Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

tiểu luận học thuyết máclênin_ lý luận tuần hoàn và chu chuyển của tư bản của các mác ý nghĩa của việc nghiên cứu lý luận này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.62 KB, 27 trang )

LỜI NĨI ĐẦU
Kinh tế chính trị học Mác – Lê Nin ra đời đã đánh dấu một cuộc cách
mạng trong khoa học kinh tế, nó được xây dựng một cách có khoa học, phản
ánh đúng đắn các quy luật khách quan kinh tế chính trị học nghiên cứu “tuần
hồn và chu chuyển của tư bản”. Lí luận này được xây dựng bằng phương
pháp trừu tượng hóa khoa học kết hợp logic và lịch sử, kết hợp giữa phân tích
và tổng hợp. Trong đó, thực chất của lí luận là về vấn đề vốn. Vốn có tầm
quan trọng lớn, hầu hết nội dung, quy luật kinh tế của tái sản xuất đều biểu
hiện ở tái sản xuất vốn. Vốn là phạm trù kinh tế, là chìa khóa của mọi q
trình phát triển kinh tế
Đối với nước ta, lí thuyết về tuần hoàn và chu chuyển tư bản của Các
Mác và Ăngghen có ý nghĩa lớn trong thực tiễn, nhất là từ sau Đại hội Đảng
VI, VII, VIII nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lí của nhà
nước, xóa bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, và sau sự kiện các nước xã
hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ, vấn đề này lại càng trở nên cần thiết vì nước
ta đã bị mất nguồn viện trợ.
Đặc biệt, trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam hiện nay – nền kinh tế quá
độ lên Chủ nghĩa xã hội có sự quản lí của nhà nước, việc quản lí và dụng vốn
của của cả nước, của từng thành phần kinh tế, của từng doanh nghiệp là một
vấn đề phức tạp và hết sức bức thiết. Nhất là trong vài năm trở lại đây, kinh tế
thị trường đã tạo ra một môi trường kinh tế hết sức sơi động và cạnh tranh gay
gắt. Do đó, để tồn tại và phát triển đứng vững trên thị trường các doanh
nghiệp cần kết hợp phân tích lí thuyết tuần hồn và chu chuyển tư bản với
điểu kiện hiện có của các doanh nghiệp để từ đó có những quyết định đúng
đắn đối với việc phân bổ các nhân tố sản xuất sao cho phù hợp
Xuất phát từ thực tiến của vấn đề đó, em đã chọn đề tài “Lý luận tuần
hoàn và chu chuyển của tư bản của Các Mác. Ý nghĩa của việc nghiên
cứu lý luận này”
Do trình độ có hạn và nhận thức chưa cao nên tiểu luận của em khơng
tránh khỏi thiếu sót và hạn chế. Em rất mong có sự động viên và đóng góp
của các thầy cơ giáo bộ mơn kinh tế chính trị để tiểu luận của em được hoàn


thiện hơn

1


NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận.
Sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất biện chứng giữa quá trình sản
xuất và q trình lưu thơng, giữa q trình tạo ra giá trị thặng dư và quá trình
thực hiện giá trị thặng dư. Vì vậy, sau khi đã nghiên cứu các q trình khác,
cần nghiên cứu q trình lưu thơng để xác định rõ hơn nữa vị trí của lưu thơng
và tác dụng tích cực của nó đối với sản xuất cũng như đối với nền kinh tế góp
phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh, mạnh đưa đất nước ra khỏi tình
trạng nghèo nàn, lạc hậu để nhân dân ta được no, ấm hơn và thoả mãn các nhu
cầu khác cao hơn.
Việc nghiên cứu q trình lưu thơng của tư bản còn cung cấp cho chúng
ta một số cơ sở lý luận chung về vấn đề này để nghiên cứu nền kinh tế xã hội
chủ nghĩa, chẳng hạn như lý luận về tư bản cố định và tư bản lưu động, thời
gian sản xuất, thời gian lưu thông,... Vì lưu thơng tư bản là q trình biến tư
bản từ hình thái tiền tệ sang hình thái hàng hố và từ hình thái hàng hố sang
hình thái tiền tệ.Theo nghĩa rộng thì lưu thơng tư bản chính là sự vận động
của tư bản qua ba giai đoạn: hai giai đoạn lưu thông và một giai đoạn sản
xuất, cho nên lưu thông là khâu quan trọng mà chúng ta đề cập tới. Nếu xử lý
tốt khâu này thì nền kinh tế sẽ thuận lợi trong việc sử dụng vốn, rút ngắn thời
gian chu kỳ vốn quay vòng, các khâu trao đổi và mua bán khác,...
Nước ta đang có nguy cơ bị tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước
trong khu vực do điểm xuất phát thấp, lại phải đi lên trong môi trường cạnh
tranh gay gắt, nên nghiên cứu vấn đề này sẽ góp phần rút ngắn khoảng cách
tụt hậu ngày một gần hơn.
2.Cơ sở thực tiễn.

Nghiên cứu tự tuần hoàn và chu chuyển của tư bản có ý nghĩa thực tiễn
đối với chúng ta. Vì nước ta đã chuyển sang nền kinh tế thị trường nên trong
sản xuất kinh doanh đòi hỏi chúng ta phải quay vòng vốn nhanh, sử dụng vốn
2


một cách hợp lý có hiệu quả. Có như vậy mới nâng cao được lợi nhuận, góp
phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh hơn.
Dựa vào nhu cầu về vốn và việc sử dụng vốn của các doanh nghiệp có
hiệu quả hay khơng, Nhà nước và các bộ, ngành có thể đưa ra các chính sách
thoả đáng nhằm thu hút vốn ở trong nước hoặc đầu tư nước ngoài về để đáp
ứng nhu cầu vốn và có các chính sách cụ thể đối với từng doanh nghiệp, xây
dựng công cụ quản lý các doanh nghiệp.
Theo nhà kinh tế A.Smith, vì: “tiền là dầu mỡ bơi trơn cỗ xe kinh tế, là
bánh xe vĩ đại của lưu thơng”. Vì vậy nghiên cứu vấn đề lưu thơng có ý nghĩa
thực tiễn đối với chúng ta trong khi nền kinh tế thị trường đang diễn ra náo
nhiệt, sơi động.
A. TUẦN HỒN TƯ BẢN
1. Ba giai đoạn của sự vận động của tư bản và sự biến hố hình thái
của tư bản.
Để nghiên cứu q trình lưu thơng của tư bản cá biệt, Các Mác đã trừu
tượng tất cả các loại tư bản khác như: tư bản thương nghiệp, tư bản cho vay,
tư bản kinh doanh ruộng đất… chỉ đề cập đến tư bản cơng nghiệp với ý nghĩa
là nó bao qt mọi ngành sản xuất vật chất kinh doanh theo phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa. Nghĩa là ngành duy nhất tạo ra giá trị thặng dư cho nhà
tư bản
Tư bản công nghiệp vận động theo công thức:
SLĐ
T–H


.. .… SX ……H’ – T’
TLSX

Qua công thức ta thấy tư bản công nghiệp trước hết vận động qua 3 giai
đoạn. Sau đây, ta sẽ lần lượt đi sâu vào phân tích các giai đoạn đó:
a. Giai đoạn thứ nhất:
SLĐ
Mua hàng hóa T – H
TLSX

