Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

ỔI THẢO LUẬN THỨ sáu QUY ĐỊNH về DI CHÚC bộ môn pháp luật về tài sản, quyền sở hữu tài sản và quyền thừa kế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (280.43 KB, 27 trang )

Khoa Quản Trị
Lớp Quản trị - Luật 44B2

BUỔI THẢO LUẬN THỨ SÁU

QUY ĐỊNH VỀ DI CHÚC
Bộ môn: Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu tài sản và quyền thừa kế
Giảng viên: ThS. Nguyễn Tấn Hồng Hải
Nhóm: 02
Thành viên:
1

Ngơ Huỳnh Ngọc Trâm

1953401020242

2

Bùi Thị Đoan Trang

1953401020250

3

Trần Thị Thanh Trang

1953401020255

4

Nguyễn Võ Nhã Trúc



1953401020267

5

Nguyễn Doãn Thanh Uyên

1953401020283

6

Trần Ngọc Thu Uyên

1953401020285

7

Đỗ Thị Kiều Vương

1953401020288

8

Nguyễn Lê Thanh Xuân

1953401020296

9

Võ Thị Bạch Yến


1953401020303

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 13 tháng 4 năm 2020


MỤC LỤC
VẤN ĐỀ 1:

HÌNH THỨC CỦA DI CHÚC......................................................................1
Tóm tắt Bản án số 83/2009/DSPT ngày 28/12/2009 của Tòa án nhân dân tỉnh
Phú Yên.................................................................................................................1
Tóm tắt Quyết định số 874/2011/DS-GĐT ngày 22/11/2011 của Tòa dân sự Tòa
án nhân dân tối cao................................................................................................1
1.1. Điều kiện về hình thức để di chúc tự viết tay có giá trị pháp lý? Nêu cơ sở
pháp lý khi trả lời..................................................................................................2
1.2. Nếu di chúc của ông Này là di chúc phải có người làm chứng thì những
người đã làm chứng di chúc của ơng Này có là người làm chứng hợp pháp
không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.....................................................................3
1.3. Di chúc của ơng Này có là di chúc do ông Này tự viết tay không? Vì sao?. . .4
1.4........ Suy nghĩ của anh/ chị về hướng giải quyết trên của Tịa án liên quan đến
hình thức di chúc của ông Này khi đây là di chúc do ông Này tự viết tay.............5
1.5. Di chúc của cụ Hựu đã được lập như thế nào?...............................................6
1.6. Cụ Hựu có biết chữ khơng? Đoạn nào của Quyết định số 874 cho câu trả lời?
.............................................................................................................................. 6
1.7. Di chúc của người không biết chữ phải thỏa mãn các điều kiện nào để có
hình thức phù hợp với quy định của pháp luật?.....................................................6
1.8. Các điều kiện nào nêu trên đã được áp dụng đối với di chúc của ông Hựu?. .7
1.9. Các điều kiện nào nêu trên đã không được áp dụng đối với di chúc của ơng
Hựu?...................................................................................................................... 7

1.10. Theo anh/chị, di chúc nêu trên có thỏa mãn điều kiện về hình thức khơng?
Vì sao?..................................................................................................................9
1.11. Suy nghĩ của anh/chị về các quy định trong BLDS liên quan đến hình thức
di chúc của người khơng biết chữ........................................................................10

VẤN ĐỀ 2: TÀI SẢN ĐƯỢC ĐỊNH ĐOẠT THEO DI CHÚC................11
Tóm tắt Quyết định số 359/2013/DS-GĐT ngày 28/8/2013 của Tòa dân sự Tịa
án nhân dân tối cao..............................................................................................11
Tóm tắt Quyết định số 58/2018/DS-GĐT ngày 27/9/2018 của Tòa án nhân dân
cấp cao tại Hà Nội...............................................................................................11


2.1. Cụ Hương đã định đoạt tài sản nào? Đoạn nào của Quyết định số 359 cho
câu trả lời?...........................................................................................................12
2.2. Đoạn nào của Quyết định số 359 cho thấy tài sản cụ Hương định đoạt trong
di chúc là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương?...............................................12
2.3. Tịa án đã cơng nhận phần nào của di chúc? Đoạn nào của Quyết định số 359
cho câu trả lời?....................................................................................................12
2.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm.......13
2.5. Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương, phần nào của di chúc có giá trị pháp lý?
Nếu cơ sở pháp lý khi trả lời...............................................................................13
2.6. Nếu tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ Hương vào
đầu tháng 4/2009 thì di chúc của cụ Hương có giá trị pháp lý khơng? Vì sao?...14
2.7. Quyết định số 58, đoạn nào cho thấy quyền sử dụng đất của cụ C và cụ D đã
bị thu hồi trước khi hai cụ chết?..........................................................................14
2.8. Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm xác định di sản
của cụ C và cụ D là quyền sử dụng đất? Suy nghĩ của anh/chị về hướng xác định
vừa nêu của Tòa giám đốc thẩm?........................................................................14
2.9. Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm theo hướng cụ
C và cụ D được định đoạt theo di chúc giá trị quyền sử dụng đất bị Nhà nước thu

hồi? Suy nghĩ của anh/chị về hướng vừa nêu của Tòa giám đốc thẩm................15

VẤN ĐỀ 3: DI CHÚC CHUNG CỦA VỢ CHỒNG..................................16
Tóm tắt Bản án số 14/2017/DSST ngày 28/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện C
tỉnh Phú Thọ........................................................................................................16
3.1. Đoạn nào của bản án số 14 cho thấy di chúc có tranh chấp là di chúc chung
của vợ chồng?.....................................................................................................16
3.2. Theo Tòa án, di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý khi áp dụng
BLDS 2015 không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời...................................17
3.3. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án về di chúc chung
của vợ chồng trong mối quan hệ với BLDS 2015...............................................18

VẤN ĐỀ 4: DI SẢN DÙNG VÀO VIỆC THỜ CÚNG...............................19
Tóm tắt Bản án số 211/2009/DSPT ngày 16/9/2009 của Tòa án nhân dân huyện
Long Thành, tỉnh Đồng Nai................................................................................19


4.1. Trong điều kiện nào di chúc dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp lý? Nêu
cơ sở pháp lý khi trả lời.......................................................................................19
4.2. Đoạn nào của bản án cho thấy di sản có tranh chấp được di chúc dùng vào
việc thờ cúng?.....................................................................................................20
4.3. Các điều kiện để di sản dùng vào việc thờ cúng một cách hợp pháp có được
thỏa mãn trong vụ việc đang nghiên cứu không?................................................20
4.4. Ai đồng ý và ai không đồng ý chia di sản dùng vào việc thờ cúng trong vụ
tranh chấp này? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?........................................20
4.5. Cuối cùng Tòa án có chấp nhận chia di sản đã được di chúc dùng vào việc
thờ cúng không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?.......................................21
4.6. Suy nghĩ của anh/chị về chế định di sản dùng vào việc thờ cúng trong BLDS
và giải pháp của Tòa án trong vụ việc đang được nghiên cứu.............................21



