Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

PLLT & BGQG - Bai luan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.06 KB, 18 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

ĐỀ TÀI: NGUN TẮC CÁC QUỐC GIA
CĨ NGHĨA VỤ HỢP TÁC VỚI NHAU
ĐẶT TRONG BỐI CẢNH ĐẠI DỊCH
COVID-19

Môn học: Pháp luật về lãnh thổ
và biên giới quốc gia

Nhóm … - Lớp: ………

Thành phố Hồ Chí Minh - năm 2021


Trang 1


DANH SÁCH CÁC THÀNH VIÊN TRONG NHÓM
STT

HỌ VÀ TÊN

MSSV

1
2
3
4
5


6
7
8
9
10

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quan hệ quốc tế, khi đề cập đến các nguyên tắc cơ bản của Luật Quốc tế,
người ta thường nói đến ba loại nguyên tắc, đó là: nguyên tắc cơ bản, nguyên tắc pháp
luật chung và ngun tắc chun ngành. Nhóm chúng tơi lựa chọn đi sâu vào phân
tích nguyên tắc cơ bản của Luật Quốc tế, để thấy được những vai trò của nó trong việc
xây dựng, thực thi và tuân thủ Luật Quốc tế.


Nguyên tắc cơ bản của Luật Quốc tế có thể hiểu là những chuẩn mực hành vi
của các chủ thể luật quốc tế, được thể hiện một cách cô đọng, khái quát, được thừa
nhận chung về những vấn đề quan trọng hơn cả của đời sống quốc tế trong một giai
đoạn lịch sử nhất định. Trong Luật Quốc tế hiện đại, những nguyên tắc cơ bản có ý
nghĩa lớn đối với việc đảm bảo hịa bình, an ninh quốc tế, phát triển hợp tác giữa các
quốc gia. Những nguyên tắc cơ bản của Luật Quốc tế được ghi nhận trong Hiến
chương Liên hợp quốc, có hiệu lực pháp lý bắt buộc đối với các nước thành viên Liên
hợp quốc và các chủ thể các của quốc tế. Những nguyên tắc này được tiếp tục phát
triển và pháp điển hóa trong Tuyên bố về các nguyên tắc của Luật Quốc tế được Đại
hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 24/10/1970 liên quan đến quan hệ hữu nghị
và hợp tác giữa các quốc gia thể theo Hiến chương Liên hợp quốc (1970).
Nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau là một trong những
nguyên tắc cơ bản của Luật Quốc tế. Trong Luật Quốc tế hiện đại, các quốc gia là

những thực thể có chủ quyền, bình đẳng với nhau về chủ quyền, hành động với tư
cách là chủ thể độc lập, không chịu sự can thiệp của các chủ thể khác. Xu thế tất yếu
của tiến trình phát triển quan hệ quốc tế chính là sự hội nhập, sự hợp tác trên cơ sở các
bên cùng có lợi lại đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ của các quốc gia. Sự hợp tác quốc tế
giữa các quốc gia trong tất cả các lĩnh vực không phụ thuộc vào chế độ chính trị, kinh
tế, xã hội và nhằm duy trì hồ bình, an ninh quốc tế đã được pháp luật hố. Theo Hiến
chương, các quốc gia có nghĩa vụ “tiến hành hợp tác quốc tế để giải quyết các vấh đề
kinh tế, xã hội, văn hoá và nhân đạo trên phạm vi quốc tế” cũng như “duy trì hồ bình
và an ninh quốc tế bằng cách tiến hành các biện pháp tập thể có hiệu quả”.
Đặc biệt hơn hết, trong giai đoạn đại dịch Covid-19 bùng phát mạnh mẽ trong
cộng đồng thì ngun tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau lại cần thiết và
cấp bách hơn bao giờ hết. Có thể thấy chỉ trong một khoảng thời gian, dịch bệnh bùng
phát khắp các nước ở hầu hết các châu lục, tác động to lớn đến nhiều quốc gia trên thế
giới. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã chính thức tuyên bố sự bùng phát của dịch
Covid-19 do chủng mới virus SARS-CoV-2 gây ra là đại dịch toàn cầu sau khi dịch
bệnh lây lan nhanh tại nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. WHO định nghĩa
đại dịch toàn cầu là một căn bệnh bùng phát và lây lan trên phạm vi toàn thế giới.
Tổng Giám đốc WHO Tedros Adhanom Ghebreyesus cũng đã có phát biểu rằng: “Đây
khơng chỉ đơn thuần là một cuộc khủng hoảng về sức khỏe cộng đồng, mà cuộc khủng
hoảng này sẽ tác động đến tất cả mọi lĩnh vực. Do đó, tất cả mọi lĩnh vực và mọi
người đều phải tham gia cuộc chiến này”.


Nhìn lại gần hai năm qua khi đại dịch Covid-19 xuất hiện khiến mọi thứ đảo
lộn, có thể thấy các nước trên thế giới đã thực thi rất có hiệu quả ngun tắc này, ln
nỗ lực duy trì đồn kết, thúc đẩy hợp tác nội khối cũng như với các đối tác nhằm ứng
phó, phục hồi sau dịch bệnh, đồng thời giữ vững đà xây dựng cộng đồng. Vì vậy,
nhóm chúng tôi quyết định nghiên cứu đề tài “Nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ
hợp tác với nhau đặt trong bối cảnh đại dịch Covid-19” để phân tích rõ nét hơn về
cơ sở của nguyên tắc này, cũng như thực tế áp dụng của các quốc gia trên thế giới

trong giai đoạn bị tác động của dịch bệnh.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu

Phân tích, đánh giá thực tế vận dụng nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp
tác với nhau đặt trong bối cảnh đại dịch Covid-19, tổng hợp và đưa ra nhận xét. Qua
đó nêu lên ý kiến, quan điểm của nhóm về vấn đề này; đề xuất một số kiến nghị, giải
pháp thực hiện trong thời gian tới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Tổng quan tình hình nghiên cứu về các nguyên tắc cơ bản của Luật Quốc tế.
Tập trung phân tích vào nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau.
Sau đó, tập trung phân tích, đánh giá vận dụng nguyên tắc các quốc gia có
nghĩa vụ hợp tác với nhau đặt trong bối cảnh đại dịch Covid-19. Tổng hợp các đánh
giá của nhiều nhóm tác giả, từ đó rút ra những ưu điểm, hạn chế, phân tích các nguyên
nhân của các hạn chế đó.
Cuối cùng, nêu lên ý kiến, quan điểm của nhóm về vấn đề này; đề xuất các kiến
nghị và giải pháp để ứng phó, phục hồi sau dịch bệnh.