3


Nếu chỉ dừng lại ở hình thức bên ngồi thì ta thấy đây là một hành vi
mua bán thông thường. Tiền tệ ở đây được sử dụng làm phương tiện mua như
mọi số tiền khác trong lưu thông. Nhưng, khi xem xét kĩ các hàng hóa nhà tư
bản đã mua được ta sẽ thấy tiền tệ ở đây không chỉ làm chức năng phương
tiện mua bán thơng thường mà cịn làm chức năng tư bản vì nó đã thực hiện
việc mua hàng hóa sức lao động (H - SLĐ) và hàng hóa tư liệu sản xuất (H TLSX) để nhằm mục đích sản xuất giá trị thặng dư
Trong q trình này, hành vi T – SLĐ (mua hàng hóa sức lao động) là
yếu tố đặc trưng khiến cho tiền xuất hiện ngay từ đầu đã là tư bản. Hành vi T
– TLSX (mua tư liệu sản xuất) là điều kiện để cho sức lao động đã mua có thể
hoạt động được. Bởi vậy, việc mua tư liệu sản xuất và sức lao động phải đảm
bảo một tỉ lệ thích đáng với nhau về số lượng, có như vậy q trình sản xuất
tư bản chủ nghĩa mới được tiến hành bình thường. Vì nếu thiếu tư liệu sản
xuất cơng nhân sẽ khơng có đủ việc làm, cịn nếu thiếu sức lao động của cơng
nhân thì bản thân tư liệu sản xuất sẽ khơng thể biến thành sản phẩm được
Hồn thành q trình này, tư bản đã trút bỏ hình thái tiền tệ và mang
hình thái các yếu tố của sản xuất tư bản chủ nghĩa. Đó là tư liệu sản xuất và
sức lao động tức là hình thái tư bản tiền tệ đã chuyển hóa thành hình thái tư

bản sản xuất.
b. Giai đoạn thứ hai: sản xuất (…SX …)
Tiếp theo giai đoạn thứ nhất (nhà tư bản mua tư liệu sản xuất và sức lao
động) là giai đoạn thứ hai, giai đoạn nhà tư bản sử dụng các hàng hóa đã mua
được nghĩa là nhà tư bản tiến hành quá trình sản xuất.Q trình này có thể
được mơ tả như sau:
TLSX
H

…. SX … H’
SLĐ

Quá trình sản xuất diễn ra ở đây cũng giống như quá trình sản xuất của
mọi hình thái xã hội khác đó là sự kết hợp hai yếu tố sức lao động và tư liệu
4


sản xuất. Nhưng sự kết hợp ở đây biểu hiện ra là một hình thái tồn tại của tư
bản ứng trước. Chúng được phân thành những yếu tố khác nhau của tư bản
sản xuất. Phương thức kết hợp đặc thù đó khơng chỉ là kết quả mà thành một
chức năng của tư. Trong khi thực hiện chức năng của mình, tư bản sản xuất
tiêu dùng các thành phần của bản thân nó để biến thành một khối lượng sản
phẩm có giá trị lớn hơn. Kết quả của quá trình là một hàng hoá mới được tạo
thành, khác cả về giá trị sử dụng và lượng giá trị so với các hàng hoá cấu
thành tư bản sản xuất.
Hàng hoá mới này là hàng hố đã mang giá trị thặng dư, nó đã trở thành
H’ có giá trị bằng K + m tức là bằng giá trị của tư bản sản xuất hao phí để chế
tạo ra nó, cộng với giá trị thặng dư (m) do tư bản sản xuất ấy đẻ ra. Như vậy
kết quả của giai đoạn thứ hai là tư bản sản xuất biến thành tư bản hàng hoá.
c. Giai đoạn thứ ba: Bán hàng hóa: (H’ - T’)

Sauk hi sản xuất ra hàng hóa, hàng hóa đó cần được thực hiện bằng cách
đem bán để thu tiền về. Nhưng hàng hóa ở đây là tư bản hàng hóa vì bản thân
nó đã chứa đựng một lượng giá trị thặng dư được sáng tạo trong quá trình sản
xuất tức là: H’ = H + m. Vì vậy, chỉ cần tiến hành trao đổi ngang giá theo
đúng quy luật giá trị như các hàng hóa thơng thường khác cũng thu về được
T’ – số tiền trội hơn số tiền ứng ra ban đầu (T). Chức năng của H’ không chỉ
là chức năng hàng hóa mà cịn là chức năng thực hiện giá trị thặng dư được
tạo ra trong quá trình sản xuất. Kết thúc giai đoạn này, tư bản hàng hóa đã
chuyển thành tư bản tiền tệ. Như vậy, tư bản đã trở về hình thái ban đầu
nhưng với số lượng lớn hơn trước.
Như vậy, sư vận động của tư bản công nghiệp qua ba giai đoạn, đồng
thời cũng là q trình biến đổi các hình thái của nó để thực hiện các chức
năng khác nhau, làm cho giá trị của nó khơng ngừng được tăng lên. Đó chính
là q trình tuần hồn của tư bản.

5


Tuần hoàn của tư bản là sự vận động của tư bản trải qua ba giai đoạn
biến hóa qua ban hình thái, thực hiện ba chức năng để rồi trở về hình thái ban
đầu với giá trị khơng chỉ được bảo tồn mà còn tăng lên
2. Sự thống nhất của ba hình thái tuần hồn của tư bản cơng nghiệp.
Q trình vận động của tư bản chủ nghĩa trải qua ba giai đoạn, tư bản lần
lượt khốc lấy ba hình thái: tư bản tiền tệ, tư bản sản xuất và tư bản hàng hố.
Mỗi một hình thái đều có thể xem là điểm xuất phát, đồng thời là điểm hồi
quy của nó.
Tư bản cơng nghiệp là loại hình tư bản vận động đồng thời cùng một lúc
dưới cả ba dạng tuần hoàn: tuần hoàn của tư bản tiền tệ, tuần hoàn của tư bản
sản xuất, tuần hoàn của tư bản hàng hóa. Sau đây, ta đi sâu xem xét cụ thể
từng dạng tuần hồn đó

a. Tuần hồn của tư bản tiền tệ.
Tuần hoàn của tư bản tiền tệ vận động theo cơng thức:
SLĐ
T–H

… SX ….. H’ – T’
TLSX

Theo tuần hồn này, điểm xuất phát là T và điểm kết thúc là T’ (với T’ >
T). Do đó, tuần hồn của tư bản tiền tệ biểu thị một cách rõ rệt nhất động cơ
và mục đích của tư bản là giá trị tăng thêm giá trị, tiền đẻ ra tiền lớn hơn.
Trong tuần hoàn này, T là phương tiện ứng ra trong lưu thơng và T’ là mực
đích đạt được trong lưu thơng nên hình như lưu thơng đẻ ra giá trị lớn hơn,
còn giai đoạn sản xuất chỉ là khâu trung gian không thể tránh được, chỉ là một
“tai vạ” cần thiết để làm ra tiền, để tăng thêm giá trị. Chính vì vậy mà hình
thái tuần hồn của tư bản tiền tệ là hình thái nổi bật nhất, đặc trưng nhất của
tuần hồn tư bản cơng nghiệp. Đồng thời, nó cũng là hình thức phiến diện
nhất, che dấu bản chất bóc lột của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
b. Tuần hoàn của tư bản sản xuất.
Tuần hoàn của tư bản sản xuất vận động theo công thức:
6