1

VẤN ĐỀ 1:
HÌNH THỨC CỦA DI CHÚC
Tóm tắt Bản án số 83/2009/DSPT ngày 28/12/2009 của Tòa án nhân dân
tỉnh Phú Yên.
Nguyên đơn: Ông Nguyễn Thành Hiếu
Bị đơn: Bà Đặng Thị Trọng
Ông Nguyễn Này và bà Đặng Thị Trọng là vợ chồng hợp pháp kết hơn từ năm
1970. Ơng Này có quan hệ trai gái với bà Nguyễn Thị Tâm sinh ra 3 người con là
Hiếu, Trung, Việt. Tài sản chung của ơng Này và bà Trọng là nhà đất có diện tích
225m2. Ngày 16/11/2008, ơng Này qua đời. Trước khi qua đời, vào ngày
19/12/2007 ông Này lập giấy giao quyền thừa kế toàn bộ nhà đất thuộc quyền sở
hữu chung của ông với bà Trọng cho Nguyễn Thành Hiếu. Đến nay, Hiếu chỉ xin ½
lơ đất để sử dụng nhưng bị bà Trọng bác bỏ. Từ đó xảy ra tranh chấp. Tòa án nhân
dân tối cao quyết định bác kháng cáo của nguyên đơn. Giữ nguyên như quyết định
của bản án sơ thẩm.
Tóm tắt Quyết định số 874/2011/DS-GĐT ngày 22/11/2011 của Tòa dân sự
Tòa án nhân dân tối cao.
Nguyên đơn: Ông Đỗ Văn Quang
Bị đơn: Bà Hoàng Thị Ngâm
Năm 1954, cụ Hựu chung sống với cụ Sách và ông Quang là con chung của
hai người. Trước đó, cụ Hựu cũng đã kết hôn với cụ Hằng (đã mất vào năm 1950)
và có 2 người con chung là ơng Hồng và bà Lựu. Cụ Hựu chết ngày 06/022005. Di
sản để lại gồm thửa đất 56 diện tích 210m 2, thửa đất 54 diện tích 462m2 và thửa đất
57 diện tích 526m2. Hiện tại do bà Ngâm- vợ ông Hồng quản lý và được cấp giấy
chứng nhận đất đối với các thửa đất trên. Khi kê khai đăng ký quyền sử dụng đất bà
Ngâm đã xuất trình di chúc của cụ Hựu lập năm 1998 với nội dung để lại tài sản, đất
cho bà Ngâm và bà Lựu. Ông Quang cho rằng bản di chúc trên là không hợp pháp

nên yêu cầu chia theo thừa kế. Tòa giám đốc thẩm quyết định hủy bản án phúc thẩm
và sơ thẩm. Giao hồ sơ vụ án cho Tịa án nhân dân huyện Đơng Anh, thành phố Hà
Nội xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.


2

1.1. Điều kiện về hình thức để di chúc tự viết tay có giá trị pháp lý? Nêu
cơ sở pháp lý khi trả lời.
Di chúc tự viết tay là “di chúc văn bản do chính người lập di chúc tự viết bằng
tay nên di chúc loại này còn được gọi là di chúc thủ tự - di chúc bằng chữ viết tay”1.
Theo Bộ luật dân sự năm 2015 (BLDS 2015), điều kiện về hình thức để di chúc tự
viết tay có giá trị pháp lý:
- Thứ nhất, “di chúc phải là di chúc viết tay (điều có nghĩa là người lập di
chúc phải biết chữ và phải biết viết). Do đó, “di chúc đánh máy khơng có giá trị
pháp lý, dù rằng người này lập di chúc biết đánh chữ, đánh máy vi tính và tự tay
đánh máy di chúc”.”2
- Thứ hai, di chúc phải được lập thành văn bản như theo Điều 627 về hình
thức của di chúc quy định: “Di chúc phải được lập thành văn bản; nếu khơng thể lập
được di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng”.
- Thứ ba, người lập di chúc phải minh mẫn sáng suốt vào thời điểm lập di
chúc. Theo khoản 1 và khoản 4 Điều 630 về Di chúc hợp pháp quy định:
1. Di chúc hợp pháp phải đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không
bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép;
b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái
đạo đức xã hội; hình thức di chúc khơng trái quy định của luật.
...
4. Di chúc bằng văn bản khơng có công chứng, chứng thực chỉ được coi
là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này.

- Thứ tư, nội dung của di chúc phải đảm bảo các nội dung cơ bản quy định tại
Điều 631 về Nội dung của di chúc:
1. Di chúc gồm các nội dung chủ yếu sau:
a) Ngày, tháng, năm lập di chúc;
b) Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc;
c) Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản;
d) Di sản để lại và nơi có di sản.
1

Đỗ Văn Đại (2018), Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế của Đại học Luật TPHCM,
Nxb. Hồng Đức, Chương VI, tr.467.
2
Đỗ Văn Đại (2019), Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt
Nam (xuất bản lần thứ tư), Bản án số 52-55, Tập 1, tr.453.


3

2. Ngoài các nội dung quy định tại khoản 1 Điều này, di chúc có thể có
các nội dung khác.
3. Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu, nếu di chúc gồm
nhiều trang thì mỗi trang phải được ghi số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ
của người lập di chúc.
Trường hợp di chúc có sự tẩy xóa, sửa chữa thì người tự viết di chúc
hoặc người làm chứng di chúc phải ký tên bên cạnh chỗ tẩy xóa, sửa chữa.
- Thứ năm, người lập di chúc phải tự viết. “Người để lại di chúc phải tự chính
tay mình viết nên bản di chúc thì di chúc mới có giá trị.” 3. Và ký vào bản di chúc.
Theo Điều 633 về Di chúc bằng văn bản khơng có người làm chứng quy định:
Người lập di chúc phải tự viết và ký vào bản di chúc.
Việc lập di chúc bằng văn bản khơng có người làm chứng phải tuân theo

quy định tại Điều 631 của Bộ luật này.
Như vậy, không chỉ nội dung của di chúc phải được người để lại di sản tự viết
tay mà cả chữ ký trong di chúc cũng phải do người này tự kí. u cầu này có thể
được lý giải như sau: thứ nhất, nó cho phép xác nhận được người viết di chúc; thứ
hai, nó cho phép khẳng định ý chí của người để lại di chúc.4
1.2. Nếu di chúc của ơng Này là di chúc phải có người làm chứng thì
những người đã làm chứng di chúc của ông Này có là người làm chứng hợp
pháp không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Nếu di chúc của ông Này là di chúc phải có người làm chứng thì những người
đã làm chứng di chúc của ơng Này là “cha, em gái, em trai ông Này là những người
đã điểm chỉ và ký tên làm chứng” không phải là người làm chứng hợp pháp. Vì căn
cứ vào Điều 632 BLDS 2015 về Người làm chứng cho việc lập di chúc:
Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người
sau đây:
1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di
chúc;
2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc;
3

Đỗ Văn Đại (2019), Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt
Nam (xuất bản lần thứ tư), Bản án số 52-55, Tập 1, tr.453-454.
4
Đỗ Văn Đại (2019), Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt
Nam (xuất bản lần thứ tư), Bản án số 52-55, Tập 1, tr.455.


4

3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có
khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.

