Tải bản đầy đủ (.docx) (46 trang)

HƯỚNG DẪN NÂNG CAO NĂNG LỰC CHO GIÁO VIÊN MẦM NON TRONG TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC PHÁT TRIỂN THẨM MĨ PHÙ HỢP VỚI BỐI CẢNH ĐỊA PHƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.52 KB, 46 trang )

Chuyên đề 6
HƯỚNG DẪN NÂNG CAO NĂNG LỰC CHO GIÁO VIÊN MẦM NON
TRONG TỔ CHỨC CÁC HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC PHÁT TRIỂN THẨM
MĨ PHÙ HỢP VỚI BỐI CẢNH ĐỊA PHƯƠNG
- MỤC TIÊU
Khi học xong mơn học này, học sinh có khả năng:
- Hiểu và phân tích được khái niệm giáo dục phát triển thẩm mỹ phù hợp với
ảnh địa phương, quan điểm về giáo dục phát triển thẩm mỹ theo hướng mới, phát
huy tính tích cực, sáng tạo của trẻ mầm non, yêu cầu đặt ra đối với việc tổ chức
hoạt động giáo dục phát triển thẩm mỹ cho trẻ mầm non phù hợp với điều kiện của
địa phương.
- Biết lựa chọn nội dung giáo dục, xây dựng môi trường giáo dục và tổ chức
các hoạt động giáo dục thẩm mỹ phù hợp với bối cảnh của địa phương, đánh giá
hiệu quả của các hoạt động giáo dục phát triển thẩm mỹ.
- Vận dụng, sáng tạo, sử dụng linh hoạt các nguồn lực sẵn có của địa phương
sẽ tổ chức các hoạt động giáo dục phát triển thẩm mỹ cho trẻ mầm non.
Nội dung 1: Một số vấn đề chung về giáo dục phát triển thẩm mĩ cho trẻ
mầm non phù hợp với bối cảnh địa phương
Hoạt động 1: Phân tích khái niệm và quan điểm đổi mới về giáo dục phát
triển thẩm mĩ cho trẻ mầm non
1.1. Một số khái niệm
Giáo dục thẩm mĩ: Giáo dục thẩm mỹ được hiểu là một q trình tác động có
định hướng, có kế hoạch nhằm xây dựng và phát triển ở con người những năng lực
nhận thức, tri giác và sáng tạo về giá trị thẩm mỹ.
Giáo dục phát triển thẩm mỹ là một lĩnh vực quan trọng trong Chương trình
giáo dục mầm non nhằm hình thành một trong những năng lực cơ bản, cốt lõi của
trẻ-năng lực thẩm mỹ. Giáo dục phát triển năng lực cảm thụ cái đẹp, từ đó rèn
luyện thẩm mỹ là quá trình giúp trẻ tiếp xúc, cảm nhận và phát triển khả năng cảm
thụ cái đẹp, biết đánh giá đúng đắn các hiện tượng thẩm mỹ trong cuộc sống và
trong nghệ thuật, khơi dậy lòng yêu cái đẹp, thích tham gia vào q trình nhận
thức, vận hành và sáng tạo cái đẹp trong cuộc sống hàng ngày và trong nghệ thuật.


Phù hợp với bối cảnh địa phương: Trẻ mầm non ln có mối quan hệ chặt
chẽ với môi trường sống xung quanh. Môi trường sống gần gũi đa dạng về điều
kiện văn hóa, xã hội, tình cảm, trí tuệ của mỗi đứa trẻ. Điều này đồng nghĩa với
việc từng trẻ có những trãi nghiệm sống khác nhau, cách “học” và năng lực khác
nhau.
Giáo dục phát triển thẩm mỹ cho trẻ mầm non phù hợp với bối cảnh địa
phương là một q trình hoạt động có mục tiêu, có hệ thống dựa trên bối cảnh, điều
kiện thân thuộc với trẻ, có sẵn tại địa phương, những trải nghiệm trẻ đã biết và có


thể tìm hiểu, khám phá để phát triển ở trẻ có năng lực cảm nhận cái đẹp, hiểu đúng
đắn về giáo dục trẻ biết yêu cái đẹp và năng lực tạo ra cái đẹp trong tự nhiên,
trong đời sống xã hội, cá nhân và trong nghệ thuật.
Các phương tiện giáo dục phát triển thẩm mỹ cho trẻ mầm non phù hợp với
bối cảnh bao gồm vẻ đẹp của các phương tiện, vật thể, hiện vật trong thiên nhiên,
trong xã hội, các hoạt động giáo dục nghệ thuật như hoạt động tạo hình, âm nhạc
hoạt động, kịch, thơ, truyện, sự kiện, hoạt động văn hóa, đời sống cộng đồng đồng
địa phương…
1.2. Các quan điểm đổi mới trong giáo dục phát triển thẩm mỹ cho trẻ
mầm non
Giáo dục phát triển thẩm mỹ cần giúp trẻ được "tắm" mình trong cái đẹp và
có cơ hội để trau dồi kinh nghiệm thẩm mỹ. Hay nói cách khác, cần tạo mơi
trường ni dưỡng, hình thành cảm xúc và ý thức về vẻ đẹp, sau đó tạo ra cái dọn
dẹp. Mục tiêu của Chương trình giáo dục mầm non đối với nhà trẻ là thích nghe
hát, hát và vận hành theo nhạc; thích vẽ, xé dán, xếp hình; thích nghe đọc thơ, kể
chuyện; Đối với giáo dục trẻ là:
- Giúp trẻ có khả năng cảm nhận về cái đẹp trong thiên nhiên, cuộc sống và
trong tác phẩm nghệ thuật;
- Có khả năng thể hiện cảm xúc, sáng tạo trong âm nhạc hoạt động, tạo
hình;

- u thích, hào hứng tham gia hoạt động nghệ thuật; có ý thức giữ gìn và
bảo vệ cái đẹp.
Tuy nhiên, theo Chen (2012) và Yi-Huang Shih (2018), quan điểm mới về
giáo dục phát triển thẩm mỹ hiện nay mở rộng mục tiêu phát triển năng lực thẩm
mỹ đối với trẻ gồm:
- Giúp trẻ thích khám phá vẻ đẹp của vật thể và nuôi dưỡng khả năng thụ
hưởng của trẻ nhỏ đối với cuộc sống.
- Giải phóng năng lực và đánh giá.
- Trí tưởng tượng và khả năng sáng tạo, tăng cường thể hiện tình cảm và sự
dọn dẹp của trẻ nhỏ.
- Để trẻ nhận thức một cách tự do đẹp của cuộc sống và tích lũy các phẩm
chất thẩm mĩ.
- Hình thành các giá trị và lòng tốt của trẻ em, quan tâm đến người khác,
mơi trường và xã hội.
- Chuyển hóa những cảm xúc tiêu cực của trẻ, phát triển nhân cách hài hòa.
Quan điểm mới đổi về giáo dục thẩm mỹ không giới hạn không gian, nội
dung, phương tiện và phương tiện giáo dục thẩm mỹ đẹp, có sử dụng cái đẹp, cái
cao cả ở mọi nơi yêu cầu nhân viên giáo dục phải khuyến khích, tạo điều kiện, cơ
hội cho trẻ hoạt động, trải nghiệm, khám phá cái đẹp trong nghệ thuật (âm nhạc,
tạo hình, văn học và các hình thức khác của nghệ thuật), cái đẹp trong lao động,


trong mọi sự tự nhiên và cuộc sống gần gũi với nhiều hình thức khác nhau, hình
thành thối quen tốt trong sinh hoạt, giúp trẻ phát triển tòn diện về thể chất và tinh
thần.
Quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm yêu cầu các nội dung, phương
tiện, một năng lực săn có của trẻ. Giáo viên cần sử dụng tối đa các ưu tiên từ tự
nhiên, xã hội, văn hóa, nguồn lực ngay tại trường, lớp, địa phương; khai thác kinh
nghiệm và hiện có năng lực trẻ vào quá trình tổ chức hoạt động giáo dục thẩm mỹ,
từ đó góp phần nâng cao chất lượng của hoạt động giáo dục phát triển thẩm mỹ và

bảo tồn, phát huy, tôn vinh các giá trị địa phương. Điều này phù hợp với triết lý:
giáo dục bắt đầu từ cuộc sống, vì cuộc sống.
Hoạt động 2: Thảo luận về các yêu cầu đối với tổ chức các hoạt động
giáo dục phát triển thẩm mỹ phù hợp với bối cảnh địa phương
Những yêu cầu đối với công việc hoạt động giáo dục phát triển thẩm mỹ cho
trẻ mầm non phù hợp với bối cảnh địa phương
* Lập kế hoạch
- Lập kế hoạch tổ chức các hoạt động giáo dục thẩm mỹ (năm, tháng, tuần,
ngày) với mục tiêu, nội dung, phương án/cách thực hiện rõ ràng. Điểm phát triển
và nhu cầu của trẻ theo độ tuổi, các dân tộc khá nhau trong lớp và điệu kiện có ở
địa phương.
- Cần thể hiện rỏ ràng phương án để tổ chức các hoạt động, trong đó các
điều kiện vật chất, nguồn nhân lực, phương tiện, thời gian, không gian nào tại địa
phương/trường lớp được sử dụng hiệu quả, tiết kiệm nhất các nguồn lực đó.
* Xác định mục tiêu
- Dựa vào khả năng, sự hứng thú, nhu cầu của trẻ, các nguồn lực và điều
kiện thực tế của trường lớp, địa phương để xác định hoặc điều chỉnh mục tiêu phù
hợp nhằm phát huy tính tích cực và phát triển năng lực thẩm mĩ và sự sáng tạo của
trẻ.
- Mục tiêu cần được xác định rõ ràng, có thể ở từng độ tuổi phản hồi ánh
sáng của ugpb những yêu cầu cần đạt về kiến thức, kỹ năng, chế độ. Mục tiêu phải
trả lời những câu hỏi sau: 1) Hoạt động có thể định hình thành kiến thức trẻ? Mức
độ hiểu/biết về kiến thức đó? 2) Những kỹ năng nào đó có thể hình thành và mức
độ kĩ năng đạt được sau khi tham gia hoạt động? Thái độ nào được định hình
thành hoặc thay đổi ở trẻ sau khi tham gia hoạt động?
+ Đối đầu với nhà trẻ: Chú trọng mục tiêu bồi dưỡng cảm xúc thẩm mỹ và
kỹ năng đơn giản khi tham gia các hoạt động giáo dục âm nhạc, tan hình, thơ,
truyện. Tuy nhiên, để trẻ hình thành những cảm xúc cần cung cấp cho trẻ những
cơ sở kiến thức, ban đầu về âm nhạc và tạo hình: ví dụ như tác giả tên, tác giả âm
nhạc, tạo hình; dùng từ mơ tả giai điệu trong nhạc (vui, buồn, tha thiết ...); tên q

nhạc, các vật liệu, đồ dùng, màu sắc, các kiểu dáng của sự vật, hiện tượng ...


