Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

VẤN đề xã hội HOÁ sản XUẤT CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.87 KB, 43 trang )

VẤN ĐỀ XÃ HỘI HỐ SẢN XUẤT CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN
HÌNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Lý do chọn đề tài
- Từ thực tiễn:
Sau 20 năm đổi mới, Việt Nam nổi lên là một nước có tốc độ tăng
trưởng tương đối cao trong khu vực. Tích luỹ xã hội đã được nhiều hơn. Tuy
nhiên, so với yêu cầu phát triển thì khả năng vẫn còn rất hạn chế. Hiện, Nhà
nước vẫn phải gồng mình để đầu tư cho khơng ít lĩnh vực. Ngân sách luôn bị
quá tải. Cần được chia sẻ gánh nặng này là nhu cầu nội tại của Nhà nước.
Mặt khác, trong điều kiện một nền kinh tế thị trường nhiều thành
phần, có khơng ít cá nhân, tổ chức có điều kiện ln mong muốn được tham
gia vào các hoạt động chung này. Chính vì vậy, xã hội hố đang là một nhu
cầu và ngày càng có chiều hướng phát triển mạnh mẽ.
Thực tế, hoạt động xã hội hoá đã bắt đầu ở một số lĩnh vực như: y tế,
giáo dục, văn hố, thể thao…sau đó mở rộng ra ở rất nhiều lĩnh vực khác
nữa. Truyền thông đại chúng cũng khơng nằm ngồi xu thế chung này.
Nhiều loại hình trong hệ thống các phương tiện truyền thông đại chúng như:
điện ảnh, xuất bản, quảng cáo và một số loại hình báo chí trong đó có truyền
hình đã có những biến động lớn trong xu thế xã hội hoá. Trong những bước
đi ban đầu này các lĩnh vực còn nhiều bỡ ngỡ, gặp khơng ít khó khăn, vướng
mắc. Vậy nên, việc tìm ra quy luật, lộ trình, phương thức quản lý…cho
những lĩnh vực tham gia xã hội hố nói chung, cho truyền hình nói riêng
trước xu thế mới hiện nay là một việc làm rất cần thiết.
Trong thời đại bùng nổ thơng tin như hiện nay, truyền hình ngày càng
khẳng định được sức mạnh to lớn của mình, trở thành phương tiện có vai trị
1


vô cùng quan trọng trong đời sống xã hội. Với những đặc trưng của loại hình
cùng với nội dung phong phú, hình thức thể hiện sinh động, truyền hình
khơng chỉ đem tới cho cơng chúng những món ăn tinh thần hấp dẫn mà cịn


đóng góp tích cực và hiệu quả vào sự phát triển kinh tế, văn hoá xã hội, ổn
định chính trị, giữ vững an ninh quốc phịng. Tuy nhiên, trước những yêu
cầu ngày một khắt khe của khán giả trong xã hội hiện đại, đòi hỏi những
người làm truyền hình khơng ngừng phải đổi mới nâng cao chất lượng thông
tin, chất lượng phục vụ.
Thời gian qua, hoạt động của ngành truyền hình đã và đang có một số
thay đổi. Truyền hình khơng cịn là mảnh đất “độc canh” (sản phẩm chỉ do
phóng viên nhà đài sản xuất nữa) mà một số chương trình, sản phẩm truyền
hình là sự kết tinh của quá trình kết hợp sản xuất giữa “nhà đài” với một số
cá nhân, tổ chức bên ngoài đài.
Sự tham gia này hiện tại đã không chỉ dừng lại ở mặt nội dung mà còn
diễn ra ở lĩnh vực kỹ thuật, tài chính; khơng chỉ diễn ra trong nước, mà cịn
có sự hợp tác, đóng góp của các cá nhân, tổ chức nước ngoài. Cũng từ đây
thuật ngữ “xã hội hố sản xuất chương trình truyền hình” xuất hiện, và trở
thành mối quan tâm đặc biệt của những nhà quản lý, sản xuât, nghiên cứu và
cả với những người yêu mến truyền hình.
Kết quả sau một thời gian thử nghiệm, một số hình thức xã hội hố đã
tỏ ra khá hiệu quả. Sự tham gia vào quá trình sản xuất của lực lượng bên
ngoài đã đem tới cho truyền hình một mơi trường cạnh tranh sơi động. Chất
lượng chương trình được nâng cao. Khán giả truyền hình có nhiều cơ hội
hơn trong việc lựa chọn chương trình mà mình u thích. Cũng từ xã hội hố
đã giúp cho ngành truyền hình huy động được nguồn tài chính to lớn từ các
hoạt động tài trợ, quảng cáo, quảng bá thương hiệu để đầu tư cho sự phát
triển.
2


Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, xã hội hố cũng đang đặt ra
những thách thức khơng nhỏ đối với truyền hình trên nhiều phương diện:
quản lý nội dung, xây dựng cơ cấu tổ chức bộ máy, xây dựng chiến lược

phát triển, đặc biệt là giữ vững định hướng tuyên truyền…. Hiện tại, phương
thức khai thác nguồn lực xã hội, sự phối hợp giữa đài truyền hình và các đối
tác vẫn chưa thống nhất. Đã có khơng ít trường hợp vì thế mà cơng việc sản
xuất chương trình truyền hình rơi vào tình trạng bị động, lúng túng trong tiến
trình thực hiện.
Sự lúng túng, thể hiện ở việc giải quyết, điều tiết mối quan hệ giữa
định hướng chính trị và lợi ích kinh tế; trong việc giám sát, lựa chọn các
chương trình hợp tác. Đài truyền hình thì muốn huy động nguồn chất xám,
kỹ thuật, tài chính từ bên ngồi đài nhưng lại khơng thể phát ngơn theo quan
điểm của các đơn vị phối hợp. Trong khi đó, là người bỏ tiền đầu tư, các đơn
vị phối hợp thì luôn muốn phát ngôn theo cách thức của họ.
Bị động trong cách quản lý, trong vai trò của người tổ chức thực hiện,
truyền hình vẫn chưa đưa ra được những phương thức hợp tác phù hợp để
khuyến khích cả hai: “nhà đài” cũng như đối tác. Ngoài ra, phương thức,
cách thức tiếp nhận sự tham gia, đóng góp của các đơn vị bên ngồi ở mỗi
đài truyền hình mỗi khác, chính vì vậy làm cho đối tác gặp những phức tạp
khơng cần thiết.
Xã hội hố sản xuất chương trình truyền hình là một xu thế, một quá
trình đang hiện hữu nhưng ngành truyền hình chưa xác định được lộ trình,
nguyên tắc, cơ chế chính sách quản lý, điều hành kịp thời, hợp lý. Vấn đề
này đang làm cho hiệu quả xã hội hoá chưa được phát huy. Do vậy, việc tổng
kết chỉ rõ xu hướng, những tồn tại và tìm ra mơ hình, những giải pháp cho
tiến trình xã hội hố truyền hình phù hợp với thực tiễn Việt Nam là rất cần
thiết.
3