Và khoản 1 Điều 651 BLDS 2015 về những người thừa kế theo pháp luật quy
định:
Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:
a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ
nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
b) Hàng thừa kế thứu hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh
ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người
chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c) Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột,
chú ruột, cậu ruột, cơ ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết
mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cơ ruột, dì ruột; chắt ruột của
người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
Mà theo Bản án số 83/2009/DSPT, những người đã làm chứng di chúc cho
ông Này là cha, em gái và em trai ông Này. Và ba người này rơi vào trường hợp
không được làm chứng di chúc theo khoản 1 Điều 632 BLDS 2015, họ là những
người thừa kế theo pháp luật của ông Này. Cha ông Này thuộc hàng thừa kế thứ
nhất, em trai và em gái thuộc hàng thừa kế thứ hai, căn cứ theo khoản 1 Điều 651
BLDS 2015.
1.3. Di chúc của ơng Này có là di chúc do ơng Này tự viết tay khơng? Vì
sao?
Di chúc của ơng Này khơng là di chúc do ơng Này tự viết tay.
Vì căn cứ Điều 633 BLDS 2015 quy định: “Người lập di chúc phải tự viết tay
và ký vào bản di chúc”; mặc dù ơng Này tự dùng tay mình để viết di chúc, khi ơng
hồn tồn minh mẫn, sáng suốt khơng bị lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép. Nhưng bản
án khơng nói rõ là ơng này có ký tên, điểm chỉ vào tờ di chúc hay khơng. Nếu có
chữ ký trong tờ di chúc thì cần giám định chữ ký ấy có phải lo do ơng Này ký tên
hay khơng. Nhưng trong bản án cũng không thấy nhắc đến việc các tòa giám định
chữ ký. Do vậy, chưa đủ điều kiện để cho rằng di chúc của ông Này là di chúc do
ông Naỳ tự viết tay.



5

1.4. Suy nghĩ của anh/ chị về hướng giải quyết trên của Tịa án liên quan
đến hình thức di chúc của ông Này khi đây là di chúc do ông Này tự viết tay.
Khi di chúc đó là di chúc do ơng Này tự viết tay thì hướng giải quyết trên của
Tịa án là chưa thỏa đáng. Vì:
- Thứ nhất, dù Tịa đã xác nhận di chúc này được ơng Này tự dùng tay mình
để viết di chúc, khi ơng hồn tồn minh mẫn, sáng suốt khơng bị lừa dối, đe dọa
hoặc cưỡng ép. Nhưng bản án khơng nói rõ là ơng này có ký tên, điểm chỉ vào tờ di
chúc hay khơng. Và nội dung của di chúc có tuân theo đúng quy định tại Điều 631
BLDS 2015 không.
- Thứ hai, mặc dù kết quả của Tòa án là cơng nhận di chúc đó hợp pháp nhưng
trong q trình xử lý cịn có một vài sai sót như người làm chứng, cần phải có cơng
chứng, chứng thực. Vì điều kiện về hình thức để di chúc tự viết tay có giá trị pháp
lý khơng nhất thiết phải có người làm chứng, không cần phải công chứng hay chứng
thực; mà chỉ cần các điều kiện sau :
+ Người lập di chúc phải có năng lực lập di chúc và phải minh mẫn, sáng suốt
vào thời điểm lập di chúc.
+ Di chúc phải do chính người để lại di sản tự mình viết bằng chữ viết và tự
mình ký tên, điểm chỉ vào tờ di chúc
Theo một chuyên gia về thừa kế của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối
cao: “Người lập di chúc tự tay viết di chúc và ký vào bản di chúc là đủ điều
kiện hợp pháp khơng cần phải có người làm chứng, khơng cần cơng chứng
hay chứng thực”.5
Nếu di chúc do chính người để lại di sản tự viết, ký và đồng thời có người làm
chứng thì càng tăng tính thuyết phục. Nhưng người làm chứng phải căn cứ theo
Điều 632 BLDS 2015. Mà theo Bản án số 83/2009/DSPT, những người đã làm
chứng di chúc cho ông Này là cha, em gái và em trai ông Này. Và ba người này rơi
vào trường hợp không được làm chứng di chúc theo khoản 1 Điều 632 BLDS 2015,

họ là những người thừa kế theo pháp luật của ông Này. Cha ông Này thuộc hàng
thừa kế thứ nhất, em trai và em gái thuộc hàng thừa kế thứ hai, căn cứ theo khoản 1
Điều 651 BLDS 2015. Do đó người làm chứng cho ơng Này khơng phải là người

5

Đỗ Văn Đại (2019), Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt
Nam (xuất bản lần thứ tư), Bản án số 52-55, Tập 1, tr.462.


6

làm chứng hợp pháp. Nên việc Tòa án chấp nhận người làm chứng do di sản của
ông Này là không đúng.
1.5. Di chúc của cụ Hựu đã được lập như thế nào?
Di chúc của cụ Hựu đã được lập như sau:
- Ngày 25/11/1998, di chúc là do cụ Hựu đọc cho ông Vũ viết, cụ Hựu điểm
chỉ, ông Vũ và cụ Đỗ Thị Quý (là mẹ của ông Vũ) ký tên làm chứng.
- Ngày 04/01/1999 bà Lựu mang di chúc đến cho ơng Hồng Văn Thưởng (là
Trưởng thơn) và Ủy ban nhân dân xã Mai Lâm xác nhận.
1.6. Cụ Hựu có biết chữ khơng? Đoạn nào của Quyết định số 874 cho câu
trả lời?
Cụ Hựu không biết chữ. Trong phần Xét thấy của Quyết định số 874 cho câu
trả lời: “Ơng Quang xác định cụ Hựu là người khơng biết chữ”.
1.7. Di chúc của người không biết chữ phải thỏa mãn các điều kiện nào để
có hình thức phù hợp với quy định của pháp luật?
Di chúc của người không biết chữ phải thỏa mãn các điều kiện sau để có hình
thức phù hợp với quy định của pháp luật:
- Thứ nhất, phải lập di chúc bằng văn bản, theo thủ tục công chứng, chứng
thực. Đồng thời khi lập, công chứng, chứng thực di chúc phải có người làm chứng

thì di chúc đó mới có hiệu lực. Theo khoản 3 Điều 630 BLDS 2015 về Di chúc hợp
pháp: “Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ
phải được người làm chứng lập thành văn bản và có cơng chứng hoặc chứng thực”.
- Thứ hai, người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt
những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của
người lập di chúc và ký vào bản di chúc. Theo Điều 634 BLDS 2015 về Di chúc
bằng văn bản có người làm chứng:
Trường hợp người lập di chúc không tự mình viết bản di chúc thì có thể
tự mình đánh máy hoặc nhờ người khác viết hoặc đánh máy bản di chúc,
nhưng phải có ít nhất là hai người làm chứng. Người lập di chúc phải ký hoặc
điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng; những người
làm chứng xác nhận chứ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di
chúc.


7

Việc lập di chúc bằng văn bản có người làm chứng phải tuân theo quy
định tại Điều 631 và Điều 632 của Bộ luật này.
- Thứ ba, người làm chứng cho việc lập di chúc phải là người làm chứng hợp
pháp theo quy định tại Điều 632 BLDS 2015
Đối với việc lập di chúc tại tổ chức hành nghề công chứng hoặc Ủy ban nhân
dân cấp xã phải tuân theo thủ tục quy định tại Điều 636 BLDS 2015:
Việc lập di chúc tại tổ chức hành nghề công chứng hoặc Ủy ban nhân
dân cấp xã phải tuân theo thủ tục sau đây:
1. Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước cơng chứng
viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã.
Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân
cấp xã phải ghi chép lại nội dung mà người lập di chúc đã tuyên bố. Người
lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc sau khi xác nhận bản di chúc đã

được ghi chép chính xác và thể hiện đúng ý chí của mình. Cơng chứng viên
hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã ký vào
bản di chúc;
2. Trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được
bản di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm
chứng và người này phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người
có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Cơng chứng viên
hoặc người người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã
chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di chúc và người làm chứng.
1.8. Các điều kiện nào nêu trên đã được áp dụng đối với di chúc của cụ
Hựu?
Các điều kiện đã được áp dụng đối với di chúc của cụ Hựu:
- Thứ nhất, di chúc đã lập thành văn bản: “Di chúc do cụ Hựu đọc cho ông Vũ
viết”.
- Thứ hai, người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt
những người làm chứng: “Di chúc do cụ Hựu đọc cho ông Vũ viết, cụ Hựu điểm
chỉ”.
- Thứ ba, những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di
chúc và ký vào bản di chúc: “Ông Vũ và cụ Đỗ Thị Quý (là mẹ của ông Vũ) ký tên
làm chứng”.


