Tải bản đầy đủ (.docx) (47 trang)

tóm tắt luận án tiến sĩ tiếng việt vấn đề xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.47 KB, 47 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hoạt động XHH sản xuất chương trình truyền hình hiện đang ngày một phát
triển ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhận thức về hoạt động này vẫn còn có nhiều ý
kiến chưa thống nhất. Một số quan điểm cho rằng: XHH sản xuất chương
trình truyền hình là một xu thế, là một việc làm cần kíp. Nếu không mở cửa
đón nhận xu thế này truyền hình sẽ đánh mất cơ hội để phát triển. Nhưng
cũng có quan điểm lại cho rằng: không nên XHH đối với truyền hình, vì nó sẽ
khiến cho truyền hình dễ bị thao túng bởi các quyền lợi cá nhân và các mục
đích kinh doanh thuần tuý. Trong khi, người ta đang còn tranh cãi nhau, thì
XHH trong lĩnh vực sản xuất chương trình truyền hình vẫn diễn ra. Hoạt động
này mặc dù thúc đẩy quá trình phát triển nhưng lại cũng đang đặt ra những
thách thức không nhỏ đối với đài truyền hình, các đối tác cùng các đơn vị liên
quan trên nhiều phương diện: quản lý nội dung, cấu trúc nhân sự, xây dựng
chiến lược phát triển, đặc biệt là giữ vững định hướng tuyên truyền.
Như vậy, cả trong lý luận và thực tiễn, hoạt động XHH sản xuất chương trình
truyền hình đều đặt ra những yêu cầu cần phải được nghiên cứu, giải quyết
nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng của truyền hình Việt Nam, đáp ứng tốt
nhất nhu cầu thông tin, thưởng thức của khán giả.
Với lí do trên, chúng tôi đã chọn đề tài “Vấn đề xã hội hóa sản xuất chương
trình truyền hình ở Việt Nam hiện nay” để thực hiện luận án tiến sĩ chuyên
ngành báo chí học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống hóa lí luận và thực tiễn, luận án bổ sung, phát triển
khung lí thuyết về hoạt động XHH sản xuất chương trình truyền hình; từ cơ
sở này luận án nghiên cứu, dựng nên một bức tranh toàn diện, khái quát về
thực trạng, làm rõ những thành công, hạn chế của hoạt động XHH sản xuất
chương trình truyền hình ở Việt Nam; dự báo xu hướng phát triển và kiến
nghị các giải pháp nhằm giải quyết hợp lý, có hiệu quả hoạt động đó trong
thời gian tới.


2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận án phải thực hiện những nhiệm vụ sau:
(1) Làm rõ những vấn đề lý luận về XHH sản xuất chương trình truyền hình.
(2) Tiến hành khảo sát, thống kê, phân tích làm rõ thực trạng hoạt động XHH
sản xuất các chương trình truyền hình thông qua phân tích các hình thức hợp
tác sản xuất và quản lí với các chương trình đã phát sóng trên sóng truyền
hình ở Việt Nam trong thời gian qua. (3) Từ những lý luận cơ bản, cùng với
việc tham khảo kinh nghiệm hoạt động XHH của nước ngoài, kết hợp với thực
tiễn ở Việt Nam để dự báo, chỉ ra những khả năng phát triển tiếp theo của
hoạt động XHH sản xuất chương trình truyền hình ở Việt Nam trong thời
gian tới cùng những thách thức phải đối mặt. (4) Đề xuất hệ thống các giải
pháp nhằm giải quyết hợp lí, có hiệu quả hoạt động XHH sản xuất chương
trình truyền hình phù hợp với điều kiện của Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài: là hoạt động XHH sản xuất chương trình
truyền hình, cách thức khai thác, quản lí hoạt động này ở Việt Nam.
- Đối tượng khảo sát: (1) Các chương trình truyền hình được thực hiện bằng
hình thức XHH. (2) Các nhà báo, các nhà lãnh đạo, quản lí các đài TH ở Việt
Nam, một số cá nhân, tổ chức bên ngoài đài đang tham gia sản xuất chương
trình cho các đài TH. (3) Khán giả truyền hình - đây là những người đón nhận
và chịu ảnh hưởng trực tiếp từ các chương trình được sản xuất theo hình
thức XHH. (4)Tuy nhiên, để làm rõ hơn thực trạng và đưa ra cơ sở lý thuyết
chúng tôi sẽ kế thừa những số liệu đã nghiên cứu từ nhiều nguồn khác.
- Phạm vi khảo sát, nghiên cứu: Luận án tập trung vào tìm hiểu những hoạt
động cùng những chương trình đã, đang được thực hiện theo hình thức XHH
tại 12 đài TH đại diện trên cả nước, như: ĐàiTHVN, Đài TH kỹ thuật số VTC,
Đài truyền hình TP. Hồ Chí Minh, Đài PTTH Hà Nội, Đài PTTH Quảng Ninh,
Đài PTTH Hà Giang, Đài PTTTH Nghệ An, Đài PTTH Đà Nẵng, Đài PTTH
Khánh Hòa, Đài PTTH Vĩnh Long, Đài PTTH Cần Thơ, Đài PTTH Hậu Giang và
một số đài TH khác ở Việt Nam. Các đài kể trên được chọn theo cơ cấu: trung

