Tải bản đầy đủ (.docx) (52 trang)

Nghiên cứu giải pháp chính sách cho người dân bị thu hồi đất trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (547.77 KB, 52 trang )

MỞ ĐẦU

1. Tính cần thiết của đề tài
Đất đai có tầm quan trọng to lớn đối với người dân cả về phương diện nơi ở lẫn tư liệu sản xuất. Ở nước ta,
Hiến pháp sửa đổi, bổ sung năm 2013 quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân và ủy quyền cho Nhà nước quản lý, Nhà
nước giao cho người dân sử dụng. Từ khi chính thức giao đất cho người dân, Nhà nước ta đã tuyên bố bảo hộ quyền sử
dụng chính đáng về đất đai.
Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay để đáp ứng ngày càng lớn yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội theo hướng
cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước; hội nhập vào nền kinh tế quốc tế nhu cầu sử dụng đất đai càng nhiều hơn. Nhiều
dự án lớn đã, đang và sẽ đầu tư xây dựng chiếm đất ở và đất sản xuất của dân cư, bên cạnh đó là công tác quy hoạch, phát
triển các đô thị lớn tác động khá lớn đến việc sử dụng đất ở của dân cư.
Đơ thị ngày càng khẳng định vai trị động lực then chốt trong nền kinh tế với khoảng 55% dân số sống tại các
đô thị vào năm 2020.
Cùng với xu hướng đó của cả nước, thành phố Hồ Chí Minh đã chủ trương xây dựng đồng bộ các khu đô thị
mới nằm trong tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của cả nước; trong đó việc tiến hành thu hồi đất là điều không tránh
khỏi, thành phố Hồ Chí Minh chú trọng đầu tư hồn chỉnh 4 đô thị vệ tinh tại 4 hướng: Khu đô thị Đông (hay TP Đông)
gồm quận 2, 9 và Thủ Đức với diện tích 211 km 2 với trung tâm là khu đô thị mới Thủ Thiêm. Ở đây sẽ phát triển các
ngành dịch vụ cao cấp và công nghiệp kỹ thuật cao. Khu đô thị Nam (hay TP Nam) gồm quận 7, huyện Nhà Bè và một
phần diện tích quận 8 (phần phía nam kênh Tẻ) và huyện Bình Chánh với diện tích 194 km2. Ở đây sẽ phát triển dịch vụ
cảng, gắn liền với các dịch vụ thương mại khác. Khu đô thị Bắc (hay TP Bắc) gồm quận 12 và phần lớn huyện Hóc Mơn
với diện tích 149 km 2 sẽ phát triển dịch vụ, du lịch sinh thái, nông nghiệp kỹ thuật cao. Khu đô thị Tây (hay TP Tây) gồm
quận Bình Tân, một phần diện tích quận 8 và huyện Bình Chánh với diện tích 191 km 2. Đây là khu đô thị đầu mối giao
lưu kinh tế với đồng bằng Sông Cửu Long (Tá Lâm – Vietnamnet.vn).

1


Các khu đơ thị vệ tinh này hình thành và phát triển đã góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết việc
làm cho hàng ngàn lao động, phát triển các ngành cơng nghiệp cơng nghệ với trình độ chun mơn hố cao và dịch vụ
của thành phố. Ngoài những thuận lợi về mặt điều kiện tự nhiên, tài nguyên phong phú, kỹ thuật hiện đại, thành phố Hồ
Chí Minh cịn là vùng đơ thị lớn nhất ở Việt Nam hiện nay, là trung tâm văn hoá, đào tạo, y tế chất lượng cao, là vùng có


cảnh quan và mơi trường tốt đang trong q trình phát triển mạnh mẽ để hướng đến trở thành một trong những siêu đô thị
của châu Á. Hiện nay, với dân số hơn tám triệu người, Thành phố Hồ Chí Minh đang trong tình trạng quá tải, dự báo đến
năm 2025 Thành phố Hồ Chí Minh có mười triệu dân và là một siêu đô thị năng động tầm cỡ thế giới. Đối phó với nguy
cơ trên, trong định hướng phát triển đến năm 2025, thành phố xác định việc phát triển không gian đô thị sẽ theo hướng đa
tâm, phát triển các đô thị vệ tinh xung quanh để giảm áp lực dân số. Q trình kiến tạo lại mơi trường đơ thị ở thành phố
Hồ Chí Minh đã khơng chỉ tạo được môi trường sống, chất lượng sống tốt hơn mà còn đem lại niềm tin yêu, lòng tự hào
cho người dân thành phố đối với Đảng, Nhà nước và chính quyền thành phố. Theo đó, việc quy hoạch và xây dựng thành
phố trong tương lai đang trở thành tâm điểm của Đảng, chính quyền và người dân nơi đây.
Tuy nhiên, đằng sau bất kỳ một chính sách nào, dù thành công đến mấy cũng thường nảy sinh những vấn đề xã
hội nhất định. Điều này đòi hỏi các cấp, các ngành phải có cái nhìn tồn diện, hợp lý để tăng cường hiệu quả cho xã hội,
nâng cao đời sống và sự hài lòng của người dân, đảm bảo sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững.
Theo số liệu của Bộ Nông Nghiệp và Phát triển nông thơn, “mỗi năm bình qn có 73 nghìn ha đất nông nghiệp
được thu hồi, đã tác động đến đời sống 2,5 triệu người dân và cứ trung bình 01 ha đất bị thu hồi có 10 người mất việc”
(Nguyễn Quốc Nghi và cộng sự (2012)). Thành phố Hồ Chí Minh cũng ở vào tình trạng như vậy, với 28 dự án tại 04 khu
đô thị mới được quy hoạch, mở rộng và xây dựng, diện tích đất của người dân bị hu hồi là 1.722 ha, trong đó phần lớn là
đất nông nghiệp và đất ở vùng ven đô (Nghị quyết 09/2018/NQ-HĐND ngày 12/7/2018), hàng chục nghìn hộ dân được
di dời đến các khu tái định cư (TĐC) mới. Trên nhiều mặt, đời sống của dân cư trong các khu vực này được cải thiện rõ
rệt. Cơ sở hạ tầng (điện, đường, hệ thống cấp thốt nước, vệ sinh mơi trường...) được nâng cấp đạt tiêu chuẩn đô thị bậc
cao. Nhưng một bộ phận dân cư vẫn còn băn khoăn về khả năng tìm việc làm, tạo thu nhập đảm bảo mức sống của dân
cư thời “hậu tái định cư”, đặc biệt là đối với nhóm cư dân nghèo. Vì vậy, ở một số nơi, người dân chưa thích nghi được
với mơi trường sống mới hoặc chưa tìm được việc làm ổn định, sinh tâm lý thiếu an tâm. Mức sống ở một bộ phận dân
cư chưa ổn định nhất là số người làm các nghề tự do đang cần tiếp tục hỗ trợ để tìm hướng giải quyết. Trong những năm
tới, thành phố Hồ Chí Minh cịn tiếp tục chỉnh trang đơ thì và sẽ phải di dời, giải toả hàng nghìn hộ gia đình. Do vậy tìm hiểu,
phân tích, đánh giá chính sách đền bù, hỗ trợ tái định cư và những vấn đề sau TĐC là việc rất cần làm. Đây là yêu cầu cấp
thiết giúp lãnh đạo thành phố hoạch định và thực hiện những chính sách phù hợp nhằm phát triển sản xuất, ổn định đời sống,
tạo tâm lý an tâm cho cộng đồng dân cư đã, đang và sẽ phải di dời, giải toả ở thành phố Hồ Chí Minh. Chính vì vậy, học viên
đề xuất đề tài “Nghiên cứu giải pháp chính sách cho người dân bị thu hồi đất trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh” là
luận văn thạc sĩ xã hội học.

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài

Trên thế giới, mơ hình quy hoạch phát triển đơ thị được hình thành như một kênh hữu hiệu cho việc thu hút vốn đầu
tư, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Một số nghiên cứu đã được thực hiện để đánh giá tác động của quy hoạch phát
triển đô thị đến sự phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là tác động đến đối tượng thu nhập thấp như nghiên cứu của Tom Berge
chia sẻ: “Giống như nhiều thành phố trên thế giới, chúng tôi cũng gặp phải khó khăn chung trong quy hoạch đơ thị như phải
giải quyết các câu chuyện về mật độ số đông đảm bảo giá nhà hợp lý, không gian xanh Trong khi đó, Remigio Ramirez cho
biết
“Ở Philippines, quy hoạch cần tham khảo ý kiến người dân để có chiến lược phù hợp”. Harry Yeo chia sẻ: “quy hoạch đơ thị
có vai trị rất quan trọng. Chúng tơi cũng phát triển nhiều dự án nhà ở xã hội để người dân có thể dễ dàng tiếp cận với nhà ở”.
Soichrio Takamine cho rằng“Bối cảnh xã hội cũng đã thay đổi nhiều nên quy hoạch đô thị cũng phải phát triển theo, phải đảm
bảo hài hòa giữa phát triển xã hội và phát triển đơ thị” và trong q trình quy hoạch, Nhật Bản cũng đề cao thúc đẩy các hình
thức mới giúp người dân có cuộc sống thoải mái hơn. (Nhất Nam, Tạp chí bất động sản)

2


Tại Việt Nam cũng có những nghiên cứu liên quan trên các phương diện khác nhau về di dời, giải tỏa và TĐC.
Nghiên cứu cơ sở pháp lý của chính sách, thực trạng và hạn chế của chính sách như: “Tái định cư trong các dự án phát triển:
chính sách và thực tiễn” (Phạm Mộng Hoa và Lâm Mai Lan, 2000). Trong cơng trình này, các tác giả đã tập trung xem xét nội
dung của các Nghị định, Thông tư quy định về mặt pháp lý đối với việc đền bù, giải tỏa và trách nhiệm của Nhà nước đối với
người bị giải tỏa; đồng thời chỉ ra những khiếm khuyết và hạn chế của chính sách hiện hành trên cơ sở so sánh sự khác biệt
giữa chính sách TĐC của Việt Nam với chính sách TĐC của các tổ chức quốc tế. Ngoài ra, các tác giả cũng đề xuất, kiến nghị,
bổ sung và điều chỉnh những chính sách hiện hành, đáp ứng và phù hợp với yêu cầu thực tiễn.
Trong cơng trình nghiên cứu “Tình hình thực hiện chính sách đền bù, TĐC và khơi phục cuộc sống cho những người
bị ảnh hưởng bởi các dự án đầu tư phát triển tại các đô thị và khu công nghiệp” (Trần Xuân Quang, 1997), tác giả đã khá thành
công trong việc đưa ra những đánh giá có tính khái qt về tình hình thực hiện các chính sách đền bù, TĐC cho những người dân
bị ảnh hưởng bởi các dự án phát triển tại Hà Nội.
Một số nghiên cứu được thực hiện theo hướng xây dựng chiến lược sinh kế cho người dân bị mất đất trong q
trình đơ thị hóa như: “Chính sách di dân châu Á” (Dự án VIE/95/2004 1998). Trong cơng trình này đã có nhiều bài viết
đề cập ở những gócđộ khác nhau của việc di dời, giải toả, di dân TĐC. Cụ thể trong bài viết “Chính sách tái định cư do
kết quả của sự phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt Nam” (từ trang 180-195), tác giả Trương Thị Ngọc Lan bàn đến thực trạng

công tác TĐC hiện nay ở nước ta và tập trung trình bày những nội dung chính của các văn bản pháp lý liên quan đến đền
bù và TĐC. Nguyễn Thiện Trưởng (2004) “Dân số và phát triển bền vững ở Việt Nam”, Đặng Nguyên Anh (2002) nghiên
cứu về “Phân bố dân số ở Việt Nam: đặc trưng, xu thế và định hướng chính sách”, “Di dân và đơ thị hố”, “Một số vấn đề
xã hội học hàng đầu của việc cải tạo - chỉnh trang đô thị (CTĐT): giảm tổn thương cho nhóm dân cư nghèo nhất” của
Nguyễn Quang Vinh (2001). Đây là một nghiên cứu Xã hội học về sự ảnh hưởng của các dự án cải tạo - CTĐT đến việc
làm và mức sống của nhóm dân cư nghèo ở TP. Hồ Chí Minh. Cách tiếp cận của tác giả đã gợi mở ra những hướng
nghiên cứu rất bổ ích về đề tài biến đổi mức sống của nhóm dân cư bị ảnh hưởng bởi q trình đơ thị hố. Nghiên cứu
này đã xác định tình trạng thu nhập của hộ gia đình sau khi mất đất, tình trạng việc làm của người dân, phân tích các nhân
tố ảnh hưởng đến sinh kế của người dân bị mất đất. Những nhân tố được lựa chọn để phân tích có điểm tương đồng khá
lớn giữa các nghiên cứu này như: trình độ học vấn, số lượng lao động, giới tính chủ hộ, tham gia vào các tổ chức xã hội
của các thành viên trong hộ gia đình, khả năng tiếp cận nguồn tín dụng...
Các nghiên cứu ảnh hưởng của q trình đơ thị hố, quy hoạch giải toả đến sinh kế người dân không chỉ dừng
lại ở việc đánh giá ảnh hưởng của người dân bị mất đất, mà còn xác định sự chuyển dịch cơ cấu thu nhập, việc làm của
người dân bị mất đất – đối tượng ảnh hưởng trực tiếp của quá trình đơ thị hố. Thực tế cho thấy, quy hoạch phát triển đô
thị mới tác động đến mọi mặt đời sống tinh thần, đời sống vật chất của người dân bị mất đất được bố trí tái định cư và
những người dân sống xung quanh khu vực tái định cư – những người không trực tiếp mất đất do bị thu hồi.
Theo tác giả Nguyễn Trọng Hòa, quy hoạch và quản lý đơ thị ở nước ta vẫn cịn bị ảnh hưởng của cơ chế bao
cấp, thiết kế tĩnh, thiếu linh hoạt theo hướng sự thay đổi của thị trường. Rất nhiều vấn đề nảy sinh với đối tượng người tái
định cư thuộc diện giải tỏa. Từ những vấn đề phát sinh trong việc triển khai thực hiện các chính sách, hệlụy liên quan đến
xã hội là rất lớn, kéo theo sự phát triển trì trệ và ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của người dân, sự phát triển chung
của Thành phố.
Có thể nhận định rằng, ở Việt Nam, nghiên cứu về TĐC chủ yếu tiếp cận trên phương diện cơ sở pháp lý, tức
là quan tâm xem xét các cơ chế chính sách hiện hành về giải tỏa đền bù, trong khi đó cịn ít các nghiên cứu về thực trạng
biến đổi mức sống của nhóm cư dân sau TĐC. Đến nay vẫn chưa có nghiên cứu đánh giá toàn diện và sâu sắc về sự biến
đổi mức sống của nhóm cư dân sau TĐC ở Việt Nam nói chung và ở thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.
Do đó, nghiên cứu những vấn đề giải pháp của chính sách cho những người tái định cư (hậu tái định cư) tại
Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay có tính cấp thiết và có ý nghĩa chính sách. Nghiên cứu này cho phép nhận diện các yếu
tố bao gồm cả yếu tố “truyền thống” và “hiện đại” thuộc quy hoạch phát triển đơ thị có ảnh hưởng đến đời sống của
người dân. Đồng thời, nghiên cứu cũng sẽ góp phần bổ sung, hồn chỉnh các giải pháp chính sách cho người dân bị thu