+ Đối với trẻ mẫu giáo: Bên cạnh tiếp tục bồi dưỡng cảm xúc thẩm mỹ cho
trẻ, chú trọng mở rộng mục tiêu, rèn luyện kiến thức, kỹ năng phát triển nhạy bén,
đồng cảm, khả năng năng đánh giá sản phẩm và sự sáng tạo trong các hoạt động
hát, nghe hát, vận hành theo nhạc, vẽ, nặn, cắt, xé, dán, đọc thơ, kể chuyện ...
* Lựa chọn nội dung
- Các nội dung của hoạt động giáo dục cần được xác định căn cứ vào nội
dung Chương trình giáo dục mầm non, các mục tiêu được xác định và điều kiện,
hoàn cảnh của trường, lớp và khả năng của trẻ.
- Nội dung phải phản hồi đặc trưng, vẻ đẹp của tự nhiên, đời sống văn hóa,
xã hội tại địa phương: phong cảnh quê hương (thôn, làng, núi đồi, tôi sông, biển,
các danh lam thång cảnh ...), dân gian nghệ thuật, âm nhạc, văn học, kiến trúc,
nghề nghiệp, sản phẩm truyền thống, phong tục, trị chơi, tín ngưỡng ...
- Ngồi nội dung giáo dục thẩm mỹ trung bình ở hai loại hình chủ yếu nghệ
thuật là âm nhạc, tạo hình, giáo viên có thể tích hợp các nội dung giáo dục phát
triển thẩm mỹ vào trong các lĩnh vực giáo dục phát triển khác như giáo dục phát
triển ngôn ngữ (vẻ đẹp của ngơn ngữ và hình ảnh nghệ thuật trong truyện, thơ,
kịch), giáo dục phát triển thể chất (vẻ đẹp của một cơ thể mạnh mẽ, vẻ đẹp trong
các vận hành); giáo dục phát triển tình cảm xã hội (vẻ đẹp trong các hoạt động xử
lý, giao tiếp)
* Lựa chọn hình thức
Cần kết hợp các tổ chức hoạt động hình thức để trẻ được tiếp xúc với cái đẹp
bằng nhiều cách khác nhau:
- Đối với trẻ nhà trẻ: Tăng cường các hoạt động tổ chức hoạt động chơi-tập
theo cá nhân, nhóm nhỏ phù hợp với tuổi hoặc khả năng của trẻ; các hoạt động
khác như hoạt động văn học (đọc thơ, kể chuyện), đóng kịch, trị chơi với âm
thanh, màu sắc, hình ảnh, đường nét để bồi dưỡng cảm xúc, cung cấp thêm kinh
nghiệm thẩm mỹ cho trẻ mọi lúc, mọi nơi.

- Đối với trẻ mẫu giáo:
+ Tăng cường hình thức tổ chức các hoạt động giáo dục dưới hình thức cá
nhân, nhóm lớn hoặc cả lớp.
+ Đa dạng thức hoạt động nghệ thuật tạo hình (vẽ, nặn, cắt, xé, dán, bồi giấy,
linh kiện...), âm nhạc truyền thống và hiện đại phù hợp với chất lượng, bài hát sắc
thái, bản nhạc và khả năng của trẻ mỗi vùng miền: hát song ca, đơn ca, tốp ca, hợp
ca; hát bè, hát hợp xướng, đọc ráp,…
+ Tăng cường tổ chức các hoạt động giáo dục phát triển thẩm mỹ theo
hướng trả nghiệm, mọi lúc mọi nơi: trực tiếp ngắm nhìn, xem nghệ sĩ/giáo viên
biểu diễn nghệ thuật; Xem/nghe gián tiếp qua các phương tiện truyền thông ở mọi
lúc, mọi nơi; Tự động hoạt động nghệ thuật (hoạt động học như âm nhạc, tạo hình,
đọc thơ, kể chuyện); Tham gia các hoạt động trải nghiệm thực tế: tham quan, lễ


hội, lao động, các cuộc thi, trò chơi, các sự kiện văn hóa tại cộng đồng địa
phương ...
* Lựa chọn phương pháp trải nghiệm:
Kết hợp đa dạng, linh hoạt các phương pháp sử dụng lời nói, trực tiếp, thực
hành, trải nghiệm, động viên, khuyến khích trẻ tham gia hoạt động.
- Các phương pháp cần được lưa chọn theo hướng tăng cường trải nghiệm
bằng các hành động thực.
- Đối đầu với nhà trẻ: Tạo điều kiện cho trẻ tự chọn hoạt động, đồ chơi theo
yêu cầu bằng cách sử dụng phối hợp các giác quan (đệm, chơ với màu sắc, vẽ
đường nguệch ngoạc ...); tăng cường sử dụng các phương pháp trực tiếp, sử dụng
lời, khuyến khích, động viên để tạo cho trẻ cảm xúc thẩm mỹ tích cực, thoải mái,
thân thuộc như ở gia đình, kích thích trẻ hứng thú tham gia hoạt động ca hát, đọc
thơ, kể chuyện, vẽ.
- Đối với trẻ mẫu giáo:
+ Tiếp tục sử dụng phương pháp trực tiếp để đa dạng hóa kinh nghiệm về
mẫu và phương thức thể hiện ý tưởng hoặc tái hiện hiện vật, hiện tượng theo nhiều

phương thức khác nhau.
+ Tăng cường sử dụng phương pháp trải nghiệm, tiếp xúc thường xuyên với
cái đẹp trong thiên nhiên, cuộc sống, trong hoạt động học (âm nhạc, tạo hình, đọc
thơ, kể chuyện) và hoạt động nghệ thuật đa dạng: trực tiếp tham gia lễ hội, nghe
các làn điệu, nhìn / ngắm sản phẩm truyền thơng, di sản văn hóa của địa phương /
cộng đồng dân tộc.
+ Tăng cường sử dụng phương pháp thực hành nghệ thuật (luyện tập): Tạo
điều kiện cho trẻ trực tiếp thế hiện khả năng hát, vận động (lấy hơi, nhả chữ, xử lý
âm thanh, chuyển đổi tư thế và điều chỉnh cơ thể theo hướng di chuyển và động tác
vận động) trong các dạng hoạt động âm nhạc, trò chơi âm nhạc và khả năng sử
dụng đường nét, màu sắc, tơ, nặn, gắn, nối ... trong cấu hình hoạt động tạo hình.
+ Sử dụng trị chơi: Giáo viên cần tạo các ngôn ngữ chơi phong phú trong
các hoạt động nhằm mục đích kích thích sự thú vị, tích cực và góp phần giúp trẻ
củng cố kiến thức, kỷ năng, vận dụng những thẩm mỹ giá trị mà trẻ tiếp thu được
trong giải quyết nhiệm vụ chơi.
* Xây dựng môi trường
a) Môi trường xây dựng môi trường vật chất
- Môi trường bảo đảm thẩm định mi: màu sắc, đường nét, kiểu dáng, âm
thanh, cảnh quan trường lớp hài hòa, bắt mắt, thu hút sự chú ý của giới trẻ.
- Tận dụng và sử dụng triệt để các điều kiện có sẵn tại địa phương, cộng
đồng để tạo cơ hội học tập, vui chơi đa dạng, thiết thực, hiệu quả. Nguyên liệu,
phương tiện cho trẻ hoạt động thẩm mỹ an toàn, dễ kiếm, dễ sử dụng và tiết kiệm
chi phí; gần gũi với trẻ và thân thiện với phần góp phần bảo vệ mơi trường văn
hóa trị giá của địa phương, mở mang sự hiểu biết của trẻ về cuộc sống xung


quanh. Nguyên vật liệu có thể bao gồm các vật liệu có sẵn trong thiên nhiên (cát,
sỏi, đá, lá cây, vỏ cây, vỏ, con vật ...), gắn với đời sống sinh hoạt hằng ngày của trẻ
(trang phục, đồ dùng sinh hoạt, lao động, bút, giấy,…) và nguyên liệu tái sử dụng
(thùng giấy, lon, chai, lọ,…)

b) Xây dựng môi trường xã hội
- Quan hệ xử lý, tương tác giữa các giáo viên với giáo viên, với trẻ, với nhân
viên, với cha mẹ và người dân trong cộng đồng thân thiện, gần gần, chuẩn mực để
trẻ học hỏi vẻ đẹp trong lời nói, cử chỉ, cách ăn mặc định và ứng dụng xử lý, hành
vi của giáo viên, nhân viên, người xung quanh ...
- Khích lệ, động viên trẻ cố gắng bộc lộ cảm xúc, thể hiện ý tưởng trên sản
phẩm và trong q trình hoạt động tham gia hoạt động.
- Tơn trọng ý tưởng và hỗ trợ trẻ phát triển tư tưởng cá nhân: Chấp nhận sự
khác biệt, tôn trọng ý kiến cá nhân, tránh áp đặt hoặc định kiến.
- Tạo cơ hội cho trẻ tự phục vụ và hợp tác, giúp đỡ nhau những công việc
phù hợp với khả năng.
- Cẩn trọng trong việc đánh giá trẻ. Nên đánh giá sự tiến bộ của mỗi trẻ so
với bản thân và đối chiếu với yêu cầu chung của lứa tuổi. Tránh việc so sánh
những đứa trẻ với nhau. Ln nhìn nhận, khen ngợi bất cứ sự tiến bộ nào của giới
trẻ.
* Tổ chức hoạt động giáo dục
- Tiến hành thực hiện hoạt động giáo dục theo kế hoạch thiết lập, giải quyết
các mục tiêu, dự kiến yêu cầu.
- Chú ý cung cấp các yêu cầu, phù hợp chỉ dẫn với kinh nghiệm của trẻ và
văn hóa địa phương. Ví dụ: Thay vì áp dụng tất cả trẻ thuộc các dân tộc khác nhau
cùng vẽ một bức tranh, hát một bài hát về năm mới trong văn hóa của dân tộc
Kinh, thì khuyến khích trẻ vẽ bức tranh, bài hát truyền thống chào đón năm mới
theo phong tục của dân tộc mình; khuyến mại trẻ về lễ hội truyền thông của dân tộc
mình cho các bạn cùng biết.
- Giáo viên cần có kiến thức về tự nhiên xã hội và văn hóa địa phương để tổ
chức các hoạt động giáo dục thẩm mỹ phù hợp, gần, hiệu quá và phát huy sự sáng
tạo của trẻ. Muốn vậy, giáo viên cần tìm hiểu bằng nhiều cách khác nhau (sách,
báo, thông tin trên mạng internet, hỏi đồng nghiệp, trải nghiệm cuộc sống hằng
ngày của trẻ ...) để có thể hiểu về lịch sử và văn hóa bản địa chỉ của nhóm dân tộc
của tuổi trẻ trong lớp.

