Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

Khoa luan tốt nghiệp quy định về thị trường liên quan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (469.48 KB, 90 trang )

MỤC LỤC
Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ CẠNH PHÁP LUẬT CHỐNG HẠN CHẾ CẠNH TRANH
VÀ VẤN ĐỀ THỊ TRƯỜNG LIÊN QUAN..........................................................................4
1.1.1.1. Khái niệm cạnh tranh.....................................................................................4
1.1.1.2. Đặc điểm của cạnh tranh................................................................................6
1.2. KHÁI QUÁT VỀ PHÁP LUẬT CẠNH TRANH VÀ PHÁP LUẬT CHỐNG HẠN
CHẾ CẠNH TRANH.......................................................................................................12
1.2.2.1. Sự cần thiết của việc ban hành pháp luật chống hạn chế cạnh tranh...........15
1.2.2.2. Các đặc trưng cơ bản của pháp luật cạnh tranh...........................................16
1.2.2.2. Thị trường địa lí liên quan...........................................................................35
2.2 QUY ĐỊNH VÀ THỰC TIỄN XÁC ĐỊNH THỊ TRƯỜNG LIÊN QUAN CỦA
LIÊN MINH CHÂU ÂU..................................................................................................38
2.2.1 Quy định về xác định thị trường liên quan trong pháp luật của Liên minh Châu
Âu.................................................................................................................................38
2.2.1.1. Những quy định chung về thị trường liên quan...........................................38
2.2.1.3 Các yếu tố cơ bản về việc xác định thị trường liên quan..............................41
2.2.1.4. Quy trình chung để xác định thị trường liên quan.......................................42
2.2.1.5. Chứng cứ để xác định thị trường liên quan.................................................43
2.2.1.6. Yếu tố thời gian trong việc xác định thị trường liên quan...........................45
2.2.2. Thực tiễn xác định thị trường liên quan của các châu Âu....................................45
2.2.2.1. Thực tiễn áp dụng quy định về vấn đề thị trường liên quan của các nước
châu Âu.....................................................................................................................45
a. Vụ United Brands Co và United Brands Continental BV v. EC số 27/76........45
b. Vụ NV Nederlandsche Banden – Industrie Michelin v. EC số 322/81............53
2.2.3 Nhận xét việc xác định thị trường liên quan tại Liên minh Châu Âu...................58
2.3. QUY ĐỊNH VÀ THỰC TIỄN XÁC ĐỊNH THỊ TRƯỜNG LIÊN QUAN CỦA
TRUNG QUỐC................................................................................................................60
2.3.1.Khái quát hệ thống pháp luật cạnh tranh của Trung Quốc và vấn đề thị trường liên
quan..............................................................................................................................60
2. 3.2 Nội dung các quy định về vấn đề thị trường liên quan của Trung Quốc.............61
2.3.2.1. Định nghĩa thị trường liên quan...................................................................61


2.3.2.2 Cơ sở để xác định thị trường liên quan.........................................................62
2.3.2.3 Phương pháp xác định thị trường liên quan..................................................63
2.3.2.4 Các yếu tố để xác định thị trường liên quan.................................................65
2.3.3 Thực tiễn áp dụng pháp luật cạnh tranh và xác định thị trường liên quan tại Trung
Quốc..............................................................................................................................66
2.3.4 Đánh giá các quy định về xác định thị trường liên quan tại Trung Quốc.............67
CHƯƠNG 3: BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC VÀ MỘT SỐ KIẾN
NGHỊ ĐỐI VỚI VIỆC XÁC ĐỊNH THỊ TRƯỜNG LIÊN QUAN CỦA VIỆT NAM.......68
3.1 MỘT SỐ ĐIỂM BẤT CẬP VỀ VẤN ĐỀ XÁC ĐỊNH THỊ TRƯỜNG LIÊN QUAN
TẠI VIỆT NAM...............................................................................................................68
3.1.1 Những điểm bất cập liên quan đến nội dung các quy định của pháp luật về việc
xác định thị trường liên quan........................................................................................68
3.1.2 Những hạn chế trong việc áp dụng các quy định của pháp luật về thị trường liên
quan..............................................................................................................................72
3.2 KINH NGHIỆM CỦA CÁC NƯỚC VỀ VẤN ĐỀ XÁC ĐỊNH THỊ TRƯỜNG LIÊN
QUAN VÀ BÀI HỌC ĐỐI VỚI VIỆT NAM..................................................................74
1


3.2.1 Kinh nghiệm của Liên minh Châu Âu về vấn đề xác định thị trường liên quan và
bài học đối với Việt Nam..............................................................................................74
3.2.2 Kinh nghiệm xác định thị trường liên quan của Trung Quốc và bài học rút ra cho
Việt Nam.......................................................................................................................78
3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ VIỆC XÁC ĐỊNH THỊ TRƯỜNG LIÊN QUAN TẠI
VIỆT NAM.......................................................................................................................79
3.3.1 Giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về xác định thị trường liên quan
......................................................................................................................................79
3.3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về việc xác định thị trường liên
quan..............................................................................................................................83
KẾT LUẬN..........................................................................................................................89


LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Pháp luật cạnh tranh của Việt Nam hay pháp luật cạnh tranh của bất kỳ quốc gia
nào trên thế giới đều hướng đến mục tiêu: đảm bảo một quá trình cạnh tranh hiệu
quả, tăng cường phúc lợi cho xã hội, đảm bảo lợi ích của người tiêu dùng và tối đa
hóa hiệu quả sản xuất kinh doanh, phân bổ các nguồn lực xã hội. Pháp luật cạnh
tranh chính là công cụ để bao vệ và đem lại lợi ích cho nền kinh tế, xã hội và người
tiêu dùng. Để thực hiện được mục tiêu trên, một trong những nội dung không thể
thiếu đó là việc điều chỉnh các hành vi hạn chế cạnh cạnh, kiểm soát hành vi lạm
dung vị trí trí thống lĩnh/độc quyền thị trường.
Để điều tra các vụ việc cạnh tranh, xác định có hay không việc thống lĩnh hay
độc quyền của doanh nghiệp trong nền kinh tế, từ đó đưa ra những biện pháp kiểm
soát và áp dụng các chế tài xủ lý đối với các hành vi vi phạm, thì một trong những
bước đầu tiên, quan trọng nhất đối với các cơ quan quản lý cạnh tranh là việc xác
định thị trường liên quan quan. Việc xác định thị trường liên quan giúp đánh giá
được sức mạnh mà doanh nghiệp có được, các đối thủ cạnh tranh và tác động của
hành vi do doanh nghiệp có sức mạnh thị trường thực hiện.

2


Mặc dù có ý nghĩa quan trọng như vậy, tuy nhiên hiện nay khuôn khổ pháp lý để
điều chỉnh vấn đề xác định thị trường liên quan vẫn còn thiếu và xuất hiện nhiều bất
cập trong thực tiễn áp dụng. Pháp luật cạnh tranh của Việt Nam ra đời muộn hơn
pháp luật cạnh tranh của nhiều nền kinh tế lớn trên thế giới nên việc kế thừa học hỏi
để hoàn thiện các các quy định của pháp luật cạnh tranh là rất cần thiết. Việc nghiên
cứu các quy định về xác định thị trường liên quan từ những quốc gia có bề dày kinh
nghiệp trong việc xây dựng pháp luật cạnh tranh sẽ góp phần hoàn thiện và thực thi
có hiệu quả các quy định về cạnh tranh. Chính vì vậy, người viết lựa chọn đề tài:

“Vấn đề thị trường liên quan: kinh nghiệm của một số nước và bài học

cho Việt Nam”
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lí luận về xác định thị trường liên quan trong
pháp luật cạnh tranh, tìm hiểu , phân tích nội dung và thực tiễn áp dụng các quy
định về xác định thị trường liên quan của một số quốc gia bao gồm Liên minh Châu
Âu, Trung Quốc, khóa luận đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về
thị trường liên quan của Việt Nam cũng như nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về
vấn đề này.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định về việc xác định thị trường liên
quan theo pháp luật cạnh tranh.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các quy định về thị trường liên quan theo pháp
luật cạnh tranh của Việt Nam, Liên minh Châu Âu, và Trung Quốc.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
-

Nêu rõ khái niệm, phân loại thị trường liên quan, và các vấn đề lý luận về
việc xác định thị trường liên quan theo pháp luật chống hạn chế cạnh tranh

-

Phân tích nội dung các quy định về xác định thị trường liên quan và thực tiễn
áp dụng các quy định về xác định thị trường liên quan của Việt Nam

-

Phân tích nội dung các quy định về xác định thị trường liên quan theo pháp
luật của Liên minh Châu Âu và kinh nghiệm xác định thị trường liên quan

trong một số vụ việc của Ủy ban Châu Âu
3


-

Phân tích nội dung các quy định về xác định thị trường liên quan theo pháp
luật cạnh tranh Trung Quốc từ đó đưa ra các bài học kinh nghiệm cho Việt
Nam

-

Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về xác
định thị trường liên quan của Việt Nam và nâng cao hiệu quả thực thi pháp
luật.

5. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lê
nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Phương pháp nghiên cứu của khóa luận bao gồm:
Phương pháp thu thập, tổng hợp; Phương pháp diễn giải, quy nạp; Phương pháp đối
chiếu, so sánh,....
6. Kết cấu của khóa luận
Khóa luận được kết cấu thành ba chương:
Chương 1: Khái quát về cạnh tranh, pháp luật chống hạn chế cạnh tranh và vấn đề thị
trường liên quan.
Chương 2: Quy định và thực tiễn xác định thị trường liên quan của Việt Nam và một
số quốc gia.
Chương 3: Bài học kinh nghiệm của một số nước và một số kiến nghị đối với việc
xác định thị trường liên quan của Việt Nam.


Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ CẠNH PHÁP LUẬT CHỐNG HẠN CHẾ CẠNH
TRANH VÀ VẤN ĐỀ THỊ TRƯỜNG LIÊN QUAN
1.1 KHÁI QUÁT VỀ CẠNH TRANH
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của cạnh tranh
1.1.1.1. Khái niệm cạnh tranh
Trên thế giới có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm “cạnh tranh” cụ thể
như sau:

4


Theo Từ điển tiếng Anh, cạnh tranh có thể được hiểu là “một sự kiện hoặc một
cuộc đua, theo đó các đối thủ ganh đua để giành phần hơn hay ưu thế tuyệt đối về
phía mình.” [1] Đây là cách hiểu phổ thông về cạnh tranh.
Theo Từ điển tiếng Việt, “cạnh tranh” là “cố gắng giành phần hơn, phần
thắng về mình giữa những người, những tổ chức hoạt động nhằm những lợi ích như
nhau”. [2]
Dưới góc độ kinh tế, cạnh tranh là hiện tượng kinh tế chỉ xuất hiện và tồn tại
trong nền kinh tế thị trường. Do đó, cạnh tranh được nhìn nhận ở nhiều góc độ khác
nhau tùy thuộc vào hướng tiếp cận của từng nhà nghiên cứu:
Theo Từ điển kinh doanh của Anh năm 1992 thì “cạnh tranh” được hiểu là
“sự ganh đua, kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm tranh giành
cùng một loại tài nguyên sản xuất hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình.”
Tương tự như vậy, Từ điển Tiếng Việt Bách khoa tri thức phổ thông, khái niệm
“cạnh tranh” cũng được giải thích theo nghĩa kinh tế đó là hoạt động ganh đua giữa
những người sản xuất hàng hóa, giữa các thương nhân, các nhà kinh doanh trong
nền kinh tế nhằm giành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ và thị trường có lợi nhất.
Như vậy, từ các khái niệm đã nêu ở trên có thể thấy khái niệm “cạnh tranh” đã
được nhìn nhận dưới các góc độ khác nhau. Tuy nhiên có thể hiểu trong khoa học
kinh tế, cạnh tranh được hiểu là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh doanh trên thị

trường nhằm mục đích lôi kéo về phía mình ngày càng nhiều khách hàng. Cạnh
tranh có thể xuất hiện giữa những người bán hàng và những người mua hàng nhưng
cạnh tranh giữa những người bán hàng là phổ biến.
Dưới góc độ khoa học pháp lý, các nhà nghiên cứu cũng chưa đưa ra được một
khái niệm chuẩn chung cho hiện tượng cạnh tranh với tư cách là mục tiêu điều chỉnh
của pháp luật. Hiện nay, có rất ít quốc gia đưa ra định nghĩa về cạnh tranh. Sau đây,
tác giả xin được nêu ra một vài khái niệm về cạnh tranh trong pháp luật của một số
quốc gia trên thế giới như sau:
“Cạnh tranh” được hiểu là sự ganh đua giữa các doanh nghiệp trên thị trường
hàng hóa, dịch vụ để quyết định các vấn đề kinh tế độc lập. (Điều 3 Luật cạnh tranh
của Thổ Nhĩ Kỳ)
5


“Cạnh tranh” là từ chỉ những hành động theo đó hai hay nhiều doanh nghiệp
đưa ra thị trường mức giá, số lượng, chất lượng, dịch vụ ưu đãi hơn hoặc những
điều kiện khác nhằm giành cơ hội kinh doanh. (Điều 4 Luật Thương mại lành mạnh
của Đài Loan).
Một số quốc gia khác trên thế giới (bao gồm Trung Quốc, Hàn Quốc,
Bungari, Nhật Bản… và cả Việt Nam) không đưa ra khái niệm cạnh tranh trong
Luật cạnh tranh nhưng đã bao gồm các quy phạm nhằm tạo lập và duy trì môi
trường kinh doanh bình đẳng, đảm bảo sự ganh đua giữa các chủ thể kinh doanh
diễn ra trong khuôn khổ pháp luật quy định. [3]
1.1.1.2. Đặc điểm của cạnh tranh
Cạnh tranh có một số đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, cạnh tranh là sự ganh đua giữa các chủ thể kinh doanh trên thị trường
để giành giật khách hàng.
Trên thị trường, giữa khách hàng và nhà cung cấp luôn luôn thể hiện nhu cầu và
lợi ích khác nhau. Khách hàng mong muốn mua được sản phẩm phù hợp nhất với
giá rẻ nhất, trong khi đó, nhà cung cấp mong muốn bán được sản phẩm càng nhanh

càng tốt để đầu tư phát triển thu được lợi nhuận. Sự mâu thuẫn này là nguồn gốc tạo
ra sự cạnh tranh giữa các chủ thể trên thị trường để lôi kéo khách hàng về phía
mình. Để ganh đua với nhau, các chủ thể kinh doanh phải sử dụng các phương thức,
thủ đoạn kinh doanh được gọi là các hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp. Kết quả
cuộc cạnh tranh trên thị trường là người chiến thắng mở rộng được thị phần, tăng lợi
nhuận, kẻ thua cuộc bị đào thải. Quá trình cạnh tranh buộc các chủ thể kinh doanh
phải sử dụng một cách có hiệu quả các nguồn lực của mình.
Thứ hai, chủ thể của cạnh tranh là các tổ chức, cá nhân kinh doanh có tư cách
pháp lý độc lập.
Cạnh tranh chỉ diễn ra khi có sự ganh đua của ít nhất hai chủ thể trở lên và là
đối thủ của nhau. Nếu không có đối thủ hay nói cách khác là tồn tại tình trạng độc
quyền thì hoạt động cạnh tranh sẽ không thể được diễn ra.
Thứ ba, quá trình cạnh tranh giữa các đối thủ diễn ra trên thị trường

6


Các chủ thể kinh doanh khi tham gia vào thị trường luôn ganh đua để mở rộng
thị trường. Việc cạnh tranh thường chỉ diễn ra giữa các doanh nghiệp có chung lợi
ích như cùng tìm kiếm nguồn nguyên liệu đầu vào giống nhau hoặc cùng tìm kiếm
thị trường để bán những sản phẩm tương tự nhau. Điều này dẫn đến việc các doanh
nghiệp này trở thành đối thủ của nhau. Như vậy, sự ganh đua giữa các đối thủ được
thể hiện rõ nét trên thị trường. Đặc biệt, đối với nhiều hành vi hạn chế cạnh tranh,
để xác định có hành vi đó hay không thì phải xác định chủ thể thực hiện hành vi đó
hoạt động trên thị trường liên quan nào và những ai là đối thủ cạnh tranh của nó.
Thứ tư, cạnh tranh chỉ xuất hiện và tồn tại trong điều kiện của cơ chế thị
trường.
Xuất phát từ bản chất của cạnh tranh là hoạt động nhằm tranh giành thị trường,
lôi kéo khách hàng về phía mình của các chủ thể kinh doanh nên cạnh tranh chỉ có
thể diễn ra trong cơ chế thị trường, nơi công dân có quyền tự do kinh doanh và tìm

kiếm cơ hội phát triển sản xuất kinh doanh. Trong thời kỳ phong kiến hay trong nền
kinh tế kế hoạch hóa tập trung không thể tồn tại quyền tự do kinh doanh của cá
nhân, do đó cạnh tranh cũng không thể tồn tại với tính chất là sự ganh đua giữa các
đối thủ trên cùng một thị trường.
1.1.1.