- Về mặt lý luận:
Thuật ngữ “xã hội hoá” đã được nhắc tới nhiều và đặc biệt nhiều từ
khi Đảng và Nhà nước ta có chính sách đổi mới. Tuy cịn có nhiều ý kiến

tranh cãi xung quanh thuật ngữ xã hội hóa, nhưng về nguyên tắc có thể coi
xã hội hoá thể hiện ở việc Nhà nước và nhân dân cùng làm, thể hiện trách
nhiệm, sự đóng góp của các thành phần trong xã hội vào sự phát triển chung
của đất nước. Đối với nhiều ngành, nhiều lĩnh vực thuật ngữ và hoạt động xã
hội hoá được bàn tới và thực hiện tương đối đơn giản. Ví dụ ngành giáo dục,
ngành y tế…Ngay đối với các tờ báo in, việc tổ chức mở rộng đội ngũ cộng
tác viên, phát huy năng lực của xã hội để làm cho thông tin thêm phong phú
đa dạng thì được xem là một việc làm tốt rất được khuyến khích. Nhưng khi
nói đến xã hội hố sản xuất chương trình truyền hình thì lại có rất nhiều
quan điểm dè dặt, khơng ít ý kiến trái chiều. Bên cạnh những quan điểm cho
rằng: xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình là một xu thế, là một việc
làm cần kíp nếu khơng mở cửa đón nhận xu thế này truyền hình sẽ đánh mất
cơ hội vàng để phát triển…vvv thì cũng có khơng ít ý kiến lại cho rằng
không nên tiến hành xã hội hố đối với lĩnh vực tư tưởng nói chung đối với
truyền hình nói riêng. Với những ý kiến này: xã hội hoá đồng nghĩa với tư
nhân hoá hoặc xã hội hoá là một vấn đề nhạy cảm cần thận trọng và tránh
xa. Thậm chí, có người cịn lo lắng khi xã hội hố sản xuất chương trình
truyền hình sẽ đối mặt với nguy cơ của sự thâm nhập thông tin theo quan
điểm khơng lành mạnh từ đối tác ngồi đài truyền hình, hay xã hội hố rất dễ
bị thao túng bởi các quyền lợi cá nhân và các mục đích kinh doanh thuần
t. Cũng có người cảnh báo xã hội hố truyền hình nếu khơng được nhìn
nhận và quản lý tốt sẽ rơi vào tình trạng “phân lơ, bán sóng”….
Liên tiếp trong hai kỳ Liên hoan truyền hình Tồn quốc lần thứ 25
(2006) và 26 (2007) diễn ra tại Nha Trang và thành phố Hồ Chí Minh, vấn
4


đề xã hội hoá đều đã được đưa ra tranh luận và bàn thảo. Xã hội hố sản xuất
chương trình truyền hình được coi là vấn đề thời sự nóng hổi trong thời điểm
hiện nay nhưng nó mới chỉ được “xới” lên mà chưa được nghiên cứu một

cách thoả đáng Vậy thực chất của vấn đề xã hội hoá sản xuất chương trình
truyền hình là gì? Cần thống nhất cách hiểu như thế nào?
Như vậy, từ hai bình diện, lý luận và thực tiễn, vấn đề xã hội hóa sản
xuất các chương trình truyền hình đều đặt ra những yêu cầu cần phải được
nghiên cứu, giải quyết, chỉ ra cơ sở, nội dung, lối đi và cơ chế vận hành, mở
đường giải quyết vấn đề bức xúc này. Mặt khác, giải quyết được lời giải cho
vấn đề xã hội hóa sản xuất chương trình cũng là điều kiện quan trọng thúc
đẩy sự phát triển đa dạng, phong phú, nâng cao chất lượng của truyền hình
Việt Nam, đáp ứng nhu cầu người dân ngày càng cao trong tiếp nhận thưởng
thức thông tin trên truyền hình.
Từ cách đặt vấn đề như trên, chúng tôi đã lựa chọn đề tài “Vấn đề xã
hội hóa sản xuất chương trình truyền hình ở Việt Nam hiện nay” để thực
hiện luận án tiến sĩ chuyên ngành báo chí học.
2. Tình hình nghiên cứu
Xã hội hố, xã hội hố sản xuất chương trình truyền hình là một xu
hướng phát triển tại nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên, thuật ngữ “xã hội
hố” (Socialization) ít được sử dụng mà thường được nhắc tới với tên gọi
“Hợp tác công tư” (Public – private partnership) hay “Tư nhân hoá”
(Privatization) hoặc “Truyền hình thương mại” (Commercial television).
Mặc dù được gọi khác nhau nhưng nhìn chung chúng đều có những điểm
tương đồng, đó là đều nói tới sự tham gia của cơng chúng vào việc sản xuất
các chương trình truyền hình.
Ở Việt Nam đã có khá nhiều tài liệu nghiên cứu về vấn đề xã hội hố
nói chung, xã hội hố từng lĩnh vực nói riêng. Có thể kể đến: “Xã hội hoá
5


hoạt động văn hoá” (Lê Như Hoa, NXB Văn hoá thơng tin, 1996); “Xã hội
hố hoạt động văn hố - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” (Đinh Xn
Dũng, NXB Chính trị Quốc gia, 2000); “Xã hội hố công tác giáo dục”

(GS.TS Phạm Minh Hạc, NXB Giáo dục, H, 1997); “Vấn đề xã hội hoá hoạt
động điện ảnh” (Vũ Ngọc Thanh - Luận án tiến sĩ Văn hoá học, H 2001); và
một số bài báo khác về: Xã hội hoá y tế, xã hội hoá thể dục thể thao, xã
hội hố về sân khấu….
Cịn ở lĩnh vực truyền hình, số lượng những cơng trình nghiên cứu về
vấn đề xã hội hố chưa nhiều nhưng có thể phân loại và chia thành ba nhóm
nghiên cứu như sau:
o Nhóm 1: Gồm những nghiên cứu liên quan đến cơ sở lý luận
truyền hình, những xu hướng phát triển của truyền hình Việt Nam trong xã
hội hiện đại, đặc biệt là trong tiến trình hội nhập, tồn cầu hố... Mặc dù có
đề cập đến vấn đề xã hội hố truyền hình nhưng chỉ ở một góc độ nhỏ lẻ và
thường được nghiên cứu như một tác nhân nhỏ thúc đẩy sự phát triển của
truyền hình trong xã hội hiện đại hoặc một giải pháp giúp truyền hình hội
nhập phát triển. Các cơng trình đó có thể kể tới đó là:
- “Xu hướng phát triển của truyền hình Việt Nam trong bối cảnh hội
nhập” (Tiểu luận, Nguyễn Thị Mai Hồng , Học viện Báo chí và Tuyên
truyền, Hà Nội 2006)
Tiểu luận chỉ ra một số xu hướng phát triển của truyền hình: xu hướng
nội dung, xu hưóng cơng nghệ, xu hướng xã hội hố, xu hướng truyền hình
tương tác….
Xu hướng xã hội hố truyền hình đã được đề cập tới nhưng do khn
khổ và mục đích của tiểu luận nên mục tiêu của nó mới chỉ dừng lại ở sự liệt
kê, tổng hợp các xu hướng phát triển của truyền hình trong xã hội hiện đại.
Việc phân tích sâu, kỹ để chỉ ra bản chất, lộ trình, nguyên tắc và những vấn
6