- Phối hợp, huy động sự tham gia, đóng góp cha mẹ, gia đình và cộng đồng
vào các hoạt động giáo dục thẩm mỹ.
* Đánh giá việc tổ chức hoạt động
- Cần có mục tiêu, tiêu chí để đánh giá rõ ràng.
- Cần sử dụng công cụ đánh giá phù hợp, dễ dàng sao chép, nhận điện thực
hiện tổ chức hoạt động, không nhiều công suất, thời gian.


- Đánh giá kết quả cần chỉ ra những kết quả đạt được so với mục tiêu, những
khó khăn thuận lợi, thành cơng, hạn chế, cách khắc phục để trị chuyện các hoạt
động giáo dục phát triển thẩm mỹ đạt được các mục tiêu giáo dục.
Nội dung 2: Hướng dẫn tổ chức hoạt động giáo dục phát triển thẩm mĩ
cho trẻ mầm non phù hợp với bối cảnh địa phương
Hoạt động 3: Hướng dẫn lựa chọn nội dung giáo dục phát triển thẩm mĩ
cho trẻ mầm non phù hợp với bối cảnh địa phương
3.1. Nội dung phát triển cảm xúc thẩm mĩ cho trẻ nhà trẻ
3.1.1. Âm nhạc
Nội dung theo chương
trình Giáo dục mầm non
Trẻ 3-12 tháng
- Nghe âm thanh của một
số đồ vật, đồ chơi.
- Nghe hát ru, nghe nhạc

Trẻ 12-24 tháng
- Nghe hát, nghe nhạc,
nghe âm thanh của các
nhạc cụ.
- Hát theo và vận động
đơn giản theo nhạc.


Lựa chọn nội dung phù hợp với bối cảnh địa phương
- Nghe âm thanh của đồ dùng, đồ chơi, đồ vật, tiếng kêu của
các con vật quen thuộc tại địa phương: tiếng cốc, thìa, tiếng
chng, tiếng lắc/lục lạc, tiếng kêu của đồng hồ, tiếng dụng
cụ âm nhạc.
- Nghe các bài hát ru, hát dân ca theo vùng miền.
- Nghe các bản nhạc không lời dành cho trẻ nhỏ hoặc nghe
các bài hát dành cho thiếu nhi có giai điệu nhẹ nhàng, êm ái.
- Mở rộng để trẻ nghe và nhận biết âm thanh đa dạng của các
đồ vật và dụng cụ hàng ngày. Chẳng hạn: Ở nơng thơn, có
thể cho trẻ nghe những âm thanh thuộc tính trẻ có thể tiếp
xúc như: tiếng chim hót, tiếng gà, tiếng bị ..:; Ở thành phố
nghe thấy tiếng xe cộ: tiếng cịi ơ tơ, tiếng còi tàu ...
- Nghe nhận biết âm thanh của các loại nhạc cụ dân tộc hoặc
nhạc cụ dân tộc ở địa phương/vùng miền: miền Bắc (Kèn /
khèn / đàn tranh - dân tộc H’mông, Thái, Tày, Dao ..), miền
Bắc (trống cơm / sáo / Nhi ..), Tây Nguyên (trống, cồng,
chiêng ...); vùng Đông Nam Bộ (tiếng trống Đăm, dàn nhạc
ngũ âm, đàn bầu ...).
- Nghe và phân tích các đặc điểm của âm nhạc, các tính chất
của âm nhạc qua các trò chơi “Đố - Rê - Mi” “Tai ai tinh”,
“Bạn hát gì”, “Âm thanh của nhạc cụ gì”. , "Giai điệu cơ
thể", "Nhanh, chậm, dừng lại" ... để luyện tập cảm giác, phản
ứng với âm thanh (to, thấp cao, nhanh chậm ...) và nghe nhạc
hoặc chơi mô phỏng tiếng của sự vật, sự việc.


- Nghe hát: Hát ru, hát dân ca truyền thống theo địa
phương/vùng miền; các bài hát cô hát cho trẻ nghe phù hợp

với lứa tuổi của trẻ, ví dụ: Cị lã - Dân ca Bắc Bộ, lý cây lý
bông - Dân ca Nam Bộ ...
- Hát các bài hát ngắn (hát lại từ cuối câu cùng cơ): Các bài
hát có thể là các bài dân ca ngắn, các bài hát thiếu nhi hoặc
các bài đồng dao, đồng ca được biểu diễn trên nền nhạc.
- Tập lắc lư theo điệu nhạc của bài hát.
Trẻ 24-36 tháng
- Nghe hát, nghe nhạc với
các giai điệu khác nhau;
nghe âm thanh của các
nhạc cụ.
- Hát và tập vận động đơn
giản theo nhạc.

- Mở rộng nghe và nhận biết âm thanh đa dạng của đồ dùng,
đồ chơi, đồ vật, tiếng kêu của các thuộc tính phụ của địa
phương.
- Nghe âm thanh của các nhạc cụ phổ biến hoặc các nhạc cụ
truyền thống của địa phương.
- Mở rộng khả năng nghe nhiều bài hát với nhiều thể loại giai
điệu, nhiều thể loại khác nhau như: Nghe hát, nhạc lý thiếu
nhi có giai điệu nhẹ nhàng, êm ái hoặc hành khúc sôi nổi, vui
tươi...
- Hát theo cô các bài hát thuộc: Giáo viên có thể khai thác
các bài hát một đồng dao, dân ca, vè, ca khúc thiếu nhi tại
địa phương; âm vực nên ở quãng 3 Mi - La, có tiết tấu đơn
giản, nhịp 2/4, khoảng 8-10 ô nhịp để dạy trẻ hát và rèn kỹ
năng nhảy, thể hiện bài hát với cảm xúc và vận động phù
hợp.
- Chọn những vận hành đơn giản, lặp lại theo nhạc: lắc tay,

giặm chân, lắc lư cơ thể theo nhạc hoặc những vận hành mơ
hình, hành động trong bài hát, ví du: động tác chạy, bơi (cá
bơi) vẫy ta như cánh bướm, vỗ cánh (chim, vịt, gà ...).

3.1.2. Tạo hình
Nội dung theo chương
trình Giáo dục mầm non
Trẻ 12-24 tháng

Lựa chọn nội dung phù hợp với bối cảnh địa phương
- Tập vẽ nguệch ngoạc: Trẻ sử dụng bút chì mềm, bút chì


- Tập cầm bút vẽ.
- Xem tranh.

màu, bút chì, phấn, tự do tạo đường nét trên giấy (vẽ tổ chim,
cuộn len ...).
- Xem tranh: Tranh cho trẻ xem có màu sắc tươi sáng, rõ
ràng, bố cục đơn giản.
Trẻ 24-36 tháng
- Di màu: Cho trẻ di màu kín bức tranh đã vẽ sẵn. Hình được
- Vẽ các đường nét khác vẽ bằng bút chì hoặc bút dạ, cọ, bút lơng, tăm bơng. Hình vẽ
nhau, di màu, xé nặn, vị, to, rõ ràng, đơn giản, ít chi tiết như quả, ơ tơ, đồ chơi ...
xếp hình.
- Tập vẽ: Trẻ sử dụng bút chì, sáp màu, sáp màu, tự động tạo
- Xem tranh
đường nét trên giấy: nét xiên (vẽ mưa); nét thẳng, nét ngang
(đường); nét trịn (cái bánh, quả bóng).
- Tập xé giấy bằng 2 tay và xé từ trên xuống dưới theo chiều

dọc của tờ giấy (xé dãy băng, xé tua rua).
- Chơi với đất nặn: véo, chia đất, lăn đất trên bảng hoặc lăn
trên tay, ấn, đập xuống đất phát ra âm thanh (con sâu, cái
bánh, quả bóng ...).
- Xếp hình, sắp xếp bên cạnh các sản phẩm như đường đi,
thuyền, ghế, giường ..; xếp các sản phẩm như ô tô, cái bàn,
cái nhà ...
3.2. Nội dung giáo dục thẩm mĩ cho trẻ mẫu giáo
3.2.1. Âm nhạc
Nội dung theo chương
trình Giáo dục mầm non
Trẻ 3-4 tuổi
1. Nghe nhạc, nghe hát
Các bài hát, bản nhạc gần
gũi (nhạc thiếu nhi, dân
ca, hát ru, nhạc cổ điển)

Lựa chọn nội dung phù hợp với bối cảnh địa phương
Đối với trẻ từ 3 tuổi, căn cứ vào vốn kinh nghiệm, hứng thú
của trẻ, giáo viên có thể chọn và giới thiệu với trẻ các loại
âm nhạc, các bài hát, bản nhạc phù hợp. Vào những dịp hay
sự kiện của trường, lớp/cộng đồng địa phương, giáo viên cho
trẻ nghe bài hát / hệ thống truyền thông nhạc của cộng đồng
địa phương.
+ Trẻ ở nơi tiếp xúc thường xuyên với nhiều loại âm nhạc
(thành phố, thị xã) có thể chọn nhiều loại nhạc thiếu nhi, dân
ca, hát ru, nhạc cổ điển trong nước và trên thế giới.
+ Đối với trẻ ở nơi có điều kiện tiếp xúc với âm nhạc hơn
như vùng nông thôn, miền núi, giáo viên có thể chọn các bài
hát gần như thường được diễn xướng ở địa phương như bài

hát thuộc một số thể loại nhạc hát đồng dao, hát dân ca, hát
ru, hò, vè và nhạc cổ truyền. Ví dụ: Dân ca Bắc Bộ có
những bài nổi tiếng nhưệ "Bà Rắng bà Rí", "Bà quan", "Bèo


dạt mây trơi", "Cị lả", "Cây trúc xinh", "Trống cơm",
"Hoa thơm bướm lượn"," Người ở đừng về "... Dân ca Trung
bộ có những bài hát nối tiếng như:"Lí mười thương ". "Lí
thương nhau", "Hị đối đáp", "Hát ví, Dặm ..", "Đi cấy", "Lí
cây bơng" ...; Dân ca Nam bộ có những câu hát, bài hát nổi
tiếng như: "Ru con", "Lí đất giồng", "Bắc Kim Thang" ...;
Các bài đồng dao, vè được diễn xướng trên nền nhạc giàu
tính nhịp điệu: "Nu na nu trong nống", "Con vỏi con voi",
"Nghé ọ nghé ơi", "Kéo cưa lừa xẻ", "Dung dăng dung dăng
dung dẻ","Rồng rắn lên mây","Chi chi chành chành", "Tập
tầm vông","Hàng trầu hàng cau","Thả đỉa ba ba"...; vè loài
vật, vè trời mưa, vè nói ngược ...
- Ngồi ra, tùy theo độ tuổi, giáo viên chọn lọc cho trẻ nghe
bài hát có độ dài ngắn, tính chất âm nhạc khác nhau. Có thể
chọn nhạc không lời, nhạc giao hưởng/nhạc cổ điển phương
Tây; nghe thanh từ nhiều nguồn khác nhau: âm thanh nhạc
cụ truyền thống (đàn bầu, đàn tranh, sáo, trống, chiêng, cồng,
nhị, khèn ...), hiện đại (đàn ooc-gan, đàn pi-a-no, đàn ghita ...), âm thanh trong môi trường tự nhiên để cung cấp thêm
kinh nghiệm và sự nhạy cảm với âm nhạc đặc biệt ở trẻ.
- Tận dụng bối cảnh và các sự kiện cộng đồng cho trẻ tham
gia và bồi dưỡng cảm xúc: Nghe các âm thanh gợi cảm trong
thiên nhiên, cuộc sống và nghệ thuật có tại địa phương để trẻ
nghe: Ví dụ trẻ miền núi, nơng thơn có thể nghe và nhận biết
tiếng mưa rơi, tiếng chim quản lý hoặc nghe âm thanh của
một số nhạc cụ truyền thống tại địa phương (mõ, sáo, song