NỘI DUNG
1. Các nguyên tắc cơ bản của Luật Quốc tế
1.1. Định nghĩa các nguyên tắc cơ bản của Luật Quốc tế
Nguyên tắc cơ bản của Luật Quốc tế là những tư tưởng chính trị, pháp lý mang
tính chỉ đạo, bao trùm, có giá trị bắt buộc chung (Jus cogens) đối với mọi chủ thể Luật
Quốc tế, hình thành hệ thống cấu trúc bên trong của Luật quốc tế. Trong Luật Quốc tế,
các nguyên tắc cơ bản tồn tại dưới dạng những quy phạm Jus cogens được ghi nhận ở
điều ước quốc tế và tập quán quốc tế.
Nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế thực hiện hai chức năng quan trọng là ổn
định quan hệ quốc tế và ấn định khuôn khổ xử sự cho các chủ thể trong quan hệ quốc

tế, qua đó tạo điều kiện cho quan hệ quốc tế phát triển.
Cũng giống như hệ thống pháp luật quốc gia, xét về cấu trúc bên trong, bên
cạnh các quy phạm pháp luật, các chế định luật, các ngành luật, Luật quốc tế cũng tồn
tại các nguyên tắc cơ bản. Về phương diện pháp lý quốc tế, thuật ngữ “các nguyên tắc
cơ bản của Luật Quốc tế” dùng để chỉ các nguyên tắc được ghi nhận trong điều 2 Hiến
chương Liên hợp quốc ngày 24/10/1945 và được ghi trong Tuyên bố “về các nguyên
tắc cơ bản của Luật Quốc tế điều chỉnh mối quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa các quốc
gia phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc ngày 24/10/1970”
1.2. Đặc điểm các nguyên tắc cơ bản của Luật Quốc tế
1.2.1.Tính mệnh lệnh

Trong các đặc điểm trên thì đặc điểm về tính mệnh lệnh chung là quan trọng
nhất. Bởi vì nó tạo ra cơ sở pháp lý quan trọng để các nguyên tắc cơ bản của Luật
quốc tế chi phối lại các nguyên tắc pháp luật chung và nguyên tắc chuyên ngành.
Tính mệnh lệnh được biểu hiện ở chỗ:
-

Tất cả các loại chủ thể đều phải tuyệt đối tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của
Luật Quốc tế.
Khơng một chủ thể hay nhóm chủ thể nào của Luật quốc tế có quyền hủy bỏ
nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế.
Bất kỳ hành vi đơn phương nào không tuân thủ triệt để nguyên tắc cơ bản của
Luật quốc tế đều bị coi là sự vi phạm nghiêm trọng pháp luật quốc tế.
Các quy phạm điều ước và tập quán quốc tế có nội dung trái với các nguyên tắc
cơ bản của Luật quốc tế đều không có giá trị pháp lý.


-

Ngồi ra, đối với các lĩnh vực có các ngun tắc chuyên biệt như: Luật Biển

quốc tế, Luật hàng không dân dụng quốc tế, các bên còn phải chấp hành các
nguyên tắc chuyên biệt trong từng lĩnh vực cụ thể.
1.2.2.Tính bao trùm

Nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế là chuẩn mực để xác định hợp pháp của
toàn bộ hệ thống các quy phạm pháp lý quốc tế. Đồng thời chúng được thực hiện
trong tất cả các lĩnh vực của quan hệ quốc tế giữa các quốc gia.
1.2.3.Tính hệ thống

Các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế có mối quan hệ mật thiết với nhau
trong một chỉnh thể thống nhất. Biểu hiện ở chỗ: việc tôn trọng hay phá vỡ nguyên tắc
này sẽ làm ảnh hưởng đến nội dung và việc tuân thủ nguyên tắc khác.
1.2.4.Tính thừa nhận rộng rãi

Đặc trưng này được thể hiện ở chỗ: các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế
được áp dụng trong phạm vi toàn thế giới, đồng thời chúng được ghi nhận trong hầu
hết các văn bản pháp lý quốc tế quan trọng như: Hiến chương Liên hợp quốc, Tuyên
bố năm 1970 về các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế, Định ước Hen-xin-ki năm
1975 về an ninh và hợp tác các nước châu Âu, Hiệp ước thân thiện và hợp tác Đông
Nam Á, …
1.3. Bảy nguyên tắc cơ bản của Luật Quốc tế

Theo Tuyên bố ngày 24/10/1970 thì các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế gồm bảy
nguyên tắc sau đây:
-

Nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia;
Nguyên tắc không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ
quốc tế;
Nguyên tắc hịa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế;

Ngun tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác;
Nguyên tắc dân tộc tự quyết;
Nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau;
Nguyên tắc Pacta sunt servanda.


2. Nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau
2.1. Sự hình thành nguyên tắc

Như đã đề cập, xu thế tất yếu của tiến trình phát triển quan hệ quốc tế hiện nay
là sự hội nhập, là sự hợp tác trên cơ sở các bên cùng có lợi. Thế nên việc pháp luật hóa
trong các văn bản pháp lý quốc tế quan trọng là cơ sở nền tảng để hình thành nên
nguyên tắc.
Và ý tưởng về sự hợp tác giữa các quốc gia lần đầu tiên được tthể hiện trong
khoản 3 điều 4 Hiến chương Liên hợp quốc, rằng một trong những mục đích của tổ
chức là “thực hiện sự hợp tác quốc tế trong việc giải quyết các vấn để quốc tế kinh tế,
xã hội, văn hóa và nhân đạo, khuyến khích và phát triển dsự tôn trọng các quyền của
con người và tự do cơ bản cho tất cả mọi ngừoi không phjân biệt chủng tộc, nam nữ,
ngôn ngữ hoặc tôn giáo”. Mặc dù Hiến chương Liên hợp quốc không ghi nhận nghĩa
vụ các quốc gia phải hợp tác với nhau như một trong những nguyên tắc cơ bản của
Luật quốc tế, nhưng trong nhiều điều khoản của Hiến chương lại nhắc đến sự hợp tác
giữa các quốc gia như là nguyên tắc tồn tại của cộng đồng quốc tế.
Cũng trong Tuyên bố năm 1970 của Đại hội đồng Liên hợp quốc về các nguyên
tắc của Luật quốc tế đã mở rộng nội dung pháp lý của nguyên tắc này, theo đó “các
quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau trong các lĩnh vực của quan hệ quốc tế không
phụ thuộc vào hệ thống chính trị, kinh tế và văn hóa, nhằm mục đích duy trì hồ bình,
an ninh quốc tế và góp phần vào việc ổn định kinh tế thế giới, vì sự phồn vinh chung
của các dân tộc và hợp tác quốc tế”.
2.2. Nội dung nguyên tắc


Nội dung nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác vói nhau được quy định
rõ trong hai điều 55 và 56 của Hiến chương. Đặc biệt, Điều 55 quy định hai nghĩa vụ
của các quốc gia, thành viên Liên hợp quốc là nghĩa vụ hợp tác với nhau để thực hiện
tơn chỉ, mục đích của Hiến chương và nghĩa vụ hợp tác với tổ chức Liên hợp quốc để
đạt được những mục đích kể trên. Luật quốc tế khơng quy định các hình thức và mức
độ hợp tác cụ thể dành cho các quốc gia trong quan hệ quốc tế. Các hình thức và mức
độ hợp tác tuỳ thuộc vào chính bản thân các quốc gia, tuỳ thuộc vào nhu cầu, điều
kiện vật chất và khả năng sẵn sàng thích ứng của hệ thống pháp luật. Hình thức và
mức độ hợp tác này hồn tồn phụ thuộc vào chính quyết định của các quốc gia, xuất
phát từ tình hình thực tế và năng lực của mỗi quốc gia.


Ví dụ: Trong khn khổ EU, trên cơ sở bình đẳng và tự nguyện, các quốc gia
đã đạt được mức độ hợp tác cao nhất trong hầu hết các lĩnh vực. Nhắc đến EU, người
ta thường nhắc đến một liên minh thống nhất, giữa các quốc gia thành viên của nó gần
như khơng tồn tại đường biên giới quốc gia.
Nghĩa vụ hợp tác còn thể hiện ở việc các quốc gia phải hành động phù hợp với
các nguyên tắc của Liên hợp quốc. Điều này có nghĩa là các quốc gia phải thể hiện nỗ
lực giải quyết các vấn đề quốc tế thông qua sự hợp tác, phối hợp với nhau. Ngay cả
các quốc gia không phải là thành viên Liên hợp quốc cũng phải tôn trọng các nguyên
tắc của Hiến chương vì điều này cần thiết cho cơng cuộc duy trì hồ bình và an ninh
quốc tế.
Tun bố về các nguyên tắc của luật quốc tế 1970 lần đầu tiên đã quy định cụ
thể nội dung của nguyên tắc này, bao gồm:
Quốc gia phải hợp tác với các quốc gia khác trong việc duy trì hồ bình và an
ninh quốc tế.
- Các quốc gia phải hợp tác để khuyến khích sự tơn trọng chung và tn thủ
quyền con người và các quyền tự do cơ bản khác của cá nhân, thủ tiêu các hình
thức phân biệt tơn giáo, sắc tộc, chủng tộc.
- Các quốc gia phải tiến hành quan hệ quốc tế trong lũih vực kinh tế, xã hội, văn

hoá, thương mại và kỹ thuật, cồng nghệ theo các ngun tắc bình đẳng về chủ
quyền, khơng can thiệp vào công việc nội bô.
- Các quốc gia thành viên Liên hợp quốc phải thực hiện các hành động chung
hay riêng trong việc hợp tác vói Liên hợp quốc theo quy định của Hiến chương.
- Các quốc gia phải hợp tác trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội và văn hố, khoa
học, cơng nghệ nhằm khuyến khích sự tiến bộ về văn hố, giáo dục, phát triển
kinh tế trên tồn thế giới, đặc biệt là tại các nưởc đang phát triển.
3. Tuân thủ nguyên tắc hợp tác với nhau trong bối cảnh đại dịch Covid-19
3.1. Tổng quan tình hình đại dịch Covid-19
-

Virus Corona là chủng virus mới chưa từng xuất hiện ở người, có tên gọi từ
nguồn gốc tiếng Latin. Vi rút Corona là chủng virus được bao bọc bằng những chiếc
gai bao bọc bên ngoài, tương tác với thụ thể trên tế bào, theo cơ chế tương tự chìa
khóa và ổ khóa, từ đó cho phép virus xâm nhập vào bên trong. Bùng phát vào cuối
tháng 12/2019, bắt nguồn từ một chợ hải sản ở Hồ Nam, Vũ Hán, miền Trung Trung
Quốc, virus Corona ban đầu được xác nhận là một loại bệnh “viêm phổi lạ” hoặc
“viêm phổi không rõ nguyên nhân”. Chỉ sau 100 ngày xuất hiện, đại dịch viêm đường
hô hấp cấp do virus Corona đã nhanh chóng tác động tới các lĩnh vực kinh tế, xã hội,
thị trường tài chính chao đảo, nền kinh tế tồn cầu rơi vào suy thoái với tỷ lệ thất
nghiệp và nghèo đói chưa từng có trong lịch sử.


Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cho biết tên gọi chính thức của bệnh viêm đường
hơ hấp cấp do chủng mới của vi-rút corona (nCoV) là Covid 19. Tên gọi mới này gọi
tắt của coronavirus disease 2019, theo các từ khóa “corona”, “virus”, “disease” (dịch
bệnh) và 2019 là năm mà loại virus gây đại dịch này xuất hiện.
Tháng 2/2020, Ủy ban quốc tế về phân loại Virus – International Committee on
Taxonomy of Viruses (ICTV) chính thức đặt tên cho chủng mới của vi-rút corona là
Sars-CoV-2. Đây là tên gọi khác với tên Covid 19 mà WHO đã chỉ định trước đó.

Ngày 11 tháng 3 năm 2020, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) ra tuyên bố gọi “COVID19” là “Đại dịch toàn cầu”. Đại dịch này đã gây ảnh hưởng mạnh trên toàn thể giới cả
về sinh mạng con người lẫn sự bất ổn về kinh tế và xã hội, và đến nay vẫn chưa có dấu
hiệu dừng lại. Số ca mắc COVID-19 trên thế giới ghi nhận đến tối ngày 10/8/2021 cụ
thể như sau:
Cả thế giới có 204.287.807 ca mắc, trong đó 183.465.516 khỏi bệnh; 4.320.088
tử vong và 16.502.203 đang điều trị (100.468 ca diễn biến nặng). Trong đó, tại
Việt Nam là 3.241 ca COVID-19
- Trong ngày số ca mắc của thế giới tăng 182.290 ca, tử vong tăng 4.427 ca.
- Châu Âu tăng 27.261 ca; Bắc Mỹ tăng 7.768 ca; Nam Mỹ tăng 608 ca; châu Á
tăng 143.242 ca; châu Phi tăng 2.752 ca; châu Đại Dương tăng 659 ca.
- Tại Đông Nam Á, trong ngày ghi nhận 61.352 ca, trong đó: Indonesia tăng
32.081 ca, Thái Lan tăng 19.843 ca, Philippines tăng 8.560 ca, Campuchia tăng
499 ca, Lào tăng 315 ca, Singapore tăng 54 ca. (Theo Suckhoedoisong.vn)
3.2. Sự hợp tác giữa các quốc gia trong cuộc chiến chống đại dịch
-

Có thể nói rằng thế giới đang phải đối mặt với nhiều thách thức lớn về sức
khỏe, từ sự bùng phát các bệnh dịch có thể phịng ngừa bằng vắc-xin như sởi và bạch
hầu, sự gia tăng vi sinh vật kháng thuốc tới những tác động lên sức khỏe do ơ nhiễm
mơi trường, biến đổi khí hậu và khủng hoảng nhân đạo. Bắt đầu từ cuối năm 2019 đến
nay, đại dịch COVID-19 đã lan ra tại 210 quốc gia và vùng lãnh thổ, với gần 200 triệu
ca nhiễm. Gần đây hơn, đà lây nhiễm đã tăng vọt với nhiều biến thể mới. Theo hãng
tin Pháp AFP, trung bình đã có hơn 600.000 ca nhiễm hàng ngày được phát hiện trên
toàn thế giới trong bảy ngày vừa qua, tăng 68% so với mức thấp đạt được vào giữa
tháng 6/2021 (360.000 trường hợp mắc mới mỗi ngày). Dịch bệnh vẫn tiếp tục diễn
biến phức tạp tại nhiều nơi trên thế giới và gây nên tác động tiêu cực đối với các hoạt
động kinh tế, xã hội trên toàn cầu, nhiều châu lục, cũng như khu vực ASEAN và Việt
Nam. Bên cạnh đó, khơng chỉ gây thiệt hại lớn về người, đại dịch còn ảnh hưởng rất
nghiêm trọng đến mọi mặt đời sống kinh tế, xã hội của các quốc gia trên thế giới và
đặc biệt là các hoạt động hợp tác, giao lưu.

Sau gần hai năm bùng phát, đến thời điểm hiện tại, đại dịch Covid-19 vẫn chưa
có dấu hiệu suy giảm trên toàn thế giới, tác động toàn diện tới mọi mặt đời sống kinh


tế - xã hội của nhiều quốc gia. Trong bối cảnh như vậy, chỉ có sự đồn kết, hợp sức
mới có thể đẩy lùi được dịch bệnh. Bởi lý chính những khủng hoảng và tác động tiêu
cực từ đại dịch đã và đang đặt ra những thách thức chưa từng có trong quan hệ quốc
tế. Tuy nhiên, bên cạnh việc thúc đẩy hợp tác và tăng cường đoàn kết chống đại dịch,
có thể thấy thế giới cũng đang có tình trạng bị chia rẽ, xung đột lợi ích nghiêm trọng
trong giải quyết các vấn đề do đại dịch gây ra. Chỉ khi nào các nước có tiếng nói
chung, có các hành động phối hợp tồn cầu thì mới có thể mang lại hiệu quả trong
việc giải quyết các mối đe dọa của đại dịch Covid-19. Hợp tác quốc tế chính là nhân
tố quan trọng mang tính quyết định để giải quyết đại dịch lần này. Phải thừa nhận một
sự thật rằng trong cuộc khủng hoảng y tế toàn cầu hiện nay, khơng một quốc gia nào
có thể đủ khả năng và nguồn lực để đơn lẻ đối phó. Sức ảnh hưởng ghê gớm của dịch
bệnh thậm chí có thể sẽ thay đổi vị trí và vị thế của các quốc gia trên bản đồ quốc tế.
Trong suốt thời gian vừa qua, vận dụng một cách thiết thực và hiệu quả nguyên
tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau trong các nguyên tắc cơ bản của Luật
Quốc tế, các quốc gia trên toàn thế giới đã nhiều hành động cùng bắt tay để vượt qua
đại dịch. Sự hợp tác giữa các quốc gia trong cuộc chiến chống đại dịch Covid-19 được
thể hiện chủ yếu ở hai hình thức:
-