SX .... H’ - T’ - H.... SX
Tuần hoàn của tư bản sản xuất nói lên sự vận động của tư bản, được lặp
đi lặp lại theo chu kì của tư bản sản xuất. Ở đây, tư bản hàng hóa được sinh ra
từ quá trình sản xuất, là kết quả trực tiếp của sản xuất. Còn tư bản tiền tệ chỉ
là phương tiện mua, chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho sản xuất, tức là chỉ
làm môi giới cho tư bản hàng hóa chuyển thành tư bản sản xuất. Tuần hoàn
của tư bản sản xuất đã vạch rõ nguồn gốc của tư bản đều từ quá trình sản xuất

mà ra. Dù trong quá trình tái sản xuất giản đơn, hay trong quá trình tái sản
xuất mở rộng. Nhưng tuần hồn của tư bản sản xuất lại khơng biểu thị được
việc sản xuất ra giá trị thặng dư, vì nó khơng hề chỉ ra mục đích của q trình
là làm tăng thêm giá trị. Ở đây, mục đích chỉ là sản xuất thật nhiều, thật rẻ và
nó cũng khơng nói rõ được sẽ có hiện tượng sản xuất “thừa tương đối”
c. Tuần hồn của tư bản hàng hố.
Tuần hồn của tư bản hàng hóa vận động theo cơng thức:
H’ - T’ - H ... SX .... H’
Khác với mọi hình thức tuần hoàn trên, tuần hoàn của tư bản hàng hóa
có điểm xuất phát bao giờ cũng bắt đầu bằng H’ – Một giá trị tư bản ứng trước
đã chứa đựng giá trị thặng dư. Bởi vậy, tuần hoàn của tư bản hàng hóa có
những đặc điểm sau:
Một là: Nó biểu hiện hình thái hàng hóa được sản xuất từ trong q trình
sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nên nó bao hàm cả tiêu dùng trong sản xuất và tiêu
dùng cá nhân
Hai là, Điểm kết thúc của quá trình vận động là H’ vẫn dưới hình thái là
hàng hóa. Nó chưa được chuyển hóa trở lại thành tiền đã tăng thêm giá trị (T)
Bởi vậy, nó sẽ là một hình thái chưa hồn thành, nó cần phải tiếp tục vận
động, nên nó bao hàm q trình tái sản xuất.
Ba là, tuần hồn của tư bản hàng hóa làm nổi bật sự liên tục của lưu
thông . Điểm bắt đầu tuần hoàn H’, điểm kết thúc tuần hoàn cũng là H’ nên nó
ln biểu hiện một khối lượng giá trị sử dụng được sản xuất ra để bán vì H’,
7


điểm bắt đầu tuần hồn địi hỏi lưu thơng, thì H’ điểm kết thúc cũng địi hỏi
ngay một q trình lưu thơng mới
Bốn là, hình thái tuần hồn này cịn trực tiếp biểu hiện mối quan hệ giữa
những người sản xuất hàng hoá với nhau. Bởi ai nấy cũng đều sản xuất hàng
hóa rồi ném vào lưu thơng để thu tiền về tiếp tục quá trình vận động thì việc

thu tiền về sẽ gặp nhiều khó khăn hơn và quá trình sản xuất tiếp theo sẽ bị hạn
chế lại
Như vậy là hình thái tuần hồn H’ ... H’ đã vạch rõ rằng sự thực hiện
hàng hoá là điều kiện thường xuyên của quá trình sản xuất - song cũng do q
nhấn mạnh tính liên tục của lưu thơng hàng hố, nên người ta có ấn tượng
rằng tất cả mọi yếu tố của quá trình sản xuất đều là do lưu thơng hàng hố mà
ra và chỉ gồm có hàng hố mà thơi.
Tóm lại, nếu xét riêng từng hình thái tuần hồn thì mỗi hình thái chỉ
phản ánh hiện thực tư bản chủ nghĩa một cách phiến diện. Do đó, khi làm nổi
bật mặt bản chất này thì lại che dấu mặt bản chất khác của sự vận động của tư
bản cơng nghiệp. Do đó ta phải xem xét đồng thời cả ba hình thái tuần hồn
mới nhận thức được đầy đủ sự vận động thực tế của tư bản, mới hiểu biết
đúng đắn bản chất của mối quan hệ tư bản chủ nghĩa biểu hiện trong sự vận
động đó.
Trong thực tế, cũng chỉ có sự thống nhất của cả ba hình thái tuần hồn
thì q trình vận động của tư bản mới có thể tiến hành một cách liên tục
khơng ngừng. Tuần hoàn của tư bản chỉ tiến hành được khi nào cả ba giai
đoạn chuyển tiếp một cách trôi chảy. Nếu một giai đoạn nào đấy bị ngừng trệ
thì tồn bộ q trình tuần hồn sẽ bị phá hoại. Vậy, muốn bảo đảm cho tuần
hồn của tư bản khơng ngừng liên tục chuyển hố hình thái qua các giai đoạn
kê tiếp nhau thì phải có hai điều kiện sau:
Thứ nhất, là toàn bộ tư bản phải được phân ra thành ba bộ phận tồn tại
đồng thời ở cả ba hình thái.

8


Thứ hai, mỗi bộ phận tư bản ở mỗi hình thái khác nhau đều phải không
ngừng liên tục trải qua ba hình thái ấy.
Hai điều kiện trên quan hệ chặt chẽ với nhau, ràng buộc lẫn nhau, làm

tiền đề cho nhau. Chỉ khi nào có sự sắp xếp kề nhau của các bộ phận tư bản
tồn tại đồng thời ở cả ba hình thái thì mới có sự kế tục nhau của các bộ phận
tư bản ấy.Ngược lại, cũng chỉ khi nào các hình thái tư bản kế tục nhau khơng
ngừng thì tư bản mới tồn tại đồng thời ở cả ba hình thái đó được.
B. CHU CHUYỂN CỦA TƯ BẢN
Sự vận động hay biến hóa hình thái của tư bản khơng phải chỉ diễn ra 1
lần, mà nó khơng ngừng lặp đi lặp lại. Sự vận động lặp đi lặp lại đó chính là
chu chuyển của tư bản. Chu chuyển của tư bản lá sự tuần hoàn của tư bản
được lặp đi lặp lại một cách có định kì.
1. Thời gian chu chuyển của tư bản.
Thời gian chu chuyển của tư bản là khoảng thời gian từ khi tư bản được
ứng ra dưới một hình thái nào đó cho đến khi thu về cũng dưới hình thái ấy,
nhưng có kèm theo giá trị thặng dư. Thời gian chu chuyển của tư bản là thời
gian mà tư bản trải qua các giai đoạn lưu thông và sản xuất trong quá trình
tuần hồn.Nó bao gồm: thời gian lưu thơng cộng với thời gian sản xuất.
a) Thời gian sản xuất
Thời gian sản xuất của tư bản là thời gian tư bản nằm trong lĩnh vực sản
xuất. Thời gian sản xuất bao gồm:
-Thời gian lao động, tức là thời gian người lao động sử dụng tư liệu lao
động tác động vào đối tượng lao động để tạo ra sản phẩm. Đây là thời gian
duy nhất tạo ra giá trị và giá trị thặng dư cho nhà tư bản
-Thời gian gián đoạn lao động: tức là thời gian đối tượng lao động hoặc
bán thành phẩm, chịu sự tác động của thiên nhiên mà không cần lao động của
con người tác động vào như: thóc giống ngâm thành mạ gieo, rượu ủ men, gỗ,
gạch để phơi khô…