loan, trống cơm, đàn bầu) và hiện đại (đàn oóc-gan, kèn,
trống, sáng tạo ...) để trẻ nghe và thể hiện bản thân.
2. Hát
- Giáo viên lựa chọn bài hát, bản nhạc phù hợp với khả năng
Hát đúng giai điệu, lời ca hiện của trẻ. Đối với trẻ 3 - 4 tuổi, yêu cầu trẻ hát đúng giai
bài hát
điệu, lời ca, giáo viên nên chọn những bài ngắn, giai điệu
liên tục hoặc xen kẽ (quãng 3 - 5).
- Giáo viên nên chọn bài hát thường xuyên trẻ em ở cộng
đồng địa phương tổ chức sẽ giúp trẻ cố gắng tìm hiểu, kỹ
năng trong âm nhạc hoạt động, tự tin thể hiện giọng hát và
kỹ năng hát một cách đầy đủ, sống động và có sức truyền
cảm.
+ Ở các thành phố, thị xã có điều kiện tiếp xúc với nhiều loại
âm nhạc có thể được chọn đa dạng các khúc ca trong nước và
quốc tế.


3. Vận động theo nhạc
- Vận động đơn giản theo
nhịp điệu của bài hát, bản
nhạc.
- Sử dụng các dụng cụ gõ
đệm theo phách, nhịp.
- Vận động theo ý thích
khi hát nghe các bài hát,
bản nhạc quen thuộc

Trẻ 4-5 tuổi
1. Nghe nhạc, nghe hát

Các bài hát gần gũi (nhạc
thiếu nhi, nhạc dân ca,
hát ru, nhạc cổ điển)

2. Hát

+ Ở những nơi trẻ ít có điều kiện tiếp xúc với nhạc hơn, giao
viên chọn bài hát, bản nhạc quen thuộc tại địa phương (ca
khúc thiếu nhi, dân ca, hát đồng dao ...), lời hát dễ dàng hiểu,
dễ dàng, nội dung gần phù hợp với kinh nghiệm, hiện bài hát
trẻ có khả năng.
- Lựa chọn các bài hát/nhạc có nhịp điệu (2/4, 3/4, 2/8). Các
đơn giản phối hợp, lặp đi lặp lại, các tác động có biên độ lớn,
mang tính chất đối xứng theo nhịp điệu của các bài hát, bản
nhạc: tay theo phách, nhịp điệu; đi hành quân, giậm chân,
chạy, chuyển nhịp với vị trí đã qui ước.
- Lựa chọn các dụng cụ âm nhạc, dụng cụ tạo ra âm thanh có
tính nhạc được làm từ các nguyên vật liệu có sẵn tại địa
phương: cốc, chén, mõ, song loan, thanh tre, sỏi, hạt, hạt,
ống nứa, lá cây ... để gõ đệm theo phách, nhịp của bài hát,
bản nhạc. Những công cụ tạo âm thanh đa dạng, gần sẽ giúp
trẻ thích thú khám phá, sử dụng và tận hưởng niềm vui khi
sử dụng kết hợp với nhạc và lời ca. Các nội dung giáo viên
lựa chọn và lựa chọn cho trẻ thể hiện bản thân thông qua ca
hát, nhảy múa như sau:
+ Cách thức vận động/nhảy/múa tự do theo cảm nhận của
bản thân khi hát/nghe các bài hát, bản nhạc.
+ Sử dụng công cụ nhạc săn có đế đệm theo phách, nhịp (trẻ
3 - 4 tuổi), gõ đệm theo các tiết tấu hòa tấu đơn giản/phức
tạp (4 - 6 tuổi).

+ Gõ, đệm hoặc phối hợp vật liệu, để tạo ra các âm thanh có
tính chất âm nhạc theo trí tưởng tượng của bản thân trẻ.
+ Chơi với nhạc cụ, vật liệu nguyên để tạo ra các âm thanh
có tính chất âm nhạc theo trí tưởng tượng, ý thích của bản
thân trẻ.
- Mở rộng các bài hát, bản nhạc cho trẻ nghe so với trẻ 3 chú
ý chọn các bài hát, hệ thống truyền thơng nhạc tại địa
phương.
- Ngồi các bài hát trẻ nghe, bản nhạc phù hợp với giáo viên
chọn, giáo viên có thể khai thác, chọn bài hát từ những đề
xuất của trẻ. Đó là những bài hát, bản nhạc mà trẻ biết và
muốn nghe để cố gắng thêm vào sự hiểu biết của trẻ về hệ
thống truyền thông âm nhạc tại địa phương như: dân ca, hò,
vè ...
- Giáo viên lựa chọn bài hát, bản nhạc, phù hợp với âm nhạc


Hát đúng giai điệu, lời ca dành cho trẻ em. Đối với trẻ 4-5 tuổi yêu cầu hát đúng giai
bài hát
điệu, lời ca và thể hiện được sắc thái, tình cảm của bài hát,
bài hát đó, bài hát được chọn cần có quãng giọng từ quãng 3
đến quãng 7.
- Giáo viên nên các bài hát thiếu nhi thường gặp ở địa
phương mà tổ chức sẽ giúp trẻ cố gắng học tập, có kỹ năng
âm nhạc tích cực, tự tin thể hiện giọng hát của mình và kỹ
năng hát một cách đầy đủ, sống động và có sức truyền cảm.
+ Ở các thành phố, thị xã có điều kiện tiếp xúc với nhiều loại
hình âm nhạc có thể thay thế nhiều loại bài hát trong nước và
quốc tế.
+ Ở những nơi trẻ được tiếp xúc nhiều hơn với âm nhạc, giáo

viên lựa chọn những bài hát, bản nhạc quen thuộc ở địa
phương (ca dao, dân ca, dân vũ ...), ca từ dễ hiểu, dễ hát, gần
gũi với ứng dụng, phù hợp với các kinh nghiệm có thể biểu
diễn các bài hát của trẻ.
3. Vận động theo nhạc
- Lựa chọn các bài hát/nhạc có nhịp điệu (2/4, 3/4, 2/8). Các
- Vận động đơn giản theo đơn giản phối hợp, lặp đi lặp lại, các tác động có biên độ lớn,
nhịp điệu của cac bài hát, mang tính chất đối xứng theo nhịp điệu của các bài hát, bản
bản nhạc.
nhạc: tay theo phách, nhịp điệu; đi hành quân, giậm chân,
- Sử dụng các dụng cụ gõ chạy, chuyển nhịp với vị trí đã quy ước
đệm theo phách, nhịp.
- Lựa chọn các dụng cụ âm nhạc, dụng cụ tạo ra âm thanh có
- Vận động theo ý thích tính nhạc được làm từ các nguyên vật liệu có sẵn tại địa
khi hát/ nghe các bài hát, phương: cốc, chén, mõ, song loan, thanh tre, sỏi, hạt, hạt,
bản nhạc quen thuộc
ống nứa, lá cây ... để gõ đệm theo phách, nhịp của bài hát,
bản nhạc. Những công cụ tạo âm thanh đa dạng, gần sẽ giúp
trẻ thích thú khám phá, sử dụng và tận hưởng niềm vui khi
sử dụng kết hợp với nhạc và lời ca.
- Lựa chọn và gợi ý cho trẻ tự động hiện thân thông qua ca
hát, nhảy múa như sau:
+ Các cách thức vận động / nhảy / múa tự động làm theo cảm
nhận của bản thân khi hát / nghe các bài hát, bản nhạc .
+ Gõ, đệm hoặc phối hợp vật liệu, để tạo ra các âm thanh có
tính chất âm nhạc theo trí tưởng tượng của bản thân trẻ.
+ Chơi với nhạc cụ, vật liệu nguyên để tạo ra các âm thanh
có tính chất âm nhạc theo trí tưởng tượng, ý thích của bản
thân trẻ.
Trẻ 5-6 tuổi

1. Nghe nhạc, nghe hát
Mở rộng cho trẻ nghe các bài hát, bản nhạc thuộc nhiều thể
- Nghe hát và nhận biết loại khác nhau, có thể chọn những bản nhạc / bài hát có thể


các thể loại âm nhạc khác
nhau (nhạc thiếu nhi,
nhạc dân ca, hát ru, nhạc
cổ điển)
- Nghe và nhận ra sắc thái
(vui, buồn, tình cảm, thiết
tha) của các bài hát, bản
nhạc

2. Hát
Hát đúng giai điệu, lời ca
và thể hiện sắc thái, tình
cảm của bài hát

3. Vận động theo nhạc
- Vận động nhịp nhàng
theo nhịp điệu của cac bài
hát, bản nhạc.
- Sử dụng các dụng cụ gõ
đệm theo phách, nhịp, tiết
tấu.
- Tự nghĩ ra các hình thức
để tạo ra âm thanh, vận
động theo các bài hát, bản
nhạc yêu thích.