8

1.9. Các điều kiện nào nêu trên đã không được áp dụng đối với di chúc
của cụ Hựu?
Các điều kiện đã không được áp dụng đối với di chúc cụ Hựu là theo thủ tục
công chứng, chứng thực, “một giáo trình đã nhấn mạnh rằng: “việc cơng chứng,
chứng thực di chúc phải đúng thủ tục như quy định tại khoản 1 Điều 658 Bộ luật
Dân sự 2005”.”6. Vì theo Thẩm phán Chu Xuân Minh cho rằng “khi người lập di

chúc tự mình đi cơng chứng, chứng thực thì bản di chúc là hợp pháp kể cả trường
hợp họ không tự viết (đánh máy chẳng hạn)”7. Tuy nhiên, bản di chúc này khơng do
chính tay cụ Hựu đi cơng chứng, chứng thực mà do bà Lựu mang di chúc đi công
chứng, nên không thỏa được điều kiện về công chứng, chứng thực.
Tuy ngày 04/01/1999 bà Lựu mang di chúc đến cho ông Hoàng Văn Thưởng
(là Trưởng thôn) và Ủy ban nhân dân xã Mai Lâm xác nhận. Nhưng ông Thưởng
không chứng kiến cụ Hựu lập di chúc, việc Ủy ban nhân dân xã Mai Lâm xác nhận
là do bà Lựu mang di chúc đến xác nhận (sau khi cụ Hựu lập di chúc hơn 01 tháng)
và Ủy ban nhân dân xã Mai Lâm chỉ xác nhận chữ ký của ông Thưởng chứ khơng
xác nhận nội dung của di chúc. Do đó di chúc của cụ Hựu không theo thủ tục công
chứng, chứng thực đã được quy định.
8
Việc công chứng hay chứng thực di chúc không thể áp dụng đối với di
chúc được lập sẵn rồi nhờ, hoặc thậm chí ủy quyền cho người khác mang đi
cơng chứng, chứng thực, vì trong mọi trường hợp, người lập di chúc phải trực
tiếp thể hiện ý chí (đồng ý tồn bộ nội dung di chúc), và sau khi đã được công
chứng viên hoặc viên chức có thẩm quyền chứng thực chấp nhận cơng chứng,
chứng thực di chúc, thì người lập di chúc phải ký tên trực tiếp, từng trang của
tờ di chúc (di chúc có nhiều trang) trước mặt CCV hoặc cơng chức có thẩm
quyền chứng thực (nếu tại nơi 01 cửa liên thông thì ký tên trước mặt cơng
chức tiếp nhận hồ sơ – khoản 3 Điều 24 Nghị định 23/2015/NĐ-CP). Di chúc
được lập sẵn, có chữ ký sẵn của người lập di chúc khơng đảm bảo an tồn
pháp lý, có thể do bị ép buộc, có thể ký vào thời điểm khơng minh mẫn, sáng
6

Đỗ Văn Đại (2019), Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt
Nam (xuất bản lần thứ tư), Bản án số 60-61, Tập 1, tr.503.
7
Đỗ Văn Đại (2019), Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt
Nam (xuất bản lần thứ tư), Bản án số 60-61, Tập 1, tr.505.

8
Đỗ Văn Đại (2018), Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế của Đại học Luật TPHCM,
Nxb. Hồng Đức, Chương VI, tr.474.


9

suốt, cũng có thể người khác giả mạo, đánh tráo từng trang hoặc đánh tráo cả
tờ di chúc...
1.10. Theo anh/chị, di chúc nêu trên có thỏa mãn điều kiện về hình thức
khơng? Vì sao?
Theo nhóm, di chúc nêu trên khơng thỏa mãn điều kiện về hình thức. Mặc dù
di chúc đã được lập thành văn bản và có người làm chứng nhưng về u cầu có
cơng chứng, chứng thực do cụ Hựu là người khơng biết chữ thì chưa thỏa mãn yêu
cầu của Luật. Vì theo quy định tại Điều 636 BLDS 2015 quy định:
1. Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước công chứng
viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã.
Cơng chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân
cấp xã phải ghi chép lại nội dung mà người lập di chúc đã tuyên bố. Người
lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc sau khi xác nhận bản di chúc đã
được ghi chép chính xác và thể hiện đúng ý chí của mình. Cơng chứng viên
hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã ký vào
bản di chúc.
2. Trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được
bản di chúc, không ký hoặc khơng điểm chỉ được thì phải nhờ người làm
chứng và người này phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người
có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã. Công chứng viên
hoặc người người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp xã
chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di chúc và người làm chứng.
Nhưng ở đây cụ Hựu chỉ đọc cho ông Vũ viết và bà Lựu mang di chúc đến nhà

ơng Hồng Văn Thưởng (là Trưởng thơn) và Ủy ban nhân dân xã Mai Lâm xác
nhận. Nhưng ông Thưởng không chứng kiến cụ Hựu lập di chúc, việc Ủy ban nhân
dân xã Mai Lâm xác nhận là do bà Lựu mang di chúc đến xác nhận (sau khi cụ Hựu
lập di chúc hơn 01 tháng) và Ủy ban nhân dân xã Mai Lâm chỉ xác nhận chữ ký của
ông Thưởng chứ không xác nhận nội dung của di chúc. Do đó di chúc của cụ Hựu
khơng theo thủ tục công chứng, chứng thực đã được quy định.
Mặt khác theo Quyết định thì trường hợp của cụ Hựu không rơi vào khoản 2
Điều 636 BLDS 2015. Ta cũng cần phân biệt trường hợp di chúc viết hộ với di chúc
được lập bởi người không thể tự lập di chúc do khiếm khuyết hoặc mù chữ:
“Trường hợp này cần đặc biệt lưu ý, vì sẽ có người nhầm tưởng quy định này cũng