9


-Thời gian dự trữ sản xuất, tức là thời gian tư bản sản xuất đã sẵn sàng

làm điều kiện cho quá trình sản xuất, nhưng chưa đưa vào sản xuất. Bộ phận
tư bản này là tư bản “ở góa”. Nó là điều kiện đáp ứng cho quá trình sản xuất
hoạt động không ngừng
Thời gian gián đoạn lao động và thời gian dự trữ sản xuất không tạo ra
giá trị và giá trị thặng dư. Do đó, rút ngắn các thời gian này là vấn đề có ý
nghĩa quan trọng đối với q trình sản xuất ra sản phẩm hàng hóa
Thời gian sản xuất của tư bản dài hay ngắn, do tác động của nhiều nhân
tố, chủ yếu là bốn nhân tố sau:
-Một là: tính chất của ngành sản xuất
-Hai là: vật sản xuất chịu sự tác động của quá trình tự nhiên dài hay ngắn
-Ba là: trình độ phát triển của khoa học kĩ thuật cao hay thấp
-Bốn là: dự trữ sản xuất đủ hay thiếu
b) Thời gian lưu thông:
Thời gian lưu thông của tư bản là thời gian tư bản nằm trong lĩnh vực
lưu thông
Thời gian lưu thông ngắn hay dài sẽ làm cho quá trình sản xuất được lặp
đi lặp lại nhanh hay chậm, khối lượng tư bản làm cho chức năng tư bản sản
xuất được nhiều lần hay ít, do đó hiệu quả của tư bản tức là việc sản xuất ra
giá trị thặng dư cao hay thấp.
Thời gian lưu thông gồm thời gian mua và thời gian bán. Trong đó, thời
gian bán quan trọng hơn và khó khăn hơn. Thời gian lưu thơng phụ thuộc vào
ba nhân tố sau:
-Một là: tình hình thị trường
-Hai là: khoảng cách thị trường
-Ba là: giao thông và các phương tiện giao thơng
2.Số vịng chu chuyển của tư bản
Do chịu ảnh hưởng của hàng loạt các nhân tố nên thời gian sản xuất và
thời gian lưu thông của các tư bản khơng thể giống nhau. Do đó, thời gian chu
10



chuyển của tư bản trong các ngành khác nhau cũng như trong cùng một ngành
rất khác nhau.
Thời gian chu chuyển của các tư bản dài, ngắn khác nhau như vậy, nên
muốn tính tốn và so sánh với nhau, người ta tính tốc độ chu chuyển của các
tư bản trong cùng 1 thời gian nhất định (1 năm) xem tư bản đã quay được mấy
vịng. Ta có cơng thức tính số vịng chu chuyển tư bản như sau:
CH
n=
ch
Trong đó: n: là số vòng chu chuyển của tư bản
CH: Thời gian 1 năm (12 tháng)
ch: Thời gian chu chuyển 1 vòng của tư bản
Thí dụ: Một tư bản chu chuyển một vịng mất 6 tháng thì số vịng chu
chuyển sẽ là:
12 tháng
n=

= 2 vòng
6 tháng

3. Tư bản cố định và tư bản lưu động.
Thời gian chu chuyển của tư bản bao gồm toàn bộ thời gian chu chuyển
của các bộ phận tư bản ứng ra để sản xuất. Nhưng do phương thức chu
chuyển của các bộ phận tư bản không giống nhau, nên vòng chu chuyển của
chúng cũng khác nhau. Căn cứ vào phương thức chu chuyển của các bộ phận
tư bản, người ta phân chia tư bản sản xuất thành tư bản cố định và tư bản lưu
động.
a)Tư bản cố định.
Tư bản cố định là bộ phận tư bản tham gia tồn bộ vào q trình sản

xuất, nhưng giá trị của nó chỉ chuyển từng phần sang sản phẩm
Tư bản cố định trước hết là bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thái tư liệu
lao động (máy móc, thiết bị, nhà xưởng …) Trong q trình sản xuất, nó
11


chuyển giá trị dần sang sản phẩm. Phần giá trị cố định như vậy trong tư liệu
lao động không ngừng giảm cho đến khi tư liệu lao động không dùng được
nữa. Tư liệu lao động càng bền, càng chậm hao mịn bao nhiêu thì giá trị của
nó được biểu hiện dưới hình thức sử dụng càng lâu bấy nhiêu.
Xếp vào tư bản cố định cịn có bộ phận tư bản như chất dùng để cải tạo
đất có tác dụng lâu dài trong nhiều chu kì sản xuất… giá trị của nó cũng được
chuyển dần vào sản phẩm
b)Tư bản lưu động
Tư bản lưu động là bộ phận tư bản khi tham gia vào q trình sản xuất
thì chuyển tồn bộ giá trị sang sản phẩm. Đó là bộ phận tư bản bất biền tiêu
dùng trong quá trình sản xuất như nguyên liệu, vật liệu phụ, nhiên liệu (gọi là
bộ phận tư bản bất biến lưu động) và bộ phận tư bản khả biến (v) cũng có
phương thức chuyển dịch giá trị như trên, nên cũng được xếp vào tư bản lưu
động
Việc phân chia tư bản sản xuất thành các bộ tư bản cố dịnh và tư bản lưu
động có tính chất tương đối mà thơi. Vì có những tư liệu sản xuất khi là tư
bản cố định, khi là tư bản lưu động tùy theo chức năng của nó trong quá trình
sản xuất.
Thí dụ: trâu bị dùng để kéo cày là tư bản cố định nhưng trâu bò thịt lại là
tư bản lưu động
c)Hao mịn hữu hình và hao mịn vơ hình
Trong quá trình sản xuất tư bản cố định bị hao mịn dần về mặt giá trị sử
dụng. Đi đơi với việc hao mịn vật chất, giá trị của nó cũng giảm dần do đã
chuyển từng phần sang sản phẩm. Q trình hao mịn về mặt giá trị đó gọi là

hao mịn hữu hình (hao mịn do sử dụng trong sản xuất, do phá hoại của thiên
nhiên sinh ra như máy móc bị han rỉ)
Ngồi hao mịn hữu hình, tư bản cố định cịn bị hao mịn vơ hình, tức là
hao mòn thuần túy về mặt giá trị, hao mòn vơ hình do các ngun nhân gây ra
sau:
12