3


hồi đất trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, góp phần thúc đẩy sự phát triển của Thành phố với đặc điểm đa dạng về dân
số, văn hóa và đời sống dân cư hiện nay.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu nhằm đề xuất các giải pháp bổ sung, hồn thiện chính sách quy hoạch giải toả, bố trí tái định cư
cho đối tượng người dân bị thu hồi đất tại Thành phố Hồ Chí Minh. Góp phần hạn chế những tác động không mong muốn
của công tác thu hồi đất đối với đối tượng khó khăn, thu nhập thấp.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên
4.1

cứu

Đối tượng nghiên cứu
Những nội dung, cách triển khai, tổ chức thực hiện chính sách đối với những hộ dân tái định cư thuộc diện giải

tỏa trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
Khách thể nghiên cứu:

- Hộ dân sau tái định cư đang sinh sống tại chung cư Tân Mỹ, phường Tân Phú, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Hộ dân sống xung quanh chung cư Tân Mỹ bị ảnh hưởng do cơng tác bố trí tái định cư.
- Cán bộ quản lý nhà nước thuộc Phịng Quản lý đơ thị quận 7, Ủy ban nhân dân phường Tân Phú.
Thông qua việc tìm hiểu thực trạng cuộc sống các hộ gia đình thuộc diện giải toả tại phường Tân Phú, Quận 7,
Thành phố Hồ Chí Minh, có thể đánh giá được hiệu quả của chính sách thu hồi đất.

4.2 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: nghiên cứu thực hiện trên địa bàn phường Tân Phú, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Phạm vi thời gian: Đề tài nghiên cứu được tiến hành từ 04/2017 đến 27/02/2019, trong đó khoảng thời gian tiến hành thu
thập thơng tin tại thực địa từ 15/10/2018 đến ngày 15/01/2019 và báo cáo số liệu 2010-2015, báo cáo số liệu 2015- 2018
sẵn có của phường Tân Phú, quận 7, thành phố Hồ Chí Minh, Cục Thống kê, Tổng cục Thống kê, và báo cáo, số liệu sẵn
có của một số phường, quận có đặc điểm tương quan để tham khảo, bổ sung làm rõ vấn đề nghiên cứu.

- Phạm vi nội dung: Trong dài hạn khi thực hiện quy hoạch phát triển đô thị có thu hồi đất ở và thực hiện chính sách đền bù
giải toả, hỗ trợ bố trí tái định cư phải đảm bảo tính bền vững, vì vậy, trong phạm vi nghiên cứu này tác giả có sử dụng
khung phân tích sinh kế bền vững để đánh giá ảnh hưởng của chính sách thu hồi đất đến các mặt đời sống người dân phù
hợp với mục tiêu phát triển bền vững.

5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Câu hỏi nghiên cứu:
Đời sống người tái định cư thuộc diện giải tỏa đang sinh sống trên địa bàn Phường Tân Phú, Quận 7, Thành
phố Hồ Chí Minh hiện nay như thế nào?
Chính sách thu hồi đất, đền bù giải toả, bố trí tái định cư có tác động như thế nào đến đời sống của người dân
tái định cư và mức độ hài lịng của họ?
Cần có những giải pháp gì để phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế tác động khơng mong muốn của chính sách
thu hồi đất, nhất là cho đối tượng khó khăn, thu nhập thấp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn hiện nay?

5.2. Giả thuyết nghiên cứu:
Đời sống người tái định cư thuộc diện giải tỏa đang sinh sống trên địa bàn Phường Tân Phú, Quận 7, Thành
phố Hồ Chí Minh hiện nay cịn gặp khó khăn.
Chính sách cho người tái định cư thuộc diện giải tỏa trên địa bàn Phường Tân Phú, Quận 7, Thành phố Hồ Chí
Minh hiện nay vẫn cịn nhiều bất cập, chưa phù hợp với thực tiễn và đáp ứng nhu cầu của người dân.

4


Cần có những giải pháp đồng bộ và khả thi nhằm hỗ trợ hiệu quả cho người dân sau khi bị thu hồi đất, nhất là
cho đối tượng khó khăn, thu nhập thấp trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn hiện nay.


5.3. Cách tiếp cận:
Trong tập hợp các vấn đề xã hội cơ bản của thành phố Hồ Chí Minh trên con đường đẩy mạnh thực hiện cơng
nghiệp hóa và hiện đại hóa, vai trị của các trung tâm đơ thị ngày càng trở nên có tầm quan trọng đặc biệt. Rõ ràng là
công cuộc đổi mới toàn diện về mặt kinh tế - xã hội đã tiếp thêm sinh lực cho hệ thống kinh tế các đô thị, khiến cho bản
thân các kết cấu vật lý hiện tại của thành phố trở nên chật chọi. Trong bối cảnh đó, quan điểm quy hoạch đơ thị mới là
điều tất yếu, theo đó “Một cuộc sắp xếp lại cách thức tổ chức cuộc sống xã hội” khi các cơ cấu vật lý bị uốn nắn lại,
người dân đã và đang chứng kiến nhiều hệ quả kinh tế, xã hội, văn hóa hết sức tốt đẹp trong q trình cải tạo – chỉnh
trang. Song, một mặt khác, việc cải tạo – chỉnh trang (quy hoạch đô thị) cũng bao hàm trong lịng nó chững rủi ro mới,
những xáo trộn mới đối với cuộc sống của các nhóm dân cư chịu tác động trực tiếp, đặc biệt là đối với nhóm dân nghèo
sống tại các khu lụp xụp bị giải tỏa vì mục tiêu cải tạo – chỉnh trang đơ thị. Và tùy theo trình độ quản lý, nắm bắt và xử lý
đúng đắn các vấn đề xã hội nảy sinh có thể đạt tới đâu, mà cái giá phải trả về mặt xã hội của cư dân sẽ là cao hay thấp.
Đây cũng chính là vấn đề xã hội mà các nhà xã hội học đô thị ở nước ta rất quan tâm. Kế thừa những nghiên cứu trên,
trong luận văn này, tác giả tập trung khảo sát, phân tích, đánh giá hiệu quả giải pháp chính sách cho người dân sau tái
định cư nhằm rút ngắn khoảng cách, tiến tới hóa giải các mẫu thuẫn và vượt qua các khó khăn nảy sinh trong q trình đơ
thị hóa.

5.4. Khung phân tích:
Khung phân tích sinh kế là một cơng cụ được xây dựng nhằm xem xét những
yếu tố khác nhau ảnh hưởng đến sinh kế của con người, đặc biệt là những yếu tố gây khó khăn hoặc tạo cơ hội trong
sinh kế. Đồng thời, khung sinh kế cũng nhằm mục đích tìm hiểu xem những yếu tố này liên quan với nhau như thế nào
trong những bối cảnh cụ thể. DFID đã đưa ra khung sinh kế bền vững với các thành phần như sau:
Khung phân tích sinh kế bền vững

H: Nguồn nhân lực

Tính tổn thương sinh kế
Chính sách, thủ tục từ các cơ quan S: Nguồn
lực xã hội


N: Nguồn
Các nguồn lực
sinh kế

P: Nguồn lực
vật chất

lực tự nhiên

F: Nguồn lực
tài chính
chiến lược sinh kế

Kết quả sinh kế:
Thay đổi thu nhập, thay đổi phúc lợi xã hội,…
Nguồn: Điều chỉnh của tác giả dựa trên Khung phân tích sinh kế bền vững của DFID, 1999
Tác giả sử dụng khung phân tích sinh kế bền vững của DFID (1999) và kế thừa các nghiên cứu trước đó có liên
quan đến nghiên cứu để điều chỉnh khung phân tích cho phù hợp với nội dung nghiên cứu của tác giả. Cụ thể, khi quy
hoạch phát triển đô thị, đất ở bị thu hồi, bố trí tái định cư, các hộ gia đình chịu sự tác động mạnh mẽ của lực hút (thu nhập

5


cao, việc làm trong các công ty, KCX, KCN, môi trường sống trong các khu đô thị mới...) và lực đẩy (thiếu việc làm, thu
nhập thấp, gánh nặng gia đình, văn hoá ứng xử...), (Lê Duy Phong (2007), Trần Quang Tuyên (2013). Bên cạnh đó là sự
tác động của các chính sách, các thủ tục hỗ trợ của chính quyền địa phương, của nhà nước...Chính những sự tác động này
có ảnh hưởng đến sinh kế của các hộ dân. Cụ thể các thành tố trong khung phân tích sinh kế bền vững như sau:
* Khả năng dễ bị tổn thương:
“Khả năng dễ bị tổn thương là mơi trường bên ngồi mà trong mơi trường đósinh kế con người và các tài sản sẵn có của họ bị
ảnh hưởng cơ bản, vừa tích cực vừa tiêu cực, bởi những xu hướng, sự thay đổi đột ngột hoặc tính mùa vụ - mà họ hạn chế

được hoặc khơng thể nào kiểm sốt được”
Các yếu tố trong hoàn cảnh dễ bị tổn thương:
+ Xu hướng: “Xu hướng dân số, xu hướng tài nguyên kể cả xung đột trong việc sử dụng, xu hướng kinh tế
trong nước và thế giới, những xu hướng cai trị (bao gồm chính sách, những xu hướng kỹ thuật)”
+ Các cú sốc: “Thay đổi về sức khỏe con người, thay đổi tự nhiên, thay đổi kinh tế, xung đột, thay đổi về sức
khỏe vật ni, cây trồng”
+ Tính thời vụ: “biến động giá cả, sản xuất, sức khỏe, những cơ hội việc làm” “Những nhân tố cấu thành hoàn
cảnh dễ bị tổn thương quan trọng vì chúng có
tác động trực tiếp lên tình trạng các nguồn lực và những lựa chọn của con người mà với chúng sẽ mở ra cơ hội để họ theo
đuổi những kết quả sinh kế có lợi”
* Nguồn lực sinh kế
Bao gồm: Nguồn nhân lực (H), nguồn lực xã hội (S), nguồn lực tự nhiên (N), nguồn lực vật chất (P) và nguồn
lực tài chính (F). Ngồi ra, gần đây quốc tế cịn bổ sung nguồn lực tâm linh (phong thủy, cầu cúng, lễ bái,…), tuy nhiên
trong nghiên cứu này tác giả không đề cập đến nguồn lực này.
Nguồn nhân lực: “Đây là nhân tố quan trọng nhất, Nguồn nhân lực thể hiện kỹ năng, kiến thức, năng lực để lao
động và cùng với sức khỏe tốt giúp con người theo đuổi những chiến lược sinh kế khác nhau và đạt được mục tiêu sinh kế của
mình. Ở mức hộ gia đình thì nguồn lực con người là yếu tố về số lượng và chất lượng lao động sẵn có; yếu tố này thay đổi tùy
theo số lượng người trong hộ, kỹ năng lao động, khả năng lãnh đạo, tình trạng sức khỏe”, v.v…
“Nguồn nhân lực được nâng cao bởi đầu tư trong giáo dục và huấn luyện cũng như được nâng cao bởi những
kỹ năng được yêu cầu thông qua việc theo đuổi một hoặc nhiều nghề nghiệp”.
Nguồn lực xã hội: “Có nhiều tranh luận về khái niệm nguồn lực xã hội nhưng theo DFID (1999), nguồn lực xã
hội là các tiềm lực xã hội mà con người đưa ra để theo đuổi các mục tiêu sinh kế của mình. Các mục tiêu sinh kế này
được phát triển thôngqua các mạng lưới, các mối liên hệ liên kết với nhau, tính đồn hội, hợp tác của các nhóm chính
thức; và mối quan hệ được thực hiện dựa trên sự tin tưởng, sự trao đổi, và ảnh hưởng lẫn nhau”.
Nguồn lực tự nhiên: “Nguồn lực tự nhiên là khái niệm dùng để chỉ về nguồn tài nguyên cung cấp các nguồn lực
và dịch vụ có ích cho sinh kế. Các yếu tố trong nguồn lực này rất đa dạng, bao gồm cả những hàng hóa vơ hình như
khơng khí, hệ sinh thái đến những tài sản hữu hình như đất, nước”…
Nguồn lực vật chất: “Bao gồm CSHT căn bản và các hàng hóa sản xuất cần thiết để hỗ trợ cho sinh kế người
dân (CSHT như là kênh rạch, đường sá, nhà ở, hệ thống cung cấp điện, nước, nhà vệ sinh, các phương tiện tiếp cận thông
tin để đáp ứng nhu cầu cơ bản của con người, các phương tiện sản xuất như là cơng cụ, máy móc và các phương tiện khác

giúp con người hoạt động với năng suất cao). Trong nguồn lực vật chất thì các nhân tố làm cho sinh kế của con người trở
nên đa dạng hơn là CSHT như đường sá, hệ thống cung cấp điện và nước”.
Nguồn lực tài chính: “Đây là yếu tố trung gian, có ý nghĩa quan trọng đối với việc sử dụng thành cơng hay
khơng các tài sản khác. Nguồn tài chính chủ yếu là tiền mặt và các khoản tài chính tương đương mà con người sử dụng
để đạt được mục tiêu sinh kế của mình”.