Hợp tác, viện trợ về y tế nhằm chống lại đại dịch:

Đại dịch Covid-19 đã thúc đẩy sự hợp tác quốc tế lên đến một “mức độ chưa
từng có” để giải quyết khủng hoảng do đại dịch gây ra. Sự thiếu hụt tạm thời các thiết
bị bảo hộ y tế trong những ngày đầu của đợt bùng phát đại dịch khiến các nhân viên y
tế và người dân có nguy cơ bị nhiễm bệnh cao hơn đã trở thành mối đe dọa khẩn cấp
quốc tế. Là đất nước có ca nhiễm Covid đầu tiên và bùng phát thành dịch, Trung Quốc

có nhu cầu vật tư y tế khẩn cấp, đặc biệt là các thiết bị bảo hộ cá nhân như mặt nạ và
quần áo bảo hộ y tế. Nhu cầu này ngày một tăng theo cấp số nhân trong tháng 1 và
tháng 2 năm 2020. Trước tình hình cấp bách này, cộng đồng quốc tế đã cùng chung
tay giúp Trung Quốc giảm bớt tình trạng thiếu hụt các nguồn cung cấp y tế khẩn cấp.
Tính đến ngày 02/3/2020, tổng cộng 62 quốc gia và 7 tổ chức quốc tế đã quyên góp
mặt nạ, quần áo bảo hộ và các vật tư y tế khẩn cấp cần thiết khác cho Trung Quốc.
Tháng 2/2020, Nhật Bản thông qua Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA) cũng
đã cung cấp cho Trung Quốc hơn 4,8 triệu khẩu trang, 229.000 bộ quần áo bảo hộ và
419.000 găng tay cũng như các vật tư y tế khẩn cấp khác. Về phía mình, ngay sau khi
khả năng sản xuất các trang thiết bị y tế khẩn cấp được phục hồi, Chính phủ Trung
Quốc đã cung cấp hỗ trợ vật tư y tế cho ít nhất 89 quốc gia khác và 4 tổ chức quốc tế.


Mặc dù cịn có những bất đồng giữa Trung Quốc và các nước thuộc Hiệp hội
các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), đáng chú ý nhất là các tranh chấp ở Biển Đông,
nhưng những động lực nhân đạo và mối đe dọa chung do dịch bệnh gây ra đã khiến
những khác biệt đó tạm thời được gạt sang một bên, vì một mục tiêu chung. Ngay khi
dịch bùng phát, vào tháng 3/2020, các nước ASEAN đã thực hiện các bước để giúp
Trung Quốc trong cuộc chiến chống dịch COVID-19. Tại Indonesia, một cơng ty con
thuộc Tập đồn Sinar Mars đã quyên góp 14,4 triệu USD, trong khi một đơn vị khác
gấp rút sản xuất các sản phẩm bảo vệ và vệ sinh để trao cho tỉnh Hồ Bắc, nơi được
xem là tâm dịch Covid-19. Thêm vào đó, Chính phủ Singapore đã quyên góp thuốc,
vật tư y tế và bộ dụng cụ xét nghiệm chẩn đoán cho Trung Quốc, đồng thời cung cấp 1
triệu USD tài trợ hạt giống. Hội Chữ thập đỏ Singapore cũng đã gây quỹ để hỗ trợ các
cộng đồng bị ảnh hưởng nặng nề nhất. Malaysia - nhà sản xuất găng tay y tế lớn nhất
thế giới - đã tặng Vũ Hán 18 triệu đôi găng tay y tế. Hội Chữ thập đỏ Philippines
quyên góp được 3 triệu khẩu trang và cùng Chính phủ Philippines tặng Trung Quốc
các mặt hàng thực phẩm và vệ sinh cơ bản.
Chính phủ và nhân dân Việt Nam cũng rất tích cực trong công tác hỗ trợ vật tư,
thiết bị y tế đến các nước bị ảnh hưởng bởi đại dịch. Việt Nam đã quyên góp hàng hóa

và vật tư y tế trị giá 500.000 USD; gửi tặng Chính phủ và nhân dân Lào, Campuchia,
Myanmar các trang thiết bị y tế như quần áo bảo hộ, khẩu trang y tế, khẩu trang kháng
khuẩn, hệ thống xét nghiệm cùng bộ xét nghiệm dịch Covid-19 trị giá hơn 7 tỷ đồng
cho mỗi quốc gia. Hội Chữ thập đỏ Việt Nam cung cấp viện trợ y tế trị giá 100.000
USD cho nhân dân Trung Quốc. Không chỉ dừng lại việc hỗ trợ cho các nước trong
khu vực, Việt Nam đã trao tượng trưng số hàng hỗ trợ phòng chống dịch Covid-19 cho
Mỹ và một số nước châu Âu.
Hợp tác quốc tế không chỉ thể hiện qua việc hỗ trợ tiền, vật tư, kỹ thuật y tế
khẩn cấp mà còn là sự hỗ trợ về nguồn nhân lực y tế. Khi biết về sự bùng phát của
virus SARS-CoV-2, Tổ chức Y tế thế giới đã tập hợp qua các nền tảng thực và ảo hơn
400 nhà virus học và chuyên gia kiểm soát dịch bệnh thế giới để kiểm tra nguồn gốc
của virus nhằm đưa ra kế hoạch ngăn chặn và xác định các ưu tiên nghiên cứu. Ngay
trong những tháng đầu tiên khi mới bùng phát đại dịch, hơn 40 tài liệu hướng dẫn đã
được xuất bản trên website của Tổ chức Y tế thế giới nhằm cung cấp các khuyến nghị
chi tiết, có căn cứ cho các chính phủ, bệnh viện, nhân viên y tế, người dân. Hơn 1
triệu nhân viên y tế đã được đào tạo qua các khóa học của tổ chức Open WHO. Tổ
chức Y tế thế giới cũng đưa ra bộ công cụ đánh giá hành vi nhằm thu thập được những