ác hình thức cạnh tranh

Nhằm phục vụ việc nghiên cứu, xây dựng chính sách cạnh tranh, các luật gia và
các nhà kinh tế đã đưa ra nhiều cách phân loại cạnh tranh khác nhau:
Thứ nhất, căn cứ vào tính chất và mức độ can thiệp của nhà nước vào đời sống
kinh tế, cạnh tranh được chia thành cạnh tranh tự do và cạnh tranh có sự điều tiết
của nhà nước.
Cạnh tranh tự do cùng với quan điểm bàn tay vô hình do nhà kinh tế học người
Anh- Adam Smith (1723- 1790) đưa ra.là hình thức cạnh tranh thoát khỏi mọi sự
can thiệp của nhà nước. Lý thuyết về cạnh tranh tự do đưa ra mô hình cạnh tranh mà
ở đó các chủ thể kinh doanh tham gia cuộc ganh đua hoàn toàn chủ động, tự do ý
chí trong việc xây dựng và thực hiện các chiến lược, kế hoạch kinh doanh của mình.
[4] Theo Adam Smith, sự phát triển kinh tế phải tuân thủ quy luật kinh tế khách
quan tự phát và luôn có sự điều tiết của bàn tay vô hình vào hoạt động của thị
trường. Adam Smith cho rằng sự tự do bản thân nó đã sản sinh ra hệ thống điều tiết
7


các quan hệ và các lợi ích thị trường. Cạnh tranh tạo ra những quyền lực cần thiết để
điều tiết và phân bổ các nguồn lực một cách tối ưu, do đó nhà nước không cần can
thiệp quá sâu vào hoạt động kinh tế.
Tuy nhiên, sự phát triển kinh tế, xã hội cho thấy các quan hệ kinh doanh ngày
càng có sự đan xen của nhiều dạng lợi ích nên quan điểm về bàn tay vô hình trong
việc điều tiết cạnh tranh trên thương trường ngày càng trở nên khó được chấp nhận.

Hiện nay trên thực tế, mô hình tự do cạnh tranh không còn là mô hình lý tưởng được
áp dụng.
Cạnh tranh có sự điều tiết của Nhà nước là hình thức cạnh tranh được can thiệp
bằng các chính sách cạnh tranh của nhà nước để điều tiết, hướng các chính sách
cạnh tranh của nhà nước để điều tiết, hướng các quan hệ cạnh tranh vận động và
phát triển theo trật tự nhất định, đảm bảo tạo lập và duy trì môi trường kinh doanh
bình đẳng.
Bên cạnh ưu thế của cạnh tranh thì quá trình cạnh tranh cũng làm nảy sinh
không ít các hành vi làm hạn chế cạnh tranh, dẫn đến thủ tiêu cạnh tranh. Do đó, cần
có một quyền lực đứng trên các chủ thể kinh doanh, sử dụng các công cụ và chính
sách hữu hiệu để khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường và bảo vệ cạnh
tranh. Hiện nay, đa số các nước đã thừa nhận tính đúng đắn của mô hình cạnh tranh
có sự điều tiết của nhà nước. Nhà nước phải xác định chính xác mức độ, công cụ và
phương pháp can thiệp của mình vào môi trường cạnh tranh để vừa bảo vệ cạnh
tranh, vừa khắc phục khuyết tật của cạnh tranh đồng thời không thô bạo vào thị
trường, đảm bảo quyền tự do kinh doanh của các chủ thể.
Thứ hai, căn cứ vào đặc tính, cấu trúc của thị trường (bao gồm số lượng người
mua và bán, loại hàng hóa được sản xuất, bản chất của rào cản gia nhập thị trường),
các nhà kinh tế học chia cạnh tranh thành cạnh tranh hoàn hảo, độc quyền, cạnh
tranh mang tính độc quyền và độc quyền nhóm.
Cạnh tranh hoàn hảo (còn được gọi là cạnh tranh thuần túy) là hình thức cạnh
tranh diễn ra trên thị trường có những đặc tính như: Có sự tham gia của nhiều người
bán và nhiều người mua trên thị trường, thị phần của người bán và khả năng tiêu
thụ của người mua đều nhỏ đến mức không ai có đủ sức mạnh tác động tới giá cả
sản phẩm; sản phẩm do những người bán cung ứng không có sự khác biệt dẫn đến
8


các sản phẩm trên thị trường được bán ở cùng một mức giá. Giá cả sản phẩm trên
thị trường được hình thành khách quan thông qua quan hệ cung cầu và không chịu

sự tác động của các chủ thể tham gia trên thị trường; các chủ thể kinh doanh tự do
gia nhập và rút khỏi thị trường. Trên thị trường cạnh tranh hoàn hảo không có rào
cản của việc gia nhập cũng như rời bỏ thị trường.
Loại hình cạnh tranh này là thị trường lý tưởng cho cạnh tranh. Thị trường cạnh
tranh hoàn hảo mang tính lý thuyết do các nhà kinh tế đưa ra dựa trên những điều
kiện giả định và không tồn tại trong thực tế, chỉ có một số hình thức cạnh tranh gần
như hoàn hảo trên thị trường rau tươi, sữa bò tươi…
Độc quyền tồn tại trên thị trường có những đặc trưng sau: Chỉ có chủ thể duy
nhất cung ứng hoặc tiêu thụ sản phẩm trên thị trường mà không có sản phẩm thay
thế cùng loại gần giống với nó. Trên thị trường độc quyền chỉ có chủ thể kinh doanh
duy nhất tồn tại mà không có đối thủ cạnh tranh. Doanh nghiệp độc quyền có thể
độc quyền nguồn cung (độc quyền bán) hoặc độc quyền cầu (độc quyền mua);
doanh nghiệp độc quyền là người quyết định giá sản phẩm đối với loại mặt hàng
nhất định. Họ có thể nâng giá hoặc hạ giá sản phẩm để thu được lợi nhuận độc
quyền lớn nhất; rào cản gia nhập thị trường rất lớn làm cho các doanh nghiệp khác
rất khó khăn hoặc không thể tham gia thị trường được. Có rất nhiều nguyên nhân
dẫn đến độc quyền như: độc quyền hình thành từ quá trình cạnh tranh (độc quyền tự
nhiên); độc quyền hình thành từ yêu cầu của công nghệ sản xuất hoặc yêu cầu về
quy mô tối thiểu của ngành kinh tế kỹ thuật; độc quyền hình thành từ sự bảo hộ của
nhà nước (bao gồm bảo hộ bằng các quyết định hành chính cho các doanh nghiệp
của nhà nước và bảo hộ các đối tượng thuộc sở hữu công nghiệp); độc quyền do sự
tích tụ tập trung kinh tế. Sự tồn tại của doanh nghiệp độc quyền tạo ra những ưu
điểm đồng thời cũng gây thiệt hại cho nền kinh tế.
Cạnh tranh không hoàn hảo diễn ra trong thị trường có sự khuyết đi của một
trong các yếu tố của cạnh tranh hoàn hảo. Đây là hình thức cạnh tranh phổ biến trên
thị trường, ở nhiều lĩnh vực, nhiều ngành kinh tế. Mỗi thành viên của thị trường đều
có sức mạnh nhất định đủ để tác động đến giá cả của sản phẩm theo những mức độ
nhất định. Kinh tế học chia cạnh tranh hoàn hảo thành hai loại: cạnh tranh mang tính
độc quyền và độc quyền nhóm.
9



Cạnh tranh mang tính độc quyền là hình thức cạnh tranh tồn tại trên thị trường
có những đặc trưng như: có số lượng lớn người bán và người mua; các sản phẩm
của người bán về cơ bản là giống nhau và có thể thay thế cho nhau song những sản
phẩm này có sự khác biệt về hình dáng, kích thước, chất lượng, nhãn mác; trên thị
trường tồn tại một số mức giá do doanh nghiệp đưa ra bởi mỗi doanh nghiệp có sức
mạnh đối với sản phẩm của mình bằng sự dị biệt hóa về sản phẩm; không có rào cản
tham gia thị trường. Các doanh nghiệp tự do gia nhập và rút lui khỏi thị trường.
Độc quyền nhóm là hình thức trung gian giữa cạnh tranh mang tính độc quyền
và độc quyền.
Thứ ba, căn cứ vào tính chất của các phương thức cạnh tranh, cạnh tranh được
chia thành cạnh tranh lành mạnh và cạnh tranh không lành mạnh.
Cạnh tranh lành mạnh là hình thức cạnh tranh công khai, công bằng và ngay
thẳng giữa các đối thủ cạnh tranh trong kinh doanh. Cạnh tranh lành mạnh là những
hoạt động nhằm thu hút khách hàng mà pháp luật không cấm, phù hợp với tập quán
thương mại và đạo đức kinh doanh truyền thống như: nâng cao chất lượng sản
phẩm, nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng , đổi mới phương thức giao tiếp với
khách hàng, hạ giá bán hàng hóa trên cơ sở đổi mới công nghệ, giảm chi phí sản
xuất, chi phí lưu thông, đầu tư nghiên cứu và phát triển sản xuất kinh doanh…Về cơ
bản, cạnh tranh lành mạnh phải đảm bảo các tiêu chí như: có mục đích thu hút
khách hàng; tuân theo quy định của pháp luật; tôn trọng truyền thống, tập quán kinh
doanh, đạo đức kinh doanh; cạnh tranh bằng tiềm năng vốn có của doanh nghiệp.
Cạnh tranh không lành mạnh là phương thức cạnh tranh các doanh nghiệp thực
hiện bởi những cách thức không lành mạnh nhằm mục đích gây phản cạnh tranh
như: ấn định giá bất hợp lý với khách hàng; sắp đặt mức giá thấp hơn giá thị trường
để loại bỏ đối thủ quảng cáo; khuyến mại với mục đích lôi kéo khách hàng của đối
thủ; liên kết với nhau để hạn chế cạnh tranh… cạnh tranh không lành mạnh có thể
được nhằm vào những đối thủ cụ thể hay nhằm vào lợi ích của trật tự kinh tế nên có
thể làm hạn chế khả năng cạnh tranh vốn có của các đối thủ cạnh tranh, hạn chế

hoặc triệt tiêu cạnh tranh. Điều đó cũng có nghĩa là cạnh tranh không lành mạnh
triệt tiêu động lực phát triển kinh tế, xâm hại lợi ích của cả cộng đồng và xã hội.