* Chiến lược sinh kế
6


“Chiến lược sinh kế là các kế hoạch làm việc lâu dài của người dân để kiếm sống. Nó thể hiện mức độ đa dạng
cũng như kết hợp nhiều hoạt động và lựa chọn mà con người tiến hành nhằm đạt được mục tiêu sinh kế của mình”.

* Kết quả sinh kế
“Kết quả sinh kế là những thay đổi có lợi cho sinh kế của cộng đồng do các chiến lược sinh kế mang lại, cụ thể
là thu nhập cao hơn, nhận được phúc lợi nhiều hơn, giảm rủi ro, đảm bảo cao hơn mức an toàn thực phẩm và sử dụng một
cách bền vững hơn nguồn tài nguyên thiên nhiên”.

5.5 Phương pháp thu thập dữ liệu
5.5.1 Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp:
Tác giả đã thiết kế bảng câu hỏi hộ gia đình để thu thập dữ liệu định lượng phục vụ cho nghiên cứu. Nội dung
của bảng câu hỏi bao gồm: đặc điểm hộ gia đình, nguồn lực, tài sản sinh kế của hộ gia đình, thu nhập của hộ gia đình. Chi
tiết bảng hỏi: Phụ lục 1 Xác định cỡ mẫu, trong quá trình nghiên cứu các vấn đề kinh tế - xã hội (KTXH), việc chọn mẫu đại diện và đủ lớn là rất quan trọng. Những nhân tố cần được xem xét để xác định được cỡ mẫu
chính xác cho một cuộc nghiên cứu như: Độ chính xác, chất lượng của số liệu, chi phí và thời gian cho việc thu thập số
liệu. Tác giả đã khảo sát 114 hộ là những gia đình đều khó khăn, thuộc diện hộ nghèo bị thu hồi đất và được bố trí tái
định cư hiện cịn đang sinh sống thực tế tại chung cư Tân Mỹ, Phường Tân Phú, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh.
Để có thể nghiên cứu tác động của chính sách đền bù hỗ trợ bố trí tái định cư đối với người dân, tác giả thực
hiện việc phân tích mức độ tác động của các nhân tố tới sinh kế, môi trường sống người dân, so sánh điều kiện hộ gia đình
trước và sau khi có hoạt động thu hồi đất và đền bù giải toả bố trí tái định cư. Tác giả sử dụng phương pháp phỏng vấn
trực tiếp để thu thập thơng tin về các hộ gia đình và kết hợp với phương pháp thu thập dữ liệu liên quan đến thu nhập, việc

làm, giáo dục, y tế, nhà ở của các hộ gia đình trên địa bàn phường, dữ liệu về các chính sách phục vụ cho nghiên cứu này.
* Phương pháp phỏng vấn sâu:
Phương pháp phỏng vấn sâu được tác giả thực hiện nhằm cung cấp những thông tin sâu để có thể lý giải được
các kết quả phân tích số liệu định lượng. Cụ thể, tác giả thực hiện phỏng vấn sâu 02 cán bộ quản lý nhà nước trong đó có:
01 cán bộ quản lý thuộc Uỷ ban nhân dân phường Tân Phú và 01 cán bộ Phịng Quản lý đơ thị Quận 7, hai cán bộ này trực
tiếp thực hiện các công tác liên quan đến chính sách thu hồi đất đền bù giải toả bố trí tái định cư trên địa bàn phường Tân
Phú, Quận 7, thành phố Hồ Chí Minh.
Đồng thời, tác giả cũng thực hiện phỏng vấn sâu 02 người dân: 01 người dân là người dân bị mất đất được bố
trí tái định cư do giải toả quy hoạch đô thị và 01 người dân không ổn định lâu năm xung quanh chung cư nhưng bị ảnh
hưởng gián tiếp bởi chung cư bố trí tái định cư.
Nội dung phỏng vấn sâu được thực hiện tập trung xem xét đánh giá ảnh hưởng của chính sách bố trí tái định cư
đến sinh kế và đời sống người dân, những nhận địnhcủa họ về mức độ ảnh hưởng của chính sách đến mơi trường, đến
việc làm, đến thu nhập, đến hệ thống điện, nước sạch... của người dân. Kết quả thu được giúp cho tác giả có góc nhìn đa
chiều hơn, bổ trợ hữu hiệu hơn cho kết quả phân tích định lượng về tác động của chính sách thu hồi đất đến đời sống sinh
kế của người dân.
* Phương pháp thảo luận nhóm tập trung:
Theo Nguyễn Văn Thắng (2014), thảo luận nhóm tập trung thường đươc áp dụng khi thu thập dữ liệu về cảm
xúc, ý kiến và quan điểm của một nhóm người liên quan đến vấn đề nghiên cứu. Dưới sự hướng dẫn của người điều khiển
- các đối tượng chia sẻ ý kiến, cảm xúc và phản ứng của họ về vấn đề nghiên cứu trong mơi trường nhóm.
Tác giả đã tiến hành thảo luận nhóm nam nữ trong độ tuổi lao động và nhóm nam nữ ngồi tuổi lao động, về
ảnh hưởng của chính sách đền bù bố trí tái định cư đến đời sống, sinh kế của người dân. Cụ thể, tác giả lựa chọn hai
nhóm đại diện cho hộ dân bị thu hồi đất. Tác giả muốn nhận được ý kiến của các thành viên tham gia thảo luận nhóm về
chính sách thu hồi đất, đền bù bố trí tái định cư có ảnh hưởng như thế nào tới thu nhập, việc làm, các dịch vụ mà hộ gia
đình được hưởng, chiến lược sinh kế mới của hộ gia đình. Những kiến nghị được người trong cuộc đề xuất sẽ góp phần

7


nhằm tăng cường hơn nữa sinh kế và khả năng thích ứng của các hộ dân. Các ý kiến, chia sẻ thảo luận của nhóm được ghi
chép đầy đủ và được lưu vào file dữ liệu theo từng chủ đề và đặc điểm cá nhân của người tham gia thảo luận.

Kết quả thảo luận nhóm sẽ giúp tác giả trong việc phân tích và có góc nhìn đa chiều hơn, bổ trợ hữu hiệu cho
kết quả phân tích định lượng về tác động của chính sách thu hồi đất đền bù bố trí tái định cư đến sinh kế và đời sống
người dân sau tái đinh cư.

5.5.2 Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp:
Số liệu thống kê về tình hình triển khai, tổ chức thực hiện chính sách thu hồi đất, đền bù bố trí tái định cư…
được tác giả thu thập từ Uỷ ban nhân dân phường Tân Phú, Phịng Quản lý đơ thị quận 7, Uỷ ban nhân dân quận 7.

5.6. Phương pháp phân tích số liệu:
Các số liệu sau khi thu thập bằng bảng hỏi được tác giả xử lý, làm sạch, nhập dữ liệu và mã hóa dữ liệu vào file
exel, sau đó tác giả sử dụng các mơ hình và phép tính tốn định lượng để xử lý số liệu. Nghiên cứu được thực hiện dưới
sự trợ giúp của phầnmềm SPSS 20.0; đồng thời sử dụng các thống kê mô tả và thống kê suy luận cùng với phân tích đồ
họa đơn giản nhằm tạo nền tảng cho phân tích số liệu định lượng. Có nhiều kỹ thuật được sử dụng trong thống kê mơ tả
như:



Biểu diễn dữ liệu bằng đồ họa trong đó các đồ thị mô tả dữ liệu hoặc giúp so sánh dữ liệu.



Biểu diễn dữ liệu thành các bảng số liệu.



Thống kê tóm tắt (dạng các giá trị thống kê đơn nhất).

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận của luận văn:
Luận văn là một đóng góp mới cho các nghiên cứu liên quan đến xã hội học đơ thị, chính sách xã hội của

Thành phố Hồ Chí Minh, trong đó chú trọng đối tượng là người tái định cư thuộc diện giải tỏa trên địa bàn Thành phố.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Nghiên cứu góp phần đánh giá thực trạng đời sống và quá trình triển khai, thực hiện các chính sách đối với
người tái định cư thuộc diện giải tỏa trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.Nghiên cứu đề xuất các giải pháp phù hợp trong
việc triển khai, hồn thiện các chính sách cho người tái định cư thuộc diện giải tỏa đang sinh sống trên địa bàn thành phố
nói riêng và các đơ thị lớn nói chung.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn bao gồm 03 chương: Chương 1: Cơ sở lý
luận vấn đề nghiên cứu.
Chương 2: Các chính sách và thực trạng của chính sách tác động đến người dân sau tái định cư.
Chương 3: Một số định hướng, giải pháp của vấn đề nghiên cứu.

8


Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU.

1.1. Các khái niệm cơ bản:
1.1.1 Chính sách:
Các chính sách có thể được đề ra và thực hiện ở những tầng nấc khác nhau, từ các tổ chức quốc tế đến từng
quốc gia, từ nhà nước đến các đơn vị, tổ chức chính trị xã hội, doanh nghiệp,..nhằm giải quyết những vấn đề đặt ra cho
mỗi tổ chức đó và chúng chỉ có hiệu lực thi hành trong tổ chức đó.
Từ điển bách khoa Việt Nam đã đưa ra khái niệm về chính sách như sau: “Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể
để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể
nào đó. Bản chất, nội dung và phương hướng của chính sách tùy thuộc vào tính chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị,
kinh tế, văn hóa…”
Theo James Anderson: “Chính sách là một q trình hành động có mục đích theo đuổi bởi một hoặc nhiều chủ thể

trong việc giải quyết các vấn đề mà họ quan tâm”.
Như vậy, có thể hiểu: Chính sách là chương trình hành động do các nhà lãnh đạo hay nhà quản lý đề ra để giải
quyết một vấn đề nào đó thuộc phạm vi thẩm quyền của mình.

1.1.2 Thu hồi đất:
Theo Khoản 11 Điều 3 Luật Đất đai 2013, Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà nước quyết định thu lại quyền sử
dụng đất của người được Nhà nước trao quyền sử dụng đất hoặc thu lại đất của người sử dụng đất vi phạm pháp luật về
đất đai.

1.1.3 Giải toả:
Cũng như khái niệm đền bù, TĐC, khái niệm giải toả được sử dụng phổ biến trong các Nghị định, Quyết định,
Thơng tư của Chính phủ, của các bộ ngành và địa phương nhằm quy định trách nhiệm của Nhà nước, của các chủ dự án
cũng như quyền lợi và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân trong diện bị ảnh hưởng bởi các dự án an ninh, quốc phòng,
kinh tế - xã hội...
Theo nghĩa gốc, giải toả là sự từ bỏ, làm cho nó thốt khỏi [43, tr.726].
Khái niệm giải toả được đề cập đến trong nghiên cứu này chính là nói đến việc phá, dỡ những kết cấu cũ đang
trở thành những chướng ngại để giải phóng mặt bằng, tạo điều kiện cho việc triển khai các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng,
phát triển kinh tế - xã hội nào đó.

1.1.4 Đền bù:
“Đền bù: Trả lại tương xứng với giá trị hoặc công lao” [43, tr.623]; hay Đền bù: “Trả lại đầy đủ, tương xứng
với sự mất mát hoặc sự vất vả” [41, tr.300].
Như vậy, theo nghĩa chung nhất, đền bù là việc thay thế các tài sản bị mất bằng hiện vật hoặc bằng tiền.
Với hàm nghĩa nói trên, khái niệm đền bù (hay bồi thường) thường được sử dụng trong các văn bản luật để quy
định trách nhiệm bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào các mục đích an ninh, quốc phịng hay phát triển
kinh tế - xã hội nói chung.
Thành phố Hồ Chí Minh, trong những năm qua, chính quyền thành phố đã thường xuyên tiến hành đền bù, giải
phóng mặt bằng nhằm thực hiện các dự án quy hoạch phát triển đô thị. Phương thức đền bù được Thành phố Hồ Chí
Minh vận dụng trong việc giải phóng mặt bằng là hồn trả bằng tiền khi người dân bị mất đất và bị hư hại các tài sản
khác. Người dân trong diện giải toả được đền bù bằng tiền và được quyền ưu tiên mua lại đất theo khung giá mà thành

phố quy định cho các khu quy hoạch, và mới nhất là được bố trí tạm tại các khu vực tái định cư (tức là các khu dành cho
TĐC).