- Đặt lời theo giai điệu 1
bài hát, bản nhạc quen

biểu diễn với nhiều loại nhạc cụ khác nhau để trẻ có thể nghe
và nhận biết được các loại và tính chất âm thanh của các loại
nhạc cụ, sự thay đổi sắc thái của bản nhạc nếu thay đổi dụng
cụ âm nhạc. Giáo viên có thể thích sử dụng các bản nhạc có
thể được tạo ra bằng phương tiện âm nhạc. Ví dụ: “Cây trúc
xinh” (đàn bầu, sáo ...); “Mưa rơi” (thể hiện bằng các nhạc
cụ như đàn Pí, đàn tính, trống); điệu hát lâm thôn (thể hiện
bằng dàn nhạc ngũ âm);
- Các bài hát lựa chọn cần có sắc thái rõ ràng (vui, buồn, yêu
thương) để trẻ dễ nhận biết các sắc thái tình cảm có thể thể
hiện trong bài hát, bản nhạc “múa đàn”, “Hoa lá mùa
xuân”,“Mùa xuân ơi mùa xuân”,“Ngày Tết quê em”.
- Giáo viên lựa các bài hát, bản nhạc phù hợp với khả năng
của trẻ. Trẻ 5 - 6 tuổi, âm vực nên ở quãng 8, giọng Đô 1 Đô 2.
- Giáo viên nên chọn những bài hát thường được trẻ sử dụng
trong cộng đồng diễn xướng sẽ giúp trẻ cũng cố hiểu biết,
rèn luyện kỹ năng hát một cách đầy đủ, sinh động và truyền
cảm.
+ Ở những thành phố, thị xã có điều kiện tiếp xúc với nhiều
thể loại âm nhạc, có thể lựa chọn nhiều bài hát trong nước và
quốc tế.
+ Ở những nơi trẻ được tiếp xúc nhiều hơn với âm nhạc, giáo
viên lựa chọn những bài hát, bài hát quen thuộc ở địa phương
(ca dao thiếu nhi, ca dao, dân ca…), lời ca dễ hiểu, dễ hát,
nội dung gần gũi phù hợp với kinh nghiệm của trẻ và khả
năng biểu diễn các bài hát.
- Trẻ 5 - 6 tuổi, có thể chọn thêm các bài hát / bản nhạc có

nhịp điệu (4/4, 4/8 ...) để trẻ vận động.
- Chú ý khai thác kinh nghiệm, ý tưởng vận hành theo nhạc
của tuổi trẻ để lựa chọn hoạt động phù hợp.
- Giáo viên có thể giới thiệu thêm một số tác động múa dân
gian phù hợp với bài hát, bản truyền tải nhạc của mỗi địa
phương: Ví dụ múa trống cơm, múa sạp, múa cồng chiêng,
múa lâm thơn ... múa xe chỉ luồn kim, lí kéo chày …
- Lựa chọn các nhạc cụ, dụng cụ tạo ra âm thanh có tính chất
nhạc được làm từ các ngun liệu sẵn có ở địa phương để trẻ
tự gõ đệm theo nhịp, tiết tấu của bài hát, bản nhạc.
- Lựa chọn và gợi ý cho trẻ tự thế hiện bản thân khi hát/nghe
các bài hát, bản nhạc như sau:


thuộc (một câu hoặc một + Các cách vận động / nhảy / múa tự do theo cảm nhận của
đoạn)
bản thân khi hát/nghe các bài hát, bản nhạc.
+ Sử dụng cơng cụ âm nhạc có sẵn để gõ đệm theo các âm
thanh tiết tấu đơn giản / phức tạp (4 - 6 tuổi).
+ Gõ, đệm hoặc phối hợp vật liệu, sử dụng nhạc cụ để tạo ra
các âm thanh có tính chất âm nhạc theo trí tưởng tượng của
bản thân trẻ.
+ Đặt theo giai điệu một bài hát, bản nhạc quen thuộc (một
câu hoặc một đoạn).
3.2.2. Tạo hình
Nội dung theo chương
trình Giáo dục mầm non
Trẻ 3 - 4 tuổi Sử dụng
cấu hình vật liệu để tạo ra
sản phẩm.

- Sử dụng một số kỹ năng
vẽ, nặn, cắt, xé dán, ghép
hình để tạo ra các sản
phẩm đơn giản.
- Nhận sản phẩm tạo
hình. Tạo ra những sản
phẩm đơn giản theo ý
thích.
- Đặt tên cho sản phẩm
của mình.

Trẻ 4 - 5 tuổi

Lựa chọn nội dung phù hợp với bối cảnh địa phương
- Vẽ, cắt, cắt, dán, ghép mẫu giúp trẻ thực hành các cấu hình
kỹ năng mới. Trên cơ sở nội dung Chương trình giáo dục
mầm non, giáo viên lựa chọn là đồ vật, con vật, cây cối, hoa
quả, đồ chơi gần giống và phổ biến ở địa phương. Ví dụ: vẽ
ngơi nhà 2 tầng (thành phố), tô màu áo bà ba (Đồng bằng
sông Cửu Long), kẻ đường (miền núi), vẽ con gà (nông thôn)
...
- Vẽ, nặn, cắt, xé, dán, sắp xếp tranh theo chủ đề giúp các
em rèn luyện kĩ năng học tả đồ vật theo chủ đề quen thuộc,
gần giống ở địa phương. Nội dung trên được cụ thể hóa trong
chương trình giáo dục mầm non, giáo viên được xác định cụ
thể, hứng thú của tuổi trẻ để lựa chọn cho phù hợp với điều
kiện thực tế của địa phương. Ví dụ: vẽ biển (miền biển), xé
dán hình vườn cây ăn quả (nơng thơn), các loại quả mà em
u thích như vải thiều, nhãn (miền Bắc), quả thanh long,
quả sầu riêng (miền Nam). ..

- Vẽ, nặn, cắt, xé, dán, ghép hình giúp trẻ tạo ra các sản
phẩm tạo hình theo cảm tính và sở thích của mình. Loại hình
này nhằm tạo sự thú vị cho các tác phẩm trẻ bằng nguồn lực,
kỹ năng nghệ thuật, nặn, xé, dán và đặt tên cho sản phẩm của
mình. Trên các kỹ năng có, giáo viên gợi mở các ý tưởng
sáng tạo, kết hợp các kỹ năng để tạo ra sản phẩm.
- Tạo ra các sản phẩm theo ý thích từ vật liệu có sẵn tại địa
phương: làm chong chóng từ lá dừa, làm con trâu từ lá đa,
xếp chữ bằng hạt ngô, hạt lạc và đặt tên cho sản phẩm đó.
Vẽ, nặn, cắt, xé, dán, xếp hình theo mẫu giúp trẻ thực hành


- Phối hợp các tạo vật
liệu, vật liệu trong thiên
nhiên để tạo ra các sản
phẩm.
- Sử dụng các kỹ năng vẽ,
nặn, cắt, xé, dán, xếp
hình để tạo ra các sản
phẩm có màu sắc, kích
thước, kiểu dáng / đường
nét.
- Nhận sản phẩm tạo hình
về
màu
sắc,
kiểu
dáng/đường nét.
- Tự chọn cơng cụ, vật
liệu để tạo ra sản phẩm

theo ý thích.
- Nói lên ý tưởng tạo hình
của mình.
- Đặt tên cho sản phẩm
của mình.
Trẻ 5 - 6 tuổi
- Lựa chọn, phối hợp các
vật liệu tạo thành, vật liệu
trong thiên nhiên, nguyên
liệu để tạo ra các sản
phẩm.
- Phối hợp các kỹ năng
vẽ, nặn, cắt, xé, dán, xếp
hình để tạo ra các sản
phẩm có màu sắc, kích
thước, kiểu dángđường
nét và bố cục.
- Nhận xét sản phẩm về
màu
sắc,
kiểu
dáng/đường nét và bố
cục.
- Tìm kiếm, lựa chọn các
cơng cụ, phù hợp vật liệu
để tạo ra sản phẩm theo ý

các kĩ năng. Trên cơ sở nội dung định trong Chương trình
giáo dục mầm non, giáo viên chọn mẫu là vật, đồ, cây hoa,
rau, củ đơn giản phù hợp với thực tiễn ở địa phương quen

thuộc với trẻ.
- Vẽ, nặn, cắt, xé, dán, xếp hình theo chủ đề là hoạt động
nhằm rèn luyện và ứng dụng các kỹ năng có để miêu tả các
đối tượng khác nhau theo một chủ đề, phù hợp với thực tiễn
của địa phương, gần gũi với trẻ, giáo viên gợi ý cho tài
khoản trẻ hoặc cách thể hiện.
- Vẽ, nặn, cắt, xé, dán, xếp hình theo ý thích là cơ hội để trẻ
tái tạo lại những ấn tượng, những ý tưởng của mình vào các
sản phẩm, gợi ý cho trẻ trao đổi về những ấn tượng, ý định
của mình vào sản phẩm; gợi ý cho trẻ cách thể hiện những ấn
tượng, ý thích đó nhằm mục đích phát triển khả năng sáng
tạo của trẻ.
- Tận dụng nguyên vật liệu có sẵn: bắp ngơ, gốc cây rau cải
(trong hoa), xếp (xếp bàn ghế), xếp (xếp đường, ao cá, hồ),
rơm, bông (con vật), hạt lúa, hạt ngô (chữ cái, bơng hoa, con
vật), vải vụn, bìa cát tơng, lõi giấy vệ sinh, giấy vụn (phương
tiện giao thông, đồ vật) theo ý tưởng và đặt tên cho sản
phẩm.
- Vẽ, nặn, cắt, xé, dán, xếp hình theo mẫu giúp trẻ thực hành
các kỹ năng mới. Các bài dành cho mẫu giáol lớn là những
bài phối hợp các kĩ năng trẻ đã học ở các lứa tuổi dưới, được
thế hiện qua bố cục tranh, các trang trí thức khác nhau. Nội
dung cơ sở trên quy định trong chương trình giáo dục non
giáo viên cùng trẻ lựa chọn mẫu để thực hiện. Đối với lớn
trẻ, lựa chọn mẫu có chi tiết phức tạp hơn trẻ dưới 5 tuổi.
Đối với bài mẫu, bên ngoài bố cục có thể gợi ý thêm một số
chi tiết hoặc sắc màu làm cho sản phẩm sinh động hơn.
- Vẽ, nặn, cắt, xé, dán, xếp hình theo chủ đề là hoạt động mở
rộng biểu tượng cho trẻ về một nội dung cụ thể, một chủ đề
nào đó. Lứa tuổi này, có thể gợi ý cho các lựa chọn trẻ, chú ý

hướng trẻ vào các đề tài gần gũi phổ biến ở địa phương.
- Vẽ, nặn, cắt, xé, dán, xếp hình theo ý thích là hoạt động tạo
hình mà trẻ có thế tự do chọn chủ đề để thể hiện, có thể sử
dụng phối hợp các kỹ năng xé, dán, vẽ, để tạo ra sản phẩm.


thích.
- Nói lên ý tưởng tạo hình
của mình.
- Đặt tên cho sản phẩm
của mình.

Ví dụ làm trứng khủng long (kết hợp xé, dán, vẽ màu ...), tạo
hình chân dung (kết hợp vẽ hình mặt, dán lá cây, xé giấy làm
tóc ...). Trẻ có thể nêu ý kiến của mình trước lớp. (Lưu ý:
Giáo viên cần tạo điều kiện, cơ hội để trẻ bộc lộ ý tưởng và
cảm xúc về bản thân và thế giới mà trẻ nhìn thấy, trẻ tự tin
khi nói ý tưởng, mong muốn được thử nghiệm, trẻ học cách
đánh giá và thể hiện quan điểm riêng ...).
- Tìm kiếm xung quanh các tài liệu và dụng cụ để tạo ra sản
phẩm theo ý tưởng tạo ra hình ảnh của mình và đặt tên cho
sản phẩm.
- Khuyến khích trẻ có thể sáng tạo khi tham gia các hoạt
động nghệ thuật, cần gợi ý đưa thêm các kỹ năng và sản
phẩm sáng tạo như: đan tết, điêu khắc, ghép hình ... nhằm tạo
ra các sản phẩm như: đồ handmade sử dụng các vật liệu từ tự
nhiên (tranh cát, vỏ, vỏ, hạt, ...).