10

áp dụng đối với mọi cá nhân không thể tự viết di chúc (bao gồm cả trường hợp
người bị khiếm khuyết thể chất và người mù chữ). Bởi lẽ, khi người để lại di sản
khơng thể tự mình viết di chúc (do bị khiếm khuyết thể chất hoặc người mù chữ) thì
pháp luật quy định người này phải lập di chúc bằng văn bản theo thủ tục công
chứng, chứng thực, đồng thời việc lập, công chứng, chứng thực di chúc phải có
người làm chứng thì di chúc mới có hiệu lực”9
1.11. Suy nghĩ của anh/chị về các quy định trong BLDS liên quan đến
hình thức di chúc của người khơng biết chữ.
Theo khoản 3 Điều 630 BLDS 2015 thì: “Di chúc của người bị hạn chế về thể
chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản
và có cơng chứng hoặc chứng thực”
Các quy định liên quan đến di chúc của người không biết chữ trong BLDS đi
liền với khá nhiều điệu kiện về hình thức so với di chúc thơng thường. Vì chủ thể
lập dị chúc là người không biết chữ nên việc phải thỏa mãn hết các điều kiện từ đọc
cho người làm chứng lập thành văn bản, đến việc công chứng hoặc chứng thực là
nhằm đảm bảo quyền lợi và độ xác thực của bản di chúc. Như vậy, chúng ta có thể

hạn chế trường hợp lợi dụng yếu điểm của người mù chữ có tài sản để lập nên một
bản di chúc trái với nguyện vọng và ý chí của họ.
Tuy nhiên, nhìn một cách khái quát hơn, các điều luật quy định tuy chặt chẽ
nhưng vẫn khơng thể xóa bỏ trường hợp di chúc được lập ra khơng hồn toàn truyền
tải được ý niệm của người chết. Việc phải thông qua nhiều chủ thể để cho ra đời bản
di chúc cuối cùng suy cho cùng là khá tốn thời gian, nhân lực. Hơn nữa, các chủ thể
này chưa chắc đã nắm được toàn bộ mong muốn của người lập dị chúc nên có thể
dẫn đến sơ suất. Các nhà làm luật nên cân nhắc đến những hình thức mới cho di
chúc của người không biết chữ như dùng băng ghi hình. Việc lắng nghe trực tiếp
tâm tư, nguyện vọng của chính người lập di chúc sẽ đảm bảo tính xác thực cũng như
tiết kiệm thời gian cho quá trình lập di chúc.

9

Đỗ Văn Đại (2018), Giáo trình Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu và thừa kế của Đại học Luật TPHCM,
Nxb. Hồng Đức, Chương VI, tr.470.


11

VẤN ĐỀ 2:
TÀI SẢN ĐƯỢC ĐỊNH ĐOẠT THEO DI CHÚC
Tóm tắt Quyết định số 359/2013/DS-GĐT ngày 28/8/2013 của Tòa dân sự
Tòa án nhân dân tối cao.
Nguyên đơn: Cụ Lê Thanh Quý
Bị đơn: ông Nguyễn Hữu Dũng và ông Nguyễn Hữu Lộc.
Cụ Quý và cụ Hương kết hôn năm 1955 và có 12 con chung, tạo lập được bất
động sản bao gồm nhà và đất tại số 302 Nguyễn Thượng Hiền, phường 5, quận Phú
Nhuận, diện tích 699m2. Ngày 06/04/2009, cụ Hương chết, có để lại di chúc có nội
dung chia toàn bộ căn nhà và đất số 302 cho 5 người con là ông Đức, ông Nghĩa,

ông Hiếu, ông Dũng và bà Kiều, di chúc đã được công chứng tại phịng cơng chứng
số 4 TPHCM. Nay cụ Q khởi kiện yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng cụ ra
làm 2 phần, được hưởng ½ giá trị căn nhà bằng hiện vật, 2/3 suất thừa kế theo pháp
luật đối với di sản của cụ Hương để lại. Ông Lộc và Ơng Dũng khơng có ý kiến gì
đối với u cầu của cụ Quý đối với phần tài sản chung của 2 cụ, tuy nhiên, căn nhà
hiện nay do 2 ông quản lý và sử dụng, xin cụ Quý được hưởng một phần vì khơng
cịn chỗ ở khác. Tịa giám đốc thẩm quyết định Chấp nhận kháng nghị của Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao. Hủy bản án sơ thẩm và giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân TP
HCM xét xử sơ thẩm theo đúng quy định của pháp luật.
Tóm tắt Quyết định số 58/2018/DS-GĐT ngày 27/9/2018 của Tịa án nhân
dân cấp cao tại Hà Nội.
Ngun đơn: ơng Trần Văn Y
Bị đơn: phịng cơng chứng M
Cụ D và cụ C chung sống với nhau nhưng khơng đăng kí kết hôn. Năm 1959
cụ D mua đất ở xứ M của ơng Đ, sau đó đổi hợp tác xã N lấy thừa ruộng này ở đồng
M. Khoảng 1960-1970 cụ D chung số với cụ N và sinh ra ông D1. 16/12/2009, cụ C
lập di chúc để lại một phần tài sản là bất động sản tại thừa đất số 38 cho ơng D1.
15/01/2011, cụ D lập di chúc tại Phịng công chứng M với nội dung để lại phần tài


12

sản của mình tại thừa đất nêu trên cho ơng D1. Sau khi 2 cụ mất. Ngày 26-01-2011,
Phịng cơng chứng M có Văn bản cơng bố Di chúc đối với di sản của hai cụ là thửa
số 38. Ông Y cho rằng thửa đất số 38 ông đã mua của cụ C từ năm 1987 đến năm
1998 thì hai bên lập Giấy bán nhà và chuyển nhượng quyền sử dụng đất và Hợp
đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, việc Phịng cơng chứng M cơng chứng di
chúc của cụ D, Văn bản công bố di chúc của hai cụ làm ảnh hưởng đến quyền, lợi
ích hợp pháp của gia đình ông nên ông khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố các văn
bản cơng chứng trên vơ hiệu. Tịa giám đốc thẩm quyết định hủy bản án phúc thẩm

và sơ thẩm và giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân TP Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.
2.1. Cụ Hương đã định đoạt tài sản nào? Đoạn nào của Quyết định số 359
cho câu trả lời?
Cụ Hương đã định đoạt tài sản là nhà đất tại địa chỉ 25D/19 Nguyễn Văn Đậu
(nay là 302 Nguyễn Thượng Hiền, phường 5, quận Phú Nhuận).
Đoạn trong phần Xét thấy của Quyết định số 359 cho câu trả lời:
Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện nguồn gốc
nhà đất tại địa chỉ 25D/19 Nguyễn Văn Dậu (nay là 302 Nguyễn Thượng
Hiền, phường 5, quận Phú Nhuận) được Ủy ban nhân dân quận Phú Nhuận
cấp giấy chứng nhận cho cụ Nguyễn Văn Hương vào năm 1994. Ngày
16/01/2009, cụ Hương di chúc toàn bộ nhà đất cho các con cụ là Nguyễn Ngọc
Đức, Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu Dũng, Quảng Thị
Kiều (Vợ ơng Nguyễn Hữu Trí)10.
2.2. Đoạn nào của Quyết định số 359 cho thấy tài sản cụ Hương định đoạt
trong di chúc là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương?
Đoạn trong phần xét thấy của Quyết định số 359 cho thấy tài sản cụ Hương
định đoạt trong di chúc là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương: “Tuy nhiên, về nội
dung thì di chúc chỉ có giá trị một phần bởi nhà đất trên là tài sản chung của vợ
chồng cụ Hương và cụ Quý. Việc cụ Hương lập di chúc cho toàn bộ nhà đất cho 5
người con trong khi khơng có sự đồng ý của cụ quý là không đúng.”11

10
11

Quyết định số 359/2013/DS-GĐT ngày 28/8/2013 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, tr.7.
Quyết định số 359/2013/DS-GĐT ngày 28/8/2013 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, tr.7.