1.1.5 Tái định cư:
- Theo nghĩa rộng, “Tái định cư là một quá trình bao gồm đền bù các thiệt hại về đất đai và tài sản di chuyển, TĐC, ổn định và
khôi phục cuộc sống cho những người bị thu hồi đất để xây dựng các dự án. Tái định cư còn bao gồm các hoạt động nhằm hỗ
trợ cho những người bị ảnh hưởng do việc thực hiện các dự án gây ra, khôi phục và cải thiện mức sống, tạo điều kiện phát triển
các cơ sở sản xuất kinh tế, văn hoá, xã hội của hộ và cộng đồng” [16, tr.193-194].
Như vậy, TĐC là một quá trình bao hàm từ việc đền bù (bồi thường) cho các thiệt hại về tài sản và ổn định cuộc
sống bị xáo trộn do dự án phát triển gây ra. Đây là quá trình giúp người dân di chuyển và hỗ trợ họ tạo lập lại nơi ở mới,
khôi phục cuộcsống và đảm bảo tăng nguồn thu nhập của họ.

- Theo nghĩa hẹp, TĐC được dùng chỉ sự di chuyển của các hộ gia đình tới định cư ở nơi ở mới.
Peter R.Burbridge cũng cho rằng “Tái định cư là chỉ việc lập cư của các cá nhân, các nhóm hộ gia đình hoặc
tồn bộ một làng, một xã” [3, tr.13].
Đây là cách hiểu thông thường trong đời sống xã hội, song khái niệm TĐC theo quan niệm này chỉ có hàm
nghĩa chỉ nơi cư trú mới mà người dân di dời đến, tức là chỉ nói tới hình thức lập cư mà chưa chú trọng đến q trình lập
cư đó.
Trong khuôn khổ luận văn, tác giả vừa sử dụng khái niệm TĐC theo nghĩa hẹp để xác định không gian nghiên
cứu, vừa đồng thời và chủ yếu sử dụng khái niệm TĐC theo nghĩa rộng tức là quan tâm đến đối tượng TĐC là những cá
nhân, hộ gia đình bị ảnh hưởng bởi các dự án quy hoạch, xây dựng cơ sở hạ tầng, chỉnh trang đô thị với tất cả những yếu
tố có liên quan như: đền bù, hỗ trợ di dời và điều kiện sinh sống tại các khu TĐC của thành phố.

1.1.6

Sinh kế:
“Kết quả của sinh kế là những thay đổi có lợi cho đời sống KT-XH của cộng đồng. Nhờ các chiến lược sinh kế

mang lại cụ thể là thu nhập cao hơn, nâng cao đời sống văn hoá, tinh thần, cuộc sống ổn định hơn, giảm rủi ro, đảm bảo

tốt hơn an toàn lương thực và sử dụng bền vững hơn nguồn tài nguyên thiên nhiên”
Theo DFID (1999), “Một sinh kế có thể được miêu tả như là sự tập hợp các nguồn lực và khả năng con người
có được kết hợp với những quyết định và hoạt động mà họ thực thi nhằm để kiếm sống cũng như để đạt được các mục
tiêu và ước nguyện của họ”.
Theo quan điểm của tác giả: Sinh kế bao gồm năng lực tiềm tàng, các nguồn lực, các tài sản và các hoạt động
được sử dụng để làm phương tiện giúp con người đảm bảo cuộc sống.

1.1.7

Sinh kế bền vững:
Theo Chambers và Conway (1992) cho rằng “Một sinh kế được xem là bền vững khi nó có thể đối phó và vượt

qua những căng thẳng, những cú sốc; duy trì hoặc tăng cường hơn nữa năng lực tiềm tàng và các nguồn tài sản ở hiện tại
cũng như tươnglai trong khi không làm phá hoại nguồn tài nguyên thiên nhiên (Trích dẫn bởi DFID, 1999). Hơn nữa
cũng theo Chambers và Conway (1992) sinh kế bền vững thúc đẩy sự hòa hợp giữa hiện tại và tương lai và mang lại
những điều tốt đẹp cho các thế hệ mai sau (Trích dẫn bởi Dự án Imola, 2006)”.
Đối tượng của cách tiếp cận sinh kế bền vững:
“Bộ phát triển quốc tế Anh (DFID) là tổ chức đầu tiên đề xuất tiếp cận sinh kế bền vững, đối tượng của cách
tiếp cận này” là:
“Sự hiểu biết hiện thực hơn về sinh kế của người nghèo và yếu tố hình thành nên chúng”
“Xây dựng mơi trường chính sách và thể chế hỗ trợ sinh kế của người nghèo” “Hỗ trợ phát triển dựa trên thế
mạnh của người nghèo và cung cấp cho họ cơ hội
để cải thiện sinh kế”

1.1.8

Tác động:


Tác động là làm cho sự vật, đối tượng nào đó có những biến đổi nhất định [45, tr.235] hay Tác động là gây ra

sự biến đổi nào đó cho sự vật được hành động hướng tới [43, tr.638]
* Tác động của chính sách đền bù bố trí tái định cư đến sinh kế người dân theo kênh:
Về bản chất, tác động của hành động tới một sự vật, hiện tượng là ảnh hưởng của hành động tới sự vật, hiện
tượng đó, gây ra những biến đổi nhất định cho sự vật, hiện tượng được hành động hướng tới. Tác động giữa chính sách
đền bù bố trí tái định cư và sinh kế người dân chính là những ảnh hưởng của hoạt động chính sách đền bù với khách thể
là bố trí tái định cư tới sinh kế của người dân, dẫn đến những thay đổi trong sinh kế người dân sống xung quanh các
chung cư tái định cư.
Đối tượng người dân được nghiên cứu hướng tới bao gồm cả người dân tái định cư bị mất đất do quy hoạch
phát triển đô thị và người dân không bị mất đất. Riêng những người dân không bị mất đất nghiên cứu lựa chọn đảm bảo
phải sống ổn định lâu năm xung quanh chung cư bố trí tái định cư và chịu sự tác động bao gồm cả những tác động tích
cực và tác động tiêu cực của các chung cư bố trí tái định cư.
Thực tế cho thấy, chính sách quy hoạch đơ thị, thu hồi đất, bố trí tái định cư đã tạo ra những thay đổi đáng kể
trên tất cả các phương diện về kinh tế, xã hội, và môitrường xung quanh các chung cư được xây dựng. Khi chưa có các
chung cư tái định cư, các khu vực, các địa phương và bản thân các quốc gia cũng có những thay đổi trên tất cả các
phương diện đó, tuy nhiên mức độ và tốc độ thay đổi là tương đối có phần chậm hơn. Khi có các chung cư tái định cư
được xây dựng, nó như chất xúc tác góp phần làm các q trình thay đổi đó được diễn ra nhanh hơn, hoặc cũng có thể nó
tác động làm thay đổi các chiều hướng biến động của các hoạt động, ví dụ như sự chuyển dịch cơ cấu dân số, cơ cấu kinh
tế của các địa phương diễn ra nhah hơn như một tất yếu khách quan; đặc biệt là sự suy thối về mơi trường đang là xu
hướng phổ biến ở đơ thị.
Mặt khác, chính sách đền bù bố trí tái định cư có ảnh hưởng đến sinh kế người dân, cụ thể thang đo được lựa
chọn phân tích chính là thu nhập, nó có ảnh hưởng theo cả hai chiều tới thu nhập của người dân. Chính sách đền bù bố trí tái
định cư chính sách có thể làm giảm thu nhập của các hộ dân bị mất đất, cũng như ảnh hưởng tới thu nhập của các hộ dân
sống xung quanh các chung cư tái định cư (nguyên nhân là do rác thải, nước thải, khí thải,... của chung cư có ảnh hưởng đến
môi trường sống tự nhiên của người dân...), bên cạnh đó, những hộ gia đình bị thu hồi đất chưa kịp thích nghi với cuộc sống
mới, chưa có chiến lược sinh kế mới phù hợp với hoàn cảnh mới khi chuyển sang sống tại các chung cư cao tầng được xây
dựng, lao động trong các hộ gia đình mất việc làm và khơng có khả năng chuyển đổi nghề nghiệp...
Với những hộ gia đình thích nghi được với hồn cảnh mới, họ có một chiến lược sinh kế mới phù hợp với các hộ
gia đình, thu nhập của họ có thể tăng lên do phát triển các dịch vụ hỗ trợ cho các cơng ty, hộ gia đình, chợ quanh chung cư, nhà
trọ, dịch vụ giúp việc theo giờ, dịch vụ khác... Như vậy, ảnh hưởng của chính sách đền bù bố trí tái định cư đến sinh kế người
dân có cả ảnh hưởng tích cực và những ảnh hưởng tiêu cực.

Về bản chất, tác động của chính sách đền bù bố trí tái định cư đến sinh kế người dân là những thay đổi của sinh kế
người dân khi các đô thị mới, các chung cư tái định cư được hình thành và phát triển gây ra. Các tác động này có thể là tích
cực hoặc là tác động tiêu cực phụ thuộc vào từng yếu tố bị tác động, khả năng thích ứng cụ thể của người dân khác nhau,
những khu vực khác nhau... Việc tác động của chính sách đền bù bố trí tái định cư đến sinh kế người dân thông qua nhiều
kênh khác nhau, nhưng quan trọng nhất thông qua kênh kinh tế (tạo động lực kinh tế), kênh xã hội (tạo việc làm, văn hoá ứng
xử)...


Kết hợp với bản chất và nội dung của yếu tố di dân, yếu tố đơ thị hố, của chính sách đền bù bố trí tái định cư,
tác giả phân chia các kênh tác động chính của chính sách đền bù bố trí tái định cư đến sinh kế người dân cụ thể như sau:
Thứ nhất, quy hoạch đô thị, bố trí tái định cư cần được xây dựng trên một khu vực xác định, chính vì vậy sẽ cần
thu hồi đất của người dân, khi người dân bị thu hồi đất họ sẽ nhận được một khoản tiền đền bù, người dân sẽ sử dụng
khoản tiền đền bù này để thay đổi chiến lược sinh kế của họ, khi đó, chính sách đền bù bố trí tái định cư có ảnh hưởng
đến sinh kế người dân.
+ Kênh tác động 1

Quy hoạch
đô thị

Thu hồi đất

Người dân bị mất đất
nhận được tiền đền bù

của người dân

Sinh kế
người dân

Thứ hai, xuất phát từ khái niệm quy hoạch đô thị, giải toả đền bù bố trí tái định cư, phát triển đơ thị nói chúng

và chính sách đền bù bố trí tái định cư nói riêng tạo ra năng lực sản xuất tăng thêm, tạo ra việc làm, năng lực sản xuất
mới... Tuy nhiên, với những đối tượng khơng kịp thích nghi với những thay đổi sẽ thất nghiệp, khơng có việc làm. Đây
chính là kênh tác động thứ hai nghiên cứu tập trung phân tích:
+ Kênh tác động 2:

Quy hoạch đơ thị
Bố trí tái định cư

Tạo việc làm
Sinh kế
người dân
Thất nghiệp

Thứ ba, theo nội dung chính sách đền bù bố trí tái định cư, chính sách đền bù bố trí tái định cư bao gồm đầu tư
CSHT kỹ thuật (Hệ thống giao thông, hệ thống nước, hệ thống điện, hệ thống hạ tầng viễn thông...) và đầu tư CSHT xã
hội (Hệ thống nhà ở, hạ tầng y tế, trường học, trung tâm thương mại, chợ, khu vui chơi, giải trí,...). Từ đó, tạo ra những
sản phẩm đầu ra mà người dân sống trong khu vực đó được hưởng trực tiếp, những sản phẩm đó chính là những nguồn
lực ảnh hưởng đến sinh kế người dân khi xem xét dưới góc nhìn của người dân bao gồm: Nguồn nhân lực, nguồn lực xã
hội,nguồn lực vật chất, nguồn lực tự nhiên và nguồn lực tài chính, cụ thể, kênh tác động thứ ba được tác giả kế thừa và
xây dựng như sau:
+ Kênh tác động 3

Quy hoạch
đô thị

Các nguồn lực: Nguồn nhân lực,
nguồn lực xã hội, nguồn lực vật chất,
nguồn lực tàichính, nguồn lực tự

Sinh kế

người dân

nhiên
Theo DFID (1999), khung phân tích sinh kế bền vững cho thấy, việc sử dụng các nguồn lực đầu tư để đảm bảo
sinh kế cho người dân, cụ thể là thu nhập của người dân tăng thêm qua việc vượt qua các cú sốc, vận dụng và sử dụng linh
hoạt các chiến lược sinh kế. Những nguồn lực đầu tư ở đây là nguồn nhân lực, nguồn lực xã hội, nguồn lực vật chất,
nguồn lực tài chính và nguồn lực tự nhiên, một số thang đo hoạt động sinh kế cụ thể gồm số việc làm được tạo ra, số lao
động thất nghiệp của hộ gia đình, các nguồn lực tài chính hỗ trợ q trình sản xuất kinh doanh của gia đình,....


Theo quan điểm của tác giả, kết quả của hoạt động chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất ảnh hưởng đến sinh kế người dân, cơ chế tác động của chính sách đến sinh kế người dân chính là: quy hoạch đơ
thị tạo ra kết quả hoạt động chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, các kết quả của chính sách có tác động đến sinh kế
của người dân, từ đó tạo ra kết quả sinh kế người dân (cụ thể thang đo tác giả lựa chọn biểu hiện sinh kế là thu nhập của
người dân).

