cơ sở; có nhiều đổi mới nội dung, hình
thức, tạo sự chuyển biến toàn diện, đạt nhiều kết quả quan trọng trong công
tác xây dựng Đảng, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở
đảng, chất lượng đảng viên được nâng lên, vi phạm kỷ luật giảm 41,6% so với
nhiệm kỳ trước đó; nhiều chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội X Đảng bộ tỉnh đạt khá
cao. Tỉnh ủy đã ban hành chương trình tồn khóa và cụ thể hóa thành 5
chương trình kiểm tra, giám sát hàng năm; các cấp ủy xây dựng kế hoạch thực
hiện hàng nghìn cuộc kiểm tra, giám sát đối với hơn 6.400 tổ chức đảng và
hơn 55.600 lượt đảng viên. Nội dung kiểm tra, giám sát về công tác xây dựng
Đảng, việc chấp hành nghị quyết, chính sách pháp luật của Đảng, Nhà nước;
quy chế làm việc, nguyên tắc tập trung dân chủ và nội dung khác; qua đó có
tác dụng, hiệu quả, tạo sự chuyển biến tích cực trong lãnh đạo, chỉ đạo thực
hiện nhiệm vụ chính trị của từng địa phương, cơ quan, đơn vị.
Cấp ủy và Ủy ban kiểm tra đã bám sát yêu cầu nhiệm vụ chính trị, xây
dựng Đảng để lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện nhiệm vụ theo Nghị quyết
của Tỉnh ủy, quy định của đảng. Cấp ủy, tổ chức đảng đã nêu cao trách nhiệm


10

trong lãnh đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ theo Điều 30 Điều lệ Đảng, Ủy
ban kiểm tra ngoài thực hiện tốt nhiệm vụ tham mưu giúp cấp ủy và thực hiện
nhiệm vụ khác cấp ủy giao, đã chủ động tích cực thực hiện tồn diện các
nhiệm vụ theo Điều 32 Điều lệ Đảng. Nội dung kiểm tra, giám sát vừa bảo
đảm tính tồn diện vừa có trọng tâm, trọng điểm nhất là việc thực hiện Nghị
quyết Trung ương 4 khóa XI, XII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Chỉ thị 05
của Bộ Chính trị về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh, Quy định 31 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về trách nhiệm nêu
gương. Đã kiểm tra 36 tổ chức đảng và 558 đảng viên khi có dấu hiệu vi
phạm; 4.353 tổ chức đảng quản lý đảng phí, phát hiện có vi phạm, đề nghị thu

hồi hơn 202.000.000 đồng…
Qua kiểm tra, giám sát cũng đã kịp thời nhắc nhở, sửa chữa, khắc phục
hoặc xử lý vi phạm… Có thể nói nhờ làm tốt kiểm tra, giám sát mà tổ chức
đảng viên bị tố cáo và vi phạm giảm so với trước đó như kỷ luật tổ chức đảng
từ 54,5% giảm cịn 31,3%; đảng viên từ 41,6% giảm cịn 21,5%. Cơng tác
kiểm tra, giám sát thời gian qua đã tiếp tục được tăng cường, nâng cao chất
lượng, hiệu quả, góp phần thiết thực vào việc nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của
Đảng.
2.2.2. Nguyên nhân kết quả
Những kết quả đạt được nêu trên là nhờ vào: Sự quan tâm lãnh đạo, chỉ
đạo sâu sát của Đảng bộ tỉnh đối với công tác kiểm tra, giám sát, luôn tạo điều
kiện thuận lợi trong việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát của
Đảng; ý thức chấp hành của cán bộ, đảng viên trong thực hiện nhiệm vụ ngày
càng được nâng lên; Các cấp ủy, tổ chức đảng đã tăng cường sự đồn kết,
thống nhất và có nhiều đổi mới trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện các
nghị quyết của Đảng; Đa số cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên, nhất là người
đứng đầu đã nhận thức sâu sắc hơn ý nghĩa, tầm quan trọng và sự cần thiết
phải tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong đó có cơng tác
kiểm tra, giám sát trong tình hình mới.