Một là: do năng suất lao động tăng lên làm giảm giá trị của các máy móc
cũ (thế hệ trước) tuy giá trị sử dụng của chúng vẫn còn nguyên vẹn hoặc mới
hao mòn một phần.
Hai là: do tiến bộ của khoa học kĩ thuật giúp cho con người sản xuất
được những máy móc tối tân hơn, có cơng suất cao hơn các máy cũ. Vì vậy,
làm cho những máy cũ tuy giá trị sử dụng vẫn còn nguyên vẹn, nhưng giá trị
của nó lại bị giảm đi nhiều.
Hao mịn hữu hình và hao mịn vơ hình của tư bản cố định đểu được tính
chuyển giá trị vào sản phẩm hình thành nên quỹ khấu hao dùng để đổi mới tư
bản cố định. Để phát huy hiệu quả của tư bản, quỹ này có thể được đưa ra
mua sắm thêm máy móc để mở rộng sản xuất (phát triển theo chiều rộng)
hoặc cải tiến máy móc nhằm tăng thêm hiệu suất (phát triển theo chiều sâu)
Tư bản cố định phải được bảo quản chu đáo để tránh những hao mòn bất
thường, nâng cao được hiệu quả sử dụng của nó. Ngoài việc bảo quản, tư bản
cố định phải được bảo dưỡng, tu bổ, sửa chữa có định kì. Những chi phí dùng
cho việc bảo quản, sửa chữa cố định đó được tính vào giá cả sản phẩm sản
xuất ra. Trong quá trình sản xuất, để hạ được giá thành sản phẩm cần hết sức
tránh những hao mịn vơ ích trên đây.
4.Tác dụng và phương pháp làm tăng tốc độ chu chuyển của tư bản.
Trong quá trình sản xuất, tổng tư bản ứng trước cần được tăng tốc độ chu
chuyển. Tốc độ chu chuyển của tổng tư bản ứng trước được tính bằng tốc
độ chu

chuyển trung bình của tư bản cố định và tư bản lưu động. Theo công
thức sau
Giá trị chu chuyển của
Tốc độ chu

tư bản cố định

Giá trị chu chuyển của
+

tư bản lưu động

chuyển của tổng =
tư bản ứng trước

Tổng số tư bản ứng trước (trong năm)

13


Thí dụ: tổng số tư bản ứng trước là 100 000 USD. Trong đó, tư bản cố
định là 80 000 USD được sử dụng trong 10 năm. Tư bản lưu động là 20 000
USD cứ 2 tháng chu chuyển 1 lần,
Vậy tốc độ chu chuyển của tổng tư bản ứng trước bằng:
(80 000 USD: 10) + (20 000 x 6)

128 000
=

100 000


= 1,28 (lần)
100 000

Có thể rút ra ngun lí: tốc độ chu chuyển của tổng tư bản ứng trước tỷ
lệ thuận với tổng giá trị chu chuyển của của tư bản cố định và tư bản lưu
động, tỷ lệ nghịch với giá trị của tổng tư bản ứng trước. Vì vậy, tăng tốc độ
của tư bản sẽ làm tăng được hiệu quả sản xuất, có thể tránh được thiệt hại do
hao mịn vơ hình và tăng cường sử dụng được quỹ khấu hao vào việc mở rộng
và cải tiến sản xuất.
Đặc biệt, đối với tư bản lưu động , tăng tốc độ chu chuyển của tư bản có
tác dụng rất lớn. Như đối với bộ phận tư bản bất biến lưu động (nguyên liệu,
nhiên liệu, vật liệu…) nếu chu chuyển nhanh sẽ tiết kiệm được tư bản ứng
trước. Hoặc đối với tư bản khả biến lưu động, việc tăng tốc độ chu chuyển
của tư bản càng hết sức quan trọng. Nó có ý nghĩa quyết định làm tăng thêm
giá trị thặng dư
Thí dụ: có 2 tư bản là A và B, có lượng tư bản khả biến ứng ra bằng nhau
là 20 000 USD, có tỉ suất giá trị thặng dư như nhau m’ = 100%. Nhưng, tư
bản A mỗi năm chỉ chu chuyển được 1 vòng, còn tư bản B mỗi năm chu
chuyển được 2 vòng. Kết quả là:
Số lượng giá trị thặng dư tư bản A thu được:
20 000 USD x 100 % = 200 000 USD
Số lượng giá trị thặng dư tư bản B thu được:
(20 000 USD x 2) x 100% = 40 000 USD
Vậy số lượng giá trị thặng dư hai tư bản A và B thu được là khác nhau và
tỉ suất giá trị thặng dư hàng năm của 2 tư bản cũng khác nhau. Cụ thể:
14


Tỷ suất giá trị thặng dư hàng năm của tư bản A bằng:

m’ (A) = 20 000 / 20 000 x 100 % = 100 %
Tỷ suất giá trị thặng dư hàng năm của tư bản B bằng:
m’. (B) = 40 000 / 20 000 x 100 % = 200 %
Từ đó, ta rút ra nhận xét: hai tư bản khả biến ứng trước như nhau, nhưng
có tốc độ chu chuyển khác nhau, vì vậy tư bản khả biến sử dụng cũng khác
nhau và mặc dù tỷ suất giá trị thặng dư thực tế bằng nhau, nhưng tỉ suất giá trị
thặng dư hàng năm lại khác nhau
Thời gian chu chuyển của tư bản gồm có thời gian sản xuất và thời gian
lưu thông, nên muốn tăng tốc độ chu chuyển của tư bản cần hết sức rút ngắn
được các khoảng thời gian đó
Phương pháp để rút ngắn thời gian sản xuất thực hiện bằng cách áp dụng
kĩ thuật mới, cải tiến cách thức sản xuất, mở rộng phạm vi phân cơng hiệp tác,
cải tiến tổ chức và quản lí lao động, tăng cường độ lao động … Có như vậy
mới rút ngắn được thời gian lao động, rút ngắn quá trình tác động của tự
nhiện vào đối tượng lao động, rút ngắn được thời gian dự trữ sản xuất
Thời gian lưu thơng có thể rút ngắn bằng cách cải tiến chất lượng hàng
hóa, cải tiến mặt hàng, cải tiến mạng lưới và phương thức bán hàng. Đặc biệt
phải phát triển mạnh ngành giao thông vận tải, tăng cường việc thông tin
quảng cáo dưới nhiều hình thức khác nhau
Tóm lại: lý luận tuần hoàn và chu chuyển của tư bản vạch rõ sự vận động
của tư bản cá biệt cả về mặt chất và mặt lượng vận động của tư bản. Đồng
thời, lý luận tuần hoàn và chu chuyển của tư bản đã chỉ ra những phương thức
chuyển dịch giá trị của các bộ phận cấu thành nên tư bản sản xuất. Trên cơ sở
đó, lí luận tuần hồn và chu chuyển đã rút ra những nguyên lí lí luận, những
phương pháp tổ chức quản lí thích hợp nhằm rút ngắn thời gian sản xuất ra
sản phẩm, tăng vòng quay của tư bản … Đó cũng là những bài học vận dụng
quý báu trong sản xuất kinh doanh đối với chúng ta hiện nay