Bên cạnh những nội dung giáo dục thẩm mĩ trong hoạt động âm nhạc, hoạt
động tạo hình, giáo viên cần tận dụng các hoạt động khác như: hoạt động làm quen

tác phẩm văn học (đọc thơ, kể chuyện), đóng kịch và các hoạt động nghệ thuật
khác để bồi dưỡng cảm xúc, năng lực thẩm mĩ cho trẻ mầm non.
Hoạt động 4: Tìm hiểu về cách tổ chức mơi trường giáo dục phát triển
thẩm mĩ phù hợp với bối cảnh địa phương
Xây dựng môi trường giáo dục phát triển thẩm mỹ phù hợp với bối cảnh địa
phương
4.1. Chất lượng môi trường
4.1.1. Môi trường trong lớp học
Môi trường trong lớp thẩm mỹ bảo đảm, thân thiện, thế giới đặc trưng về
văn hóa, truyền thống dân tộc, vùng, miền.
- Khơng gian lớp học cần được bố trí các khu vực hoạt động hợp lý, thuận
tiện, đảm bảo thân thiện với trẻ, tạo cho trẻ thích chơi, có ánh sáng phù hợp (tận
dụng tối đa nguồn ánh sáng tự nhiên). Các khu vực hoạt động cơ bản bao gồm:
Khu vực đóng vai; tạo hình; thư viện (sách, truyện tranh); Khu vực lắp ráp, xây
dựng; Khu vực cho các hoạt động khám phá thiên nhiên và khoa học; âm nhạc
hoạt động và khu vực yên tĩnh cho trẻ nghỉ (nếu có). Tường của phịng/lớp nên
sơn màu trung tính (xanh, be, vàng chanh ...), tạo cảm giác sáng, thư thái, nhẹ
nhàng và phù hợp với các trang sử dụng đồ, đồ chơi vốn rất sặc sỡ.


- Không gian/khu vực diễn ra hoạt động âm nhạc, tạo hình: điều kiện hoạt
động của địa phương, từng cơ sở giáo dục và mục tiêu, nội dung của mỗi cơng cụ
hoạt động mà giáo viên có thể chọn và phối hợp một cách phù hợp khi hoạt động
tính năng không hoạt động cho trẻ, đa dạng bảo mật của khơng gian diễn ra hoạt
động (trong lớp, bên ngồi ban cơng hành lang, bên ngồi sân trường, dưới bóng
mát của lá cây. .); kết hợp với các hoạt động cả lớp, theo nhóm nhỏ và cá nhân,
phù hợp với điều kiện của lớp nhóm. Khu vực hoạt động âm nhạc/tạo hình được
sắp xếp bảo đảm cho giáo viên dễ dàng bao quát mọi hoạt động của trẻ, có lối đi lại
thuận tiện để giúp trẻ mở rộng hệ thống quan trong khi chơi. Đối với âm nhạc hoạt
động, đóng kịch, phải bố trí đủ để trẻ có thể tham gia vào hoạt động vận hành,

muá, hát, đóng kịch, biểu diễn ... theo ý tưởng và cảm nhận của trẻ. Đặc biệt lưu ý
khi dựng khung, thiết lập cân bằng tạo hình cách xa góc Âm nhạc để đảm bảo sự
n tĩnh cho trẻ sáng tạo tại góc Tạo hình, xa khu vực cần yên tĩnh (thư viện, khám
phá khoa học) để không phân tán sự chú ý của trẻ khi tham gia vào hoạt động.
- Đặt tên cho các khu vực hoạt động dễ hiểu, gợi cho trẻ cảm giác thoải mái
và được sáng tạo; với trẻ mẫu giáo, cần chú ý tạo môi trường cho trẻ làm quen với
chữ viết. Với các phương thức trẻ là dân tộc thiểu số, trong lớp học mơi trường,
nên có chữ viết của dân tộc trẻ.
- Cách bài trí hình ảnh trực tiếp quan trong khu vực hoạt động nghệ thuật
(âm nhạc, tạo hình, truyện tranh) phong phú, khuyến khích sự sáng tạo của trẻ.
Trong khu vực này có thể treo tranh / ảnh chân dung một số nhạc sĩ, ca sĩ gắn bó
với tuổi trẻ và các nhân dân của gian hàng địa phương trên các mảng tường hoặc
mặt sau của giá, tủ, kệ ... Ngoài ra, trong Âm nhạc, giáo viên có thể treo những
bức tranh nghệ thuật hoặc tranh / hình ảnh về các hoạt động phản ánh đời sống tín
ngưỡng, tơn giáo, hoạt động nghệ thuật truyền thơng, đặc trưng của phương pháp
và các phương thức hoạt động dân tộc như ngày hội, lễ tạ trời đất, thần linh.
- Nguyên vật liệu, đồ dùng, máy học cho tổ chức hoạt động âm nhạc, tạo
hình cho mầm non cần chuẩn bị bảo đảm về số lượng và chủng loại, tiêu chuẩn kỹ
thuật theo quy định. Đối với âm nhạc hoạt động, ngồi các nhạc cụ (trống, xắc
xắc, đàn c-gan, dàn tơ-rưng, chuông, nhạc cụ truyền thông khác ...), Tùy vào địa
phương mà giáo viên có thể chuẩn bị một số đồ chơi tạo âm thanh (gáo dừa, chai
lọ, hạt, hạt, thanh tre ...), các trang phục biểu diễn (quạt, áo, áo ...). Các hình ảnh,
bản đồ sử dụng, đồ chơi cần mang tính đại diện, phản hồi màu sắc văn hóa đặc thù
của địa phương (đặc biệt các địa phương có dân tộc sinh sống), qua đó làm giàu
vốn hiếu biết về văn hóa nền và văn hóa đặc trưng của dân tộc, bồi dưỡng cảm xúc
thẩm mỹ cho trẻ.
Đối với hoạt động tạo hình hoạt động, cần bố trí đủ các hình thức tạo vật
liệu, vật liệu đó có sẵn tại địa phương, vật liệu từ tự nhiên, chẳng hạn như: cỏ, cây,
hoa, lá tươi, lá khô, cây trồng, cát, sỏi, nước ... hoặc vật liệu, phế liệu có thể tái sử



dụng như: chai nước, ống hút, khăn, giấy, báo cũ, lõi giấy, muỗng, hộp, cốc chén

Đối với những trường không có điều kiện thuận lợi, có phịng hoạt động
riêng, nhà trường cần trang bị một số phương tiện thiết bị cho âm nhạc hoạt động:
bộ trống (trống cơm, trống điện tử, các loại phù hợp), đàn oóc gan, đàn to-rưng,
đàn ghi ta, song loan, mõ, đàn tranh, sáo trúc ...; quần áo, mũ lưỡi trai, vòng, quạt,
cờ, hoa ... và một số trang phục truyền thống của Việt Nam, trang phục của các dân
tộc có kích thước phù hợp với trẻ để trẻ có thể mặc định khi biểu diễn; tranh / ảnh
chân dung một số nhạc sĩ, ca sĩ gắn bó với tuổi thơ (Phạm Tun, Hồng Long,
Hồng Lân...); sân khấu biểu diễn ở vị trí thuận tiện cho hoạt động trẻ và được
trang trí với hình ảnh, màu sắc đẹp mắt. Tại phịng hoạt động tạo hình: trưng bày
một số tác phẩm hội họa nổi tiếng, chân dung họa sĩ gắn bó với tuổi thơ; một số
bức tranh đẹp, nổi tiếng của họa sĩ trong nước và thế giới, tranh / sản phẩm của các
làng nghề truyền thống: tranh Đông Hổ, tranh Hàng Trống, gốm Bát Tràng, tranh
vẽ về đất trước con người trên đất nước Việt Nam (vùng Tây Nguyên, đồng bằng
sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng, miền núi phía Bắc ...); đa dạng vật liệu để
trẻ sáng tạo ra.
Sau mỗi chủ đề/mỗi tuần, giáo viên tổ chức cho trẻ cùng tham gia vào việc
bố trí, sắp xếp lại các vị trí trong khu vực hoạt động. Giáo viên nên thảo luận với
trẻ về những mong muốn và ý tưởng để tạo ra những trò chơi với mới vật liệu, phù
hợp chủ đề. Khuyến khích trẻ mang đồ, đồ chơi, đồ vật nguyên liệu có sẵn ở gia
đình, tại địa phương để trang trí cho chủ đề/nội dung giáo dục mới. Trong quá
trình trẻ khám phá, nếu trẻ không hứng thú với đồ dùng, đồ chơi, giáo viên có thể
cùng trẻ thảo luận và thay đổi đồ dùng, dụng cụ để khám phá.
Ví dụ: Trong tuần 1 của chủ đề “Tết và mùa xuân”, giáo viên trang trí lớp
học bằng những cây, hoa tạo khơng khí mùa xn. Cơ và trẻ có thể thảo luận cùng
nhau và chọn 1 cây/ cành cây đặc trưng cho mùa xn ở địa phương để trang trí
cho lớp học (có thể cành đào / cành mai / cây có lộc non). Cơ có thể hướng dẫn trẻ
vẽ tranh về mùa xuân của quê em hoặc cắt, dán, in màu hoa đào/mai để trang trí

các góc trong lớp học và chuẩn bị tâm thế đón Tết và mùa xuân về.
Trong tuần thứ 2 của chủ đề: Giáo viên hỏi trẻ ý kiến về trang trí lớp học
tuần này, cho trẻ đề xuất ý kiến tưởng tượng: Có thế làm các loại bánh (bánh trưng,
bánh giấy, các loại bánh ở địa phương ...), sưu tầm các loại hoa quả ngày Tết để
trưng bày. Vẽ và làm tranh vẽ về mùa xuân từ cành, cây lá, hoa có sẵn, vẽ trang
phục, chuẩn bị trang phục, đội mũ của dân tộc mình để trưng bày ở các kỹ thuật /
góc văn hóa địa phương trong lớp; Làm đuôi nheo cờ, các sản phẩm trang trí của
lớp, các cửa sổ; khuyến khích trẻ em dân tộc mặc định trang phục truyền thơng
của dân tộc mình đến lớp hoặc trong các ngày hội, Tết truyền thống; Cho trẻ hát,
đọc các bài thơ có nội dung về Tết và mùa xuân bằng tiếng Việt và tiếng dân tộc
của mình ...