10


Thứ tư, căn cứ vào tác động bất lợi của hành vi cạnh tranh gây ra đối với môi
trường cạnh tranh, pháp luật của một số nước đã chia cạnh tranh thành hành vi hạn
chế cạnh tranh và hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Hành vi hạn chế cạnh tranh hình thành từ những thủ đoạn lũng đoạn thị trường
của các tập đoàn kinh tế tư bản độc quyền ở Hoa Kỳ vào cuối thế kỷ XIX và luôn
hướng tới việc hình thành sức mạnh thị trường hoặc lạm dụng sức mạnh thị trường
làm cho tình trạng cạnh tranh trên thị trường bị bóp méo. Thông thường hành vi hạn
chế cạnh tranh gồm 4 dạng hành vi: thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí
thống lĩnh, lạm dụng vị trí độc quyền và tập trung kinh tế.
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là những hành vi của doanh nghiệp nhằm
mục đích cạnh tranh trái với chuẩn mực đạo đức, đi ngược với thông lệ thiện chí,
trung thực trong kinh doanh. Những hành vi này phát sinh trong hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp đã đẩy cạnh tranh lên quá mức bằng những thủ đoạn thái
quá gây thiệt hại cho đối thủ hoặc bộ phận người tiêu dùng. [5]
1.1.2.

Vai trò, ý nghĩa của cạnh tranh và nhu cầu điều tiết cạnh tranh

bằng chính sách cạnh tranh
1.3.1.1. Vai trò và ý nghĩa của cạnh tranh
Cạnh tranh tồn tại trong cơ chế thị trường như một quy luật khách quan. Cạnh
tranh có những vai trò quan trọng sau:
Thứ nhất, cạnh tranh là động lực cho sự phát triển kinh tế- xã hội. Cạnh tranh
luôn có mục tiêu lâu dài là thu hút càng nhiều khách hàng nên nó buộc các nhà sản

xuất và kinh doanh hàng hóa, dịch vụ phải tạo ra những sản phẩm có chất lượng
ngày càng cao với giá thành ngày càng giảm. Cạnh tranh luôn mang đến một kết
quả đó là các doanh nghiệp có tiềm lực và chiến lược kinh doanh đúng đắn sẽ tiếp
tục vươn lên, có chỗ đứng vững chắc trên thị trường; ngược lại, doanh nghiệp nào
không đáp ứng được nhu cầu của thị trường sẽ bị đào thải. Qua quá trình này, cạnh
tranh đã góp phần tạo sức mạnh cho sự phát triển của kinh tế- xã hội.
Thứ hai, cạnh tranh khuyến khích việc áp dụng khoa học, kỹ thuật mới, cải tiến
công nghệ nhằm kinh doanh có hiệu quả. Trong kinh doanh, doanh nghiệp nào có
sản phẩm phù hợp với nhu cầu của thị trường với giá cả thấp hơn các sản phẩm
cùng loại trên thị trường sẽ nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường và thu lợi nhuận.
Điều này đã thúc đẩy các đối thủ cạnh tranh về sản phẩm cùng loại phải luôn quan
tâm đến việc cải tiến về hình thức và chất lượng sản phẩm bằng cách áp dụng công
11


nghệ mới, tiến bộ khoa học kỹ thuật. Vì chỉ có khoa học, công nghệ mới có thể trợ
giúp hữu hiệu sản xuất, kinh doanh giảm giá thành sản phẩm, tăng tính năng và chất
lượng sản phẩm. Như vậy, có thể thấy cạnh tranh còn là nguồn gốc, động lực để
phát triển khoa học kỹ thuật và công nghệ cao.
Thứ ba, cạnh tranh dẫn đến giá thấp hơn cho người tiêu dùng và làm thỏa mãn
nhu cầu của người tiêu dùng. Thông qua quy luật cung cầu, cạnh tranh có khả năng
nhanh nhạy trong việc phát hiện và đáp ứng mọi nhu cầu và thị hiếu của người tiêu
dùng. Cạnh tranh tác động liên tục đến giá cả sản phẩm trên thị trường, buộc các
doanh nghiệp phải chọn phương án kinh doanh với chi phí nhỏ mà chất lượng tốt để
phù hợp với mong muốn của người tiêu dùng. Người tiêu dùng là trung tâm của thị
trường và quyết định sự sống còn của sản phẩm.
Thứ tư, cạnh tranh buộc các doanh nghiệp cũng như các quốc gia phải sử dụng
các nguồn lực một cách tối ưu nhất. Một nhà nước văn minh trong cơ chế thị trường
hiện đại phải là nhà nước có nhiệm vụ và chức năng phát hiện, thừa nhận, bảo vệ và
khuyến khích những thuộc tính tốt của cạnh tranh. Bên cạnh đó, mỗi quốc gia cũng

cần phải có chính sách cạnh tranh để điều tiết hoạt động cạnh tranh trong kinh
doanh nhằm hạn chế những khuyết tật của cạnh tranh.
1.2. KHÁI QUÁT VỀ PHÁP LUẬT CẠNH TRANH VÀ PHÁP LUẬT CHỐNG
HẠN CHẾ CẠNH TRANH
1.2.1.

Khái quát về pháp luật cạnh tranh

Thứ nhất , về khái niệm và nguồn của pháp luật cạnh tranh. Pháp luật cạnh
tranh bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh hành vi cạnh tranh giữa các chủ
thể kinh doanh trên thương trường, đồng thời bao gồm cả các quy định đảm bảo
thực thi luật cạnh tranh trong thực tế. Đó là các quy định về tổ chức và hoạt động
của cơ quan nhà nước thi hành luật cạnh tranh; trình tự, thủ tục xử lý vụ việc cạnh
tranh; các biện pháp xử lý vi phạm pháp luật về cạnh tranh. Còn ở các nước có nền
kinh tế thị trường và hệ thống pháp luật phát triển như Anh, Pháp, Mỹ, nguồn của
pháp luật cạnh tranh còn bao gồm cả thực tiễn xét xử của tòa án, các cơ quan cạnh
tranh và các báo cáo, luận chứng trong quá trình xây dựng pháp luật, các lý thuyết
trong lĩnh vực cạnh tranh được công nhận rộng rãi.

12


Để đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh và bình đằng, việc ban hành pháp
luật luôn được xem là công cụ hữu hiệu của nhà nước để can thiệp, điều tiết cạnh
tranh một cách có hiệu quả. Trong các nguồn của pháp luật cạnh tranh, luật cạnh
tranh được coi là nguồn cơ bản và đồng thời cũng là công cụ quan trọng nhất của
chính sách cạnh tranh, là trung tâm trong cơ chế điều tiết cạnh tranh của một số
quốc gia. Hiện nay, trên thế giới có khoảng 130 quốc gia đã ban hành luật cạnh
tranh và một số quốc gia khác đang trong quá trình soạn thảo luật cạnh tranh. [6] Ở
nhiều nước, Luật cạnh tranh bao gồm đạo luật cạnh tranh, các phán quyết của tòa án

và các quy định dưới luật để hướng dẫn thi hành luật cạnh tranh nhằm hình thành cơ
chế ngăn chặn hành vi phản cạnh tranh của các doanh nghiệp. Nhìn chung, Luật
cạnh tranh chủ yếu điều chỉnh nhằm kiểm soát 4 loại hành vi gây hạn chế cạnh tranh
đó là: sáp nhập, mua lại doanh nghiệp gây hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống
lĩnh thị trường, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Ở một số
nước, Luật cạnh tranh còn bao gồm các quy định chống lại hành vi cạnh tranh đi
ngược lại với đạo đức kinh doanh, trái với thông lệ trung thực, thiện chí (hành vi
cạnh tranh không lành mạnh).
Thứ hai, về đối tượng điều chỉnh. Pháp luật cạnh tranh điều chỉnh những quan
hệ sau: Quan hệ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh
doanh trên thị trường; quan hệ giữa cơ quan thi hành luật cạnh tranh với các chủ thể
kinh doanh khi họ thực hiện các hành vi hạn chế cạnh tranh hoặc hành vi cạnh tranh
không lành mạnh.
Thứ ba, về đặc trưng của pháp luật cạnh tranh. Khác với các lĩnh vực pháp luật
về kinh tế khác, pháp luật cạnh tranh có những đặc trưng cơ bản sau:
Một là, pháp luật cạnh tranh chỉ quy định các hành vi bị ngăn cấm trong hoạt
động cạnh tranh chứ không hướng dẫn các chủ thể kinh doanh cần làm những gì
hoặc phải làm gì trong quá trình cạnh tranh trên thị trường. Như vậy, pháp luật cạnh
tranh chỉ khoanh vùng những hành vi bị cấm trong hoạt động cạnh tranh chứ không
hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện những hoạt động cạnh tranh cụ thể nào.
Trong khi đó, các lĩnh vực pháp luật về kinh tế khác lại quy định cụ thể quyền và
nghĩa vụ của các chủ thể trong hoạt động kinh doanh.