13


2.3. Tịa án đã cơng nhận phần nào của di chúc? Đoạn nào của Quyết
định số 359 cho câu trả lời?
Tịa án đã cơng nhận hiệu lực đối với một phần tài sản chủa cụ Hương (1/2
nhà đất) cho 5 người con, sau khi đã chia cho cụ Quý 2/3 suất thừa kế theo pháp
luật.
Đoạn trong phần Xét thấy của Quyết định số 359 cho câu trả lời:
Vì vậy, Tịa án cấp sơ thẩm xét xử di chúc của cụ Nguyễn Văn Hương có
hiệu lực một phần đối phần tài sản của cụ Hương (1/2 nhà đất) nên được chia
đều cho 5 người con là các ông bà Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn Hữu Nghĩa,
Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu Dũng, Quảng Trị Kiều (vợ ơng Nguyễn Hữu
Trí) sau khi đã chia cho cụ Quý 2/3 suất thừa kế theo pháp luật.12
2.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc
thẩm.
Hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm là hợp lý.
Vì di chúc của cụ Hương được lập hợp pháp về hình thức nhưng về nội dung
thì di sản được định đoạt là tài sản chung của cụ Hương và cụ Quý, nên Tòa án
quyết định chỉ công nhận một phần tài sản của cụ Hương (1/2 nhà đất), phần di sản
của cụ được chia cho 5 người con theo di chúc sau khi đã chi cho cụ Quý 2/3 suất
thừa kế theo pháp luật là hoàn tồn hợp lý. Và cụ Q được hưởng ½ tài sản nhà đất
trong phần tài sản chung của hai cụ là hoàn toàn đúng pháp luật.
2.5. Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương, phần nào của di chúc có giá trị
pháp lý? Nếu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Nếu cụ Q chết trước thì phần di chúc có giá trị pháp lý là một phần tài sản
của cụ Hương trong phần tài sản chung của cụ Quý và cụ Hương (1/2 nhà đất).
Trong trường hợp cụ Quý để lại di chúc nhưng khơng chia di sản cho cụ
Hương thì phần di chúc của cụ Hương có giá trị pháp lý cộng thêm 2/3 suất thừa kế
theo pháp luật mà cụ Hương được nhận từ cụ Quý do cụ Hương là người thừa kế
không phụ thuộc nội dung di chúc. Căn cứ vào Điều 669 BLDS 2005.

12


Quyết định số 359/2013/DS-GĐT ngày 28/8/2013 của Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao, tr.7-8.


14

Cịn nếu cụ Q để lại di chúc có chia di sản cho cụ Hương thì phần di chúc
có giá trị pháp lý của cụ Hương sẽ cộng thêm phần di sản cụ Hương được nhận. Căn
cứ vào Điều 631 BLDS 2005.
Trường hợp cụ Quý không để lại di chúc thì phần di sản của cụ Quý sẽ được
chia theo pháp luật (cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất gồm 12 người
con và cụ Hương) thì phần di chúc có giá trị pháp lý của cụ Hương sẽ cộng thêm
1/13 di sản cụ quý để lại. Căn cứ vào Điều 675, 676 BLDS 2005.
2.6. Nếu tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ
Hương vào đầu tháng 4/2009 thì di chúc của cụ Hương có giá trị pháp lý
khơng? Vì sao?
Nếu tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ Hương vào
đầu tháng 4/2009 thì di chúc có giá trị hay khơng thì hiện bộ luật khơng quy định.
Còn trong thực tiễn xét xử Tòa án giải quyết theo hướng di sản được xác định từ
thời điểm lập di chúc. Như vậy trong trường hợp này di chúc của cụ Hương được
công chứng ngày 16/01/2009 mà đến đầu tháng 4/2009 tài sản mới thuộc sở hữu của
cụ Hương thì di chúc cụ Hương khơng có giá trị pháp lý.
2.7. Quyết định số 58, đoạn nào cho thấy quyền sử dụng đất của cụ C và
cụ D đã bị thu hồi trước khi hai cụ chết?
Như trong phần nhận định của Tịa án thì cụ C chết ngày 07/09/2010 và cụ D
chết ngày 21/01/2011. Do đó trong Quyết định số 58, đoạn cho thấy quyền sử dụng
đất của cụ C và cụ D đã bị thu hồi trước khi hai cụ chết: “Ngoài ra, di sản của cụ D,
cụ C để lại là quyền sử dụng đất tại thửa đất số 38, Tờ bản đồ số 13 đã bị thu hồi
theo Quyết định số 1208/QĐ-UBND ngày 21/07/2010 của Ủy ban nhân dân thành
phố Vĩnh Yên”.13

2.8. Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm xác định
di sản của cụ C và cụ D là quyền sử dụng đất? Suy nghĩ của anh/chị về hướng
xác định vừa nêu của Tòa giám đốc thẩm?
Ở Quyết định số 58, đoạn cho thấy Tòa giám đốc thẩm xác định di sản của cụ
C và cụ D là quyền sử dụng đất: “Ngoài ra, di sản của cụ D, cụ C để lại là quyền sử
dụng đất tại thửa đất số 38, Tờ bản đồ số 13.”
13

Quyết định số 58/2018/DS-GĐT ngày 27/9/2018 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, tr.4.


15

Hướng xác định vừa nêu của Tòa giám đốc thẩm là hợp lý vì: thửa đất số 38,
Tờ bản đồ số 13 là thửa đất của vợ chồng cụ C, nhưng bị Nhà nước thu hồi do giải
phóng mặt bằng theo Quyết định số 1208/QĐ-UBND ngày 21/7/2010 nhưng giá trị
quyền sử dụng đất của người bị thu hồi vẫn được Nhà nước bảo đảm theo Luật Đất
đai, do đó Tịa án xác định di sản của cụ C và cụ D là quyền sử dụng đất là hợp lý.
2.9. Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm theo
hướng cụ C và cụ D được định đoạt theo di chúc giá trị quyền sử dụng đất bị
Nhà nước thu hồi? Suy nghĩ của anh/chị về hướng vừa nêu của Tòa giám đốc
thẩm.
Ở Quyết định số 58, đoạn cho thấy Tòa giám đốc thẩm xác định di sản của cụ
C và cụ D là quyền sử dụng đất bị Nhà nước thu hồi: “Ngoài ra, di sản của cụ D, cụ
C để lại là quyền sử dụng đất tại thửa đất số 38, Tờ bản đồ số 13 đã bị thu hồi theo
Quyết định số 1208/QĐ-UBND ngày 21-7-2010 của Ủy ban nhân dân thành phố V
nhưng giá trị quyền sử dụng đất của người có đất bị thu hồi vẫn được pháp luật bảo
đảm theo quy định của Luật Đất đai nên hai cụ Có quyền lập di chúc định đoạt tài
sản trên cho ông D1.”