11

Cơng tác tổ chức và thực hiện theo chương trình kiểm tra, giám sát đạt
100%, tiến độ và quy trình thực hiện đảm bảo theo đúng quy định.
Các cấp ủy đảng, đội ngũ đảng viên đã có nhận thức và hành động đúng
về công tác kiểm tra, giám sát của đảng. Phát huy tốt vai trò trách nhiệm của
các tổ chức chính trị - xã hội, các đồn thể quần chúng và tính tiền phong,
gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong việc thực hiện công tác kiểm tra, giám

sát của Đảng.
Uỷ ban kiểm tra ở các cơ sở luôn chủ động trong việc tham mưu giúp cấp
uỷ xây dựng và triển khai tổ chức thực hiện và giải quyết tốt các vấn đề phát
sinh và tồn đọng; nắm tình hình tổ chức đảng và đảng viên, giải quyết kịp thời
các đơn thư khiếu nại, tố cáo phản ánh liên quan đến đảng viên.
Không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát
của Đảng; triển khai thực hiện đảm bảo đúng quy định của Điều lệ Đảng và
pháp luật Nhà nước; kịp thời phát hiện sớm các tiêu cực của đảng viên.
2.2.3. Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân
Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, công tác kiểm tra, giám sát
của Đảng thời gian qua vẫn còn một số tồn tại, hạn chế như:
Qua công tác kiểm tra, giám sát của Đảng cho thấy vi phạm chủ yếu sinh
hoạt tại cơ sở xã, ấp. Có trường hợp đơn tố cáo giấu tên, mạo tên đã được cơ
quan có thẩm quyền xem xét kết luận, khơng có phát sinh tình tiết mới nhưng
vẫn gửi đơn nhiều lần, nhiều nơi.
Một số tổ chức đảng, đảng viên chưa nghiên cứu đầy đủ, chấp hành chưa
nghiêm nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước, vi phạm nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng.
Cơng tác phối hợp kiểm tra, giám sát cịn thiếu chặt chẽ, chưa thường
xun.
Cơng tác nắm tình hình, chủ động phát hiện, tự kiểm tra, tự phê bình và
phê bình của một số tổ chức đảng, đảng viên chưa đạt yêu cầu, hiệu quả kiểm
tra còn thấp, chưa đáp ứng giải pháp phịng ngừa, ngăn chặn, đẩy lùi tình
trạng suy thoái, tiêu cực trong cán bộ, đảng viên.


12

Bên cạnh đó, cịn do: Một số uỷ ban kiểm tra cơ sở chưa chủ động trong
việc tham mưu cấp uỷ đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, gắn

với thực hiện Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị; tăng cường công tác kiểm tra, giám
sát nhất là giám sát thường xuyên để ngăn ngừa, phát hiện sớm đảng viên vi
phạm bị xử lý kỷ luật nhất là về các tệ nạn xã hội; Vẫn còn nhiều cán bộ làm
công tác kiểm tra chưa được bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ; Chưa làm
tốt công tác biểu dương, khen thưởng, nhân rộng những gương điển hình, cách
làm sáng tạo, hiệu quả trong công tác kiểm tra, giám sát.
Những tồn tại, hạn chế nêu trên là do: Việc quản lý đảng viên của một số
cấp uỷ chưa quan tâm đúng mức; công tác nắm bắt, xử lý thông tin, dư luận,
tình hình đảng viên vi phạm đơi lúc chưa kịp thời; Một số cấp ủy, tổ chức
đảng và cán bộ, đảng viên chưa nhận thức đầy đủ, toàn diện, sâu sắc về công
tác kiểm tra, giám sát của đảng từ khâu tổ chức quán triệt, lãnh đạo, chỉ đạo và
triển khai thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát; chưa nhận thức sâu sắc công
tác kiểm tra, giám sát của Đảng là một trong những chức năng lãnh đạo của
Đảng; một số nơi cịn có biểu hiện “khốn trắng” công tác kiểm tra, giám sát
cho ủy ban kiểm tra.
Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng chưa thật sự đi sâu, đi sát nhất là
công tác giám sát thường xuyên chưa phát huy tác dụng hiệu quả cao; cán bộ
làm công tác kiểm tra, giám sát không ổn định, mới, có thay đổi; một số đồng
chí chưa được tập huấn về chun mơn nghiệp vụ, từ đó dẫn đến việc thực
hiện quy trình cơng tác kiểm tra, giám sát còn lúng túng; Trách nhiệm nêu
gương của một số đảng viên, kể cả cấp ủy viên khơng cao, cịn biểu hiện nể
nang, né tránh, ngại va chạm. Các cấp ủy, tổ chức đảng, uỷ ban kiểm tra các
cấp tập trung cho công tác giám sát sau kiểm tra, chưa kiểm tra, giám sát tất cả
các khâu trong quy trình nên cùng nội dung vi phạm phải xử lý kỷ luật nhiều
đảng viên.
2.3. Giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám
sát của Đảng ở địa phương tỉnh HN trong giai đoạn hiện nay
Để nâng cao hơn nữa hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của
Đảng đòi hỏi tỉnh HN cần phải:



13

Một là, tiếp tục khẳng định kiểm tra giám sát là những chức năng,
phương thức lãnh đạo của Đảng, một bộ phận quan trọng trong công tác xây
dựng Đảng, là nhiệm vụ của toàn Đảng, trước hết là của cấp ủy và trách nhiệm
của người đứng đầu cấp ủy, nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận
thức và hành động; Công tác kiểm tra, giám sát cần phải bám sát và phục vụ
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị và công tác xây dựng Đảng cũng như
trong thực tiễn của địa phương, đơn vị. Do đó, địi hỏi cần đổi mới, tăng
cường lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên của cấp ủy đối với công tác kiểm tra,
giám sát của Đảng; kịp thời ban hành đầy đủ, có tính khả thi các nghị quyết,
chỉ thị, quy định… về kiểm tra, giám sát và tổ chức quán triệt, thực hiện
nghiêm túc, hiệu quả.
Hai là, đổi mới nội dung, hình thức tuyên truyền trên phương tiện thông
tin đại chúng; tổ chức tọa đàm, thuyết trình chuyên đề kiểm tra, giám sát tại
cuộc họp, hội nghị, các sự kiện liên quan công tác xây dựng Đảng; xóa bỏ
khoảng cách tâm lý giữa chủ thể và đối tượng kiểm tra, giám sát, tạo mối quan
hệ thân thiện, ứng xử nhân văn. Kịp thời cơng khai kết quả kiểm tra, qua đó
tạo sức lan tỏa về công tác kiểm tra của đảng trong xã hội, góp phần ngăn
chặn, phịng ngừa sai phạm; đồng thời để cán bộ, đảng viên, nhân dân giám
sát hoạt động kiểm tra Đảng; làm cho cán bộ kiểm tra, cơ quan kiểm tra phải
ln tự đổi mới và hồn thiện, bảo đảm cẩn trọng khi kết luận kiểm tra, giám
sát, thật sự là công cụ tin cậy trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng;
thường xuyên kiểm tra, giám sát việc khắc phục hạn chế, khuyết điểm sau
kiểm tra, giám sát, sau tự phê bình và phê bình.
Ba là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy, tổ chức đảng,
ủy ban kiểm tra và chi bộ đảm bảo có chất lượng, hiệu quả. Lãnh đạo, chỉ đạo
cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới, đảng viên thực hiện tốt kiểm tra, giám sát;
kiểm tra phải rõ trọng tâm, trọng điểm, có tính liên thơng nội dung, đối tượng

trên tất cả các lĩnh vực xây dựng hệ thống chính trị, xây dựng Đảng, kinh tế,
xã hội, quốc phòng, an ninh; tập trung địa bàn, lĩnh vực dễ nảy sinh sai phạm.
Đồng thời, bám sát sự chỉ đạo của cấp ủy cùng cấp và ủy ban kiểm tra cấp
trên, bảo đảm đồng bộ, hiệu quả.