4.1.2 Mơi trường bên ngồi lớp
- Cổng trường, cửa lớp và cảnh quan có thể hiện được dự thân thiện; tạo cho
trẻ cảm giác gần gũi, thân thuộc với đời sống hằng ngày; làm cho trẻ cảm thấy
được chào đón và nơi đây thuộc về trẻ. Có thể sử dụng cây, nguyên liệu, sử dụng
đồ, biến chất liệu ở địa phương để sử dụng vào vị trí trang. Sắp xếp cảnh quan các
lớp (cổng, đường đi, sân vườn, khu vực chơi ngoài trời) thuận tiện cho các hoạt
động của trẻ.
- Khu vực văn hóa địa phương: có thể trưng bày tranh ảnh, trang phục, nhạc
cụ, những sản phẩm, đồ dùng, dụng cụ lao động sản xuất mô phỏng đời sống, văn
hóa ở địa phương để trẻ được vui chơi, tái hiện lại cuộc sống hằng ngày của
mình. Trong các buổi lễ, ngày hội, đặc biệt là các lễ hội truyền thống địa phương,
cần trang trí hình ảnh, màu sắc theo chủ đề lễ hội nổi bật lôi cuốn sự chú ý, khơi
gợi ở những người trẻ cảm xúc tích cực và qua đó hiểu về văn hóa của địa phương
mình.
- Khu vực âm nhạc, tạo hình ngồi lớp có thể được bố trí để trẻ dễ dàng lựa
chọn và trãi nghiệm với âm thanh, âm nhạc và các hoạt động thủ cô, mĩ nghệ (đan
tết, vẽ trên sân…)

4.2. Môi trường xã hội
Môi trường tâm lý (môi trường tinh thần) trong hoạt động tạo hình, âm nhạc
của tre ở trường khơng tạo nên bởi cảm xúc của giáo viên và của trẻ, mối quan hệ
tác động giữa giáo viên và trẻ, giữa các trẻ với nhau. Để trẻ có cảm giác an tồn,
tự tin và tích cực trong hoạt động, giáo viên cần chú ý:
- Trang phục, cách ăn mặc cần sạch đẹp, an tồn; từng cử chỉ, lời nói, hành
động cần phải chuẩn mực để trẻ bắt chước theo. Đặc biệt là trong các hoạt động có
nghệ thuật biểu diễn hoặc làm mẫu (hát, đóng kịch ...), giáo viên cần chọn trang
phục hợp, đẹp mắt để kích thích trẻ quan tâm, cảm nhận vẻ đẹp của nghệ thuật
thuật.
- Trong hệ thống giữa cô và trẻ, giáo viên cần:
+ Thể hiện thái độ tôn trọng trẻ, tạo cơ hội cho trẻ bộc lộ những suy nghĩ và
cảm xúc của mình. Tạo điều kiện cho giao tiếp trẻ và thể hiện sự quan tâm của
mình đối với mọi người, đối với vật thể, hiện tượng xung quanh.
+ Khuyến khích trẻ bộc lộ cảm xúc, ý nghĩ và tự diễn đạt bằng lời nói, hành
động khích lệ, động viên lạc quan, tự tin vào bản thân… khi trẻ thất bại.
+ Kiên nhẫn với trẻ, tránh ép buộc, căng thẳng khi trẻ tham gia các hoạt
động.
+ Đánh giá sự tiến bộ của mỗi trẻ so với bản thân. Ln nhìn nhận, khen
ngợi sự tiến bộ của giới trẻ.
- Trong quan hệ giữa trẻ với nhau, giáo viên cần:
+ Tạo cơ hội như nhau để mọi trẻ được tích cực giao tiếp, hợp tác với cô, với
bạn trong khi tham gia hoạt động.


+ Khuyến khích mối quan hệ thân thiện giữa những đứa trẻ với nhau.
+ Khuyến khích trẻ chơi theo nhóm, khuyến khích trẻ bộc lộ cảm xúc và ý
tưởng cá nhân (khơng định kiến về thành phần dân tộc, hồn thiện gia đình, cá
nhân điểm đặc biệt.).
Hoạt động 5. Hướng dẫn cách tổ chức hoạt động giáo dục thẩm mỹ trẻ

trung phù hợp với bối cảnh địa phương
Tổ chức hoạt động giáo dục phát triển thẩm mỹ trẻ phù hợp với tiền
cảnh địa phương
Giáo dục phát triển thẩm mỹ cho trẻ mầm non thực hiện thông tin trên
trường mầm non và mọi lúc, mọi nơi:
- Hoạt động chơi: Trò chơi đóng vai theo chủ đề; chơi đóng kịch; Trị chơi
học tập; Trò chơi vận động; Trò chơi dân gian ...
- Hoạt động chơi tập (nhà trẻ) hoạt động học (mẫu giáo): Tổ chức các hoạt
động nghệ thuật (tạo hình, âm nhạc) dưới hoạt động học thức.
- Hoạt động lao động trong trường và một số công cụ hỗ trợ hướng vào nội
dung bảo vệ môi trường xanh-sạch-đẹp.
- Hoạt động ăn, ngủ, vệ sinh cá nhân: Chú trọng vào dạy trẻ kỹ năng, điều
hành vi văn hóa trong ăn uống, vệ sinh lành mạnh, lịch sự.
- Các hoạt động trải nghiệm khác: Ngày lễ, hội, tham quan, giao lưu với các
nghệ sĩ, nghệ nhân, chuyên gia nhằm bồi dưỡng cảm xúc thẩm mỹ, phát triển thẩm
mỹ, sự sáng tạo cho trẻ: Tham quan các cảnh đẹp, di tích lịch sử, làng nghề truyền
thống, xem múa rối, xem xiếc, nghệ thuật một số loại hình âm nhạc truyền thống
(quan họ, chèo, chầu văn, cải lương ...), giao lưu với các nghệ sĩ , tham gia chương
trình "Sáng tạo nghệ thuật" ...
Tài liệu hướng dẫn cách tổ chức hoạt động âm nhạc và tạo hình cho nhà trẻ
trên hoạt động chơi và giáo dục trẻ trên hoạt động học.
5.1. Tổ chức các hoạt động âm nhạc
5.1.1. Tổ chức hoạt động âm nhạc cho trẻ nhà
Trẻ nhà trẻ ở những tháng khác nhau có sự khác nhau đáng kể về khả năng
ngôn ngữ, nhận thức, vận hành và khả năng thể hiện cảm xúc. Do đó, giáo viên tổ
chức các hoạt động âm nhạc cho trẻ cần chú ý đến khả năng của trẻ ở các nhóm
tuổi để tổ chức hoạt động phù hợp, thu hút được sự tham gia của trẻ.
a) Hoạt động nghe nhạc - nghe hát
Nội dung
Lập kế hoạch


Cách tổ chức thực hiện
- Xác định mục tiêu: Tùy theo khả năng của trẻ, từng
nhóm trẻ hoặc độ tuổi, tổ chức hoạt động sự kiện, giáo
viên xác định mục tiêu khác nhau:
+ Đối với trẻ 3-12 tháng tuổi, trẻ nghe thụ động nên mục
tiêu đặc ra hướng đến là tạo cho trẻ cảm giác thoải mái,


Tổ chức hoạt động

chú ý khi nghe nhạc không lời, nghe hát ru, hát dân ca
theo vùng miền/địa phương hoặc những bài hát thiếu nhi
giai điệu nhẹ nhàng, êm diu.
+ Đối đầu với trẻ 12-24 tháng tuổi, mục tiêu cần hướng
đến là hình thành kỹ năng lắng nghe, thích thú với âm
thanh, âm nhạc; thích chơi và nghe âm thanh từ các dụng
cụ gõ đệm, đồ chơi tạo âm thanh; hưởng thụ cảm xúc, vận
động cơ thể, hát theo những lời cuối cùng, câu cuối của
bài hát.
+ Đối với trẻ 24 - 36 tháng, mục tiêu hướng đến dạy trẻ
nhận biết, gọi tên đồ dùng, dụng cụ phát âm thanh, bài hát
tên, đơn giản bản nhạc, quen thuộc; thích nghe nhạc, nghe
hát; thể hiện và hưởng thụ cảm xúc cùng với nhiều vận
động khác nhau như cô nhảy, lắc lư, lắc tay, lắc tay, giậm
chân ... theo nhịp điệu của bài hát.
- Lựa chọn nội dung, hình thức, phương pháp hoạt động:
+ Căn cứ vào mục tiêu, nội dung, phương tiện, thực tế
điều kiện tại trường, lớp, giáo viên lựa chọn và thiết kế
nội dung, lựa chọn nội dung, hình thức phương pháp tổ

chức hoạt động nghe hát, nghe nhạc.
+ Ở độ tuổi nhà trẻ, thời gian một hoạt động ngắn, khả
năng tập trung của trẻ còn hạn chế nên hoạt động âm nhạc
có thể chọn một nội dung trọng tâm và một nội dung kết
hợp (nếu cần thiết). Riêng đối với trẻ chưa biết đi, chưa
biết nói, giáo dục có tính chất ưu tiên cho trẻ chơi các tập
với đồ dùng phát âm thanh, dụng cụ âm nhạc, nghe hát,
nghe nhạc có giai điệu vui nhộn hoặc nhẹ nhàng, dịu
dàng, luyện tập và phản xạ với âm thanh của trẻ.
+ Trẻ nhà trẻ chưa có kỹ năng hợp tác trong hoạt động,
nên hình thức tổ chức thơng thường theo cá nhân/nhóm
nhỏ có cùng khả năng/cùng độ tuổi.
+ Trẻ cảm thụ âm thanh, âm nhạc chủ yếu thơng qua
nghe, nhìn trực tiếp (trực quan) nên giáo viên cần tăng
cường thiết kế hoạt động sử dụng phương pháp trực quan,
truyền cảm để thu hút sự chú ý của giới trẻ. Ở địa
phương có nghệ sĩ, nghệ nhân, giáo viên có thể để trẻ
nghe nghệ sĩ thể hiện.
- Giáo viên tổ chức hoạt động theo kế hoạch đề ra.
- Giáo viên sử dụng các phương thức khác nhau để lôi
cuốn trẻ vào hoạt động nghe hát, nghe nhạc: trò chơi, câu