13


Hai là, pháp luật cạnh tranh thường đặt ra các điều khoản mở và những quy
định miễn trừ cho phép cơ quan thi hành luật cạnh tranh có thể áp dụng pháp luật
một cách linh hoạt. Cạnh tranh là hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trên thị
trường nên rất đa dạng, phong phú. Có những hành vi ở thời điểm này được xác

định là gây ảnh hưởng xấu tới môi trường cạnh tranh lành mạnh nhưng ở thời điểm,
hoàn cảnh khác thì lại không xâm hại đến lợi ích công và không bị ngăn cản. Do đó,
đối với hành vi hạn chế cạnh tranh quy định trong luật được điều chỉnh theo hai
nguyên tắc, bên cạnh một số hành vi bị cấm theo nguyên tắc vi phạm mặc nhiên
cấm (per se rule), nhiều hành vi khác được xem xét theo nguyên tắc lập luận hợp lý
(rule of reason) tức là chỉ bị cấm trong những điều kiện cụ thể quy định trong luật
cạnh tranh. Theo đó, luật cạnh tranh của một số quốc gia đều liệt kê hành vi bị cấm
vô điều kiện như lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền và chủ thể thực hiện
hành vi này không được hưởng miễn trừ. Bên cạnh đó, luật cạnh tranh cũng đưa ra
các điều kiện để xác định những hành vi nào khi thực hiện sẽ gây giảm sức ép cạnh
tranh cần bị cấm và một số trường hợp miễn trừ. Mặt khác, pháp luật cạnh tranh ở
các nước theo hệ thống luật Anh- Mỹ hay hệ thống luật lục địa đều thừa nhận sự tồn
tại hệ thống tiền lệ pháp trong quá trình xử lý vụ việc cạnh tranh.
Ba là, ngoài các quy định về nội dung điều chỉnh hành vi cạnh tranh, pháp luật
cạnh tranh còn có các quy định để đảm bảo thực thi luật cạnh tranh. Đó là các quy
định điều chỉnh hoạt động tố tụng cạnh tranh và xử lý vi phạm pháp luật cạnh tranh.
Khác với các lĩnh vực pháp luật khác trong kinh doanh như pháp luật về doanh
nghiệp, pháp luật thương mại, pháp luật đầu tư… pháp luật cạnh tranh ngoài các
quy phạm điều chỉnh quan hệ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp còn bao gồm nhiều
quy phạm quy định về trình tự, thủ tục giải quyết các vụ việc thực hiện các hành vi
hạn chế cạnh tranh bị cấm hay các hành vi cạnh tranh không lành mạnh và các biện
pháp xử lý đối với các chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh. [7]
Thứ tư, về mục tiêu. Pháp luật cạnh tranh không phải loại pháp luật có mục tiêu
trực tiếp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp cũng như toàn
bộ nền kinh tế của mỗi quốc gia mà nhằm ngăn ngừa và xử lý các hành vi cạnh
tranh trái pháp luật, trái đạo đức và tập quán kinh doanh. Qua đó, pháp luật cạnh

14



tranh có mục tiêu là thực hiện việc duy trì năng lực cạnh tranh thực tế của các doanh
nghiệp.

1.2.2.

Khái quát về pháp luật chống hạn chế cạnh tranh

Pháp luật chống hạn chế cạnh tranh là một bộ phận của pháp luật cạnh tranh.
Pháp luật chống hạn chế cạnh tranh điều chỉnh các hành vi cản trở, bóp méo cạnh
tranh trên thị trường. Thông thường pháp luật chống hạn chế cạnh tranh bao gồm
những điều khoản điều chỉnh thỏa thuận gây hạn chế cạnh tranh, hành vi lạm dụng
vị trí thống lĩnh thị trường hoặc vị trí độc quyền và hành vi tập trung kinh tế của các
doanh nghiệp. Bên cạnh đó, pháp luật chống hạn chế cạnh tranh còn bao gồm những
quy định điều chỉnh hoạt động tố tụng cạnh tranh. Pháp luật chống hạn chế cạnh
tranh ra đời khi nền kinh tế thị trường phát triển và đạt đến một mức độ tập trung
hóa nhất định, sự tích tụ tư bản tăng lên hình thành những doanh nghiệp có vị trí
thống lĩnh thị trường hoặc vị trí độc quyền lũng đoạn thị trường. Tại nhiều quốc gia,
pháp luật chống hạn chế cạnh tranh còn có tên gọi là pháp luật chống độc quyền
(Anti-trust law). Trên thế giới, Mỹ là một trong những quốc gia đầu tiên ban hành
đạo luật chống độc quyền với tên gọi là đạo luật Sherman (Sherman Anti-trust Act,
do nghị sĩ Sherman của bang Ohio xây dựng). Theo thống kê của Hội nghị Liên hợp
quốc về thương mại và phát triển (UNCTAD), tính đến năm 2003, đã có khoảng 100
quốc gia ban hành luật kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh. Điều này càng khẳng
định vai trò của pháp luật chống hạn chế cạnh tranh trong việc bảo vệ cơ cấu thị
trường cũng như sự tự do cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường.
1.2.2.1. Sự cần thiết của việc ban hành pháp luật chống hạn chế cạnh tranh
Hành vi hạn chế cạnh tranh là hành vi gây tác động tiêu cực đến môi trường
cạnh tranh, làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường, do đó nó có hại tới
sự phát triển của nền kinh tế và làm giảm phúc lợi xã hội. Vấn đề đặt ra là dựa vào
căn cứ nào để xác định hành vi của doanh nghiệp gây hạn chế cạnh tranh. Khi điều

tra vụ việc có khả năng gây hạn chế cạnh tranh, cơ quan có thẩm quyền phải dựa
vào yếu tố như: chủ thể thực hiện hành vi, biểu hiện của hành vi vi phạm, thị trường
nơi diễn ra hành vi hạn chế cạnh tranh và khi thực hiện những hành vi ấy trên thị
15


trường đó có ảnh hưởng xấu đến cạnh tranh hay không… Tuy nhiên, nghiên cứu về
các căn cứ chung để xác định hành vi hạn chế cạnh tranh, lý thuyết về cạnh tranh
dưới giác độ kinh tế và luật cạnh tranh của nhiều nước trên thế giới đều thể hiện hai
vấn đề quan trọng để xác định hành vi hạn chế cạnh tranh đó là: vấn đề xác định thị
trường liên quan và vấn đề xác định sức mạnh thị trường.
1.2.2.2. Các đặc trưng cơ bản của pháp luật cạnh tranh
Pháp luật chống hạn chế cạnh tranh có những đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, pháp luật chống hạn chế cạnh tranh điều chỉnh những hành vi hạn
chế cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường. Các hành vi này không chỉ ảnh
hưởng đến sự tư do cạnh tranh của một số doanh nghiệp trên thị trường mà còn tác
động đến cơ cấu thị trường, bóp méo tính cạnh tranh trên toàn bộ thị trường một
hàng hóa hay dịch vụ nhất định. Do mức độ nguy hại của những hành vi hạn chế
cạnh tranh lớn hơn hẳn hành vi cạnh tranh không lành mạnh nên pháp luật chống
hạn chế cạnh tranh thường có cách thức xử lý nghiêm khắc và kịp thời bằng những
biện pháp hành chính kinh tế đặc thù như đình chỉ hành vi, tuyên bố thỏa thuận vô
hiệu, tái cấu trúc công ty, phạt tiền,…
Thứ hai, pháp luật chống hạn chế cạnh tranh điều chỉnh các hành vi hạn chế
cạnh tranh một cách mềm dẻo. Nhằm thực thi có hiệu quả các quy định của pháp
luật chống hạn chế cạnh tranh, cơ quan quản lý cạnh tranh của nhiều quốc gia trên
thế giới phải dựa vào nhiều yếu tố như chủ thể thực hiện hành vi, biểu hiện của hành
vi vi phạm, phạm vi thị trường nơi diễn ra hành vi vi phạm, tác động của hành vi
đến cạnh tranh trên thị trường,…Tuy nhiên, theo lý thuyết cạnh tranh dưới giác độ
kinh tế và luật chống hạn chế cạnh tranh của nhiều quốc gia trên thế giới, căn cứ
chung để xác định hành vi hạn chế cạnh tranh bao gồm: xác định thị trường liên

quan và xác định sức mạnh thị trường. Trong hai căn cứ nêu trên, xác định thị
trường liên quan là căn cứ tiền đề cho việc xác định hành vi hạn chế cạnh tranh, nói
cách khác thị trường liên quan cung cấp thông tin để đánh giá sức mạnh thị trường
của chủ thể kinh doanh (vấn đề này sẽ được nghiên cứu ở những phần sau). Xác
định thị trường liên quan được nhiều quốc gia trên thế giới đánh giá là cốt lõi cho
việc thực thi hiệu quả các quy định của pháp luật chống hạn chế cạnh tranh. Các
hành vi chỉ bị điều chỉnh khi có dấu hiệu hạn chế cạnh tranh và tác động hạn chế
16


cạnh tranh được định lượng hoặc định tính ở một giới hạn nhất định. Một số hành vi
hạn chế cạnh tranh còn có thể được miễn trừ nếu có những lý do kinh tế chính đáng
[8].
1.3.