14

Có thể chế tài trách nhiệm trong phối hợp giữa kiểm tra, giám sát của
Đảng với giám sát của Nhà nước và giám sát của Mặt trận tổ quốc, các tổ
chức chính trị - xã hội để tăng cường sức mạnh tổng hợp và nâng cao hiệu quả
kiểm tra, giám sát, tránh chồng chéo, trùng lặp, lãng phí, khơng hiệu quả.
Bốn là, đổi mới mạnh mẽ, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra,
giám sát, kỷ luật đảng; vận dụng linh hoạt, phù hợp với đối tượng, nội dung
kiểm tra, giám sát để có đánh giá, kết luận sát thực tế. Chọn nội dung, đối
tượng kiểm tra, giám sát theo hướng tích hợp nội dung, liên thơng đối tượng,
tạo chuyển biến đồng bộ từ tỉnh đến cơ sở, đi đơi hồn thiện cơ chế, chính
sách và điều kiện bảo đảm thực hiện có hiệu quả nghị quyết, chỉ thị lãnh đạo.
Thực hiện tốt phương châm lãnh đạo nội dung gì thì kiểm tra, giám sát nội
dung đó, để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, gắn liền với cơng tác xây
dựng Đảng, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Tập trung triển khai
quán triệt chương trình kiểm tra, giám sát ngay từ đầu năm; coi kiểm tra, giám
sát là việc làm thường xuyên; chọn nội dung, đối tượng có trọng tâm, trọng
điểm, mang tính đột phá để qua đó tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, bổ sung,
điều chỉnh nhiệm vụ, giải pháp, cơ chế, chính sách phù hợp, đủ sức lãnh đạo,
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống Nhân dân.
Năm là, chỉ đạo việc nâng cao chất lượng tham mưu, giúp cấp ủy lãnh
đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ kiểm tra, giám sát. Coi
trọng cơng tác giáo dục tư tưởng, chính trị; thực hiện tốt công tác xây dựng
Đảng về đạo đức; hồn thiện các quy định của Đảng kịp thời “khơng để tổ

chức đảng, cán bộ, đảng viên vi phạm; không muốn vi phạm, không thể vi
phạm”.
Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo ủy ban kiểm tra phát huy vai trò tham mưu
cấp ủy thực hiện nhiệm vụ, thẩm quyền theo quy định của Điều lệ Đảng, nhất
là chủ động tham mưu cấp ủy lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra, giám sát và
nhiệm vụ khác do cấp ủy giao.
Kiện toàn bộ máy và cán bộ kiểm tra ngang tầm nhiệm vụ. Đổi mới và
nâng cao chất lượng bồi dưỡng nghiệp vụ cán bộ kiểm tra, bảo đảm đủ sức
hoàn thành tốt nhiệm vụ. Thực hiện tốt quy hoạch ủy ban kiểm tra để chủ


15

động công tác cán bộ. Xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra có bản lĩnh, liêm
chính, năng lực, uy tín và chun mơn, nghiệp vụ giỏi, đủ về số lượng, bảo
đảm chất lượng. Đẩy mạnh luân chuyển cán bộ kiểm tra để rèn luyện thực
tiễn.
Mặt khác, cũng cần phải quan tâm xây dựng, nhân rộng các mơ hình,
cách làm hay về công tác kiểm tra, giám sát; Việc thực hiện kiểm tra, giám sát
thường xun, tồn diện, cơng khai, dân chủ, chặt chẽ; kết luận kiểm tra, giám
sát phải cụ thể, rõ ràng, thuyết phục. Phát huy vai trò tự kiểm tra, giám sát của
tổ chức đảng, đảng viên, nhất là trách nhiệm nêu gương, việc giữ gìn phẩm
chất đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Tăng cường công tác tuyên
truyền, chỉ đạo, hướng dẫn cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên thực hiện tốt
công tác kiểm tra, giám sát. Công khai kết quả kiểm tra, giám sát trên các
phương tiện thông tin đại chúng. Phát hiện, nhân rộng những cách làm mới,
sáng tạo, hiệu quả.
Bên cạnh đó, cịn cần phải:
Tiếp tục tạo chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, trách nhiệm và quyết
tâm chính trị của tồn Đảng đối với cơng tác kiểm tra, giám sát: Mỗi cấp ủy,