đề ngành truyền hình Việt Nam phải đối mặt khi tham gia tiến trình xã hội
hố cịn rất chừng mực, sơ sài.
- Truyền hình Việt Nam trong tiến trình tồn cầu hố thơng tin

(Nguyễn Thị Tuyết – Khố luận tốt nghiệp Đại học - Học viện Báo chí và
Tuyên truyền, Hà Nội năm 2007).
Khoá luận này chủ yếu tập trung phân tích vai trị, trách nhiệm của
truyền hình Việt Nam với việc thơng tin tun truyền trong bối cảnh tồn
cầu hố. Tồn cầu hố vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với xã hội nói
chung, đối với các phương tiện truyền thơng, các nhà báo nói riêng. Để thúc
đẩy tiến trình hội nhập, cạnh tranh được với truyền hình các nước phát triển
trên thế giới những người làm truyền hình phải khơng ngừng nâng cao chất
lượng chương trình, mở rộng diện phát sóng. Khố luận khẳng định để làm
được điều này, một trong những giải pháp cần đề cập tới là phải đẩy nhanh
xã hội hố truyền hình. Tồn bộ khố luận 69 trang, nhưng chỉ có 1 trang đề
cập đến vấn đề xã hội hố. Có thể nói điều này là q ít ỏi để nói về một vấn
đề lớn đó là xã hội hố truyền hình trong bối cảnh hiện nay.
- “Những phương hướng và biện pháp chủ yếu nhằm phát triển sản
phẩm truyền hình cho phù hợp với cung cầu về truyền hình ở Việt Nam hiện
nay” (Đinh Quang Hưng - Luận án tiến sỹ khoa học kinh tế - Trường Đại
học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội năm 2007)
Luận án phân tích thực trạng chất lượng các sản phẩm truyền hình
hiện nay đồng thời chỉ ra các yếu tố tác động làm cho các sản phẩm truyền
hình của ngành truyền hình Việt Nam chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng
cao của khán giả xem truyền hình. Luận án khơng đề cập trực tiếp đến vấn
đề xã hội hố truyền hình nhưng những lý giải về nguyên nhân và một số
giải pháp đưa ra có thể thấy được hình bóng của vấn đề này, chẳng hạn như
vấn đề khai thác, sử dụng nguồn vốn, nguồn chất xám từ mọi nguồn lực xã
7


hội để góp phần vào việc nâng cao chất lượng, cải tiến chương trình truyền
hình. Do mục đích của luận án chỉ là nghiên cứu về cung - cầu các sản phẩm
truyền hình trong nền kinh tế thị trường, tìm những giải pháp nhằm nâng cao

chất lượng tin bài, chất lượng phát sóng bởi vậy mà những vấn đề mang tính
cụ thể và khái qt ở tầm vĩ mơ về xã hội hố truyền hình như mơ hình hợp
tác, lộ trình, phương pháp hợp tác giữa các đài truyền hình với các đối tác
bên ngoài mới chỉ dừng lại ở sự gợi mở chưa được lý giải, phân tích sâu.
o Nhóm thứ 2: Là những đề tài, cơng trình khoa học đề cập tới
vấn đề xã hội hố truyền hình nhưng ở một góc độ hẹp, có tính chất khảo
cứu đơn lẻ với tư cách giới thiệu một mơ hình xã hội hố cụ thể. Nổi bật là
các cơng trình sau:
- “Bước đầu nghiên cứu xã hội hố truyền hình ở Việt Nam - Khảo sát
chương trình “Làm giàu khơng khó” – VTV1, từ tháng 1 năm 2007 đến
tháng 5 năm 2007” (Nguyễn Thị Tuyết Nhung - Khoá luận tốt nghiệp Đại
học - Học viện Báo chí và Tuyên truyên, Hà Nội năm 2007).
Khoá luận này đã chọn được một vấn đề thời sự để nghiên cứu nhưng
tác giả mới chỉ dừng lại ở việc khảo sát đánh giá thực trạng hoạt động xã hội
hoá ở Việt Nam trên cơ sở lựa chọn một chương trình cụ thể là “Làm giàu
khơng khó” phát sóng trên VTV1, thời gian khảo sát chương trình trong 3
tháng. Như vậy có thể thấy vấn đề đặt ra lớn nhưng phạm vi, đối tượng khảo
sát nhỏ, hẹp, chính vì vậy việc đánh giá xu thế và đưa ra giải pháp mới chỉ
dừng lại ở một mức độ nhất định chưa mang tính khái quát, chưa đáp ứng
được những đòi hỏi của sự phát triển chung của ngành truyền hình Việt
Nam.
- “Xã hội hố sản xuất chương trình truyền hình hiện nay - Khảo sát
tại Đài Phát thanh và Truyền hình Hà Tây 2004 – 2006”. (Vũ Thu Hà - Luận

8


văn Thạc sĩ Khoa học Báo chí - Đại học Quốc gia Hà Nội, trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội 2007)
Luận văn tập trung vào việc phân tích đặc điểm, thực trạng, ưu, nhược

điểm của hoạt động xã hội hố truyền hình ở Đài Phát thanh và Truyền hình
Hà Tây. Những đúc rút đưa ra mới chỉ dừng lại ở quy mơ, tính chất của một
đài truyền hình địa phương, chưa bao quát được mọi lĩnh vực của vấn đề xã
hội hoá của cả ngành truyền hình Việt Nam nói chung.
- “Xã hội hố truyền hình qua sản xuất chương trình Thế hệ tơi ở
VTV6 Đài truyền hình Việt Nam - Khảo sát từ tháng 8/2007 đến tháng
4/2008” (Phan Thị Hồi – Khố luận tốt nghiệp Đại học - Học viện Báo chí
và Tuyên truyền, Hà Nội 2008).
Giống như hai cơng trình thuộc nhóm thứ hai đã phân tích ở trên,
cơng trình này cũng chỉ đề cập đến vấn đề xã hội hố truyền hình ở góc độ
rất hẹp đó là khảo sát 1 chương trình cụ thể - chương trình “Thế hệ tơi”,
được phát sóng trên kênh VTV6. Chính vì vậy, việc đúc rút để tìm ra quy
luật, cùng những phương thức, những mơ hình xã hội hố truyền hình ở quy
mơ lớn hồn tồn chưa thực hiện được.
- “Xã hội hóa sản xuất các chương trình của Đài truyền hình Việt
Nam” (Khảo sát từ tháng 1/2007 đến hết tháng 6/2008) (Lê Thị Thu Hịa –
Luận văn thạc sĩ truyền thơng đại chúng – Học viện Báo chí và Tuyên
truyền, Hà Nội 2008)
Tính đến thời điểm này thì đây gần như là cơng trình khoa học mới
nhất nghiên cứu về vấn đề xã hội hố sản xuất chương trình truyền hình. So
với các luận văn, khóa luận đã kể trên mặc dù về dung lượng cũng như diện
khảo sát của luận văn này có nhiều hơn nhưng các phần viết phần nhiều cịn
mang tính liệt kê, mô tả nhiều, chưa khái quát, lý thuyết hóa được rõ vấn đề
xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình là gì? Xã hội hóa sản xuất
9