thơng tin chính xác, nhanh chóng về nhận thức rủi ro, hiểu biết, hành vi và niềm tin
của cộng đồng đối với việc phịng chống đại dịch COVID-19.
Ngồi ra, Tổ chức Y tế thế giới, Quỹ Liên Hợp quốc và các đối tác đã thành lập
Quỹ ứng phó với COVID-19, cho phép tất cả các quốc gia - đặc biệt là những nước dễ
bị tổn thương, có hệ thống y tế yếu kém và có nguy cơ mắc dịch cao nhất - có điều
kiện chuẩn bị và ứng phó với những khủng hoảng do đại dịch gây ra. Chỉ sau hai tuần
từ khi phát động, Quỹ đã nhận được khoản quyên góp lên tới hơn 108 triệu USD từ
203.000 cá nhân và tổ chức trên thế giới.
Để giải quyết có hiệu quả đại dịch Covid-19, Tổ chức Y tế thế giới đã kêu gọi
các nước hướng tới các hành động; kết nối và phối hợp với nhau một cách có trách
nhiệm để bảo đảm rằng các biện pháp do một quốc gia đưa ra không làm tổn hại đến

các quốc gia khác; tiếp tục tạo điều kiện đáp ứng với các nguồn lực, tất cả mọi người
hành động đoàn kết và bảo đảm rằng những người dễ bị tổn thương nhất được hỗ trợ;
khuyến khích các cộng đồng và các thành phần của xã hội tham gia và thúc đẩy hành
động của tất cả các chính phủ.
-

Các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc, hội nghị nhằm hợp tác, chia sẻ kinh nghiệm chống
đại dịch Covid-19

Ngay từ khi đại dịch mới bắt đầu, nhiều cuộc điện đàm, gặp gỡ, tiếp xúc, hội
nghị đã liên tục diễn ra nhằm tìm ra tiếng nói, tìm ra những biện pháp hành động
chung trong cơng cuộc phòng chống đại dịch giữa các quốc gia trên thế giới. Từ
những ngày đầu tiên của đại dịch, Bộ trưởng Ngoại giao các nước ASEAN và Trung
Quốc đã gặp nhau để thảo luận về các biện pháp chung chống lại mối đe dọa của đại
dịch Covid-19. Cuộc họp đã giải quyết khơng chỉ về khía cạnh y tế của cuộc khủng
hoảng, mà cả các tác động xã hội và kinh tế của nó cũng như khả năng khai thác cơng
nghệ để giảm thiểu ảnh hưởng của đại dịch. Trong tuyên bố chung của hội nghị, 11
quốc gia đã đồng ý tăng cường hợp tác chia sẻ thông tin y tế cũng như trong các hoạt
động thực tiễn để tăng cường khả năng chuẩn bị và ứng phó trong các trường hợp
khẩn cấp.
Tiếp đó là Hội nghị truyền hình của Bộ trưởng Ngoại giao Nhóm G7 được tổ
chức ngày 25/3 đã nhấn mạnh sự cần thiết phải tăng cường hợp tác quốc tế để chiến
đấu với Covid-19 và hỗ trợ quan trọng cho Tổ chức Y tế thế giới trong hoàn cảnh đối
phó trực tiếp với cuộc khủng hoảng cũng như tăng cường các hệ thống y tế và nghiên
cứu khoa học.


Một tuyên bố về Covid-19 đã được đưa ra tại Hội nghị thượng đỉnh các nhà
lãnh đạo G20 được tổ chức vào ngày 26/3 nhằm kêu gọi một phản ứng toàn cầu minh
bạch, mạnh mẽ và sự phối hợp trên quy mô lớn và dựa trên cơ sở khoa học với tinh

thần đoàn kết để chống lại đại dịch. Các nước đều đã đạt được sự đồng thuận cao về
quan điểm, bao gồm thực hiện tất cả các biện pháp y tế cần thiết và việc tìm cách bảo
đảm tài chính đầy đủ để ngăn chặn đại dịch và bảo vệ mọi người, đặc biệt là những
người dễ bị tổn thương nhất.
Hội nghị lần thứ 25 Hội đồng Điều phối ASEAN (ACC) tổ chức trực tuyến
ngày 9/4 đã khẳng định cam kết đoàn kết chặt chẽ giữa các nước ASEAN nhằm kiểm
soát, ngăn ngừa lây lan của dịch bệnh; hỗ trợ người dân các nước ASEAN chịu tác
động của dịch bệnh, trong đó có hỗ trợ lãnh sự cho cơng dân ASEAN sinh sống, làm
việc và học tập ở các quốc gia thành viên của nhau và ở các nước thứ ba; giảm thiểu
các tác động kinh tế - xã hội của dịch bệnh.
Đối với khối ASEAN, Nhìn lại gần 2 năm qua khi đại dịch Covid-19 xuất hiện
khiến mọi thứ đảo lộn, có thể thấy các nước ASEAN đã ln nỗ lực duy trì đồn kết,
thúc đẩy hợp tác nội khối cũng như với các đối tác nhằm ứng phó, phục hồi sau dịch
bệnh, đồng thời giữ vững đà xây dựng cộng đồng và vai trò trung tâm trong khu vực.
Trước những diễn biến phức tạp của dịch Covid-19, các nước thành viên đều
nhấn mạnh tính cấp thiết của việc tăng cường các biện pháp kiểm soát dịch bệnh, bảo
đảm nguồn cung vaccine. Tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 36 (tháng 6/2020), các
nhà lãnh đạo ASEAN đã thành lập Quỹ ASEAN ứng phó Covid-19 nhằm hỗ trợ tài
chính các nước thành viên. Với mong muốn giảm các tác động của dịch bệnh và thúc
đẩy phục hồi trong ASEAN, Khung phục hồi tổng thể ASEAN và các kế hoạch triển
khai đã được thông qua tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 37 (tháng 11/2020). Theo
đó, ASEAN tập trung thực hiện các sáng kiến, biện pháp cụ thể trong ba giai đoạn
chính là tái mở cửa, phục hồi và tự cường. Tính đến tháng 6/2021, đã có 28 sáng kiến
được hoàn tất, 73 sáng kiến đang được xem xét và 68 sáng kiến đang trong quá trình
triển khai. ASEAN cũng ra Tuyên bố về việc tiến tới thành lập hành lang đi lại
ASEAN, nhằm tạo thuận lợi cho việc đi lại trong khối, bảo đảm tuân thủ các quy định
y tế của khu vực và từng nước thành viên, đồng thời hỗ trợ phục hồi kinh tế sau dịch
bệnh. Ðến nay, ASEAN đã nhất trí được một số nội dung về quy định đi lại, an toàn y
tế và phịng dịch... Bên cạnh đó, Hiệp hội cũng thành lập Trung tâm ASEAN về ứng
phó các tình huống y tế công cộng khẩn cấp và dịch bệnh mới nổi nhằm nâng cao