16

VẤN ĐỀ 3:
DI CHÚC CHUNG CỦA VỢ CHỒNG
Tóm tắt Bản án số 14/2017/DSST ngày 28/9/2017 của Tòa án nhân dân
huyện C tỉnh Phú Thọ.
Nguyên đơn: Bà Hoàng Thị H
Bị đơn: Anh Hồng Tuyết H
Ơng X và bà H kết hơn năm 1960 có với nhau 4 người con là anh H, anh H1,
anh H2 và anh H3. Vợ chồng bà có khối tài sản chung là quyền sử dụng thửa đất số
76 với diện tích 967,4 m². Ngày 10/08/2015 hai vợ chồng lập di chúc chung của vợ
chồng do ông X viết có nội dung là giao tồn bộ tồn bộ tài sản cho con là anh H1.
Sau khi ông X chết các anh H, H2, H3 không công nhận di chúc trên là hợp pháp và
đòi chia di sản. Tịa án quyết định Cơng nhận di chúc chung của ông X và bà H viết
ngày 10/8/2015 là hợp pháp. Không chấp nhận yêu cầu của anh H và anh H2 địi
chia di sản của ơng X.
3.1. Đoạn nào của Bản án số 14 cho thấy di chúc có tranh chấp là di chúc
chung của vợ chồng?
“Bộ luật Dân sự năm 2005 thừa nhận di chúc chung của vợ chồng nhưng
không không đưa ra định nghĩa về di chúc chung của vợ chồng. Để được coi là di
chúc chung của vợ chồng, cần có ý chí chung của vợ chồng; phải có sự “thống nhất
ý chí của cả vợ, chồng”14.”15. Trong nhận định [2] của Tòa án trong Bản án số 14,
“ông X viết di chúc chung của vợ chồng, bà H cùng ký”. Đây được coi là di chúc
chung của của ơng X và bà H vì đã thể hiện ý chí chung của hai cụ về tài sản chung
của mình sau khi chết và Tịa án đã theo hướng “di chúc chung của vợ chồng”.
14

Hoàng Thế Liên (chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2005, Sđd, t.III, tr.78
Đỗ Văn Đại (2019), Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng Đức-Hội Luật gia Việt

Nam (xuất bản lần thứ tư), Bản án số 94-96, tập 2, tr.44.
15


17

Nhận định [1] của Tòa án trong Bản án số 14 cho thấy di chúc có tranh chấp là
di chúc chung của vợ chồng: "Ơng Hồng Minh X và bà Hồng Thị H là vợ chồng.
Trong thời kỳ hơn nhân ông bà tạo dựng được khối tài sản chung như biên bản thẩm
định ngày 21/8/2017. Tháng 01/2016 ông X chết và có để lại một bản di chúc chung
của vợ chồng viết ngày 10/8/2015”.
3.2. Theo Tòa án, di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý khi áp
dụng BLDS 2015 không?16 Đoạn nào của bản án cho câu trả lời.
Theo Tòa án, di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý khi áp dụng BLDS
2015.
Ở đây đối với hình thức của di chúc đã được lập thành văn bản, Tòa án đã khai
thác Điều 630 BLDS 2015 quy định di chúc hợp pháp trong đó có nội dung “Di
chúc bằng văn bản khơng có cơng chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp nếu
có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này”. Quy định này cho phép
ghi nhận di chúc không được công chứng, chứng thực như trong bản án trên khi đáp
ứng điều kiện tại khoản 1 Điều 630 BLDS 2015 và đó là các điều kiện về nội dung
như “Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa
dối, đe dọa, cưỡng ép” hay “Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của
luật, khơng trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc khơng trái quy định của luật”.
Thực tế, Tịa án đã viện dẫn trong phần quy định vừa nêu và khẳng định “các bên
đương sự thừa nhận ông X có tinh thần tỉnh táo, minh mẫn, khơng phải nằm điều trị
cho đến thời điểm trước khi chết. Sự thừa nhận trên chứng tỏ vào thời điểm ông X
viết bản di chúc cịn khỏe mạnh, minh mẫn, khơng có sự ép buộc nào. Nội dung
trong bản di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội phù
hợp với quy định tại Điều 630 Bộ luật Dân sự năm 2015”.

Như vậy, trên cơ sở BLDS 2015, Tòa án đã theo hướng di chúc chung của vợ
chồng là hợp pháp. Hướng này còn được thể hiện ở những nội dung sau: Cụ thể,
Tòa án đã xét rằng “Anh H, anh H2, anh H3 là con đẻ của ông X, bà H không công
nhận di chúc trên là hợp pháp. Bà H khởi kiện và yêu cầu Tòa án công nhận di chúc
chung của vợ chồng bà là hợp pháp. Yêu cầu khởi kiện của bà H phù hợp quy định
tại chương XXII của Bộ luật Dân sự năm 2015 về thừa kế theo di chúc và thuộc
16

Tham khảo trong Đỗ Văn Đại (2019), Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng ĐứcHội Luật gia Việt Nam (xuất bản lần thứ tư), Bản án số 94-96, Tập 2, tr.72-73.


18

thẩm quyền giải quyết của TAND huyện C, tỉnh Phú Thọ”. Từ đó, Tịa án đã khẳng
định “anh H, anh H2 yêu cầu được chia di sản của ông X và xin được hưởng kỷ
phần. Xét yêu cầu của anh H, anh H2 là chính đáng. Tuy nhiên tài sản chung của
ông X, bà H đã được định đoạt bằng di chúc chung của vợ chồng nên yêu cầu của
các anh không được xem xét”.
3.3. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án về di chúc
chung của vợ chồng trong mối quan hệ với BLDS 2015.
Trước việc BLDS 2015 không giữ quy định về di chúc chung của vợ chồng,
câu hỏi đặt ra là phải xử lý như thế nào đối với trường hợp những cặp vợ chồng vẫn
muốn duy trì văn hóa lâu đời là lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung. BLDS
2015 chỉ đơn thuần không giữ lại các quy định về di chúc chung của vợ chồng đã
tồn tại trước đó nhưng khơng quy định nêu rõ là cấm di chúc chung của vợ chồng.
Về hướng xử lý trường hợp chưa có điều luật cụ thể để áp dụng, BLDS 2015
có quy định mới. Trong các quy định mới này phải kể đến khoản 2 Điều 14 với nội
dung “Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều
luật cụ thể để áp dụng; trong trường hợp này, quy định tại Điều 5 và Điều 6 của Bộ
luật này được áp dụng”. Do đó, nếu có tranh chấp về di chúc chung của vợ chồng về

tài sản chung của họ, Tòa án không được từ chối giải quyết, tức phải giải quyết nội
dung tranh chấp. Do vậy, việc Tòa án thụ lý vụ việc như trên là đúng quy định của
BLDS 2015.
Khoản 2 Điều 14 BLDS 2015 trên hướng Tòa án giải quyết trên cơ sở Điều 5
và Điều 6 BLDS 2015 trong khi đó, theo Điều 6 BLDS 2015: “trường hợp phát sinh
quan hệ thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự mà các bên khơng có thỏa
thuận, pháp luật khơng có quy định và khơng có tập qn được áp dụng thì áp dụng
quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự tương tự”. Và khoản 2 Điều 3
BLDS 2015 với nội dung: “Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện quyền dân sự của
mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận
không vi phạm điều cấm của luật, khơng trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện
đối với các bên và phải được chủ thể khác tơn trọng”.
Do đó, việc lập di chúc chung của vợ chồng là tự do, tự nguyện cam kết, thỏa
thuận và không vi phạm điều cấm của luật. Nên việc Tòa án chấp nhận bản di chúc
trên là di chúc chung của vợ chồng là hoàn toàn hợp lý và phù hợp với quy định của
BLDS 2015