đố, trị chuyện, tình cảm hoặc một hoạt động thú vị có
liên quan đến nội dung nghe hát.
- Trong khi cho trẻ nghe, giáo viên chú trọng phương
pháp trực quan, truyền cảm đối với nhà trẻ: Giáo viên có
thể cho trẻ nghe trực tiếp cô giáo hát hoặc nghe qua các
phương tiện (như tivi, đàn, đài, video). Nếu có điều kiện
nhà trường có thể mời nghệ sĩ (nhạc sĩ, nghệ nhân ...) tổ

chức hoạt động âm nhạc hoặc biểu diễn nghệ thuật cho trẻ
xem theo từng chủ đề hoặc sự kiện phù hợp hoặc tổ chức
cho trẻ xem một số loại hình nghệ thuật dân gian (múa rối
nước, chèo, cải lương ...), qua đó bồi dưỡng cảm xúc
thẩm mỹ và những tác phẩm nghệ thuật cho trẻ, làm
phong phú hơn đời sống tinh thần, mở rộng biểu tượng
về cái đẹp trong cuộc sống, phát triển những cảm xúc tích
cực cho trẻ. Dù cho trẻ nghe dưới bất kỳ hình thức nào,
qua bất kỳ phương tiện nào thì điều quan trọng là giọng
hát phải truyền cảm; giai điệu, tiết tấu ... phải hấp dẫn,
khơi gợi cho trẻ những cảm xúc tích cực. Giáo viên có
thể thực hiện dưới dạng cả lớp hoặc theo độ tuổi
nhóm. Tuy nhiên, đối với trẻ càng nhỏ, giáo viên càng cần
chú ý cho trẻ nghe theo hình thức cá nhân và giao lưu
cảm xúc với trẻ nhiều hơn (qua ánh mắt, cử chỉ ôm, vuốt
trẻ khi hát ...).
- Khuyến khích từng trẻ có thể cảm xúc khi nghe nhạc,
nghe bằng nét mặt, cử chỉ, vận động cơ thể theo nhiều
cách khác nhau: Trẻ 6 - 12 tháng có thể khuyến khích trẻ
đung đưa cơ thể theo giai điệu. Trẻ 12 - 24 tháng, khuyến
khích trẻ thể hiện cảm xúc, vận động cơ thể, hát cùng cô
từ cuối của câu hát. Trẻ 24 - 36 tháng, giáo viên khuyến
khích trẻ thể hiện và hưởng ứng cảm xúc cùng với cô
băng nhiều vận động khác nhau như nhảy, lắc lư, lắc tay,
lắc tay, giậm chân, gõ đệm ... theo nhạc và có thể hát theo
cơ từ đầu đến cuối.
- Giáo viên kết hợp giáo dục hoặc mở rộng liên hệ hiểu
biết của trẻ với những văn hóa trị giá tại cộng đồng, địa
phương. Ví dụ: Sau khi nghe bài hát "Xe chỉ, luồn kim",
giáo viên có thể giới thiệu nghề truyền thống và sản phẩm

truyền thống, đan truyền thống tại địa phương để khắc sâu
ấn tượng về bài hát và liên hệ với cuộc sống thực tế.
- Kết thúc hoạt động, giáo viên có thể cho trẻ sử dụng


dụng cụ gõ, đêm hoặc cùng thể hiện lại bài hát để bồi
dưỡng thêm cảm xúc và kinh nghiệm tự động hoạt động
với âm nhạc.
b) Hoạt động hát
Nội dung
Lập kế hoạch

Cách tổ chức thực hiện
- Xác định mục tiêu: Tùy theo khả năng của trẻ và điều
kiện tổ chức hoạt động tại trường/lớp, giáo viên xác định
mục tiêu cho từng nhóm trẻ, từng độ tuổi:
+ Đối với trẻ 12 - 24 tháng tuổi, mục tiêu cần hướng đến
hình thành kỹ năng hát theo giáo viên từ cuối câu
hát; thích hát cùng cô và thư thái cảm xúc bằng các cơ
vận động, cử chỉ, nét mặt.
+ Đối với trẻ 24-36 tháng, mục tiêu hướng đến dạy trẻ
nhận biết, gọi tên bài hát, đơn giản bản nhạc, quen
thuộc; cảm nhận các thuộc tính của âm nhạc (cao độ,
cường độ, trường độ, âm sắc), nhịp độ; phát triển kỹ năng
hát: bắt đầu, hát đúng theo giai điệu và kết thúc bài
hát; thể hiện và hưởng ứng cảm xúc cùng với cô bằng
nhiều vận động khác nhau như nhảy, lắc lư, tay, lắc tay,
giậm chân ... theo nhịp điệu của bài hát. Với trẻ có ngơn
ngữ khả năng và hát tốt, giáo viên có thể nâng mục tiêu
để trẻ hát được bài hát quen thuộc.

- Lựa chọn nội dung, thức định hình, phương pháp hoạt
động:
Căn cứ vào mục tiêu, nội dung, phương tiện, thực tế điều
kiện tại trường, lớp, lựa chọn giáo viên và thiết kế nội
dung hoạt động, lựa chọn hình thức, phương pháp tổ chức
hoạt động dạy trẻ hát. Chẳng hạn:
+ Nội dung hoạt động có thể bao gồm dạy trẻ hát và kết
hợp với 1 nội dung khác như nghe hát hoặc vận động theo
nhạc hoặc trị chơi âm nhạc.
+ Hình thức tổ chức: Kết hợp các hình thức khác nhau.
Ví dụ: Khi dạy trẻ hát, giáo viên có thể chọn hình thức tập
luyện với từng cá nhân hoặc tập luyện các nhóm nhỏ có
cùng độ khơn/cùng độ tuổi hoặc cả lớp học.
+ Các phương pháp lựa chọn phù hợp với nội dung hoạt
động và khả năng của trẻ. Ví dụ: Với bài hát một số trẻ đã
biết, giáo viên có thể sử dụng phương pháp trải nghiệm


để khai thác kinh nghiệm thể hiện bài hát và dạy cho các
bạn khác chưa biết trong nhóm/lớp. Với những bài hát
mới, giáo viên có thể sử dụng phương pháp trực tiếp (hát
đối kháng), sử dụng lời giải thích hình ảnh, câu chữ, cách
hát…
Chuẩn bị các điều - Giáo viên luyện tập hát và múa, cử chỉ, hành động thể
kiện
hiện hình tượng, sắc thái cảm xúc của bài hát, bản nhạc
(nếu có).
- Chuẩn bị đủ số lượng đồ dùng, đồ chơi hoặc trang phục
cho cô và trẻ phù hợp, đáp ứng nội dung hoạt động. Giáo
viên có thể phối hợp với cha mẹ, cộng đồng để chuẩn bị

cho một số đồ dùng, công cụ cần thiết cho hoạt động như:
trang phục/nhạc cụ truyền thống hoặc sưu tập thêm
nguyên, hạt vật liệu, hạt, chai, lọ, ống tre làm nhạc cụ cho
trẻ.
- Xây dựng lớp học mơi trường lớp học/ góc âm nhạc với
hình ảnh, màu sắc hấp dẫn, đồ dùng đồ chơi, đồ vật
nguyên liệu tạo ra âm thanh tận dụng từ thực tế địa
phương cần đảm bảo an toàn, sắp xếp hấp dẫn và đầy đủ
để trẻ có cơ hội trải nghiệm với âm nhạc.
Tổ chức hoạt động
- Tổ chức hoạt động theo kế hoạch giáo dục: Dựa vào
mức độ hiểu biết và khả năng ngơn ngữ của trẻ/nhóm trẻ,
giáo viên sử dụng linh hoạt hình thức, phương pháp cho
trẻ trải nghiệm với cách hát và tự thể hiện bài hát theo
cách của mình.
+ Đối với các bài hát quen thuộc, trẻ đã được nghe ở địa
phương, giáo viên có thể huy động kinh nghiệm của trẻ,
luật trẻ có thể hiện bài hát và giúp trẻ đẹp hơn bằng
những người chỉ về cách lấy hơi, hát rõ chữ, luyện âm
cho trẻ. Đối với bài hát chưa biết, giáo viên có thể nghe
hát mẫu để trải nghiệm cách hát và dạy trẻ cách hát đúng
giai điệu theo cô. Tùy độ khôn và tính chất của bài hát,
giáo viên có thể tổ chức với hình thức tách-ghép các
nhóm:
- Khi hát mẫu cho trẻ nghe, giáo viên có thể sử dụng hình
thức với cả lớp hoặc nhóm lớn.
- Khi dạy trẻ hát, giáo viên có thể chia trẻ theo các nhóm
có độ khơn khác nhau để luyện tập.
+ Đối với nhóm trẻ đang tập nói, chưa hát trọn vẹn lời bài
hát, giáo viên hát cùng trẻ từ đầu đến hết bài hát, khuyến



khích trẻ hát cùng những người cuối cùng của câu hát, bài
hát.
+ Đối với nhóm trẻ lớn hơn, nói thành thạo, hát trọn vẹn
một bài hát, giáo viên tập cho từng nhóm hát cùng.
Khuyến khích nhóm trẻ hoặc cá nhân hát không thuộc
lời.
- Kết thúc hoạt động dạy hát, giáo viên có thể cho trẻ diễn
lại theo nhóm hoặc ghép các nhóm cùng biểu diễn. Giáo
viên cũng có thể hát cùng trẻ (nếu trẻ khơng thuộc),
khuyến khích trẻ có thể cảm thấy thích thú khi hát.
c) Hoạt động vận động theo nhạc
Nội dung
Lập kế hoạch

Cách tổ chức thực hiện
- Xác định mục tiêu: Tùy theo chức năng của trẻ và tổ
chức điều kiện hoạt động tại trường/lớp, giáo viên xác
định mục tiêu cho từng nhóm trẻ, từng độ tuổi:
+ Đối với trẻ 12 - 24 tháng tuổi, mục tiêu cần hướng đến
phát triển khả năng cảm ứng nhịp điệu và kỹ năng vận
động đơn giản theo phách, nhịp (lắc lư, đung đưa cơ thể,
nhẹ nhàng vổ tay, vẩy tay, giậm chân) và hưởng ứng cảm
xúc bằng thái độ, cử chỉ, nét mặt.
+ Đối với trẻ 24 - 36 tháng, mục tiêu hướng đến dạy trẻ
nhận biết, gọi tên bài hát, bản nhạc đơn giản, quen thuộc;
cảm nhận các thuộc tính của âm nhạc (cao độ, cường độ,
trường độ, âm sắc, nhịp độ); tập kỹ năng vận động theo
nhịp đập, nhịp điệu (lắc lư, đưa cơ thể, vẩy tay, giậm chân

...) và cảm xúc bằng thái độ, cử chỉ, nét mặt.
- Lựa chọn nội dung, hình thức, phương pháp hoạt động:
+ Căn cứ vào mục tiêu, nội dung, phương tiện, điều kiện
thực tế tại trường, lớp, hoạt động của trẻ, giáo viên và
thiết kế nội dung hoạt động, phương thức lựa chọn hình
thức, phương pháp tổ chức hoạt động vận động theo
nhạc.
+ Nội dung hoạt động có thể bao gồm vận động theo nhạc
và kết hợp với 1 nội dung khác như nghe hát, hát hoặc trị
chơi âm nhạc.
+ Hình thức tổ chức: Với bài hát, bản nhạc quen thuộc với
trẻ. Giáo viên có thể chọn các hình thức khác nhau như:
khi dạy trẻ hát, giáo viên có thể chọn tập luyện với từng


×