năng lực và khả năng sẵn sàng ứng phó.


Trong bối cảnh tình hình khu vực, quốc tế có những diễn biến phức tạp,
ASEAN đã và đang tiếp tục khẳng định tiếng nói chung, thúc đẩy đối thoại và hợp tác,
phát huy vai trò trung tâm của Hiệp hội, đóng góp tích cực vào hịa bình, ổn định và
phát triển chung của khu vực nói riêng và trên tồn thế giới nói chung.
Ở Việt Nam, lãnh đạo Việt Nam đã chủ động điện đàm với nhiều nhà lãnh đạo
trên thế giới để trao đổi về việc hợp tác phòng, chống đại dịch Covid-19 và thúc đẩy
quan hệ song phương, như cuộc điện đàm của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn
Phú Trọng với Tổng thống Nga Vladimir Putin khẳng định việc hai bên nhất trí tăng
cường hợp tác phịng chống đại dịch Covid-19, cũng như tiếp tục quan tâm, hỗ trợ kịp
thời công dân hai nước; điện đàm của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc với Thủ tướng
Pháp Edouard Philippe; điện đàm của Phó Thủ tướng Bộ trưởng Ngoại giao Phạm
Bình Minh với Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Thụy Sĩ Ignazio Cassis, ... Cho đến nay, Việt
Nam vẫn là một trong số ít quốc gia được đánh giá là khống chế thành công đại dịch
Covid-19 với số ca tử vong tương đối thấp so với nhiều nước khác trên thế giới.
Những kinh nghiệm phòng chống đại dịch Covid-19 của Việt Nam được nhiều nước
đánh giá cao, nhất là việc sớm nhận thức được tính chất nguy hiểm của Covid-19, chủ
động ngay từ đầu, với quyết tâm chính trị cao, coi “chống dịch như chống giặc”,
Chính phủ đã kiên quyết thực hiện đồng bộ, linh hoạt nhiều biện pháp, trong đó có
cách ly tập trung người Việt Nam về nước, người nước ngoài vào Việt Nam và các đối
tượng tiếp xúc với các ca dương tính đã được phát hiện; nhất là khoanh vùng, tập
trung dập dịch tại các ổ dịch. Bên cạnh đó, phải kể đến là các biện pháp ứng phó sớm,
đồng bộ, linh hoạt và quyết liệt, huy động sự tham gia của tồn bộ hệ thống chính trị,
các cấp, các ngành và nhân dân, trong đó có sự trợ giúp và sử dụng các cơ sở của quân
đội. Có thể nói, những nỗ lực hợp tác, chia sẻ kinh nghiệm chống đại dịch Covid-19
của các quốc gia đã giúp hạn chế, ngặn chặn được phần nào sự lây lan và tiến triển của
đại dịch.
Chia sẻ một số câu chuyện thành công nổi bật tại các quốc gia thành viên

ASEAN, TS. Intan Murnira Ramli, Chuyên gia chính sách, Phịng Thiết kế chính sách,
Viện Nghiên cứu Kinh tế khu vực ASEAN và Đông Á (ERIA) đánh giá cao Đề án 30
của Việt Nam về cải cách Thủ tục hành chính. Đề án đã đơn giản hóa ít nhất 30% số
thủ tục hành chính và hạ thấp ít nhất 30% chi phí hành chính; thành lập cơ sở dữ liệu
quốc gia về tất cả các thủ tục hành chính (5.700 thủ tục hành chính) mà mọi người đều
có thể truy cập; tiêu chuẩn hóa 11.000 thủ tục hành chính ở cấp xã vào 63 nhóm thủ
tục tạo sự minh bạch và nhất quán hơn; thực hiện đánh giá tác động của quy định


(RIA) đối với các thủ tục hành chính mới trong các dự thảo luật, nghị định và thông
tư; cắt giảm rất nhiều chi phí…
Các quốc gia đã hợp tác với nhau, một cách chính thức và phi chính thức, để
cùng nhau trao đổi, thiết kế, triển khai hoặc thực thi quy định. Chính nhờ hợp tác quốc
tế về quy định mà chúng ta có thể hạ thấp rào cản thương mại và đầu tư (cắt giảm chi
phí tuân thủ quy định tại nhiều thị trường; hỗ trợ sự tham gia ở mức độ cao hơn vào
chuỗi giá trị/mạng lưới sản xuất tồn cầu); nâng cao hiệu quả của chính sách và quy
định; nâng cao năng lực và khả năng quy định, xây dựng lòng tin và niềm tin.