Mất tư liệu sản xuất
Sinh kế người dân (Thay đổi t
Tạoviệclàm/ thất nghiệp

Quy hoạch đô thị Thu hồi đất Bồi thường Tái định cư

Thay đổi nguồn lực
CSHT xã hội, CSHT kỹ thuật

Chính sách sẽ ảnh hưởng đến người dân qua kênh tác động: Người dân mất tư liệu sản xuất (cụ thể như mất đất
ở, mất đất sản xuất kinh doanh. ), chính việc mất tưliệu sản xuất sẽ làm ảnh hưởng đến sinh kế của người dân, thu nhập
của người dân sẽ bị ảnh hưởng, có thể gây ra ảnh hưởng tích cực cũng có thể gây ra ảnh hưởng tiêu cực. Cụ thể, việc mất
tư liệu sản xuất sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến đối tượng là người dân bị mất tư liệu sản xuất, khi họ mất tư liệu sản xuất sẽ
được nhận một khoản tiền đền bù do việc mất tư liệu sản xuất, khoản tiền đền bù này sẽ trở thành nguồn lực đầu tư sản

xuất kinh doanh cho hộ gia đình nếu biết sử dụng đúng, nhưng cũng có thể sẽ gây ra tác động tiêu cực nếu các hộ dân
không sử dụng đúng khoản tiền, khiến thu nhập của họ bị thay đổi sau khi bị mất tư liệu sản xuất theo hướng tiêu cực sau
khi đã sử dụng hết các khoản tiền đền bù cho việc mua sắm, tiêu dùng. Bên cạnh đó, chính sách cũng có ảnh
hưởng khơng nhỏ đến người dân khơng bị mất đất, vì khi các chung cư tái định cư được xây dựng có thể làm cho vị trí
đất đai của những đối tượng này trở nên thuận lợi hơn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, khả năng đầu tư sản xuất kinh
doanh mở rộng. từ đó cũng sẽ làm thay đổi sinh kế của người dân.
Chính sách cũng sẽ thu hút một bộ phận không nhỏ lao động làm việc tại các khu vực lân cận như khu chế xuất, khu
công nghiệp, các cơng ty,…, chính vì vậy sẽ tạo ra việc làm cho người dân, tuy nhiên nó cũng sẽ gây ra thất nghiệp cho những
người dân bị mất tư liệu sản xuất nhưng không đảm bảo được yêu cầu về mặt chuyên môn cũng như kỹ năng cần thiết để có
thể làm việc tại các khu chế xuất, khu cơng nghiệp, các cơng ty. Chính vì vậy, việc tạo việc làm hay thất nghiệp do q trình
thực hiện chính sách cũng gây ra những ảnh hưởng cả tích cực và tiêu cực tới sinh kế của người dân (có thể gây ra sự thay
đổi thu nhập cho người dân)
Chính sách cũng sẽ có tác động đến CSHT: Khi các chung cư tái định cư được hình thành và phát triển, nó sẽ
góp phần cải thiện CSHT cho địa phương. Nhìn chung, các cơng trình tái định cư đơ thị sẽ dẫn đến CSHT được hình
thành và nâng cấp: Quy hoạch các chung cư tái định cư đòi hỏi phải xây dựng, nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật
như điện nước, thông tin liên lạc, hệ thống thốt nước, hệ thống giao thơng... và những hạ tầng xã hội như trường học,
bệnh viện. Mặt khác, chung cư tái định cư được xây dựng còn thu hút và cung cấp một lượng lớn lao động từ vùng khác
đến, do đó thúc đẩy q trình phân bổ lại dân cư trong địa phương và tạo điều kiện cho quá trình đơ thị hóa.
Việc xây dựng chung cư tái định cư cũng kéo theo sự phát triển của hệ thống hạ tầng dịch vụ như ngân hàng,
bưu điện, siêu thị, trung tâm thương mại... do đó, người dân có thể tiếp cận với các dịch vụ này một cách thuận tiện và
đồng bộ hơn.
Tuy nhiên, cũng sẽ có tác động tiêu cực tới cuộc sống người dân trong trường hợp quy hoạch các chung cư tái định
cư chưa đồng bộ với quy hoạch CSHT. Trong khi CSHT chưa được xây dựng, hoạt động của các chung cư này kéo theo hoạt
động của một lượng lớn phương tiện giao thông ra vào chung cư có thể dẫn đến hệ thơng đường giao thông bị xuống cấp
nhanh và tắc nghẽn giao thông đô thị trởi nên trầm trọng hơn.


Chính sách tác động tích cực tới thu nhập của người dân, làm tăng mức sống của người dân trước mắt. Nguyên
nhân là do: Khi nhận được tiền đền bù từ thu hồi đất các hộ dân được bố trí tại nơi ở mới của chung cư tái định cư ở vị trí
thuận lợi cho hoạt động kinh doanh nhằm ổn định cuộc sống, sử dụng tiền đền bù để mua sắm máy móc thiết bị phục vụ

sản xuất, nhờ đó hiệu quả kinh tế đạt được cao hơn. Mặt khác, các hộ gia đình có thể sử dụng tiền đền bù đó để mở các
dịch vụ kinh doanh, nâng cao thu nhập và mức sống của người dân có thể tăng lên.
Thêm vào đó, thu nhập từ lao động trực tiếp tại các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp (KCN), khu chế
xuất (KCX) tại địa bàn sinh sống mới hoặc làm dịch vụ là một nguồn thu quan trọng của các hộ gia đình. Vì vậy, một bộ
phận người dân trong độ tuổi lao động có thể vào làm việc với mức lương tương đối ổn định nếu đáp ứng được yêu cầu
của doanh nghiệp. Với những người dân khơng đáp ứng được u cầu có thể chuyển đổi chiến lược sinh kế mới như
chuyển sang kinh doanh, bn bán...
Tuy nhiên, một bộ phận người dân khơng có khả năng chuyển đổi sang một sinh kế khác, việc làm của họ bị
mất do đất bị thu hồi hoặc khơng xin được việc làm có thể
làm cho thu nhập và mức sống của người dân bị giảm sút.

1.2 Một số lý thuyết xã hội học áp dụng trong nghiên cứu luận văn
1.2.1 Lý thuyết cấu trúc chức năng:
Nghiên cứu sử dụng lý thuyết cấu trúc-chức năng nhằm giải thích mối tương quan giữa tình hình đời sống người định
cư với nhóm xã hội của cộng đồng địa phương.
Thuyết cấu trúc chức năng, hoặc chỉ đơn giản là thuyết chức năng, là một khuôn khổ cho việc xây dựng lý
thuyết mà thấy xã hội như là một hệ thống phức tạp mà cácbộ phận làm việc với nhau để thúc đẩy tình đồn kết và sự ổn
định. Cách tiếp cận này nhìn vào xã hội thơng qua một định hướng vĩ mơ, đó là một trọng tâm rộng trên các cấu trúc xã
hội mà định hướng xã hội như một toàn thể, và tin rằng xã hội đã phát triển như các sinh vật. Cách tiếp cận này sẽ xem
xét cả hai cấu trúc xã hội và chức năng xã hội. Địa chỉ thuyết chức năng xã hội như một toàn thể về các chức năng của
các yếu tố cấu thành của nó; cụ thể là chuẩn mực, hải quan, truyền thống, và các tổ chức. Một tương tự thông thường, phổ
biến bởi Herbert Spencer, trình bày các bộ phận của xã hội là “cơ quan” mà làm việc hướng tới các hoạt động đúng đắn
của “cơ thể” như một tổng thể. Trong các điều khoản cơ bản nhất, nó chỉ đơn giản là nhấn mạnh “các nỗ lực để impute,
như một cách chặt chẽ nhất có thể, để mỗi tính năng, tùy chỉnh, hoặc thực hành, tác động của nó trên các chức năng của
một hệ thống cố kết được cho là ổn định”. Đối với Talcott Parsons, “cấu trúc-thuyết chức năng” đến để mô tả một giai
đoạn cụ thể trong việc phát triển phương pháp luận của khoa học xã hội, chứ không phải là một trường cụ thể của tư
tưởng. Phương pháp thuyết chức năng cấu trúc là một phân tích macrosociological, với một tập trung rộng trên các cấu
trúc xã hội mà hình dạng của tồn xã hội.
Mối quan hệ cấu trúc giữa định chế chính trị mà đại diện trong nghiên cứu được xem xét là các chính sách của
nhà nước, chính quyền đối người tái định cư và đời sống kinh tế - xã hội. Như vậy, cấu trúc được mô tả theo khuynh

hướng sự tác động của định chế xã hội vào các nhóm xã hội khác nhau nhằm vận hành hệ thống ổn định trong mối quan
hệ tương tác, tương hỗ qua lại giữa định chế kinh tế - xã hội. Xem xét chức năng của các chính sách trong xã hội, mà cụ
thể là đối với người tái định cư thuộc diện giải tỏa; chức năng ẩn và phản chức năng của các chính sách khi được triển
khai thực hiện trong thực tiễn cótác động trực tiếp đến đời sống của người tái định cư.

1.2.2 Lý thuyết về biến đổi xã hội
Mọi xã hội đều tồn tại trong trạng thái vận động và phát triển không ngừng. Biến đổi xã hội (BĐXH) là một
q trình, một thuộc tính tất yếu của xã hội. Ở mỗi góc độ tiếp cận khác nhau, mỗi khoa học có quan điểm khác nhau về
BĐXH. Theo quan điểm của xã hội học thì BĐXH là khái niệm chỉ sự khác biệt về phương diện xã hội của thời điểm
hiện tại so với thời điểm trước đó của một hệ thống xã hội, trọng tâm là sựbiến đổi của cơ cấu xã hội.
Sự khác biệt về phương diện xã hội được nói tới ở đây là sự thay đổi của các dạng hành vi xã hội, các quan hệ
xã hội, các thiết chế xã hội, các hệ thống phân tầng xã hội. Không phải mọi sự thay đổi nào đó diễn ra trong xã hội đều


được coi là BĐXH, mà chỉ có những thay đổi có ảnh hưởng sâu sắc tới đa số cá nhân trong xã hội, sự thay đổi các cơ cấu,
tổ chức, các tầng lớp xã hội... mới được coi là sự BĐXH.
Sự BĐXH rất phức tạp và có thể diễn ra dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau: có biến đổi phát triển tức là
diễn ra theo chiều hướng tích cực, tiến bộ, phù hợp với mong muốn của xã hội. Có biến đổi suy thối, diễn ra theo chiều
hướng xấu, xã hội lâm vào bế tắc với những xung đột, đổ vỡ, thay đổi xã hội [42, tr.255-256].
Theo một số nhà nghiên cứu thì sự BĐXH là tổ hợp của rất nhiều nguyên nhân chứ không phụ thuộc duy nhất
vào một yếu tố đơn lẻ. Sự tương tác phức tạp của nhiều yếu tố - cả yếu tố bên trong và yếu tố bên ngoài đã tạo nên sự
biến đổi. Các nhà lý thuyết hiện đại chú trọng các yếu tố: môi trường vật chất (biến động của thiên nhiên), công nghệ, sức
ép dân số, giao lưu văn hoá... để lý giải những BĐXH.
Quan niệm biến đổi tổng hợp cịn khẳng định sự biến đổi có thể đi lên, có thể là đi xuống, thậm chí bị huỷ diệt.
Sự biến đổi cũng thường mang tính chu kỳ. Trên thực tế, mỗi lý thuyết đều có quan điểm luận giải khác nhau về sự biến
đổi xã hội mà trong đó mỗi lý thuyết đều có hạt nhân hợp lý về nhận thức cũng như dự báo quá trình biến đổi xã hội. Để
nhận thức một cách đầy đủ quá trình biến đổi xã hội nói chung và biến đổi mức sống của người dân sau TĐC nói riêng
khơng thể không chú ý tới các yếu tố hợp lý này. Luận văn sẽ cố gắng tích hợp các yếu tố hợp lý nói trên để có cái nhìn
đa diện, đa chiều về những yếu tố tác động đến mức sống và dự báo xu hướng biến đổi mức sống của người dân trong
q trình đơ thị hố.

Theo lý thuyết về sự BĐXH có hai q trình có thể xảy ra: sự biến đổi từ từ- tiến hoá và sự biến đổi nhảy vọt cách mạng. Nghiên cứu những biến đổi về mức sống của nhóm dân chuyển cư ở một thành phố như Thành phố Hồ Chí
Minh có thể xem xét sự biến đổi dưới cả hai quá trình này song sự biến đổi này có thể xem xét nhiều hơn dưới góc nhìn
tiến hố.
Các nhà xã hội học đại diện tiêu biểu cho quan điểm tiến hoá là A.Comte (17981857) và H.Spencer (1820-1883). Các ông cho rằng, BĐXH là sự tăng trưởng và phát triển của xã hội (cả vật chất lẫn trí
tuệ) cùng năng suất lao động xã hội. Đó là q trình tiến hố tất yếu của mọi xã hội cùng với q trình tích luỹ tri thức và
khoa học công nghệ của con người [42, tr.256].
Theo A. Comte, mọi xã hội đều tuần tự biến đổi qua ba giai đoạn: thần học, siêu hình và thực chứng. A.Comte
cho rằng trí tuệ là động lực, sức mạnh duy trì và phát triển xã hội; đến lúc nào đó khoa học sẽ thống trị xã hội. Như vậy có
thể dự báo được sự BĐXH dựa trên sự phát triển của tri thức nhân loại.
H.Spencer thì cho rằng, xã hội sẽ phát triển từ một xã hội có cấu trúc và trình độ giản đơn, thấp kém tiến dần
lên các mức phát triển phức tạp, cao hơn. Trong quá trình này, một xã hội có thể biến đổi một cách tích cực (thích ứng)
hay tiêu cực (khơng thích ứng) và sự lựa chọn này sẽ gắn kết với số phận của nó [22, tr.4], nghĩa là các cá thể, các phân
hệ, các nhóm xã hội yếu kém khơng thích nghi được với tiến trình phát triển xã hội sẽ bị, loại bỏ dần.
Như vậy, theo quan điểm này thì BĐXH là “sự tiến hoá một chiều” [7, tr.252], tất cả các xã hội đều tiến hố từ
hình thức đơn giản đến phức tạp, hình thức sau bao giờ cũng tiến xa hơn những hình thức trước của nó.
Nhìn chung, hạt nhân hợp lý của lý thuyết này là khẳng định đặc trưng cơ bản của BĐXH, đó là tiến bộ xã hội.
Đơ thị hố nhằm kiến tạo lại mơi trường sống dân cư là hoạt động mang tính tất yếu của sự phát triển xã hội. Xem xét sự
biến đổi mức sống của nhóm dân cư sau TĐC ở Thành phố Hồ Chí Minh phải được đặt trong quá trình vận động, phát
triển chung đó mới nhận thức được bản chất vấn đề ở đây, biến đổi mức sống, một mặt phải xem xét đầy đủ các yếu tố tạo
thành về cả vật chất lẫn tinh thần và mặt khác là các chiều hướng biến đổi thuận và nghịch của q trình này. Trên cơ sở
đó mà đánh giá tổng hợp sự biến đổi.