tổ chức đảng cần nhận thức rõ nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra,
giám sát của đảng cũng có nghĩa là nâng cao chất lượng lãnh đạo của cấp ủy.
Trước hết, người đứng đầu cấp ủy cần có quyết tâm chính trị cao, dám đổi
mới mạnh mẽ tư duy, khắc phục những nhận thức không đúng, những định
kiến sai lầm đối với công tác kiểm tra, giám sát của đảng. Từng bước xây
dựng phong cách kiểm tra, giám sát phù hợp với hoàn cảnh thực tế hiện nay
của Đảng ta, thực sự mang tính khoa học, hiện đại, chủ động và tiến công.
Xây dựng và hồn thiện quy định, quy chế, quy trình nhằm siết chặt kỷ
luật, kỷ cương, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát: Cùng
với việc xây dựng các quy định mới cần rà sốt, hồn thiện các quy định, quy
chế, quy trình về kiểm tra, giám sát nhằm siết chặt kỷ luật, kỷ cương, nâng
cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của đảng. Kịp thời ban hành
những quy định còn thiếu hoặc trong thực hiện cịn vướng mắc. Bởi vì, thực
tiễn cho thấy, chất lượng của các quy định, quy chế ảnh hưởng rất lớn đến chất


16

lượng công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Quy định đúng tạo cơ sở cho
công tác kiểm tra, giám sát của đảng đi đúng hướng, tiến hành thuận lợi; quy
định sai hoặc thiếu đồng bộ khiến cho công tác kiểm tra, giám sát vốn phức
tạp càng phức tạp hơn, thậm chí có khi đi chệch hướng.
Cải tiến, đổi mới phương pháp, kỹ năng, quy trình cơng tác kiểm tra,
giám sát của đảng, bảo đảm khách quan, dân chủ, đồng bộ, thống nhất, chặt
chẽ, khả thi: Phải kết hợp kiểm tra, giám sát thường xuyên với kiểm tra, giám
sát theo chuyên đề, kiểm tra đột xuất và kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm; coi
trọng tự kiểm tra, giám sát của các cấp ủy, tổ chức đảng. Tăng cường công tác
kiểm tra, giám sát của các cơ quan tham mưu, giúp việc cấp ủy trong việc
chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các chủ trương, nghị quyết, chỉ
thị, quy định của Đảng. Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả kiểm

tra, giám sát của đảng bảo đảm khách quan, dân chủ, đồng bộ, thống nhất,
chặt chẽ, khả thi.
Mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của cấp ủy, ủy ban
kiểm tra các cấp, coi trọng giám sát theo chuyên đề: Tăng cường hoạt động
giám sát của cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đối với cán bộ, đảng viên, nhất là
cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp để kịp thời phát hiện, ngăn chặn từ
xa, từ đầu, giải quyết từ sớm, khơng để vi phạm nhỏ tích tụ thành sai phạm
lớn, kéo dài và lan rộng. Đẩy mạnh giám sát của tổ chức đảng cấp trên đối với
tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên. Chú trọng giám sát theo chuyên đề, quán
triệt phương châm “giám sát phải mở rộng”, phát huy dân chủ, tăng cường
giám sát cả về đối tượng, số lượng và phạm vi nhằm thực hiện có hiệu lực,
hiệu quả hoạt động giám sát của cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp.
Chủ động nắm chắc tình hình hoạt động của cấp ủy, tổ chức đảng, đảng
viên để ngăn chặn từ xa, từ đầu, từ sớm: Phải chủ động nắm chắc tình hình
hoạt động của cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản
lý và người đứng đầu các cấp, các ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị để ngăn
chặn từ xa, từ đầu, giải quyết từ sớm, không để vi phạm nhỏ tích tụ thành sai
phạm lớn nhằm ngăn ngừa sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối


17

sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của người được trao quyền - một trong
những nguy cơ, đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ.
Kết hợp chặt chẽ và năng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của
Đảng với các cơ quan có liên quan: Kết hợp chặt chẽ giữa kiểm tra, giám sát
của Đảng với thanh tra, kiểm toán nhà nước và điều tra, truy tố, xét xử của
các cơ quan bảo vệ pháp luật để tăng cường sức mạnh tổng hợp và nâng cao
hiệu lực, hiệu quả kiểm tra, giám sát, tránh chồng chéo, trùng lặp, lãng phí
nguồn lực, khơng hiệu quả. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của các

cơ quan tham mưu, giúp việc cấp ủy trong việc cụ thể hóa và thực hiện Cương
lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quy định của
Đảng. Khi các vụ việc vi phạm được phát hiện phải xử lý kịp thời, nghiêm
minh, khơng có vùng cấm, khơng “xử lý nội bộ”. Vi phạm đến mức phải xử lý
hình sự thì kiên quyết chuyển sang cơ quan điều tra, truy tố, xét xử theo đúng
quy định của pháp luật.
Chú trọng đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy ủy ban kiểm tra các cấp;
xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ kiểm tra các cấp theo hướng
chun nghiệp hóa: Phải đổi mới, kiện tồn tổ chức bộ máy ủy ban kiểm tra
các cấp theo hướng “thà ít mà tốt”, xứng đáng là cơ quan chuyên trách của
cấp ủy; vừa có trách nhiệm nghiên cứu giúp cấp ủy đề ra được các chủ
trương, quyết định đúng đắn, vừa có trách nhiệm kiểm tra, giám sát việc thực
hiện các chủ trương, quyết định ấy trong thực tế. Từng bước đổi mới, hiện đại
hóa cơ sở vật chất, các trang thiết bị phục vụ công tác kiểm tra. Đổi mới và
nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kiểm tra các cấp. Có chế độ,
chính sách hợp lý đối với cán bộ kiểm tra tiến tới chuyên nghiệp hóa đội ngũ
cán bộ kiểm tra để họ yên tâm phấn đấu theo hướng coi kiểm tra là một nghề,
cán bộ kiểm tra yêu nghề, yên tâm với nghề và sống được bằng nghề.
.


18

PHẦN III: KẾT LUẬN
Công tác kiểm tra, giám sát là nhiệm vụ của toàn Đảng, một bộ phận
quan trọng trong tồn bộ cơng tác xây dựng Đảng, là nhiệm vụ trực tiếp,
thường xuyên của cấp uỷ các cấp của Đảng bộ. Thời gian qua ở địa phương
tỉnh HN đã tổ chức thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát nhằm góp phần
khơng ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Có thể
thấy, chất lượng công tác kiểm tra, giám sát ở HN là tổng hợp các giá trị, kết

quả hoạt động của các yếu tố tạo thành so với mục đích, nhiệm vụ cơng tác
giám sát, biểu hiện qua việc chất lượng đội ngũ đảng viên và sự trong sạch,
vững mạnh của tổ chức Đảng.
Thực trạng công tác kiểm tra, giám sát của Đảng ở địa phương HN thời
gian qua, bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên thì vẫn cịn một số tồn tại,
hạn chế như một số tổ chức đảng, đảng viên chưa nghiên cứu đầy đủ, chấp
hành chưa nghiêm nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước, vi phạm nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng; Cơng tác phối
hợp kiểm tra, giám sát cịm thiếu chặt chẽ, chưa thường xun; Cơng tác nắm
tình hình, chủ động phát hiện, tự kiểm tra, tự phê bình và phê bình của một số
tổ chức đảng, đảng viên chưa đạt u cầu, hiệu quả kiểm tra cịn thấp…
Vì vậy, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của
Đảng đòi hỏi trong thời gian tới tỉnh HN cần phát huy hơn nữa những kết quả
đạt được, khắc phắc những tồn tại, hạn chế và đặc biệt là có thêm nhiều giải
pháp hơn nữa góp phần làm cho chất lượng công tác kiểm tra, giám sát ngày
càng được nâng cao. Bên cạnh đó, cịn góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng Đảng bộ tỉnh HN trong sạch vững
mạnh, hồn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn mới hiện nay.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


19

1. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo trình Xây dựng Đảng
Cộng sản Việt Nam (Dùng cho hệ đào tạo Cao cấp lý luận chính trị), Nxb.Lý
luận chính trị, H.2021.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ
XI, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.2011.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp

hành Trung ương khố XII, Văn phịng Trung ương Đảng, H.2016.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ
XIII, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021.
5. V.I.Lênin, Tồn tập, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.2006.
6. Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.2011.
7. Tham luận, Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XI, nhiệm kỳ 2020
– 2025.



×