19

VẤN ĐỀ 4:
DI SẢN DÙNG VÀO VIỆC THỜ CÚNG
Tóm tắt Bản án số 211/2009/DSPT ngày 16/9/2009 của Tòa án nhân dân
huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.
Nguyên đơn: Anh Phan Văn Được
Bị đơn: Anh Phan Văn Tân, Chị Phan Thị Hương
Ông Phan Văn Mười (chết năm 1972) và bà Nguyễn Thị Lùng (chết năm
2005) là vợ chồng, hai người có 7 người con là Thảo, Tân, Xuân, Nhành, Hoa,
Được, Hương. Di sản để lại là 1 căn nhà cấp 4 diện tích khoảng 100m2 tại khi Kim
Sơn, thị trấn Long Thành. Ngày 8/7/2004 bà Lùng lập di chúc để lại nhà đất cho 7

người con đồng thời thừa hưởng để thờ cúng cho mẹ, anh Được quản lý sử dụng.
Anh Tân và chị Hương yêu cầu để căn nhà và đất như hiện tại là tài sản chung của 7
người. Tòa án quyết định chấp nhận yêu cầu của anh Được và giao cho anh Được
quyền sở hữu, sử dụng diện tích 57,25 m 2. Anh Được phải có trách nhiệm thanh
toán giá trị di dản thừa kế cho anh Tân và chị Hương mỗi người số tiền là
37,424,000đ.
4.1. Trong điều kiện nào di chúc dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp
lý? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Thứ nhất, quyền định đoạt tài sản vào việc thờ cúng bị giới hạn để đảm bảo
thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người quá cố. Cụ thể, theo khoản 2 Điều 645
BLDS 2015 (khoản 2 Điều 670 BLDS 2005): “Trường hợp toàn bộ di sản của người
chết khơng đủ để thanh tốn nghĩa vụ tài sản của người đó thì khơng được dành một
phần di sản dùng vào việc thờ cúng”. Ở đây, dù người lập di chúc đã thể hiện ý chí
dành một phần di sản của mình vào việc thờ cúng thì ý chí đó không được pháp luật
17

17

Tham khảo trong Đỗ Văn Đại (2019), Luật thừa kế Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. Hồng ĐứcHội Luật gia Việt Nam (xuất bản lần thứ tư), Bản án số 84-87, Tập 1, tr.693-698.


20

thừa nhận nếu phần tài sản cịn lại khơng đủ để thanh toán nghĩa vụ mà người quá
cố để lại.
- Thứ hai, Bộ luật Dân sự cho phép “dành một phần di sản vào việc thờ cúng”
nên có thể hiểu quyền định đoạt khơng thể áp dụng cho tồn bộ di sản và “trường
hợp người lập di chúc để lại tồn bộ di sản dành cho việc thờ cúng thì chỉ để lại một
phần dành để thờ cúng, phần còn lại chia theo pháp luật”18.
- Thứ ba, theo khoản 1 Điều 630 BLDS 2015, “di chúc có hiệu lực từ thời

điểm mở thừa kế” nên chừng nào người lập di chúc chưa chết thì chưa có di sản
dùng vào việc thờ cúng và người này có thể thay đổi ý định.
4.2. Đoạn nào của bản án cho thấy di sản có tranh chấp được di chúc
dùng vào việc thờ cúng?
Trích bản án: “Tại tờ di chúc ngày 8/7/2004 bà Lùng để lại nhà đất cho 7 người
con đồng thừa hưởng để thờ cúng cha mẹ, anh Được là người đang quản lý di sản,
hiện tại 5/7 anh chị em của anh Được đồng ý chia di sản và giao cho anh Được sở
hữu di sản là có cơ sở chấp nhận.”
4.3. Các điều kiện để di sản dùng vào việc thờ cúng một cách hợp pháp có
được thỏa mãn trong vụ việc đang nghiên cứu không?
- Thứ nhất, trong vụ việc khơng nói đến vấn đề thanh tốn nghĩa vụ tài sản của
bà Lùng nên có thể xem như nghĩa vụ đó khơng có hoặc đã được thực hiện xong.
Do đó, đã thỏa điều kiện quyền định đoạt tài sản vào việc thờ cúng bị giới hạn để
đảm bảo thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người quá cố căn cứ khoản 2 Điều 645
BLDS 2015.
- Thứ hai, phần tài sản bà Lùng để lại nhà đất cho 7 người con cùng đồng thừa
hưởng để thờ cúng cha mẹ. Nên đây thuộc trường hợp “trường hợp người lập di
chúc để lại toàn bộ di sản dành cho việc thờ cúng thì chỉ để lại một phần dành để
thờ cúng, phần còn lại chia theo pháp luật”19.
4.4. Ai đồng ý và ai không đồng ý chia di sản dùng vào việc thờ cúng
trong vụ tranh chấp này? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?

18
19

Nguyễn Minh Tuấn (chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2015, Nxb. Tư pháp 2016, tr.994.
Nguyễn Minh Tuấn (chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2015, Nxb. Tư pháp 2016, tr.994.


21


Anh Được, anh Thảo, anh Xuân, anh Nhành, chị Hoa là những người đồng ý
chia di sản dùng vào việc thờ cúng trong vụ này. Cịn 2 người khơng đồng ý chia di
sản là anh Tân và chị Hương.
Đoạn trích cho thấy câu trả lời (ở phần Xét thấy): ““Ngày 08 tháng 7 năm 2004
mẹ anh lập di chúc để lại cho 07 anh chị em, hiện tại anh quản lý nhà đất, năm 2005
năm anh chị em hợp lại chia di sản của mẹ anh, nhưng anh Tân và chị Hương khơng
đồng ý”.
4.5. Cuối cùng Tịa án có chấp nhận chia di sản đã được di chúc dùng vào
việc thờ cúng không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
Tòa án đã chấp nhận chia di sản đã được di chúc dùng vào việc thờ cúng.
Đoạn trích cho thấy câu trả lời (ở phần Quyết định): “Anh Thảo, anh Tân, anh
Xuân, Chị Nhành, chị Hoa, anh Được và chị Hương đều là hàng thừa kế thứ nhất
của bà Lùng, anh chị được hưởng di sản bằng nhau, mỗi người được hưởng giá trị
bằng tiền là 37.423.857đ (261.967.000:7 người) giao cho anh Được sở hữu di sản
nhà đất, anh Được có trách nhiệm thanh tốn bằng tiền cho anh Thảo, anh Xuân, chị
Hoa và chị Hương mỗi người 37.423.857đ…”.
4.6. Suy nghĩ của anh/chị về chế định di sản dùng vào việc thờ cúng trong
BLDS và giải pháp của Tòa án trong vụ việc đang được nghiên cứu.
Suy nghĩ về chế định di sản dùng vào việc thờ cúng trong BLDS
- Thứ nhất, Điều 645 BLDS chỉ đề cập đến việc người lập di chúc để lại một
phần di sản dùng vào việc thờ cúng, còn trường hợp người lập di chúc dùng toàn bộ
di sản cho việc thờ cúng không được nhắc đến.
- Thứ hai, Điều 645 BLDS quy định về di sản thờ cúng chỉ mang tính định
lượng mà chưa xác định được tính chất tài sản dùng vào việc thờ cúng.
Suy nghĩ về giải pháp của Tòa án trong vụ việc đang được nghiên cứu
Căn cứ Điều 645 BLDS 2015 thì di sản dùng vào việc thờ cúng không được chia
thừa kế và phải được giao cho một người để quản lí di sản. Tuy nhiên, trên thực tế
Tòa án lại đồng ý yêu cầu khởi kiện của anh Được và tiến hành chia thừa kế là chưa
thỏa đáng.

- Thứ nhất, cách xét xử của Tòa án là chưa phù hợp với quy định tại Khoản 1
Điều 645 BLDS 2015. Theo đó thì nhà đất mà bà Lùng để lại đáng ra phải đồng sở
hữu bởi 7 người con để cùng thực hiện việc thờ cúng cha mẹ.


×