15



C. Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU LÍ LUẬN NÀY
1-Đặc điểm Việt Nam khi chuyển sang nền kinh tế thị trường:
Chuyển đôỉ nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của nhà nước là bước ngoặt quan trọng làm thay đổi đời sống kinh tế xã hội
đất nước.
Sự thành cơng hay khơng của q trình chuyển đổi quyết định sự thắng
lợi haykhông của sự nghiệp đổi mới.
Quá trình đổi mới những năm qua của nước ta cho thấy rằng việc chuyển
nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà
nước là phù hợp với xu hướng phát triển tất yếu khách quan của nền kinh tế,
phù hợp với xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế.
Thực tế hơn mười năm qua, từ Đại hội Đảng VI (1986), kinh tế Việt
Nam đã vượt qua những thăng trầm của những thập niên khủng hoảng, bước
vào thời kỳ phát triển ổn định và tăng trương cao, tạo ra những tiền đề rất
quan trọng để bước vào thời kỳ CNH.
Bức tranh kinh tế chung của Việt Nam trước đổi mới là tăng trưởng thấp
3,7%/năm, kinh tế tự cấp tự túc làm khơng đủ ăn dựa vào nguồn viện trợ bên
ngồi là chủ yếu, các doanh nghiệp sản xuất theo lệnh từ cấp trên đưa xuống,
sản phẩm làm ra do chính Nhà nước tìm cách tiêu thụ. Thu nhập quốc dân
trong nước, sản xuất chỉ đáp ứng được 80-90% thu nhập quốc dân sử dụng.
Đến năm 1985 tỷ trọng thu từ các nguồn viện trợ, cho vay từ bên ngoài chiếm
10,2% thu nhập quốc dân sử dụng.Nợ nước ngoài chồng chất, bội chi ngân
sách rất lớn và tăng dần:18,1% (1980), 36,6% (1985), buộc nhà nước phải
phát hành tiền để bù đắp. Cũng trong những năm đó, nền kinh tế rơi vào tình
trạng khủng hoảng nghiêm trọng, siêu lạm phát ở mức 774,7%(1986) kéo
theo giá cả leo thang và vô phương kiểm soát.
Vậy mà từ năm 1986, với đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng, các cơn
sốt do hậu quả của cơ chế quan liêu, tập trung bao cấp dần dà vơi đi kéo theo
sự ra đi của nguyên nhân khủng hoảng và suy thoái kinh tế. Kinh tế đã từng

16


bước khôi phục, tăng trưởng nhanh và ổn định, GDP liên tục tăng mạnh. Từ
khi chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, các doanh
nghiệp có trách nhiệm duy trì, bảo tồn và phát triển nguồn vốn hiện có, nghĩa
là doanh nghiệp tự mình sản xuất kinh doanh tự tìm “đầu vào” và “đầu ra”
cho doanh nghiệp.Về phía nhà nước lúc này chỉ quản lý các doanh nghiệp ở
tầm vĩ mơ. Do đó nghiên cứu lý thuyết tuần hồn của tư bản rất có ý nghĩa đối
vứi việc quản lý các doanh nghiệp của nước ta trong nền kinh tế thị trường có
sự quản lý của nhà nước.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, chúng ta còn phải đối mặt với
một số thách thức lớn như cơ sở hạ tầng và dịch vụ còn yếu kém, tiềm lực
kinh tế chưa đủ mạnh, sự phát triển kinh tế không đều giữa các vùng, các địa
phương... kéo theo sự phân hoá thu nhập giữa các tầng lớp dân cư... Song
nhìn chung, cơ cấu kinh tế quốc dân chuyển đổi theo hướng tích cực. Bộ mặt
đất nước đổi mới theo hướng văn minh và hiện đại, đời sống các tầng lớp
nhân dân được cải thiện cả ở thành thị và nông thôn, xã hội ổn định. Mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh đang từng bước trở thành
hiện thực.
2-Đánh giá việc quản lý sử dụng vốn của doanh nghiệp:
Trước năm 1986, nền kinh tế nước ta phát triển theo mơ hình tập trung
quan liêu bao cấp nên hầu hết các doanh nghiệp đều là của nhà nước. Sự phát
triển của các doanh nghiệp quốc doanh rất trì trệ, lạc hậu do thiếu vốn và do
thói ỷ lại vào nhà nước của các doanh nghiệp. Chủ yếu trong thời kỳ này là
các doanh nghiệp hoạt động theo sự chỉ đạo của nhà nước, chưa phát huy
được yếu tố nhân lực cũng như nguồn vốn của nhà nước.
Từ sau năm 1986 đến nay, nền kinh tế nước ta đã chuyển sang một thời
kỳmới. Môi trường hoạt động của các doanh nghiệp có những biến đổi sâu
sắc: nền kinh tế nhiều thành phần, nền kinh tế khép kín trước đây đã chuyển

dần sang nền kinh tế mở, các doanh nghiệp nhà nước được tiếp cận với thị
trường mới, kỹ thuật mới, cách quản lý mới. Nhưng đồng thời đứng trước
17


những thử thách khắc nghiệt của sự xâm nhập cạnh tranh quyết liệt của các
hàng ngoại trong cơ chế thị trường.
Vai trò, trách nhiêm, đường lối quản lý của doanh nghiệp có sự đổi mới
sâu sắc, tình trạng thiếu đồng bộ của chính sách luật lệ quản lý đã từng bước
được khắc phục.
Trong điều kiện đó, hệ thống doanh nghiệp nước ta bước đầu được sắp
xếp lai, số lượng các doanh nghiệp nhà nước tuy giảm so với trước nhưng
những doanh nghiệp đang hoạt động vẫn chiếm giữ những ngành then chốt.
Nhiều doanh nghiệp đã trụ vững và đã phát huy được vai trò định hướng,
trung tâm liên kết các thành phần kinh tế.
Tuy có đổi mới quan trọng, nhưng các doanh nghiệp nhà nước vẫn còn
những mặt yếu kém:
- Số lượng doanh nghiệp nhiều nhưng phần lớn là quy mơ nhỏ, bố trí
phân tán, 2/3 số doanh nghiệp có quy mơ dưới 200 lao động, 4% số doanh
nghiệp có quy mô trên 1000 lao động, 81,7% doanh nghiệp nhà nước có vốn
dưới 5 tỷ đồng Việt Nam.
- Trình độ cơng nghệ, kỹ thuật q lạc hậu, mức độ hồn chỉnh đồng bộ
thấp, do đó hao phí vật chất lớn, chất lượng sản phẩm kém, sản xuất không
năng suất nên khơng có khả năng cạnh tranh, hiệu quả sản xuất kinh doanh
thấp.
- Sự đóng góp của doanh nghiệp vào ngân sách nhà nước tương đối lớn
nhưng chưa tương xứng với sự đầu tư của nhà nước cho các doanh nghiệp.
- Hệ thống quản lý các doanh nghiệp còn nhiều yếu kém.
- Đội ngũ cán bộ, cơng nhân lành nghề trình độ chuyên môn thấp, chưa
được đào tạo căn bản hệ thống.