KẾT LUẬN
Đối thoại, hợp tác được hiểu là việc các bên tự nguyện đứng ra thỏa thuận,
thương lượng với nhau về mọi vấn đề. Việc đối thoại, hợp tác này phải dựa trên cơ sở
của sự bình đẳng, thiện chí, tôn trọng ý kiến của nhau, cùng nghĩ tới lợi ích của mình
và của các bên cịn lại. Đồng thời, mỗi bên nghiêm chỉnh thực hiện các vấn đề mà cả
hai đã thỏa thuận được với nhau. Vì thế cho nên khơng phải ngẫu nhiên mà Luật Quốc
tế lại có nguyên tắc cơ bản về nghĩa vụ các quốc gia phải hợp tác với nhau là như vậy.
Thử hỏi, nếu mỗi quốc gia là mỗi cá thể đơn lẻ, hoạt động riêng lẻ và tách mình hẳn
khối chung của quần thể, thì liệu rằng thế giới có đạt tới những tầm cao mới? Liệu
rằng mối liên hệ, kết nối giữa các cá thể với nhau có cịn tồn tại để cùng duy trì và
phát triển xã hội chung?

Xu thế tồn cầu hóa hiện nay đã và đang đẩy mạnh các chủ thể của Luật quốc
tế, mà chủ yếu là các quốc gia phải nghĩ tới vấn đề đối thoại và hợp tác. Bởi vì nó liên
quan mật thiết đến sự phát triển, tồn vong của từng quốc gia khi đặt chân vào sân chơi
chung của thế giới. Đặc biệt là đối với những đất nước đang hội nhập mạnh mẽ vào
cộng đồng quốc tế chẳng hạn như Việt Nam chúng ta, chúng ta đã và đang thực hiện
nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hồ bình, hợp tác và phát triển với
chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các mối quan hệ quốc tế
theo phương châm: Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy với tất cả các nước trong cộng
đồng quốc tế. Không chỉ với riêng Việt Nam mà đây có lẽ cịn là phương châm của số
nhiều quốc gia khác trên thế giới nếu không muốn bị thụt lùi giữa xu thế tồn cầu hóa
hiện nay, kể cả trong điều kiện ổn định bình thường chứ khơng riêng thời điểm khủng
hoảng bởi đại dịch toàn cầu như vậy.
Vẫn biết rằng thế giới đang tồn tại sự bất đồng, leo thang của xung đột liên
quan đến đại dịch Covid-19 và ngày càng được bộc lộ rõ ràng; cạnh tranh địa chính trị
của cuộc khủng hoảng theo nghĩa tiêu cực nhất của nó cũng đang dần bộc lộ, thế
nhưng, việc đổ lỗi, tố cáo lẫn nhau giữa các quốc gia ở thời điểm này hồn tồn khơng
giải quyết được vấn đề của đại dịch, mà chỉ làm cho nó trở nên trầm trọng và căng
thẳng hơn. Những hành động mang tính hợp tác, chia sẻ giữa các quốc gia trong
phòng chống đại dịch Covid-19 tuy có thể chưa thực sự trở thành xu hướng chủ đạo
nhưng từ khi bắt đầu xuất hiện đại dịch cho đến nay, nhưng phải thừa nhận rằng đã có
rất nhiều bằng chứng về sự đồn kết, hợp tác giữa các quốc gia trong phòng chống đại
dịch. Chính những sự hỗ trợ kịp thời về vật tư, thiết bị y tế của nước này với nước
khác trong tâm dịch cũng như những hợp tác về y tế, chia sẻ, trao đổi thông tin đã


khẳng định tinh thần hợp tác quốc tế của các quốc gia trong việc đối phó với các thảm
họa. Trong cuộc chiến chống đại dịch Covid-19, trên tinh thần hợp tác quốc tế, Việt
Nam luôn sẵn sàng phối hợp chặt chẽ, trao đổi kinh nghiệm, chung tay cùng các nước
và cộng đồng quốc tế triển khai các biện pháp cần thiết trong khuôn khổ song phương
và đa phương với quyết tâm sớm đẩy lùi và khống chế dịch bệnh.

Từ những phân tích nói trên, nhóm chúng tơi nhận thấy được rằng, sự hợp tác, sự đoàn
kết giữa các quốc gia chính là cơ hội, là chìa khóa để tìm ra các giải pháp hữu hiệu
vượt qua khủng hoảng bởi đại dịch Covid-19, cũng như tạo điều kiện tốt cho việc
phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội sau đại dịch. Virus gây ra đại dịch Covid-19
hồn tồn khơng có quốc gia, chủng tộc, khơng có ý thức hệ, không biết phân biệt
biên giới lãnh thổ. Chỉ khi nào các nước đều có tiếng nói chung, đều có các hành động
phối hợp tồn cầu thì mới có thể mang lại hiệu quả cao nhất trong việc giải quyết các
mối đe dọa của đại dịch Covid-19 tại thời điểm này và trong việc bảo vệ môi trường
cũng như ngăn chặn nguy cơ bùng phát những đại dịch tương tự trong tương lai.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu Tiếng Việt
[1]

Trường Đại học Luật Hà Nội, (Năm 2019), Giáo trình Luật quốc tế, NXB Công
an nhân dân.

[2]

Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh (Năm 2019), Giáo trình Cơng pháp
quốc tế, Quyển 1, NXB Hồng Đức.

[3]

Hiến chương liên hợp quốc (1945);

[4]

Tuyên bố về các nguyên tắc của luật quốc tế điều chỉnh quan hệ hữu nghị và
hợp tác giữa các quốc gia phù hợp với hiến chương liên hiệp quốc (1970);


Website
[5] World Health Organization: Timeline of WHO’s response to COVID-19,

/>[6] Trung
Quốc - ASEAN: Hợp tác chống dịch COVID-19,
/>[7] G20 Saudi Arabia 2020. Extraordinary G20 Leaders' Summit: Statement on
COVID-19, a. go.jp/mofaj/files/100032142.pdf
[8] ASEAN khẳng định cam kết đoàn kết chặt chẽ trong cuộc chiến chống
COVID-19,
/>

[9] Cuộc chiến chống Đại dịch COVID-19: Một Việt Nam trách nhiệm trong khu

vực và trên thế giới, />[10]Tạp chí Khoa học pháp lý Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh,
/>


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×