1.2.3 Lý thuyết di dân
Có nhiều quan niệm khác nhau về di dân, tuy nhiên có thể hiểu di dân theo hai cấp độ sau đây:
Theo nghĩa rộng: Di dân là sự di chuyển của người dân trong không gian và thời gian nhất định. Theo quan
niệm này thì di dân là khái niệm chỉ mọi sự vận động, dịchchuyển của dân cư.


Theo nghĩa hẹp: Di dân là sự di chuyển của dân cư từ một đơn vị lãnh thổ này sang đơn vị lãnh thổ khác, nhằm
xác lập nơi cư trú mới trong một khoảng thời gian nhất định (Liên hợp quốc).

Như vậy, theo quan niệm này thì di dân được hiểu là sự di chuyển dân cư gắn với việc thiết lập nơi cư trú mới. Đây
cũng là quan niệm mà tác giả sử dụng để nghiên cứu quá trình người dân di chuyển để tái lập lại nơi cư trú mới trong quá
trình thực hiện chủ trương di dời, giải toả nhằm chỉnh trang đô thị ở Thành phố Hồ Chí Minh.
Di dời giải toả và TĐC đang là chủ trương lớn của Thành phố Hồ Chí Minh nhằm thực hiện quy hoạch, chỉnh trang
đô thị (CTĐT). Đây cũng là xu hướng tất yếu của q trình đơ thị hoá theo chiều sâu nhằm hướng tới một xã hội văn minh
hiện đại.
Bảng 1.1 Dân số thành thị của Thành phố Hồ Chí Minh: 1999-2009 và hiện nay
Thành phố
Hồ Chí Minh

1999

2009

03/2019

(nghìn dân)

(nghìn dân)

(nghìn dân)

4.205

5.929

6.909

Nguồn: TĐTDS 1999, 2009, 2019
Quá trình di dời giải toả, tái lập nơi cư trú mới ở các khu TĐC của một bộ phận dân cư ở Thành phố Hồ Chí

Minh từ trước đến nay là hình thức di dân lâu dài, thuộc diện di dân nội vùng có tổ chức, có kế hoạch. Người dân di chuyển
nơi ở trong phạm vi thành phố, theo kế hoạch giải toả di dời mà thành phố đã định sẵn trong q trình đơ thị hố.
Di dân vốn mang bản chất kinh tế - xã hội sâu sắc, vì vậy để quá trình di dân và TĐC đạt hiệu quả mong muốn
thì vấn đề đặt ra là phải chú trọng đến các mục tiêu kinh tế và xã hội. Do đó, động cơ di dân đến các khu tái định được
luận văn đặc biệt quan tâm xem xét.
Về các nguyên nhân di dân chủ yếu, trên cơ sở quan sát các hiện tượng di dân trên thế giới, nhiều lý thuyết di dân
đã được khái quát, trong đó phải kể đến lý thuyết di cư của Ravenstein (1889).Raventein cho rằng khát vọng vươn lên phía
trước, hướng tới điều kiện sống tốt hơn, thuận lợi, đó mới chính là thực chất động cơ di dân của phần lớn dân di cư.
Ngoài ra, các lý thuyết di dân mới lý giải các nguyên nhân di dân. Chẳng hạn một vài lý thuyết điển hình như
mơ hình phân tích “chi phí - lợi ích” trong quyết định di dân. Người di cư sẽ cân nhắc quyết định di nếu như nhận thấy
lợi ích có được nhiềuhơn chi phí. Chẳng hạn di cư vì mục đích việc làm hay thu nhập cao hơn. Hơn nữa, quyết định di
dân còn phụ thuộc vào một số nhân tố khác như mạng lưới xã hội, thu hồi đất và di dời tái định cư. Như vậy các lý thuyết
di dân đều chỉ ra yếu tố lợi ích, đặc biệt lợi ích kinh tế là động cơ chính yếu tạo ra “lực hút” các dòng di cư đến các khu
định cư mới trong q trình đơ thị hố. Đây chính là căn cứ để đi vào phân tích sự biến đổi mức sống của người dân sau
TĐC, đồng thời cũng là cơ sở khoa học để tác giả đề xuất các giải pháp nhằm ổn định và nâng cao mức sống cho người
dân sau TĐC.
Đời sống của người dân ở các khu TĐC sớm ổn định và được nâng cao là yếu tố quan trọng, quyết định sự ổn
định chính trị - xã hội và là tiền đề để thúc đẩy nhanh tiến trình đơ thị hố của Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và cả
nước nói chung trong những năm tới.
Tiểu kết chương 1:
Nội dung của chưong I bao gồm tổng quan vấn đề nghiên cứu; cơ sở lý thuyết. Tác giả đã tập trung vào những lý
luận liên quan đến vấn đề nghiên cứu, cụ thể như sau:
Tác giả đã phân tích những vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, sinh kế người dân, tác động của chính sách đến sinh kế người dân
và trình bày kênh tác động của chính sách đến sinh kế người dân qua tác động tích cực và tác động tiêu cực của quy
hoạch đô thị tạo ra.
Đồng thời, kế thừa các nghiên cứu trước đó, tác giả cũng đã xây dựng mơ hình nghiên cứu của tác giả, trong mơ
hình nghiên cứu tác giả phân tích tác động của chính sách đến sinh kế người dân, để có thể tìm hiểu tác động tích cực và
tác động tiêu cực của chính sách đến sinh kế người dân



Các kênh tác động của chính sách đến sinh kế người dân trên cũng đã được phân tích cụ thể với ba kênh tác động
chính và các tác động đến CSHT xã hội của chính sách đến sinh kế người dân.


Chương 2:
CÁC CHÍNH SÁCH VÀ THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TÁC ĐỘNG ĐẾN
NGƯỜI DÂN SAU TÁI ĐỊNH CƯ

2.1 Thành phố Hồ Chí Minh và q trình di dời giải toả, tái định cư:
2.1.1 Khái quát về thành phố Hồ Chí Minh:
Trong quá trình phát triển và hội nhập, thành phố Hồ Chí Minh ln là một trung tâm kinh tế, tài chính, thương mại,
dịch vụ của cả nước; là hạt nhân của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, một trong ba vùng kinh tế trọng điểm lớn nhất nước,
phía Bắc giáp tỉnh Bình Dương, Tây Bắc giáp tỉnh Tây Ninh, Đông và Đông Bắc giáp tỉnh Đồng Nai, Đông Nam giáp tỉnh Bà
Rịa -Vũng Tàu, Tây và Tây Nam giáp tỉnh Long An và Tiền Giang.
Với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, về quy mô thành phố chỉ chiếm 0,6% diện tích và 8,3% dân số nhưng đã đóng
góp 20,2% tổng sản phẩm quốc gia, 26,1% giá trị sản xuất công nghiệp và 44% dự án đầu tư nước ngồi.
Thành phố Hồ Chí Minh (TP HCM) với vị trí đặc biệt về địa lý, kinh tế - xã hội đang và sẽ giữ vai trò đầu tàu
thúc đẩy phát triển của Vùng KTTĐ phía Nam và cả nước. Bên cạnh đó, con người thành phố Hồ Chí Minh thơng minh,
năng động, sáng tạo, chất phác, cần cù lao động và luôn nêu cao truyền thống cách mạng. Điều này đã và đang trở thành
yếu tố quyết định sự thăng tiến của TP HCM.
Thành phố Hồ Chí Minh có diện tích đất tự nhiên: 2.095km2; dân số hơn 8 triệu người; thành phố được phân chia
thành 19 quận và 5 huyện với 322 phường-xã, thị trấn.
Động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của TP HCM đối với cả nước thể hiện ở vai trò là trung tâm kinh tế, tài
chính, văn hố, khoa học kỹ thuật của cả nước. Là trung tâm tài chính ngân hàng lớn nhất Việt Nam, TP.HCM dẫn đầu cả
nước về số lượng ngân hàng và doanh số quan hệ tài chính - tín dụng, mức đóng góp vào khoảng 1/5 GDP của cả nước và
1/3 tổng thu ngân sách nhà nước. Hơn nữa, TP HCM cịn có một vị trí địa lý, kinh tế đặc biệt quan trọng như có hệ thống
mạng lưới cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật và xã hội đồng bộ; là nơi kết nối giao thông thuận lợi về đường bộ, đường sông,
đường biển và hàng không giữa 2 miền Đông và Tây Nam bộ với khu vực Đông Nam Á, liên thông vào mạng lưới chung
về giao thông với Châu Á và thế giới; ở giữa khu vực Đơng Nam Á có các điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế,

văn hố, trongđó Thành phố có tốc độ phát triển kinh tế hàng hoá, dịch vụ nhanh nhất và ổn định nhất. Đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Thu nhập bình qn đầu người khu vực nơng thơn năm 2017 đạt 49,18
triệu đồng/người/năm, tăng 18,57% so với đầu năm 2016. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn của Trung ương đến 30/6/2018 đạt
2,05%, giảm 3,45% so với năm 2016. Người dân tham gia bảo hiểm y tế đến 30/6/2018 đạt 83,1%, tăng 6,1% so với năm
2016. Đến nay, 100% hộ dân trên địa bàn TP được sử dụng nước sạch [35, tr.15]. Kết quả đó là sự nỗ lực lớn của Đảng
bộ, chính quyền thành phố trong việc khai thác các tiềm năng, lợi thế của thành phố.
Để nâng cao năng lực sản xuất cho nền kinh tế, trong những năm qua TP.HCM đã không ngừng đẩy mạnh xây
dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật phục vụ sản xuất, nâng cấp, chỉnh trang đô thị theo hướng hiện đại hố, tạo điều kiện thuận
lợi cho việc mở rộng khơng gian đô thị. Trong 5 năm (2010-2015), tổng số vốn đầu tư phát triển tăng 4,7 lần và chiếm
58,3% tổng chi ngân sách. Với tổng số 2.230 dự án cấp mới và gần 670 dự án điều chỉnh tăng vốn. Hàng loạt các cơng
trình, dự án lớn như: cầu vượt nút giao thơng Mỹ Thủy trên đường Võ Chí Cơng, Q.2, cầu Thời Đại qua đảo Kim Cương
(Q.2), cầu Vàm Sát 2 huyện Cần Giờ, mở rộng sân bay Tân Sơn Nhất, tuyến Metro, khu đô thị mới Thủ Thiêm, các khu
TĐC,... đã được thực hiện. TP.HCM đã và đang tiếp tục chú trọng tập trung vào công tác xây dựng cơ sở hạ tầng, chỉnh
trang đô thị, phát huy tiềm năng thế mạnh của thành phố trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội.