Từ thực tế trên, chúng ta phải sớm đưa ra những biện pháp để khắc phục
những tồn tại yếu kém trên.
-Thứ nhất, xác định đường lối sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp

18


Như chúng ta đã biết, hiện nay nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều
thành phần tương ứng với nó là nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Bên cạnh
các chính sách kinh tế khuyến khích thành lập doanh nghiệp ngày một nhiều.
Song việc thành công hay thất bại lại do rất nhiều yếu tố tác động. Nhưng
nhân tố then chốt là sự quyết định của nhà tư bản. Ngay từ đầu, doanh nghiệp
phải xác định cho mình một hướng đi đúng đắn, thích hợp nhất, đó là việc trả
lời ba câu hỏi: sản xuất cải gì ? sản xuất như thế nào ? và sản xuất cho ai ?.
Chỉ khi doanh nghiệp trả lời được ba câu hỏi này một cách đầy đủ, rõ ràng,
chính xác nhất thì hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ được
giải quyết tốt.
Như vậy, có thể nói, các doanh nghiệp đã thực hiện q trình tuần hồn
tư bản. Trả lời cho câu hỏi sản xuất cái gì doanh nghiệp cần có chiến lược
phân tích nhu cầu thị trường xem thị trường đang thiếu cái gì, mà nhu cầu về
mặt hàng này đang tăng mà nó sẽ mang lại nhiều lợi nhuận nhất cho doanh
nghiệp trong khả năng vốn hiện có. Sau đó nhà tư bản sẽ bỏ vốn để mua tư
liệu sản xuất như nguyên vật liệu, sức lao động, nhà xưởng... Đây là giai đoạn
vốn của doanh nghiệp từ hình thái tiền tệ chuyển sang hình thái hiện vật. Ở
giai đoạn này nhà tư bản phải biết cân đối vốn để mua tư liệu sản xuất và trả
lương cho cơng nhân theo tỷ lệ thích hợp. Nếu một trong hai nhân tố đó
khơng được phân bổ phù hợp sẽ làm cho q trình sản xuất khơng hiệu quả
ảnh hưởng tới sự tuần hoàn và chu chuyển của tư bản.
Dựa vào phân tích tốc độ chu chuyển của vốn các doanh nghiệp không
chỉ lên kế hoạch sản xuất kinh doanh mà còn phải xây dựng chiến lược kinh

doanh dài hạn bằng cách hình thành các quỹ như: quỹ đầu tư phát triển, quỹ
khấu hao, quỹ phúc lợi. Sau một thời gian sản xuất những quỹ này được đưa
ra sử dụng mở rộng sản xuất, cải tiến máy móc, nhập các dây truyền sản xuất
hiện đại làm tăng năng suất lao động, giảm chi phí cá biệt, giảm giá thành sản
phẩm, để tăng tính cạnh tranh trên thị trường.
-Thứ hai: tiết kiệm tư bản ứng trước.
19


Các máy móc thiết bị sau một thời gian dài hoạt động sẽ bị hao mòn dần,
chuyển một phần giá trị vào sản phẩm. Ngồi việc cải tiến máy móc, nhập
thêm những dây truyền sản xuất tiên tiến, hiện đại các doanh nghiệp phải dựa
vào kinh nghiệm sản xuất kinh doanh mà dự tính trước những cơng việc khấu
hao tài sản cố định.
Mặt khác để tránh hao mịn vơ hình, doanh nghiệp phải hết sức tiết kiệm
các chi phí bảo quản và sửa chữa bằng các nâng cao ý thức người lao động
đối với việc sử dụng máy móc, tăng cường sử dụng hết công suất để thu hồi
vốn nhanh và thu nhiều lợi nhuận trong thời gian ngắn nhất.
Thứ ba: Đưa ra các giải pháp tăng tốc độ chu chuyển vốn
Muốn quay vòng vốn nhanh để tiếp tục một chu kỳ sản xuất mới các
doanh nghiệp phải ra sức rút ngắn thời gian sản xuất và thời gian lưu thơng vì
nó là thành phần tạo nên thời gian chu chuyển của vốn. Các doanh nghiệp ỏ
nước ta trong cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước thường đưa ra các
giải pháp sau để rút ngắn thời gian sản xuất
- áp dụng khoa học kỹ thuật hiện đại để tăng năng suất lao động. Bên
cạnh nhập khẩu một số dây truyền hiện đại các doanh nghiệp không nên bỏ
qua những dây chuyền có khả năng sử dụng bằng cách bán lại cho những
doanh nghiệp cần nó.
- Mở rộng quan hệ để liên doanh, liên kết. Việt Nam là một trong những
nước nghèo nhất trên thế giới. Do đó liên doanh liên kết là con đường ngắn

nhất để bắt kịp với sự tiến bộ của thế giới.
- Cải tiến bộ máy tổ chức và quản lý lao động. Hiện nay một số doanh
nghiệp nhà nước có cơ cấu tổ chức cồng kềnh, dẫn đến việc giải quyết công
việc chậm chạp, chồng chéo lên nhau, vi phạm quyền hạn và trách nhiệm của
người này với người khác. Vì vậy các doanh nghiệp cần phải tinh giản tối đa
cơ cấu hành chính. Cịn đối với người lao động trực tiếp phải bố trí thời gian
làm việc hợp lý 40 giờ một tuần đồng thời trả lương và những phần thưởng

20


xứng đáng cho người lao động để họ có thời gian và vật chất để cải thiện đời
sống, khiến họ làm việc có năng suất và hiệu quả hơn.
Cịn để rút ngắn thời gian lưu thông cần sử dụng các biện pháp sau:
- Các doanh nghiệp phải thường xuyên nghiên cứu thị trường, nắm bắt
đựơc tâm lý, nhu cầu của người tiêu dùng để từ đó có quyết định mở rộng hay
thu hẹp sản xuất mặt hàng của doanh nghiệp trên thị trường.
- Thường xuyên cải tiến mặt hàng, làm phong phú các chủng loại, phù
hợp với mọi đối tượng, độ tuổi, giới tính. Sự đa dạng của hàng hố đem lại lợi
ích rất lớn: khơng những thoả mãn tối đa nhu cầu của người tiêu dùng mà còn
tận dụng những tư liệu sản xuất chưa dùng đến và giảm thiểu rủi ro trong kinh
doanh.
- áp dụng các hình thức thanh toán linh hoạt, xác định rõ các thị trường
để phân phối các hàng hố sao cho thích hợp nhất.
-Thứ tư: Hạn chế rủi ro trong kinh doanh
Trong cơ chế thị trường sự cạnh tranh diễn ra hết sức khốc liệt, nó tạo ra
nhiều cơ hội làm ăn mới song cũng chứa đầy thử thách và đe doạ. Nắm bắt
được quy luật tuần hoàn và chu chuyển vốn, các doanh nghiêp tận dụng nhiều
cơ hội để đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh.
3. Các giải pháp để quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả

Vốn ln là một bài tốn hóc búa đối với các doanh nghiệp. Trong giai
đoạn nước ta hiện nay nhu cầu về vốn để đổi mới cơng nghệ và phát triển rất
lớn. Đi tìm lời giải về vốn cho các doanh nghiệp là một vấn đề mang tính thời
sự và thiết thực.
3.1 Đối với việc tạo vốn đầu tư:
Để hình thành và thúc đẩy các nguồn vốn đầu tư cho doanh nghiệp,
chính phủ ban hành đồng bộ, đầy đủ cơ chế chính sách về huy động vốn để
tạo hành lang pháp lý cho doanh nghiệp thực hiện việc huy động vốn.
- Đối với ngân hàng và các tổ chức tín dụng: nhà nước cần có chính sách
lãi suất tiền vay hợp lý, phù hợp với tình hình thực tế hiện tại của các doanh
21