VẤN ĐỀ THỊ TRƯỜNG LIÊN QUAN TRONG PHÁP LUẬT

CHỐNG HẠN CHẾ CẠNH TRANH
1.3.1.
Khái quát về thị trường liên quan
1.3.1.1. Khái niệm và đặc điểm của thị trường liên quan
Thứ nhất, về khái niệm “thị trường liên quan”.
Trước hết, để hiểu được khái niệm “thị trường liên quan” cần phải hiểu rõ khái
niệm “thị trường”. Đây là một khái niệm được tiếp cận theo nhiều cách khác nhau:
Dưới góc độ kinh tế, thị trường là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu về một loại hàng hoá
hoặc dịch vụ nhất định.
Đối với người kinh doanh, thị trường là một nơi, một khu vực mà hàng hóa
được bày bán, rộng ra là nơi mà người tiêu dùng hoàn toàn nhận biết được sản phẩm
của hãng đó và cân nhắc việc mua chúng. Theo đó, thị trường có thể được phân
thành thị trường địa lý nơi doanh nghiệp bán sản phẩm hoặc thị trường các chủng

loại hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp.
Đối với các nhà kinh tế học, theo Stigler và Sherwin thì thị trường là tập hợp
những người bán và người mua mà giao dịch giữa họ hình thành nên giá cả của
hàng hóa. Massey cũng nhận định thị trường là tập hợp các sản phẩm và khu vực địa
lý mà giao dịch mua bán liên kết giá cả các sản phẩm đó với nhau.
Như vậy, có thể thấy theo góc độ kinh tế học, thị trường là tập hợp hàng hóa và
khu vực địa lý có mối liên hệ về giá cả. Định nghĩa này đã không xét đến mức độ
liên quan giữa giá cả các loại hàng hóa và do đó phạm vi thị trường có thể gồm tất
cả các loại hàng hóa (do theo một mức độ nào đó, hàng hóa đều có liên quan về mặt
giá cả). [9]
“Thị trường liên quan” là một thuật ngữ được sử dụng trong pháp luật chống
hạn chế cạnh tranh.
Trên thế giới, nội hàm của khái niệm này được thể hiện trong nhiều thuật ngữ
khác nhau, đồng thời cũng được nhìn nhận theo nhiều quan điểm khác biệt như sau:
17


Theo Điều 12, 13, Chương II về Độc quyền và hành vi độc quyền của Luật liên
bang về cạnh tranh kinh tế của Mexico, việc xem xét “thị trường liên quan” là xét
đến khả năng cạnh tranh của hàng hóa, dịch vụ đang được nói đến với hàng hóa,
dịch vụ khác có xuất xứ nội địa hoặc từ nước ngoài.
Luật về Độc quyền và thương mại công bằng của Hàn Quốc không sử dụng
thuật ngữ thị trường liên quan mà sử dụng thuật ngữ “khu vực kinh doanh xác
định” (particular business area) để chỉ khu vực hoặc phạm vi mà tại đó tồn tại một
quan hệ cạnh tranh bất kỳ, có thể được nhận biết bởi sản phẩm, yếu tố địa lý và cấp
độ thương mại.
Đạo luật về cạnh tranh và người tiêu dùng của Úc năm 2010 lại sử dụng thuật
ngữ “thị trường” (market). Theo đó, “thị trường” trong mối quan hệ với bất kỳ
hàng hóa, dịch vụ nào bao gồm một thị trường cho hàng hóa, dịch vụ đó và hàng
hóa, dịch vụ khác có khả năng thay thế hoặc cạnh tranh với chúng.

Tóm lại, dựa vào các khái niệm đã nêu ở trên có thể đi đến một khái niệm
chung về thuật ngữ “thị trường liên quan” như sau: Thị trường liên quan là thị
trường được cấu thành bởi hai hay nhiều loại sản phẩm (hàng hóa hoặc dịch vụ) có
khả năng thay thế lẫn nhau dưới giác độ của cầu (hay cạnh tranh được với nhau) .
Hay nói theo cách khác, có thể hiểu thị trường liên quan chính là tập hợp tất cả
những sản phẩm hay dịch vụ có thể thay thế cho nhau trong khu vực địa lý riêng
biệt nhất định. Trong thực tiễn áp dụng luật cạnh tranh, thị trường sản phẩm liên
quan thường được xác định trước khi xác định thị trường địa lý liên quan.
1.3.1.2. Phân loại thị trường liên quan
Thị trường liên quan thường gồm ít nhất hai thành tố là thị trường sản phẩm liên
quan và thị trường địa lý liên quan. Bên cạnh đó, pháp luật của một số quốc gia còn
đề cập tới khía cạnh thời gian của thị trường liên quan. Việc phân chia thị trường
liên quan thành thị trường sản phẩm liên quan và thị trường địa lý liên quan không
có nghĩa là có hai thị trường riêng biệt. Ngược lại, đây là hai khía cạnh của một thị
trường liên quan: khía cạnh sản phẩm và khía cạnh địa lý.
Thị trường sản phẩm liên quan và thị trường địa lý liên quan được nhìn nhận
theo nhiều quan điểm khác nhau:

18


Thứ nhất, đối với thị trường sản phẩm liên quan. Pháp luật của nhiều nước định
nghĩa thị trường sản phẩm liên quan theo tiêu chí về khả năng thay thế lẫn nhau về
mặt chức năng, công dụng của sản phẩm. Ủy ban châu Âu đưa ra định nghĩa như
sau:
“Thị trường sản phẩm liên quan bao gồm tất cả các sản phẩm hay dịch vụ được
người tiêu dùng coi là có khả năng thay thế cho nhau do các đặc tính của sản phẩ,
giá cả cũng như mục đích sử dụng của chúng.”
Theo Điều 3 Chỉ dẫn về xác định thị trường liên quan trong luật cạnh tranh của
Trung Quốc, thị trường sản phẩm liên quan bao gồm một nhóm hay một danh mục

các sản phẩm mà người tiêu dùng cho là có mối quan hệ thay thế tương đối chặt chẽ
dựa trên các yếu tố như đặc tính, công dụng và giá cả của sản phẩm.
Theo Phần II.1 trong Chỉ dẫn về đánh giá hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường, pháp luật cạnh tranh của Hàn Quốc khái quát: thị trường sản phẩm liên quan
gồm các hàng hóa, dịch vụ có thể bị người mua (người bán) hàng hóa, dịch vụ đó
thay đối để đối phó với sự tăng (giảm) đáng kể về giá của một hàng hóa/dịch vụ cụ
thể trong một khu vực địa lý nhất định.
Thứ hai, đối với thị trường địa lý liên quan. Ủy ban châu Âu đưa ra định nghĩa
như sau:
“Thị trường địa lý liên quan là một khu vực địa lý cụ thể nơi các doanh nghiệp
có liên quan tham gia bán hoặc mua hàng hóa hoặc dịch vụ trong những điều kiện
cạnh tranh tương tự và các điều kiện cạnh tranh tại khu vực này phải khác biệt
đáng kể so với các điều kiện cạnh tranh tại các khu vực lân cận.”
Theo phần II.2 Chỉ dẫn về đánh giá hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
trong luật cạnh tranh của Hàn Quốc, thị trường địa lý liên quan là một khu vực kinh
doanh xác định tại đó người mua (bán) có thể thay đổi hành vi mua (bán) của mình
để ứng phó với sự tăng (giảm) đáng kể về giá cả trong một khoảng thời gian tương
đối với điều kiện giá cả những khu vực khác là không đổi.
Cũng tương tự cách tiếp cận như trên, phần 4 Chỉ dẫn về xác định thị trường
liên quan của Ủy ban cạnh tranh Singapore trong luật cạnh tranh của Singapore định
nghĩa: thị trường địa lý liên quan là khu vực tại đó tồn tại sự thay thế lẫn nhau của
sản phẩm. Cụ thể hơn, nếu người mua đến một khu vực xa hơn để mua sản phẩm do
19


giá sản phẩm ở địa phương tăng thì thị trường liên quan sẽ mở rộng đến khu vực đó
và ngược lại; và nếu nhà cung cấp ở nơi xa hơn đến một địa phương để bán sản
phẩm do giá sản phẩm ở địa phương tăng thì thị trường liên quan sẽ rộng hơn.
Như vậy, có thể thấy, các cách thức định nghĩa về thị trường địa lý nêu trên đều
chỉ ra khả năng thay thế lẫn nhau (theo quan điểm của người mua hoặc người bán)