chương trình truyền hình là nói đến đối tượng nào? Đối tượng như thế nào
được tham gia? Có các hình thức xã hội hóa nào? Chưa chỉ ra được mâu
thuẫn lớn nhất trong quá trình hợp tác này là gì? Chính vì khung lý thuyết

chưa rõ ràng, mạch lạc cho nên đến phần phân tích thực trạng thiếu cơ sở soi
chiếu để đưa ra bức tranh thuyết phục cũng như những đặc trưng của chương
trình xã hội hóa trên Đài truyền hình Việt Nam là gì?...
o

Nhóm thứ ba: vấn đề xã hội hố truyền hình được đề cậptới

trong những tham luận tại các hội thảo khoa học.
Liên hoan truyền hình toàn quốc lần thứ 25 (2006) và 26 (2007) tại
Nha Trang và thành phố Hồ Chí Minh là hai điển hình. Hai kỳ Liên hoan này
đã có một số cuộc hội thảo đề cập đến vấn đề xã hội hoá truyền hình. Nhưng
đa số các tham luận và các ý kiến ở đây mới chỉ mang tính đặt vấn đề, thậm
chí lại đặt ra một loạt câu hỏi lớn khác mà chưa có câu trả lời thuyết phục
như “Xã hội hố truyền hình: Cạnh tranh hay hợp tác?”; “Xã hội hố truyền
hình: đã đến lúc?”; ….
- Ngồi những cơng trình nghiên cứu trên, một số tờ báo, trang web
cũng có những bài viết đề cập đến những khía cạnh khác nhau của vấn đề xã
hội hố truyền hình như: “Xã hội hố truyền hình: chưa được như mong
đợi”; “Xã hội hố truyền hình cạnh tranh hay hợp tác” (Báo thanh niên,
2007); “Xã hội hố truyền hình: khơng phải phân lơ, bán sóng”, “Xã hội hố
truyền hình nhà nước và tư nhân đều có nỗi niềm” (Báo văn hố, 2007)…
Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu trên bước đầu đã đề cập đến
một số khía cạnh của vấn đề xã hội hố truyền hình như: ý nghĩa của xã hội
hố truyền hình, vai trị của các thành viên trong việc phối hợp sản xuất
chương trình….Tuy nhiên, về mặt học thuật các cơng trình này chưa lý
thuyết hóa được một cách khoa học những vấn đề cơ bản liên quan đến sản
xuất chương trình truyền hình, xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình
10



(khái niệm, đặc trưng, hình thức, mơ hình, ngun tắc của xã hội hóa sản
xuất chương trình truyền hình, các phương thức để “lơi léo” tiền về sản xuất
chương trình, “lôi kéo” đội ngũ nhân lực chất lượng cao để thực hiện
chương trình và cuối cùng là phương thức hợp tác trong sản xuất). Về mặt
thực tiễn, các cơng trình đã thực hiện cũng chưa chỉ ra được mạch lạc xu
hướng của q trình xã hội hố truyền hình; chưa phác hoạ được bức tranh
khái quát, cũng như chưa chỉ ra được lộ trình, những mơ hình, ngun tắc,
những trở ngại khi tiến hành xã hội hoá việc sản xuất chương trình truyền
hình của ngành truyền hình Việt Nam…Chính vì vậy, chưa đưa ra được giải
pháp cũng như phương hướng cụ thể để phát huy tối đa hiệu quả của xã hội
hố, giúp truyền hình tự tin trong q trình hội nhập tiến lên ngang tầm với
truyền hình các nước trong khu vực và trên thế giới. Như vậy, đây vẫn là
những khoảng trống về mặt lý luận rất cần tiếp tục được nghiên cứu sâu và ở
quy mơ lớn.
Vì những lý do đó, chúng tơi đã thực hiện đề tài “Vấn đề xã hội hố
sản xuất chương trình truyền hình ở Việt Nam hiện nay”. Đây là cơng trình
đầu tiên đề cập đầy đủ và có hệ thống về q trình này. Trong luận án chúng
tơi sẽ kế thừa những ý tưởng khai phá của những nhà nghiên cứu đi trước và
coi đó là tiền đề lý luận và thực tiễn để triển khai đề tài nghiên cứu của
mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, luận án nghiên cứu đánh giá, chỉ ra
thực chất, yêu cầu, nội dung cơ chế vận hành, phương thức hợp tác phát
triển và kiến nghị các giải pháp nhằm giải quyết hợp lý, có hiệu quả vấn đề
xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình.
11


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích nêu trên, luận án tập trung giải quyết một số
nhiệm vụ sau:
- Một là, làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về xã hội hoá, xã hội hoá
sản xuất chương trình truyền hình như: bản chất, đặc trưng xã hội hố sản
xuất chương trình truyền hình, mục đích, ý nghĩa, nguyên tắc, nội dung, hình
thức, những tiền đề thực tiễn cũng như những điều kiện để xã hội hoá sản
xuất chương trình truyền hình thành cơng.
- Hai là, phân tích chỉ ra tính tất yếu của xu hướng xã hội hố sản xuất
chương trình truyền hình
- Ba là, tiến hành khảo sát, thống kê, đi sâu phân tích làm rõ thực
trạng, những thành công, hạn chế, hiệu quả của hoạt động xã hội hố sản
xuất chương trình truyền hình ở Việt Nam trong thời gian qua.
- Bốn là, từ những lý luận cơ bản, cùng với việc tham khảo kinh
nghiệm hoạt động xã hội hố của nước ngồi, kết hợp với thực tiễn ở Việt
Nam để dự báo, chỉ ra những khả năng xã hội hoá sản xuất chương trình
truyền hình ở Việt Nam trong thời gian tới, những thách thức phải đối mặt từ
đó đề xuất giải pháp để hoạt động này phù hợp với điều kiện Việt Nam.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu

12


Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là phương thức hợp tác được thể
hiện qua việc tổ chức sản xuất và phân chia lợi ích giữa đài truyền hình
với các đối tác bên ngoài đài trong việc sản xuất các chương trình truyền
hình đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu của công chúng.
4.2. Đối tượng khảo sát
Đài truyền hình Việt Nam và một số cá nhân, tổ chức bên ngoài đài

đang tham gia cùng phối hợp sản xuất chương trình truyền hình.
Tuy nhiên để làm rõ hơn thực trạng và đưa ra cơ sở lý thuyết chúng
tôi sẽ khảo sát một số nội dung công việc ở những Đài truyền hình khác và
kế thừa những số liệu đã nghiên cứu.
4.3. Phạm vi khảo sát, nghiên cứu
- Về không gian:
Luận án sẽ tập trung vào tìm hiểu những chương trình đã, đang hoặc
sẽ được xã hội hố tại Đài truyền hình Việt Nam và một số đài truyền hình
khác ở Việt Nam.
- Về thời gian:
Để thuận lợi cho công việc nghiên cứu, luận án giới hạn phạm vi khảo
sát chính từ năm 2009 đến 2011. Đây là thời điểm nghiên cứu sinh thực hiện
luận án theo quyết định của Bộ giáo dục và đào tạo. Đồng thời đây cũng là
thời điểm bắt đầu có sự kết hợp mạnh mẽ trong nhiều chương trình giữa
truyền hình Việt Nam và các tổ chức, cá nhân bên ngoài.
Tuy nhiên, để làm rõ những vấn đề đặt ra, trong quá trình nghiên cứu,
luận án có mở rộng phạm vi nghiên cứu tới các thời kỳ trước để so sánh khi
cần thiết.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Việc nghiên cứu đề tài này được thực hiện dựa trên cơ sở quán triệt
các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam trong các kỳ Đại hội gần đây, các
13


chủ trương, văn bản pháp luật của Nhà nước có liên quan đến hoạt động báo
chí và hệ thống lý luận báo chí nói chung, báo chí truyền hình nói riêng.
- Trong q trình nghiên cứu, chúng tơi sử dụng kết hợp một số
phương pháp sau đây:
+ Phương pháp khảo sát thực tế được dùng để khắc hoạ bức tranh về
thực trạng, những thành công hạn chế, hiệu quả của hoạt động xã hội hố

của ngành truyền hình Việt Nam trong thời gian qua.
+ Phương pháp thống kê, so sánh được dùng để xác định tần số xuất
hiện, phân tích chất lượng, hiệu quả của những chương trình có sự phối hợp
sản xuất giữa đài truyền hình với các đối tác bên ngồi với những chương
trình hồn tồn do phóng viên của đài độc lập sản xuất.
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp được dùng để chỉ ra những ưu
điểm, nhược điểm, nguyên nhân cùng những thách thức trong quá trình thực
hiện xã hội hố sản xuất chương trình truyền hình ở nước ta.
+ Phương pháp phỏng vấn sâu được thực hiện chủ yếu với những cán
bộ lãnh đạo quản lý đài, các tổ chức bên ngồi Đài, phóng viên nhằm thu
thập những ý kiến, quan niệm xung quanh vấn đề hợp tác sản xuất chương
trình truyền hình.
+ Phương pháp điều tra xã hội học được thực hiện nhằm thu thập ý
kiến khách quan về chất lượng, hiệu quả cũng như nhu cầu của cơng chúng
về những chương trình truyền hình được thực hiện theo phương thức xã hội
hố.
Tất cả các phương pháp nghiên cứu trên đều có đóng góp tích cực và
hiệu quả vào kết quả của luận án.
6. Giả thuyết nghiên cứu
Khi tiến hành nghiên cứu chúng tôi đặt ra các giả thuyết sau:

14


Giả thuyết thứ nhất: Xã hội hoá sản xuất chương trình truyền hình là
một quy luật phát triển vừa là sự hợp tác vừa là sự cạnh tranh. Sẽ không thấy
được rõ bản chất, quy luật hoạt động của tiến trình này nếu khơng nghiên
cứu một cách tồn diện những vấn đề liên quan, cụ thể từ khái niệm, vai trị
ý nghĩa, lộ trình, mơ hình, phương thức hợp tác, nguyên tắc xã hội hoá đến
việc thực thi cũng như hoàn thiện hệ thống luật pháp – hành lang pháp lý để

đảm bảo cho q trình xã hội hố sản xuất chương trình truyền hình ở Việt
Nam thực hiện hiệu quả.
Giả thuyết thứ hai: Trong gian đoạn hiện nay và trong tương lai, việc
tiếp tục quán triệt nghiêm túc những quan điểm của Đảng, xây dựng chiến
lược, lộ trình, phương thức, mơ hình tổ chức quản lý, sản xuất cũng như đổi
mới và thống nhất nguyên tắc quản lý ngành truyền hình khi xã hội hố là
phương hướng và những giải pháp cần thiết để xã hội hoá sản xuất chương
trình truyền hình ở Việt Nam thực hiện hiệu quả, đúng định hướng.
7. Những đóng góp mới về khoa học của luận án
Thứ nhất: Luận án triển khai lý thuyết để hình thành khung lý thuyết
(từ khái niệm, đặc trưng, phương thức phối hợp sản xuất, phương thức tác
nghiệp của phóng viên đến những vấn đề quản lý, những nguyên tắc để đảm
bảo tính định hướng nhưng vẫn khai thác, khuyến khích được các nguồn lực
xã hội tham gia vào hoạt động sản xuất chương trình truyền hình...)
Khung lý thuyết này cùng các cơ sở thực tiễn sẽ làm nền tảng, chỗ
dựa cho việc nghiên cứu, đánh giá các vấn đề liên quan đến xã hội hóa
truyền thơng nói chung và xã hội hóa sản xuất các chương trình truyền hình
nói riêng.
Thứ hai : Trên cơ sở nghiên cứu, luận án tìm ra những mối liên hệ cơ
bản, những mơ hình chủ yếu, các điều kiện cần và đủ cho hoạt động xã hội