2.1.2 Quan điểm chính sách của Đảng, Nhà nước về đơ thị hố và tái định cư
2.1.2.1 Quan điểm về đơ thị hố
Lịch sử hàng ngàn năm của nhân loại đã chứng minh rằng các đơ thị thường đóng vai trị là các trung tâm kinh
tế, chính trị, thương mại, văn hố và xã hội, là động lực của sự tiến bộ xã hội. Các đơ thị ln giữ vai trị là đầu tàu dẫn


dắt các cộng đồng nơng thơn đi theo mình trên con đường tiến bộ và văn minh. Theo Liên hợp quốc, đến năm 2007, tỷ lệ
dân số sống ở các đô thị vượt quá con số 50%, tức là nhân loại đang và sẽ sống trong môi trường đô thị.
Nhận thức sâu sắc quy luật vận động phát triển của lịch sử, đồng thời thấy được vai trò đầu tàu của đô thị trong
việc phát triển kinh tế - xã hội, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến chiến lược đơ thị hố và lấy quan điểm phát triển
bền vững với mụctiêu vì con người, lấy con người làm trung tâm, xác định “con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của sự phát triển” làm trọng.
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã xác định: “Sớm quy hoạch mạng lưới đô thị lớn, vừa và nhỏ
trong tồn quốc phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội. Phát triển đô thị đi đôi với việc xây dựng đồng bộ và quản lý
các cơng trình cơng cộng (điện, cấp thốt nước, cây xanh...) [8, tr.214]. Nghĩa là không thể để quá trình đơ thị hố diễn ra

một cách tự phát, xen lẫn giữa cái được, cái mất mà phải dựa trên cơ sở đã được kế hoạch hoá trong chiến lược phát triển,
lâu dài của đất nước.
Theo Nghị quyết Trung ương 7 (khố VIII), phương hướng phát triển đơ thị nước ta là: “cải tạo, mở rộng, nâng
cấp đô thị hiện có. Xây dựng Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng, Cần Thơ thành những trung
tâm lớn song tránh tập trung quá đông dân cư. Nâng cấp một số đô thị loại vừa, trước hết là các đơ thị nằm trên trục
đường giao thơng chính, ở các cửa khẩu, các địa bàn kinh tế trọng điểm”. Đơ thị hố phải gắn liền với mục tiêu là “tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân” [10, tr.90].
Trong quy hoạch phát triển mạng lưới đô thị ở Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh được xác định là vùng đơ thị
lớn nhất ở Việt Nam hiện nay, là trung tâm văn hố, đào tạo, y tế chất lượng cao. Chính vì thế, cấp uỷ và chính quyền
thành phố đã chủ trương đẩy mạnh công tác quy hoạch, tăng cường đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng một cách đồng bộ,
xây dựng thành phố theo hướng văn minh hiện đại.
Ngay từ năm 2014, các cơ quan chức năng đã đưa ra quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội TP.HCM đến
năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025, với nội dung: xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh trở thành một trong những siêu đô
thị của châu Á, dự báo đến năm 2025 Thành phố Hồ Chí Minh là một siêu đô thị năng động tầm cỡ thế giới [32, tr.35].
Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã có hai Nghị quyết quan trọng về thành phố vào năm 1982 (khóa V) và năm 2002
(khóa IX), khẳng định “Thành phố Hồ Chí Minh là trung kinh tế lớn, một trung tâm giao dịch quốc tế và du lịch của nước ta.
Thành phố Hồ Chí Minh có vị trí chính trị quan trọng sau Thủ đô Hà Nội”. Và đến Nghị quyết 20-NQ/TW về phương hướng,
nhiệm vụ xây dựng thành phố đến năm 2010 đã nhấn mạnh: “Thànhphố Hồ Chí Minh là đô thị lớn nhất nước ta, một trung
tâm lớn về kinh tế, văn hóa, khoa học cơng nghệ, đầu mối giao lưu quốc tế, có vị trí chính trị quan trọng của cả nước…”.
Nghị quyết nói trên của Bộ Chính trị thực sự là một sự định hướng chiến lược cho Thành phố Hồ Chí Minh
phát triển mạnh trong tương lai khơng xa.

2.1.2.2 Quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về tái định cư:
Quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về TĐC được thể hiện qua các văn bản pháp lý liên quan đến
đền bù thiệt hại và TĐC.
Nghị định 151 của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 14/4/1959 quy định về thể lệ tạm thời về trưng dụng
ruộng đất là văn bản pháp quy đầu tiên liên quan đến việc đền bù và TĐC bắt buộc ở Việt Nam. Nghị định này đã đưa ra
những nguyên tắc cơ bản trong việc trưng dụng ruộng đất của nhân dân cho việc xây dựng các cơng trình do Nhà nước
quản lý.
Tuy nhiên, trước năm 1992, đất đai chưa được giao cho các hộ gia đình sử dụng ổn định và lâu dài nên khi cần

Nhà nước chỉ thu hồi lại mà không nhất thiết phải đền bù hoặc chỉ đền bù cho chính quyền địa phương hay tập thể đang
sử dụng đất, mức đền bù các tài sản bị thiệt hại không được quy định rõ ràng mà giải quyết theo thoả thuận.
Sự ra đời của Hiến pháp năm 1992 và Luật Đất đai năm 1993 và 2003 đã đặt cơ sở nền tảng pháp lý cho chính
sách đền bù, TĐC ngày càng đi dần đến sự hoàn chỉnh hơn để đáp ứng nhu cầu thực tiễn đời sống.


Bản Hiến pháp sửa đổi được thông qua năm 1992 đảm bảo quyền dân chủ của công dân, quyền sở hữu của Nhà
nước đối với đất đai và tài nguyên, quyền sử dụng đất của các tổ chức và cá nhân; đặc biệt Hiến pháp 1992 cịn bao gồm
việc cơng nhận và bảo vệ quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tư nhân về tài sản và sản xuất.
Luật Đất đai năm 1993 và Luật Đất đai sửa đổi năm 2003 là những văn kiện quan trọng làm cơ sở cho việc thực
hiện đền bù và TĐC cho những người bị mất nơi ở một cách không tự nguyện.
Các Luật Đất đai nói trên đã xác định: đất đai thuộc quyền sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý.
Các tổ chức và cá nhân không thể sở hữu đất đai nhưng lại được giao quyền sử dụng đất và điều này lại tạo ra cơ sở pháp
lý cho quyền đền bù khi Nhà nước thu hồi đất.
Các đạo luật nói trên thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong việc thống nhất quản lý đảm bảo lợi ích
chính đáng, hài hồ giữa Nhà nước với người dân, đồng thời vừa là cơ sở để xác lập hệ chính sách đền bù, TĐC... Hàng loạt
các nghị định, thông tư được ban hành như: Nghị định 60/CP (1994): Quyền sở hữu đô thị; Nghị định 87/CP (1994): Quy định
về khung giá các loại đất; Nghị định 90/CP (1994): Đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất; Thông tư 15/LĐ-TB-XH
(1995): Trợ cấp cho các gia đình chuyển đến vùng kinh tế mới; Nghị định 22/CP (1998) về việc đền bù thiệt hại khi Nhà nước
thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phịng, an ninh lợi ích quốc gia, lợi ích cơng cộng; đặc biệt là Nghị định 197/CP
(2004) về bồi thường, hỗ trợ và TĐC khi Nhà nước thu hồi đất đã và đang bảo đảm quyền lợi thiết thực cho người dân. Hệ
thống các văn bản pháp quy nói trên đang tiến dần tới một chính sách TĐC hồn chỉnh. Nếu các văn bản trước năm 1998 chủ
yếu chú trọng đến việc đền bù cho các thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất thì từ Nghị định 22/1998/NĐ-CP về sau, đặc biệt là
Nghị định 197/2004/NĐ-CP đã có thêm nhiều điều khoản quy định về sự hỗ trợ cũng như lập khu TĐC để tạo nơi ở mới và
ổn định đời sống và sản xuất cho người dân sau TĐC. Trong các nghị định này, chính sách hỗ trợ và TĐC đều hướng tới mục
tiêu bồi thường, hỗ trợ thoả đáng (tất nhiên là tuỳ theo điều kiện cụ thể của từng địa phương) quyền lợi của người dân, từ khâu
bồi thường các thiệt hại về đất đai, tài sản đến khâu hỗ trợ di chuyển, ổn định đời sống và sản xuất ở nơi TĐC.
Từ năm 1998 đến nay trong các nghị định của Chính phủ đã được bổ sung thêm 2 chương mới là “chính sách
hỗ trợ” và “tái định cư”.
Về chính sách hỗ trợ, trong các nghị định, Chính phủ đã có quy định cụ thể mức hỗ trợ về di chuyển, hỗ trợ ổn

định đời sống và ổn định sản xuất; hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm và các hỗ trợ khác nhằm giúp người
dân TĐC sớm ổn định thu nhập và đời sống.
Về TĐC, các điều 28, 29, 30, 31 của Nghị định 22/1998/NĐ-CP đã quy định về việc lập và tổ chức khu TĐC tập
trung hoặc phân tán cho phù hợp với tình hình thực tế của địa phương; khu TĐC phải xây dựng phù hợp với quy hoạch, tiêu
chuẩn và quy chuẩn xây dựng; trước khi bố trí đất ở cho các hộ gia đình, cá nhân, khu TĐC phải được xây dựng cơ sở hạ tầng
thích hợp, phù hợp với thực tế quy hoạch về đất ở, đất xây dựng của địa phương. Đến Nghị định 197/2004/NĐ-CP, việc lập
và bố trí TĐC lại được quy định mộtcách cụ thể, chi tiết hơn. Đặc biệt đối với “điều kiện bắt buộc đối với khu tái định cư”
được điều 35 của Nghị định quy định một cách chặt chẽ, có lợi cho cuộc sống của người dân sau TĐC như sau: “Trước khi
bố trí đất ở cho các hộ gia đình, cá nhân, khu TĐC phải được xây dựng cơ sở hạ tầng đồng bộ đảm bảo đủ điều kiện cho
người sử dụng tốt hơn hoặc bằng nơi ở cũ” [4, tr.35]. Điều 36 còn quy định “các biện pháp hỗ trợ sản xuất...” Như vậy, cùng
với tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ngày càng mạnh mẽ, nhu cầu di dời giải toả để thực hiện các dự án phát
triển ngày càng tăng thì hệ thống quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với vấn đề TĐC cũng ngày càng được xây
dựng, bổ sung và hoàn thiện hơn. Mọi quan điểm, chính sách đều hướng đến mục tiêu phát triển đất nước, mang lại cuộc sống
tốt đẹp hơn cho cá nhân và cộng đồng.
Trên cơ sở quan điểm, chính sách chung về TĐC của Đảng và Nhà nước, UBND Thành phố Hồ Chí Minh đã
cụ thể hố bằng những Quyết định 35/2010; Quyết định 23/2015; Quyết định 28/2018 ban hành quy định về bồi thường,
hỗ trợ và TĐC khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Các chế độ, chính sách bồi thường, hỗ trợ
và TĐC được thành phố điều chỉnh theo hướng ngày càng đảm bảo lợi ích thiết thực cho đối tượng bị ảnh hưởng bởi dự
án. So với các quyết định ban hành tư năm 2010 về trước, Quyết định 28/2018 đã có những quy định đem lại lợi ích hài
hồ giữa Nhà nước và nhân dân.


Các quyết định nêu trên đều mang tinh thần chỉ đạo là hướng đến thực hiện “Chủ trương của thành phố là tất cả
các hộ dân sau khi giải toả, TĐC phải có cuộc sống tốt hơn trước về mọi mặt, tuyệt đối không để hộ nào rơi vào cuộc
sống khó khăn hơn”. Đây là những cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng để đi sâu phân tích thực trạng những biến đổi về
mức sống của nhóm dân phải di dời, giải toả sau TĐC ở Thành phố Hồ Chí Minh.

2.1.3 Q trình di dời giải toả và tái định cư ở Thành phố Hồ Chí Minh:
Một trong những nét nổi bật nhất ở thành phố Hồ Chí Minh trong những năm qua là phát triển và xây dựng cơ sở
hạ tầng gắn liền với chỉnh trang đô thị, khai thác nguồn lực trong dân, khai thác có hiệu quả quỹ đất để phát triển cơ sở hạ

tầng, mở rộng khơng gian đơ thị. Mặc dù cịn một số yếu kém, hạn chế, song q trình trênđã góp phần quan trọng làm
thay đổi diện mạo Thành phố theo hướng ngày càng hiện đại văn minh hơn,tạo cơ sở cho sự phát triển không ngừng về
kinh tế - xã hội và cải thiện, nâng cao đời sống nhân dân.
Vượt qua giai đoạn nhận thức chưa đầy đủ về phát triển đô thị và quản lý phát triển đô thị, Thành phố đã quan
tâm thực hiện Quy hoạch phát triển đô thị trong tổng thể quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội Thành phố đến năm 2020,
tầm nhìn 2025, tích cực chỉnh trang khu vực hiện có theo hướng khả thi và thực tế hơn, nhằm cải thiện điều kiện ăn ở,
sinh hoạt, làm việc của người dân. Cơ bản phủ kín quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị tỷ lệ 1/2000, quy hoạch phân khu
các khu vực đô thị; điều chỉnh quy hoạch tổng thể phát triển đô thị phù hợp với điều kiện, đặc điểm Thành phố và theo
hướng văn minh, hiện đại, hướng tới quy hoạch vùng đô thị TP.HCM, gắn kết với vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và
vùng Đơng Nam Bộ; gắn quy hoạch xây dựng, phát triển đô thị với quy hoạch phát triển kinh tế – văn hóa – xã hội, quy
hoạch phát triển kết cấu hạ tầng, quy hoạch ngành – lĩnh vực.
Thành phố đã tập trung vốn đầu tư cho các cơng trình trọng điểm, nhất là về giao thông đô thị và giao thông kết
nối với các chuỗi đô thị trong vùng đô thị TP.HCM. Các dịch vụ đời sống đơ thị như bưu chính – viễn thông, điện, nước,
xử lý rác thải, bảo vệ môi trường... đã không ngừng được cải thiện, đáp ứng nhu cầu đời sống đô thị. Đặc biệt, sự phát
triển các đơ thị mới với qui mơ lớn, có sự kết hợp nguồn lực trong nước và nước ngồi. Điển hình là khu đơ thị mới Nam
Sài Gịn có diện tích khoảng 3.000 ha với điểm nhấn là đô thị Phú Mỹ Hưng, khu Đại học – dân cư Trung Sơn, khu dân cư
gắn với Trung tâm thương mại Bình Điền. Trong đó khu đơ thị mới Phú Mỹ Hưng đã trở thành một khu đô thị mới kiểu
mẫu của TP.HCM và trên phạm vi tồn quốc. Khu đơ thị cảng Hiệp Phước vươn ra biển, khu đô thị mới Thủ Thiêm, khu
đô thị Tây Bắc đang dần dần được xây dựng tạo nên những điểm nhấn của các trung tâm đơ thị của TP.HCM, trong đó
khu đơ thị mới Thủ Thiêm sẽ trở thành trung tâm mới của Thành phố đối diện với trung tâm hiện hữu thuộc quận 1, quận
3, quận 5. Nhiều khu đô thị mới đang dần dần được hình thành theo các hướng phát triển đơ thị, các trung tâm của Thành
phố đa trung tâm theo quy hoạch phát triển đô thị Thành phố đã được xét duyệt năm 2010. Hình hài một TP.HCM hiện đại
gồm khu vực trung tâm hiện hữu cùng với đô thị Thủ Thiêm và các khu đô thị Đông, Đông Bắc, Tây Bắc và phía Nam
gắn với vùng đơ thị TP.HCM, vùngkinh tế trọng điểm với kết cấu hạ tầng đô thị đa chiều, xuyên tâm đang được hình
thành.
Bên cạnh sự khẳng định về những thành tựu quan trọng, không ai không thừa nhận sự phát triển đô thị TP.HCM
trong thời gian qua cịn có một sự thật khách quan phản ánh sự yếu kém, hạn chế trong sự phát triển đô thị và quản lý
phát triển đô thị của Thành phố. Từ khâu quy hoạch phát triển đô thị đến quản lý, đầu tư, thực thi quy hoạch và quản lý
phát triển đơ thị đều có nhiều điểm bất cập. Nhìn chung chưa thực sự có một quy hoạch chung mang tính chiến lược cơ
bản, lâu dài về phát triển vùng đô thị TP.HCM, làm “khung” cho sự phát triển đô thị và quản lý đô thị của TP.HCM