nghiệp, có chính sách chú trọng việc mở rộng vay dài hạn để doanh nghiệp
vừa có khả năng đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị, vừa cân đối khả năng trả
nợ... Muốn vậy, nhà nước cần tiếp tục cải cách chính sách tiền tệ tạo ra điểm
gặp nhau giữa cung và cầu về vốn, mục tiêu chính là giải quyết ba vấn đề:
chính sách lãi suất, tỷ giá và quản lý ngoại hối.
- Đối với các tổ chức xã hội, đồn thể: khuyển khích các tổ chức xã hội
(bảo hiểm xã hội và các công ty bảo hiểm thương mại...), tham gia cho doanh
nghiệp vay vốn để tận dụng nguồn vốn nhàn rỗi của các cơ quan này, đồng
thời mở rộng thị trường vốn trong nước, đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư của
doanh nghiệp
- Đối với quần chúng nhân dân, người lao động: xây dựng một chính
sách huy động vốn cụ thể, trong đó quy định trần lãi suất, hình thức vay trả...
Nên gắn lợi ích người lao động với hình thức huy động vốn như việc làm, thu
nhập...
- Đối với khu vực doanh nghiệp:
+ Khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng hình thức thuê mua, thuê vận
hành. Đây là những giải pháp cho doanh nghiệp thiếu vốn muốn đầu tư đổi

mới công nghệ, thiết bị. Song để áp dụng hình thức này chúng ta cần hình
thành những cơng ty th mua có chức năng hỗ trợ doanh nghiệp trong việc
lựa chọn bạn hàng, đánh giá chất lượng máy móc thiết bị...
+ Thực hiện việc liên doanh liên kết giữa các doanh nghiệp với các
thành phần kinh tế khác để thu hút nguồn tài chính, trình độ quản lý, cơng
nghệ của những đối tác này. Song có một vấn đề nhà nước cần quan tâm là
quyền lợi của doanh nghiệp trong kinh doanh.
+ Cho phép những doanh nghiệp làm ăn hiệu quả vay lại những nguồn
vốn viện trợ của nước ngồi.
+ Chính phủ cần xúc tiến, đẩy mạnh việc ra đời thị trường chứng
khống để tạo mơi trường cho việc phát hành trái phiếu, cổ phiếu để huy động
vốn cho doanh nghiệp.
22


+ Tiếp tục sắp xếp, củng cố khu vực doanh nghiệp, đẩy mạnh cơng tác
cổ phần hố.
Việc sắp xếp khu vực doanh nghiệp thời gian qua đã có những bước tiến
đáng mừng: thu hẹp lại khu vực DNNN, nâng cao hiệu quả hoạt động của khu
vực kinh tế này.
3.2 - Đối với việc quản lý và sử dụng vốn trong doanh nghiệp.
Để thực hiện tốt cơng tác này phải có sự kết hợp từ hai phía: Nhà nước
và doanh nghiệp, trong đó khuyến khích nâng cao tinh thần trách nhiệm của
doanh nghiệp (cá nhân và tập thể cán bộ công nhân viên). Nhà nước chỉ đóng
vai trị giám sát.
Về phía Nhà nước:
- Nhà nước cần sớm triển khai việc đánh giá hệ số tín nhiệm đối với các
doanh nghiệp để từ đó áp dụng những ưu đãi với mức độ khác nhau đối với
từng doanh nghiệp: Những doanh nghiệp có hệ số tín nhiệm cao sẽ được ưu
tiên vay vốn trước, vay số lượng lớn, trong trường hợp cần thiết có thể lấy uy

tín làm yếu tố đảm bảo vay.
- Bất kỳ một dự án vay vốn nào của doanh nghiệp đều phải được xem xét
tính hiệu quả và khả năng trả nợ mới được phép triển khai. Tăng cường công
tác hoạt động kiểm tra giám sát để kịp thời pháp hiện những sai phạm trong
việc huy động vốn, việc lập đề án , việc sử dụng vốn, việc tích luỹ vốn trả nợ.
Cơ quan quản lý doanh nghiệp cần xây dựng những nguyên tắc kiểm tra,
kiểm soát thường niên các báo cáo tài chính của doanh nghiệp chế độ giám sát
tình hình sử dụng và huy động vốn tại doanh nghiệp, có ý kiến kịp thời trước
sự thay đổi nguồn vốn tại doanh nghiệp. Phải gắn quyền lợi và trách nhiệm
quản lý doanh nghiệp trước sự thiếu hụt mất mát tài sản, tiền vốn.
Về phía doanh nghiệp.
- Vấn đề cốt lõi để quản lý sử dụng tốt nguồn vốn là hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp phải thực sự hiệu quả, doanh nghiệp phải làm
ăn có lợi nhuận phải có tích luỹ. Muốn vậy, doanh nghiệp phải tự đánh giá lại
23


mình về khả năng cạnh tranh, nguồn lực của doanh nghiệp. Từ đó xây dựng
kế hoạch kinh doanh cho phù hợp. Nghị định 59/CP ban hành ngày 3/10/1996
đã quy định cụ thể hơn cơ chế quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh của
doanh nghiệp, song cần xây dựng hồn chỉnh các chính sách kinh doanh,
phương hướng phát triển của từng ngành, từng lĩnh vực một cách cụ thể để
từng doanh nghiệp xác định nhiệm vụ, kế hoạch cho mình.
- Nghị định 59/CP là một bước tiến trong việc nâng cao hiệu quả công
tác quản lý, sử dụng và phát triển tài sản và tiền vốn tại doanh nghiệp. Tuy
nhiên, quyền lợi và trách nhiệm của ban lãnh đạo, ban kiểm soát nội bộ doanh
nghiệp cần được quy định cụ thể hơn: Mức độ chịu trách nhiệm, biện pháp xử
lý, cấp quyết định xử lý….
- Nhanh chóng hình thành ban kiểm soát, kiểm toán nội bộ doanh nghiệp
để giúp doanh nghiệp kịp thời phát hiện những sai sót về sử dụng vốn trong

hoạt động.
Quy định trách nhiệm của cá nhân, tập thể trong việc đi vay, cho vay, bảo
lãnh vay, sử dụng vốn vay và trả nợ.

24


KẾT LUẬN
Sản xuất kinh doanh bao giờ cũng gắn với mỗi đơn vị kinh tế cụ thể bao
giờ cũng diễn ra ở cơ sở, ở các doanh nghiệp. Sức mạnh và hiệu quả của nền
kinh tế nói chung là do sức mạnh và hiệu quả của các doanh nghiệp tạo nên.
Một nước có nhiều doanh nghiệp mạnh hoạt động có hiệu quả thì nền kinh tế
của đất nước mạnh và ngược lại. Quản lý Nhà nước về kinh tế chính là để tạo
ra môi trường cho các doanh nghiệp hoạt động, kích thích, điều tiết và hướng
dẫn các hoạt động của các doanh nghiệp
Nghiên cứu vấn đề này có ý nghĩa thực tiễn rất lớn đối với nước ta. Vì
nước ta đã chuyển sang nền kinh tế thị trường nên trong sản xuất kinh doanh
đòi hỏi chúng ta phải quay vòng vốn nhanh, sử dụng vốn một cách hợp lý để
đem lại hiệu quả kinh tế cao. Để đạt được mục đích kinh tế thì chúng ta phải
nghiên cứu vấn đề này để đưa ra các phương thức quản lý Nhà nước về kinh
tế, góp phần làm cho đất nước phát triển nhanh, mạnh trên con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội, rút ngắn khoảng cách tụt hậu so với các nước trong khu vực
và trên thế giới. Đây cũng chính là lý do tất yếu phải nghiên cứu đề tài: “Lý
luận tuần hoàn và chu chuyển của tư bản của Các Mác, ý nghĩa của việc
nghiên cứu lí luận này”.

25



×