15


hóa sản xuất các chương trình truyền hình trong điều kiện Việt Nam hiện
nay.
Thứ ba : Trên cơ sở các kết luận khái qt đó cùng với việc phân tích
thực trạng việc xã hội hóa sản xuất chương trình ở Việt Nam, kết hợp với
phân tích những kinh nghiệm phát triển lĩnh vực này của một số nước trên
thế giới luận án dự báo những vấn đề đặt ra trong thời gian tới và kiến nghị

những giải pháp để hoạt động xã hội hóa sản xuất chương trình ở Việt Nam
thực hiện có hiệu quả, phù hợp với thực tiễn.
8. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Ở nhiều nước trên thế giới, sự tham gia của các cá nhân, tổ chức bên
ngồi đài truyền hình vào việc sản xuất những chương trình truyền hình đã
trở thành một điều bình thường. Q trình đó đã làm cho khơng ít chương
trình trở nên phong phú, hấp dẫn. Nhưng ở Việt Nam do những đặc điểm đặc
thù về quản lý báo chí nên đây là vấn đề cịn mới chưa được thực hiện cũng
như nghiên cứu bài bản và quy mơ. Do vậy, luận án này là cơng trình khoa
học đầu tiên góp phần tổng kết một cách hệ thống rút ra các luận điểm, các
kết luận có tính lý luận về một vấn đề mới, đang có nhiều tranh cãi ở Việt
Nam đó là xã hội hố hoạt động truyền hình.
Luận án được nghiên cứu thành cơng sẽ góp phần làm phong phú hơn
những tri thức về truyền hình nói chung, vấn đề sản xuất, hợp tác sản xuất
chương trình truyền hình nói riêng.
- Luận án đi vào phân tích một cách tồn diện thực trạng hoạt động xã
hội hố sản xuất chương trình truyền hình ở Việt Nam hiện nay, đưa ra
những giải pháp khoa học trước mắt và lâu dài nhằm phát huy hiệu quả
những mặt tích cực của hoạt động này trong lĩnh vực truyền hình. Kết quả
nghiên cứu của luận án cũng sẽ góp phần giúp những nhà hoạch định chính
sách có cơ sở khoa học về vấn đề này để có thể đưa ra những chính sách hợp
16


lý, kịp thời thúc đẩy ngành truyền hình Việt Nam phát triển. Đồng thời đây
cũng là những cơ sở giúp lãnh đạo các đài truyền hình vận dụng để phát huy
hiệu quả trong việc phối hợp với các đối tác bên ngồi nhằm ngày càng sản
xuất được nhiều chương trình sinh động, cập nhật đáp ứng nhu cầu của khán
giả hiện đại.
- Xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình là một xu thế tất yếu

nó đã hiện hình và đang được thử nghiệm ở những bước ban đầu. Việc xã
hội hóa này khơng chỉ liên quan tới hệ thống pháp luật, những người làm
luật; lãnh đạo, phóng viên Đài truyền hình, các cá nhân, tổ chức tham gia
vào q trình sản xuất mà nó cịn có một ý nghĩa vô cùng quan trọng, liên
quan trực tiếp tới các cơ sở đào tạo phóng viên báo chí truyền hình hiện nay.
Chính vì vậy, cơng trình này sẽ là tài liệu bổ ích phục vụ hoạt động nghiên
cứu, giảng dạy và học tập tại các cơ sở đào tạo cán bộ làm truyền hình nói
chung, những người quan tâm đến việc tham gia cộng tác sản xuất chương
trình truyền hình cho các đài truyền hình nói riêng. Những giải pháp trong
luận án sẽ là những gợi mở để các cơ sở đào tạo đổi mới chiến lược đào tạo.
(Giờ đây khơng chỉ đào tạo phóng viên chun nghiệp mà cần có kế hoạch
đào tạo đội ngũ phóng viên khơng chun. Phóng viên chuyên nghiệp ngày
càng phải “tinh” hơn. Phóng viên không chuyên ngày càng phải nhiều hơn)
9. Kết cấu của luận án
Ngồi Mở đầu, Kết luận, những nội dung chính của luận án được thể
hiện trong 4 chương với bố cục, kết cấu cụ thể như sau:

17


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ
XÃ HỘI HÓA SẢN XUẤT CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH
1.1. Khái niệm
1.1.1.Xã hội hố
Nếu search (tìm kiếm) từ "xã hội hóa" trên mạng thì đến thời điểm
tháng 10/2010 có tới 21.900.000 trang liên quan đến từ khóa này. Từ những
bài nghiên cứu, những bài báo của các nhà nghiên cứu, các phóng viên,
những ý kiến của công chúng kết hợp với thực tiễn việc "xã hội hóa" trong
một số lĩnh vực ở Việt Nam hiện nay tổng hợp, phân loại thấy rằng thuật ngữ

này được hiểu và vận dụng dưới ba góc độ sau:
Thứ nhất:
Xã hội hóa là Nhà nước phải lo hồn tồn cho nhân dân
Thứ hai:
- Xã hội hóa là "đẩy" một phần chi phí cho dân lo
- Xã hội hóa là Nhà nước giảm sự đầu tư và giảm sự quan tâm
(chuyển một số trường Công thành trường tư thục; thành lập một số công ty
làm phim tư nhân....)
Thứ ba:
Xã hội hóa là huy động mọi nguồn lực, trí tuệ của các thành phần kinh
tế và các tổ chức xã hội cùng tham gia một hoạt động nào đó (ví dụ giáo dục,
y tế, thể thao.....).
Qua đó, thấy rằng thuật ngữ "xã hội hóa" chưa có định nghĩa chuẩn
nên dẫn tới có nhiều cách hiểu, cách vận dụng khác nhau. Chính vì vậy mà

18


đã dẫn tới nhiều hệ quả và có nhiều ý kiến khác nhau thậm chí lo lắng về
việc đưa ra khái niệm cũng như cách sử dụng cụm từ này.
Ông Bùi Trọng Liễu - Nguyên giáo sư Đại học (Paris, Pháp) trong bài
viết gửi tới báo mạng điện tử VietNamNet ngày 22/7/2007 đã viết: "Tôi ngạc
nhiên khi thấy xuất hiện cụm từ “xã hội hóa” ở Việt Nam ta – có lẽ là xuất
hiện từ khoảng mươi năm nay và càng ngày càng bị sử dụng một cách thản
nhiên theo nghĩa ngược lại" (Những kỳ dị đằng sau cụm từ “xã hội hóa” giáo
dục – Vietnamnet, 22/7/2007).
Cịn Giáo sư Tương Lai – nguyên Viện trưởng Viện xã hội học Việt
Nam cho rằng: “Thuật ngữ có tính khái niệm “xã hội hóa” mang một nội
dung đặc thù, được vận dụng rộ lên trong vài ba năm trở lại đây, cần phải
được minh định một cách chính xác và nghiêm cẩn để tránh sự vận dụng một

cách tùy tiện và khiên cưỡng của khơng ít nơi”...
Điểm chung của nhiều Giáo sư Việt Nam đó là sự lo lắng về việc
dùng, vận dụng khái niệm “xã hội hóa” vào trong cuộc sống ở Việt Nam.
Các giáo sư phân tích và cho rằng: “việc xã hội hóa của ta đang đi theo
hướng khơng đúng, cụ thể ở chỗ hiện nay “xã hội hóa” được sử dụng dưới
hình thức : “....đẩy gánh nặng tài chính lên vai công dân và trao cho tư nhân
đảm nhiệm một số lĩnh vực thuộc bổn phận Nhà nước phải quản lý” (Xã hội
hóa – đang bị lạm dụng? Báo Vietnamnet, 24/7/2007)
Theo các Giáo sư “...từ nhận thức, quan niệm về xã hội hóa có sự
khơng thống nhất dẫn đến chủ trương, biện pháp có những việc làm khó
hiểu” (Xã hội hóa – đang bị lạm dụng? Báo Vietnamnet, 24/7/2007)
Vậy cần hiểu về “xã hội hóa” như thế nào cho chính xác?
Theo từ điển tiếng Anh: “Socialize: act in a sociable manner” (có thể
dịch: làm một việc gì đó theo cách hịa đồng – hịa mình theo cách chung
của xã hội/ make social: làm thành của chung của tập thể/ organize on
19