của sản phẩm dựa trên nguồn gốc xuất xứ của chúng (khu vực bán sản phẩm đó).
Thứ ba, thị trường liên quan về mặt thời gian. Không phải pháp luật chống hạn
chế cạnh tranh của quốc gia nào cũng đề cập tới khía cạnh thời gian của thị trường
liên quan. Tuy nhiên chỉ có thể đánh giá chính xác tính hạn chế cạnh tranh của hành
vi của một chủ thể trên thị trường khi xác định được phạm vi thị trường liên quan
vào thời điểm chủ thể đó có hành vi hạn chế cạnh tranh. Dưới góc độ thời gian,
nhiều loại hàng hóa chỉ tồn tại theo chu kỳ hoặc quan hệ cạnh tranh chỉ tồn tại khi
có sự kiện đặc biệt, bên cạnh đó phạm vi thị trường và vị trí của doanh nghiệp trên
thị trường cũng luôn thay đổi theo thời gian. Do đó, pháp luật cạnh tranh của một số
nước đã đưa ra những một số nhân tố liên quan đến khía cạnh thời gian của sản
phẩm để đánh giá phạm vi thị trường liên quan trong từng vụ việc cụ thể một cách
chính xác hơn.
1.3.2.
Khái quát về vấn đề xác định thị trường liên quan
1.3.2.1. Cơ sở xác định thị trường liên quan
Cơ sở để xác định hai sản phẩm có khả năng thay thế lẫn nhau dựa vào lý thuyết
cung cầu và lý thuyết về giá trị của hàng hóa.
Thứ nhất, lý thuyết cung cầu. Lý thuyết cung cầu mô tả quan hệ giữa người sản
xuất và người tiêu dùng trên thị trường nhằm xác định giá cả và sản lượng trao đổi
trên thị trường. Lý thuyết cung cầu lý giải khả năng thay thế lẫn nhau của hai sản
phẩm về cầu và về cung dựa trên hệ số co dãn của cầu theo giá chéo và hệ số co dãn
của cung theo giá.
Một là, hệ số co dãn của cầu theo giá chéo là một đại lượng kinh tế học đánh giá
khả năng thay thế hoặc bổ sung lẫn nhau của hai sản phẩm bất kỳ. Hệ số này đo sự
thay đổi của lượng cầu sản phẩm Y bất kỳ khi có sự thay đổi của giá cả sản phẩm X
bất kỳ. Hệ số được tính bằng phần trăm thay đổi của lượng cầu chia cho phần trăm
thay đồi của giá hàng hóa thay thế hoặc bổ sung. Nếu hai sản phẩm X và Y có khả

20



năng thay thế lẫn nhau, hệ số sẽ có giá trị dương do mối quan hệ giữa giá sản phẩm
thay thế và lượng cầu sản phẩm đang xét đến là mối quan hệ tỷ lệ thuận.
Hai là, hệ số co dãn của cung theo giá một đại lượng kinh tế học đo lường sự
thay đổi của lượng cung sản phẩm X khi có sự thay đối của giá cả sản phẩm X. Nếu
hệ số này có giá trị lớn hơn 1 tức là cung co dãn theo giá, điều này có nghĩa là nhà
sản xuất có thể dễ dàng chuyển sang cung một loại sản phẩm nào đó khi giá cả sản
phẩm này tăng. Các sản phẩm thay thế được cho nhau thì dễ khiến nhà sản xuất có
thể chuyển từ việc sản xuất một loại sản phẩm này sang một loại sản phẩm khác và
khiến hệ số co dãn cung theo giá càng lớn.
Thứ hai, lý thuyết giá trị của hàng hóa. Lý thuyết giá trị của hàng hóa lý giải
khả năng thay thế lẫn nhau của hàng hóa dựa trên giá trị sử dụng và giá trị của hàng
hóa.
Giá trị sử dụng của hàng hóa là công dụng của sản phẩm có thể thỏa mãn nhu
cầu nào đó của con người. Hai loại hàng hóa có khả năng thay thế lẫn nhau khi
chúng cùng thỏa mãn một hay một số nhu cầu của người tiêu dùng. Công dụng của
sản phẩm phụ thuộc vào thuộc tính tự nhiên của vật chất tạo thành sản phẩm. Những
thuộc tính đó là đặc tính lý, hóa, kỹ thuật của sản phẩm, chất lượng sản phẩm giúp
chung có được một hoặc một số công dụng nhất định.
Giá trị của hàng hóa bắt nguồn từ giá trị trao đổi của hàng hóa. Giá trị trao đổi
của hàng hóa là quan hệ tỷ lệ về lượng mà giá trị sử dụng này trao đổi với giá trị sử
dụng khác. Sản phẩm có thể được trao đổi với nhau là do hao phí lao động sản xuất
ra chúng tương đương nhau. Giá trị chính là lao động xã hội kết tinh trong hàng hóa.
Giá trị của hai sản phẩm có cùng đặc tính và công dụng có thể khác nhau nếu lượng
hao phí lao động kết tinh trong hai sản phẩm này khác nhau. Điều này dẫn đến giá
cả giữa chúng có thể khác nhau và khả năng thay thế được cho nhau của hai sản
phẩm này có thể thấp.
1.3.2.2. Phương pháp xác định thị trường liên quan
a. Phương pháp xác định thị trường liên quan bẳng thử nghiệm SSNIP
Để xác định thị trường sản phẩm liên quan, pháp luật của nhiều nước như Hoa

Kỳ hay Liên Minh châu Âu hiện đang quy định việc áp dụng một thử nghiệm có tên
là thử nghiệm SSNIP ( Small but Significant and Non-transitory Increase in Price)
hay còn gọi là thử nghiệm doanh nghiệp độc quyền giả định hay thử nghiệm 5-10%.
21


Hoa Kỳ là nước đầu tiên áp dụng thử nghiệm này. Tên thử nghiệm do các nhà
nghiên cứu đặt tên nhưng nội dung của thử nghiệm được quy định rộng rãi trong
văn bản luật cạnh tranh của nhiều nước, ví dụ: Hướng dẫn về sáp nhập theo chiều
ngang của Bộ tư pháp và Ủy ban thương mại Liên bang của Hoa Kỳ năm 1992, sửa
đổi năm 2010; hướng dẫn luật cạnh tranh của cộng đồng về xác định thị trường liên
quan (12/1997) của Ủy ban châu Âu. Mục đích của thử nghiệm này là tìm ra thị
trường liên quan nhỏ nhất có thể trên đó một hoặc nhóm doanh nghiệp độc quyền có
thể tăng giá lên một cách đáng kể mà vẫn thu được lợi nhuận. Thị trường liên quan
khi đó sẽ bao gồm một nhóm các sản phẩm được người tiêu dùng coi là có khả năng
thay thế cho nhau. Thực tế cho thấy rất hiếm khi tồn tại một thị trường mà các sản
phẩm lại có thể thay thế hoàn toàn cho nhau. Các doanh nghiệp luôn tìm mọi cách
để dị biệt hoá sản phẩm của mình trước thói quen tiêu dùng của khách hàng. Kinh tế
học lý giải về tính dị biệt hoá của sản phẩm trên thị trường từ góc độ của cạnh tranh
và độc quyền. Theo nhà kinh tế học người Mỹ, Edward H. Chamberlin, trong kinh
doanh, mỗi sản phẩm mang lại tính độc đáo bằng đặc điểm riêng có của nó trong
việc hình thành như thương hiệu, khác biệt về chất lượng, cung cách phục vụ… điều
này thể hiện khía cạnh độc quyền của nó. Mỗi sản phẩm là đối tượng cạnh tranh
của sản phẩm khác. Việc dị biệt hoá đã làm cho cả độc quyền và cạnh tranh cùng
có mặt.” [10]

Để tìm ra các sản phẩm có khả năng thay thế cho nhau, người ta giả định rằng
nếu giá của sản phẩm đang bị điều tra tăng lên, người tiêu dùng vẫn có thể chuyển
sang mua các sản phẩm khác có khả năng thay thế sản phẩm đó. Đây được gọi là
khả năng thay thế về cầu. Cách thức tiến hành thử nghiệm này như sau:

Đầu tiên, cơ quan cạnh tranh thường đưa ra một thị trường sản phẩm liên quan
hẹp nhất có thể (tức là chỉ bao gồm sản phẩm hay nhóm sản phẩm đang bị điều tra)
gọi là sản phẩm A. Sau đó cơ quan cạnh tranh sẽ tìm hiểu một doanh nghiệp độc
quyền kinh doanh sản phẩm A có thể duy trì giá của sản phẩm đó trên mức giá cạnh
tranh (tức là mức gia đạt được trong một thị trường có sự cạnh tranh) trong một giai
đoạn đáng kể mà vẫn thu được lợi nhuận hay không. Khi thực nghiệm thử nghiệm
cần lưu ý rằng mức tăng này chỉ ở mức vừa phải, tức là vừa đủ lớn để những người
22


mua sản phẩm đó có khả năng thay đổi nhu cầu nhưng cũng không được lớn đến
mức việc tăng giá nhất định sẽ dẫn đến sự thay đổi lớn về cầu và dẫn đến việc thị
trường được xác định quá rộng đến mức thị phần không còn phản ánh đứng sức
mạnh thị trường của doanh nghiệp đang bị điều tra nữa). Pháp luật các nước có thể
có quy định khác nhau về mức tăng này nhưng nhìn chung đều trên 5% (cụ thể là
các nước Anh và Hoa Kỳ). Mức tăng cụ thể sẽ khác nhau tùy thuộc vào tính chất
của từng vụ việc. Khoảng thời gian thường được sử dụng cho giả định tăng giá này
là một năm (tuy nhiên, khoảng thời gian này cũng có thể ngắn hơn một năm phụ
thuộc vào từng lĩnh vực, ngành cụ thể trong từng vụ việc cụ thể). Nếu việc tăng giá
sản phẩm A lên 5-10% trong khoảng thời gian một năm không dẫn đến việc khách
hàng chuyển sang hoặc có ý định chuyển sang sử dụng một sản phẩm khác hiện có,
việc thử nghiệm sẽ kết thúc và thị trường sản phẩm liên quan được xác định là thị
trường sản phẩm A.
Ngược lại, nếu việc tăng giá sản phẩm A dẫn đến việc khách hàng chuyển
sang hoặc có ý định chuyển sang sử dụng sản phẩm khác hiện có (gọi là sản phẩm
B), việc tăng giá này sẽ không mang lại lợi nhuận cho nhà sản xuất sản phẩm A do
bị mất doanh thu, khi đó, thị trường liên quan sẽ bao gồm ít nhất sản phẩm A và sản
phẩm B. Thử nghiệm sẽ được tiếp tục vòng hai với cách thức tương tự, cơ quan
cạnh tranh sẽ giả định liệu một doanh nghiệp độc quyền cung cấp cả hai sản phẩm A
và B có thể tăng giá (một hoặc cả hai) sản phẩm đó trên mức giá cạnh tranh trong

một giai đoạn đáng kể mà vẫn thu được lợi nhuận hay không. Quy trình thử nghiệm
sẽ được tiếp tục cho đến khi một nhóm sản phẩm được xác định là có thể bị tăng giá
trong một giai đoạn đáng kể mà không kéo theo sự thay đổi lớn về cầu, tức là một
doanh nghiệp độc quyền (giả định) kinh doanh nhóm sản phẩm ấy có thể tăng giá
một hoặc tất cả các sản phẩm trong nhóm ấy mà vẫn thu được lợi nhuận.
Khi áp dụng thử nghiệm SSNIP có một số điều cần lưu ý như sau:
Thứ nhất, không phải tất cả hay đại đa số khách hàng đều chuyển sang sử
dụng sản phẩm thay thế khi có sự tăng giá (và điều này cũng không cần thiết), vấn
đề đặt ra là là liệu số lượng khách hàng có ý định thay đổi nhu cầu có đủ lớn để đại
diện cho nhu cầu của thị trường hay không;

23


Thứ hai, số lượng khách hàng cần lưu tâm tới là những khách hàng có khả
năng thay đổi nhu cầu nhất chứ không phải những khách hàng “đại diện” hay “đặc
thù”. Điều quan trọng là có bao nhiêu khách hàng sẽ chuyển sang sử dụng sản phẩm
thay thế chứ không phải việc có một nhóm khách hàng “đặc thù” không thể làm như
vậy. Việc tập trung vào nhóm khách hàng không có khả năng thay đổi về cầu sẽ dẫn
đến việc xác định thị trường liên quan không còn chính xác.
Thứ ba, trong một số trường hợp, đặc biệt là trong các vụ sáp nhập thì mức
giá cạnh tranh được cơ quan điều tra áp dụng chính là mức giá hiện tại của sản
phẩm đang được điều tra. Tuy vậy, trong những trường hợp khác (đặc biệt trong các
vụ việc về lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường), mức giá hiện hành về sản phẩm có
thể sẽ không còn phù hợp do rất có thể bản thân mức giá này đã cao hơn mức giá
cạnh tranh, khi đó, việc tiếp tục tăng giá thêm 5-10% sẽ không còn mang lại lợi
nhuận cho doanh nghiệp và người tiêu dùng sẽ chuyển sang mua các sản phẩm khác
và sẽ là sai lầm khi kết luận rằng các sản phẩm này tạo ra sức ép cạnh tranh đối với
sản phẩm đang bị điều tra và đưa chúng vào phạm vi của thị trường liên quan. Để
tránh sai lầm này, cơ quan cạnh tranh phải đặc biệt chú ý tới những bằng chứng hay

dấu hiệu cho thấy điều kiện cạnh tranh trên thị trường đang bị ảnh hưởng xấu do sự
tồn tại của sức mạnh thị trường (ví dụ như siêu lợi nhuận hay những thay đổi về giá
trước đây…).
Mặc dù được sử dụng khá rộng rãi, bản thân thử nghiệm SSNIP cũng có
những hạn chế nhất định như: thử nghiệm SSNIP chỉ giải quyết vấn đề cạnh tranh
về giá giữa các sản phẩm mà không tính đến các khía cạnh cạnh tranh khác như chất
lượng, tính năng… của sản phẩm. Ngoài ra, thử nghiệm này cũng không thực sự
phù hợp đối với thị trường nơi các sản phẩm có sự khác biệt về đặc tính (như nhãn
hiệu, vị trí, chất lượng,…). Do đó, thử nghiệm này cũng không thể được coi là công
cụ hoàn hảo để xác định thị trường liên quan mà cần được áp dụng kết hợp với việc
phần tích các yếu tố khác như:
Một là, chi phí thay đổi nhà cung cấp. Đây là chi phí mà người mua sẽ phải
chịu khi thay đổi nhà cung cấp; nói chung, chi phí này càng cao thì khả năng thay
thế về cầu càng thấp và thị trường liên quan sẽ càng hẹp.

24


Hai là, xu hướng thay đổi về giá cả. Nếu hai sản phẩm có cùng xu hướng
tăng giá hay giảm giá mà không liên quan đến sự thay đổi chi phí sản xuất hay lạm
phát nói chung thì rất có thể hai sản phẩm này có khả năng thay thế cho nhau và
cùng nằm trong một thị trường liên quan.
Ba là, độ dãn của cầu và độ dãn chéo của cầu. Độ dãn của cầu phản ánh sự
thay đổi theo tỉ lệ phần trăm về cầu của sản phẩm khi giá của một sản phẩm khác
(sản phẩm đang cạnh tranh với sản phẩm bị điều tra) thay đổi. Nếu cầu đối với một
sản phẩm không mấy thay đổi khi có sự thay đổi về giá của chính sản phẩm đó hay
sản phẩm đang cạnh tranh với sản phẩm đó, thì điều này chứng tỏ khả năng thay thế
về cầu đối với sản phẩm này là không đáng kể, tức là thị trường liên quan sẽ bị thu
hẹp lại.
Bốn là, đặc tính và mục đích sử dụng của sản phẩm. Những thông tin này sẽ

đặc biệt hữu ích trong trường hợp khả năng thay thế về cầu chịu ảnh hưởng lớn từ
đặc tính và mục đích sử dụng của sản phẩm. Khi các sản phẩm có đặc tính và mục
đích sử dụng rất giống nhau thì rất có thể chúng có khả năng thay thế cho nhau.
Năm là, mối tương quan giữa giá cả và mức độ tập trung của sản phẩm. Mối
tương quan này phản ánh sự thay đổi về giả của một sản phẩm trong mối tương
quan với số lượng hay thị phần của các sản phẩm khác trong cùng mọt khu vực địa
lý. Nếu việc phân tích giá cả trong nhiều khu vực khác nhau cho thấy việc có hai
sản phẩm được bán trong cùng khu vực khiến cho giá cả tại đó thấp hơn đáng kể so
với các khu vực khác nơi hai sản phẩm đó không được bán cùng nhau, thì điều này
có thể có nghĩa là hai sản phẩm đó có khả năng thay thế cho nhau.
Cuối cùng, cần lưu ý rằng trong nhiều trường hợp thị trường liên quan có thể
đã được xác định trong một vụ việc cạnh tranh trước đó (do cùng liên quan đến một
hoặc một nhóm sản phẩm hoặc khu vực). Mặc dù các nghiên cứu và phân tích trong
các vụ việc cạnh tranh trước rất hữu ích cho việc xử lý các vụ việc cạnh tranh sau
nhưng điều này không có nghĩa là việc xác định thị trường liên quan trong vụ việc
cạnh tranh sau phải luôn phù hợp với vụ việc cạnh tranh trước đó bởi lẽ các điều
kiện cạnh tranh trên thị trường có thể thay đổi theo thời gian hoặc do hành vi của
doanh nghiệp nắm sức mạnh thị trường (ví dụ trước đây thị trường liên quan được
xác định tương đối rộng do khả năng thay thế về cung lớn, doanh nghiệp với vị trí
25


×