trong mối tương tác với khu vực và cả nước.
Ngoài ra, một số nội dung phát triển đô thị, nhất là quản lý phát triển đơ thị như về mơ hình phát triển và các hướng
phát triển đô thị Thành phố; vấn đề quy hoạch sử dụng đất, phân khu chức năng theo đơn vị hành chính, ngành nghề; vấn đề
dân số và phân bố dân cư; vấn đề giao thông, cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội... chưa thực sự hồn chỉnh. Kết cấu hạ
tầng đơ thị chưa đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và đời sống của nhân dân, vốn đã yếu kém ngày càng quá tải, bất
cập. Các chương trình giảm ùn tắc giao thông, giảm ngập nước, giảm ô nhiễm môi trường đã đề ra từ lâu và được triển khai


bằng nhiều giải pháp song dường như chưa đưa lại kết quả rõ rệt. Quản lý quy hoạch còn hạn chế, có lĩnh vực như quản lý dân
cư dân số cịn bất cập, quản lý đất đai, nhà cửa, cơng sản cịn có những khuất tất, gây dư luận bất bình, bất ổn trong nhân dân...
Nhìn tổng thể, đơ thị TP.HCM không ngừng phát triển theo chiều hướng ngày càng lớn mà chưa có tính tổ chức
cao, phát triển ngày càng rộng nhưng chưa hồn chỉnh, đã có dáng vẻ hiện đại nhưng chưa đồng bộ, chưa có một lối sống
thực sự văn minh, chưa xây dựng được những biểu tượng mang tính điển hình; thiếu bản sắc, chưa hài hịa và phù hợp
với mơi trường cảnh quan sơng rạch phương Nam, vốn là đặc điểm quan trọng mà từ đó Thành phố đã mọc lên và phát
triển. [30]. Theo báo cáo của UBND thành phố thì đến cuối 2018, thành phố đã triển khai thực hiện trên 700 dự án có liên
quan đến giải toả, di dời dân cư, cụ thể trong kế hoạch đột phá chỉnh trang đô thị TP.HCM cần phải di dời 20.000 căn nhà
ven kênh.
Hình 2.1 Các nhà ở ven kênh Tàu Hủ

Đồng hành với quá trình giải toả là việc quy hoạch kiến tạo nơi ở mới theo tiêu chuẩn đô thị văn minh, hiện đại.
Đến nay đã có hơn 300 khu TĐC, khu chung cư được xây dựng để di chuyển, ổn định chỗ ở cho hàng chục ngàn hộ dân
trong diện giải toả để chỉnh trang đô thị. Nhiều khu nhà ở tạm bợ của người dân ven kênh, rạch được xoá sạch trong một
thời gian ngắn. Những xóm nghèo nhếch nhác sống lay lắt bên những vùng kênh, rạch hôi thối được thay bằng những khu
phố sạch, đẹp. Ở những khu TĐC, hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội được nâng cấp và xây dựng mới một cách khá đồng
bộ.
Một trong những thành quả to lớn của thành phố trong những năm qua là việc xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật và
xã hội, điều này đã làm thay đổi bộ mặt thành phố, thu hút các nhà đầu tư, tác động tích cực đến q trình phát triển kinh
tế, góp phần nâng cao đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được thì
quá trình di dời giải toả và TĐC cũng đang nảy sinh những vấn đề xã hội cần được quan tâm nghiên cứu để giải quyết.


2.2 Biến đổi về mức sống của nhóm dân cư sau tái định cư ở thành phố Hồ Chí Minh
2.2.1

Giới thiệu về địa bàn và mẫu khảo sát
Quá trình quy hoạch, chỉnh trang đô thị ở TP.HCM đã và đang diễn ra rộng khắp trên mọi quận, huyện của thành

phố. Ở quận, huyện nào cũng có những hộ dân giải toả, di dời vào sinh sống trong các khu TĐC. Do quá trình TĐC ở mỗi
địa điểm được tiến hành ở những thời điểm khác nhau và mỗi địa bàn dân cư lại có những đặc điểm kinh tế -xã hội khác
nhau, tuy nhiên đặc điểm chung của thành phố là di dời các hộ ven kênh, rạch và bố trí cùng một chung cư TĐC nên để
mẫu khảo sát có tính đại diện cho tập hợp đối tượng trong thực tế, tác giả đã xác lập phường Tân Phú, quận 7, thành phố
Hồ Chí Minh làm địa bàn khảo sát: Phường Tân Phú là phường trung tâm của quận 7, có nhiều cơ quan Nhà nước trú
đóng, có Trung tâm hành chính của quận, tập trung nhiều ngân hàng, nhà hàng, khách sạn, trung tâm thương mại, bệnh


viện, trường học công lập và quốc tế; là nơi diễn ra thường xuyên các sự kiện lớn; bao gồm khu đô thị mới Phú Mỹ Hưng
và khu dân cư truyền thống; có 01 chợ truyền thống cấp quận; và đặc biệt là có một khu chung cư tái định cư dành cho hộ
dân bị thu hồi đất tại dự án nhà ở ven rạch Ụ Cây, quận 8 chuyển đến sinh sống. Phường được xem là mơ hình thu nhỏ
của quận 7. Trong khi đó, quận 7 là một quận đô thị vùng ven phát triển, quy hoạch ổn định, tổng thu ngân sách đứng thứ
hai toàn thành phố (sau quận 1). Nên việc lựa chọn mẫu địa bàn điều tra làm đại diện là hợp lý và sát với đặc thù thành
phố Hồ Chí Minh hiện nay.
Hình 2.2 Bản đồ địa giới hành chính phường Tân
Phú

Nguồn:Uỷ ban nhân dân quận 7

Hình 2.3 Bản đồ quy hoạch của quận 7

Nguồn:Uỷ ban nhân dân quận 7

Về mức sống, nhìn chung mức sống của nhóm dân cư trước khi TĐC ở địa bàn phường thấp hơn mức sống trung bình

của thành phố vì những dự án di dời, TĐC lâu nay


chủ yếu hướng vào những khu vực có cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội còn yếu kém.
Do đặc thù trên, tác giả chọn khảo sát toàn bộ 301 hộ được bố trí tái định cư sống tại chung cư để khảo sát. Tuy nhiên,
thực tế hiện nay tại chung cư chỉ còn 114 hộ thực sống, số còn lại đã bán nhà, hoặc đi làm ăn xa trên 10 năm.
Kết quả thống kê mô tả về mẫu khảo sát bảng 2.1:
Bảng 2.1: Thống kê mô tả mẫu khảo sát
Đặc điểm

Đơn vị

Tần suất

Tỷ lệ %

114

100

1.1. Nam

44

38,60

1.2. Nữ

70


61,40

1. Giới tính

Người

2. Độ tuổi

114

100

Dưới 25

Người

08

7,02

Từ 25 đến < 35

06

5,26

Từ 35 đến < 50

19


16,67

>= 50

81

71,05

3. Học vấn

114

100

+ Tiểu học trở xuống

Người

32

28,07

+ Trung học cơ sở

48

42,11

+ Trung học phổ thông


18

15,80

+ Công nhân kỹ thuật

02

1,75

+ Trung cấp

02

1,75

+ Cao đẳng-đại học trở lên

12

10,52

4. Nghề nghiệp, việc làm

114

100

+ Công nhân


Người

18

15,80

+ Viên chức

13

11,40

+ Dịch vụ, buôn bán

27

23,68

+ Lao động phổ thông

14

12,28

+ Thất nghiệp

10

8,77


32
114

28,07
100

+ Hai thế hệ

34

29,82

+ Nhiều thế hệ

62

54,38

18

15,80

+ Khác
5. Loại hình gia đình

Người

+ Khuyết thiếu
Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả


2.2.2 Các kết quả chủ yếu thu được từ cuộc khảo sát
2.2.2.1 Biến đổi về thu nhập
Mức sống của dân cư phần nào đó được thể hiện qua mức thu nhập thực tế của


họ. Thu nhập là vấn đề có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với mỗi cá nhân, gia đình và xã hội. Mức sống của mỗi người,
mỗi hộ gia đình cao hay thấp, ở mức độ giàu hay nghèo chủ yếu phụ thuộc vào thu nhập của các cá nhân hoặc gia đình
đó. Đối với xã hội, thu nhập là một trong những yếu tố cơ bản tạo nên tình trạng ổn định hay khơng ổn định. Chính vì
vậy, trong định hướng phát triển kinh tế xã hội của đất nước nói chung, ở từng địa phương nói riêng thì việc nâng cao thu
nhập nhằm ổn định và cải thiện đời sống của nhân dân luôn là mục tiêu được quan tâm hơn cả. Cũng vì lẽ đó mà trong
những thập kỷ qua các cuộc điều tra nghiên cứu về mức sống của dân cư đều chủ yếu dựa vào chỉ báo thu nhập và lấy thu
nhập làm tiêu chuẩn để định mức sống: giàu có, khá giả, trung bình, tạm đủ hay nghèo đói.
Xử lý số liệu khảo sát về tình hình thu nhập của 114 hộ gia đình sau TĐC nằm trong mẫu khảo sát ở chung cư
Tân Mỹ, phường Tân Phú, quận 7, TP.HCM, bước đầu cho thấy diện mạo của sự biến đổi như sau:
Nhìn chung, mức sống của nhóm dân sau TĐC có sự biến đổi khá đa dạng. Các điều kiện thỏa mãn nhu cầu đời
sống vật chất và tinh thần được cải thiện và có nhiều ý kiến chủ hộ đánh giá là tốt hơn so với trước TĐC. Nhất là hệ
thống cơ sở hạ tầng được xây mới, khá đồng bộ tạo thuận lợi cho người dân tiếp cận các dịch vụ đô thị cơ bản. Tuy nhiên,
ở một số mặt như việc làm, thu nhập hay chi tiêu thì lại có nhiều ý kiến đánh giá là kém đi so với trước TĐC. Có thể thấy
điều này qua bảng thống kê sau:
Bảng 2.2: Đánh giá của chủ hộ về cuộc sống gia đình sau TĐC
Đơn vị tính: %
Tốt hơn

Như cũ

Kém đi

Khó đánh giá

Việc làm


Nội dung

12,5

37,5

45,3

4,7

Thu nhập

4,3

38,4

48,9

8,4

Chi tiêu

14,7

16,4

59,1

9,0


Điều kiện học hành

40,9

33,3

9,1

16,7

Dịch vụ điện

73,2

25,4

1,5

0

Dịch vụ nước

100

0

0

0


Vui chơi giải trí

22,4

35,8

9,0

32,8

Thơng tin liên lạc

39,1

31,3

1,6

28,1

Xét riêng về mặt thu nhập, ta thấy có 28,4% ý kiến của các chủ hộ cho rằng, sauTĐC, thu nhập của gia đình họ vẫn
như cũ; có 21,3% ý kiến khẳng định thu nhập của gia đình họ tốt hơn; có 48,9% ý kiến xác định mức thu nhập kém đi so với
trước TĐC và 1,5% ý kiến cho rằng khó đánh giá.
Như vậy, sau TĐC, đã có một bộ phận dân cư có được mức sống ngang bằng và tốt hơn trước. Nhưng bên cạnh
đó lại cịn một bộ phận khá lớn (48,9%) dân cư có thu nhập kém đi, chiếm tỷ lệ cao hơn gấp 11,37 lần số hộ có thu nhập
tốt hơn.
Để nhận biết sâu hơn về sự BĐMS theo thu nhập của cộng đồng dân cư trong diện khảo sát, dựa trên mức thu
nhập bình quân đầu người thống kê được, tác giả chia dân cư thành 4 nhóm hộ, mỗi nhóm gồm 20% dân số theo tiêu chí
có thu nhập từ thấp nhất đến cao nhất. Kết quả cho thấy, sau TĐC, thu nhập của các nhóm cũng có sự suy giảm đáng kể

so với trước TĐC.
Bảng 2.3: Mức thu nhập bình quân đầu người/ tháng chia theo 4 nhóm hộ có mức sống từ thấp đến
cao
Đơn vị tính: nghìn đồng
Thời gian

Nhóm nghèo

Nhóm tạm đủ

Nhóm trung bình

Nhóm khá giả

Trước TĐC

177.140

308.054

406.488

521.190

Sau TĐC

171.726

263.205


332.814

428.282


×