socialistic principles: tổ chức theo cách chung của xã hội ” (Julia Swannell:
The Oxford morden English dictionary, Oxford University press, 1994,
1036).
Theo từ điển tiếng Pháp: “Socialisation:.......được dùng theo nghĩa tập
thể hóa.”
Cịn theo từ điển tiếng Việt: “Xã hội hóa: là làm thành của chung của
xã hội". (Khoa học - xã hội - nhân văn, Viện ngôn ngữ: Từ điển Tiếng Việt,
Nhà xuất bản Hồng Đức, 2008)
Mặc dù mỗi dân tộc, về ngơn ngữ có sự định nghĩa khác nhau về cụm
từ “xã hội hóa” nhưng nhìn chung có sự tiệm cận ở việc cùng cho rằng: xã
hội hóa đó là hòa nhập, biến một hoạt động hay một sự vật nào đó thành của
chung.

Tuy nhiên, định nghĩa như vậy nội hàm vẫn rất rộng, chưa xác định
được những biến thái của nó điều này dẫn tới khó hiểu, khó thực hiện đúng,
không cẩn thận sẽ dễ bị lạm dụng.
Để lý giải thấu đáo khái niệm này cần phải kết hợp thực tiễn với
những lý luận biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin.
- Góc độ lý giải thứ nhất: Khái niệm “xã hội hóa” nhìn dưới góc độ
mối quan hệ giữa các cá nhân
Từ “hóa” là một động từ với nghĩa “thay đổi”, “biến hóa”, “chuyển
hóa từ cái này sang cái kia”. Từ ““hóa” đứng sau một danh từ để nhấn mạnh
một sự thay đổi về tính chất của danh từ đó”. (Viện ngơn ngữ: Từ điển tiếng
Việt, NXB Hồng Đức, 2008).

20


Động từ “hóa” đứng sau danh từ “xã hội” - điều này muốn nói tới việc
“xã hội” sẽ có sự thay đổi về tính chất.
Theo Mác, “xã hội – cho dù nó có hình thức gì đi nữa – là cái gì đi
nữa? Xã hội ln là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa những con
người” (C.Mác và Ph. Ăngghen: tồn tập, NXB. Chính trị Quốc Gia, Hà
Nội, 1996, T27, tr.657).
Mỗi con người là một cá thể. Mỗi cá thể có những đặc tính riêng. Đó
là thế giới của cá nhân với những đặc điểm riêng về di truyền, về sinh lý, về
hoàn cảnh sống....Để tồn tại được trong một xã hội rộng lớn với nhiều những
quy định chung; để tiếp thu dễ dàng những tinh hoa của nhân loại, hịa nhập
với nhiều cá thể khác, thì mỗi cá nhân cần có sự chuyển hóa những cái
chung của xã hội vào bên trong đời sống nội tâm nhằm hồn thiện cá nhân
mình. Tiếp tục, những giá trị đó được cá nhân nhào nặn rồi thể hiện ra bằng
suy nghĩ, hành động của cá nhân mình. Đó chính là quá trình chia sẻ. Chia sẻ
cái riêng với cái chung. Như vậy, mỗi con người để tồn tại được trong xã hội

cần có 2 mặt tiếp nhận và chia sẻ. Đó là q trình kép - là 2 mặt, 2 chiều tác
động của quá trình phát triển của một con người trong xã hội.
Chủ nghĩa Mác - Lênin dùng thuật ngữ xã hội hóa cá nhân và cá nhân
hóa xã hội để mơ tả về q trình đó. Đây là hai mặt biện chứng. Khơng thể
có mặt này mà khơng có mặt kia để tạo nên cuộc sống con người. Khái niệm
xã hội hóa cá nhân để nói về sự chuyển hóa của những tính chung của xã hội
vào từng cá nhân, những tính chung của xã hội được cá nhân tiếp thu, nhưng
lại được cá nhân hóa, nghĩa là được thể hiện ra ở mỗi người một cách khác
nhau để con người đó hịa hợp với những con người chung, số đông trong xã
hội.

21


Chỉ có sự hịa hợp, kết hợp một cách trách nhiệm với nhau của mỗi cá
nhân trong xã hội, cụ thể là trong giao tiếp, trong sản xuất thì mới có thể duy
trì được xã hội. Điều này đã được Mác khẳng định: “...Người ta không thể
sản xuất được nếu khơng kết hợp với nhau theo một cách nào đó để hoạt
động chung và để trao đổi hoạt động với nhau. Muốn sản xuất được, người
ta phải có những mối liên hệ và quan hệ nhất định với nhau” (C.Mác và
Ph.Ăngghen: Tồn tập, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993, tập 6, trang
552)
Như vậy, theo chủ nghĩa Mác – Lê-nin, khái niệm "xã hội hóa" nói lên
sự chuyển hóa tính chất trong mối quan hệ của con người trong xã hội. Đó là
chuyển từ tính chất cá nhân thành tính chất xã hội và ngược lại. Mỗi con
người được quyền thụ hưởng những thành quả của xã hội, nhưng cùng với
nó là nghĩa vụ, trách nhiệm của họ đối với xã hội.
- Góc độ lý giải thứ hai: Khái niệm “Xã hội hóa” nhìn ở góc độ sở
hữu
Thuật ngữ “xã hội hóa” được chủ nghĩa Mác – Lênin phân tích cụ thể

và rõ nét hơn trong bối cảnh nói tới sự sở hữu nhằm phân tích tính chất của
lực lượng sản xuất.
Nếu như, dưới góc độ mối quan hệ giữa các cá nhân trong giao tiếp,
trong sản xuất, quan niệm về “xã hội hóa” được khẳng định là sự thay đổi
tính chất cá nhân thành tính chất xã hội thì giải thích dưới góc độ sở hữu một
lần nữa thấy rằng bản chất của khái niệm “xã hội hóa” cũng là sự chuyển
hóa từ tính chất cá nhân sang tính chất xã hội.
Theo Mác, khi nền sản xuất được thực hiện với những cơng cụ ở trình
độ thủ cơng thì lực lượng sản xuất chủ yếu mang tính chất cá nhân. Khi sản
xuất đạt tới trình độ cơ khí (máy móc) thì lực lượng sản xuất địi hỏi phải
được vận động trong sự hợp tác rộng rãi trên cơ sở chun mơn hóa. Tính
22


chất tự cấp, tự túc, cô lập của nền sản xuất nhỏ lúc đó phải được thay thế bởi
tính chất xã hội hóa. Nghĩa là, tư liệu sản xuất do cá nhân sử dụng trở thành
tư liệu sản xuất xã hội, được tham gia, sử dụng chung bởi số đông người.
Thực hiện “xã hội hóa” như thế nào phụ thuộc vào từng thể chế xã hội
mà có cách vận dụng khác nhau. Nếu như đối với chế độ tư bản, sở hữu đó
là sự tư hữu, tư liệu sản xuất phục vụ lợi ích của một nhóm người nên “xã
hội hóa” là của một nhóm người thì đối với chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa,
xã hội cộng sản, tư liệu sản xuất là công hữu – tư liệu sản xuất phục vụ đa số
nhân dân.
Thực tế, thuật ngữ “xã hội hóa” hầu như ít được sử dụng ở các nước
tư bản. Bởi đặc thù xã hội của tư bản đó là chế độ sở hữu tư hữu. Nhưng đối
với các nước đang trên đường tiến tới một chế độ xã hội tiến bộ hơn đó là
chủ nghĩa cộng sản thì thuật ngữ “xã hội hóa” được sử dụng nhiều với ý
nghĩa sở hữu xã hội – công hữu, sở hữu tập thể hay sở hữu toàn dân. Ở đó
các thành viên được bình đẳng với nhau trong tổ chức lao động và trong
phân phối sản phẩm. Tư liệu sản xuất đó là của tồn dân và vì lợi ích của

tồn dân.
Như vậy, “xã hội hóa” về bản chất là ai trong xã hội đó cũng có quyền
được bình đẳng hưởng cơ bản và tối thiểu một số dịch vụ nào đó của xã hội.
Vậy nên, nếu dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, trong
chế độ xã hội chủ nghĩa, nói “xã hội hóa” là chủ trương mở một số trường tư
thục hay thành lập các hãng phim tư nhân như cách hiểu của một số người ở
Việt Nam hiện nay là “xã hội hóa giáo dục” hay “xã hội hóa văn hóa” - điều
này khơng chính xác. Đó thực chất là tư nhân hóa. Nói vậy bởi, hoạt động
này về bản chất vì lợi ích của một nhóm người nhất định.
Việc mở các trường tư thục, các bệnh viện tư nhân, hay các hãng phim
tư nhân....tuy khơng phải là hình thức của “xã hội hóa” nhưng xét cho cùng
23


việc xuất hiện những hình thức này cũng đáng khuyến khích bởi lẽ ngồi
những “nhu cầu chung” mà xã hội cung cấp những đối tượng nào có điều
kiện thì có thể sử dụng những dịch vụ tốt hơn từ những dịch vụ ngoài Nhà
nước cung cấp. (Nhưng vấn đề này chúng tôi sẽ bàn ở một đề tài nghiên cứu
khác.)
- Góc độ lý giải thứ ba: Khái niệm “Xã hội hóa” nhìn ở góc độ
quản lý
Khi đã trở thành “sở hữu chung” thì liên quan đến hàng loạt vấn đề
khác như: việc tổ chức và quản lý; phân phối sản phẩm chung đó như thế
nào cho hiệu quả?
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, Nhà nước là bộ máy
thống trị của một giai cấp này đối với một giai cấp khác. Nhưng giai cấp
nắm chính quyền lấy Nhà nước nhân danh xã hội để điều hành và quản lý xã
hội. Nhà nước không những thực hiện các chức năng giai cấp mà cịn phải
hồn thành các chức năng xã hội. Nghĩa là Nhà nước có nhiệm vụ giải quyết
những công việc chung của xã hội về các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã

hội.
Đối với các nước xã hội chủ nghĩa, giai cấp chính là giai cấp cơng
nhân – đại diện cho tồn bộ xã hội. Vậy nên, Nhà nước xã hội chủ nghĩa là
Nhà nước “của dân, do dân và vì dân”. Nhà nước là đại biểu - đại diện cho
tồn xã hội, chứ khơng phải là một bộ phận của xã hội. “Nhà nước phải quản
lý những hoạt động chung vì sự tồn tại của xã hội, phải lo tới một số công
việc chung của tồn xã hội; trong giới hạn có thể được, nó phải thỏa mãn
một số nhu cầu chung của cộng đồng dân cư” (Hội đồng Trung ương chỉ đạo
biên soạn giáo trình Quốc gia: Giáo trình Triết học Mác – Lênin, NB Chính
trị Quốc gia, H, 1999, tr 530).

24


Nhiệm vụ mà Nhà nước làm cho dân chính là những nhiệm vụ mang
tính xã hội. Nhà nước có vai trò điều hành và quản lý xã hội, làm cho xã hội
vận hành tốt, đúng quy định, hợp xu thế thời đại.
Tuy nhiên, theo như phân tích của chủ nghĩa Mác – Lênin ở trên, con
người trong xã hội để tồn tại và phát triển cần “sống” trong mối quan hệ hai
chiều - mối quan hệ kép. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là đại diện của số đơng
- tồn bộ xã hội, có nhiệm vụ lo cho xã hội, “bảo vệ trật tự hiện hành” của xã
hội. Nhưng để Nhà nước thực hiện tốt vai trò điều hành quản lý của mình, để
xã hội vận hành trơi chảy cần một chiều ngược lại đó là từ các cá nhân trong
tổng thể xã hội đó. Theo chủ nghĩa Mác – Lênin: “Nhà nước không thể tồn
tại, nếu không dựa vào thuế khóa, quốc trái; ...mọi Nhà nước sống được là
nhờ sự chu cấp của nhân dân” (Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo
trình Quốc gia: Giáo trình Triết học Mác – Lênin, NB Chính trị Quốc gia, H,
1999, tr 529).
Cá nhân không chỉ là người được hưởng thụ những hoạt động, những
dịch vụ do Nhà nước quản lý mà cần có trách nhiệm, nghĩa vụ “gánh vác”

cơng việc chung của xã hội. Đó là “đóng góp” những gì mình có thể như:
cơng sức, trí tuệ, tài chính.....để cùng với Nhà nước tồn tại và cùng tham gia
giải quyết những vấn đề chung của xã hội.
Đó là mối quan hệ hai chiều, biện chứng. Chính vì vậy, nếu cho rằng:
“Nhà nước là phải lo hoàn toàn cho xã hội, con người trong xã hội đó chỉ là
người hưởng thụ” như vậy chưa thực sự đầy đủ: bởi khơng có Nhà nước thì
khơng có cơng cụ để quản lý điều hành duy trì sự bình ổn xã hội đó; ngược
lại khơng có xã hội, đóng góp từ xã hội thì không thể tồn tại Nhà nước.
Và, nếu cho rằng: “Xã hội hóa là "đẩy" một phần chi phí cho dân lo;
Xã hội hóa là Nhà nước giảm sự đầu tư và giảm sự quan tâm” như vậy là

25


×