ương - địa phương, vùng miền, đoàn thể. Đây là những đài TH hoạt động
XHH xuất hiện sớm và phát triển mạnh mẽ ở Việt Nam hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lí luận:
Việc nghiên cứu đề tài này được thực hiện dựa trên cơ sở quán triệt các văn
kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam tại các kỳ Đại hội gần đây, các chủ trương,
văn bản pháp luật của Nhà nước có liên quan đến hoạt động XHH, hoạt động
báo chí và hệ thống lý luận báo chí nói chung, báo chí truyền hình nói riêng.
4.2. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp khảo sát thực tiễn: được dùng để xác định ý tưởng nghiên
cứu, phác thảo bức tranh về thực trạng, xác định những vấn đề đặt ra trong
hoạt động XHH của ngành truyền hình Việt Nam.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: được tiến hành đối với các công trình
khoa học lí luận về truyền hình của các tác giả trong và ngoài nước đã công
bố. Phương pháp này được sử dụng với mục đích khái quát, bổ sung hệ thống
lí thuyết về truyền hình nói chung và hoạt động XHH sản xuất chương trình
truyền hình nói riêng. Đây chính là những lí thuyết cơ sở đánh giá các kết quả
khảo sát thực tế và đưa ra những giải pháp khoa học cho vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp thống kê - so sánh: được sử dụng nhằm xác định tần số xuất
hiện, mức độ phát triển, chất lượng, hiệu quả những chương trình có sự phối
hợp sản xuất giữa đài truyền hình với các đối tác bên ngoài với những
chương trình hoàn toàn do phóng viên của đài độc lập sản xuất. Phương
pháp này được dựa chủ yếu vào các báo cáo thống kê định kỳ, các điều tra và
khảo sát chuyên môn của các Đài, các công ty truyền thông và các đơn vị liên
quan thực hiện.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp:được dùng để phân tích, đánh giá và
tổng hợp những kết quả nghiên cứu nhằm chỉ ra những thành công, hạn chế,
nguyên nhân cùng những thách thức trong quá trình thực hiện XHH sản xuất
chương trình truyền hình ở nước ta.
- Phương pháp phỏng vấn sâu: được thực hiện với 35 cán bộ lãnh đạo quản

lý thuộc các cơ quan quản lí nhà nước, các đài TH, các tổ chức bên ngoài đài
và các phóng viên của các đài TH đang tham gia vào hoạt động XHH sản xuất
chương trình nhằm thu thập ý kiến đánh giá của cá nhân xung quanh vấn đề
này.
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: được thực hiện nhằm lấy ý kiến
khách quan về chất lượng, hiệu quả cũng như nhu cầu của công chúng về
những chương trình truyền hình được thực hiện theo hình thức XHH. Dung
lượng mẫu là 800 phiếu, lựa chọn theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên ở
4 địa bàn Hà Nội, Đà Nẵng, TP Hồ Chí Minh và Cần Thơ.
Ngoài ra, chúng tôi còn tham khảo thêm một số phương pháp khác như
phương pháp phân tích SWOT… để phân tích hoạt động hợp tác sản xuất của
các đơn vị cũng như làm cơ sở đưa ra một số giải pháp phù hợp .
5. Giả thuyết nghiên cứu
- XHH sản xuất chương trình truyền hình là một quy luật phát triển, vừa là
sự hợp tác vừa là sự cạnh tranh. Sẽ không thấy được rõ bản chất, quy luật
vận hành của hoạt động này nếu không nghiên cứu một cách toàn diện
những vấn đề liên quan, cụ thể từ khái niệm, vai trò ý nghĩa, phương thức
hợp tác, nguyên tắc XHH đến việc thực thi cũng như hoàn thiện hệ thống luật
pháp - hành lang pháp lý để đảm bảo cho quá trình XHH truyền hình thực
hiện hiệu quả.
- Hoạt động XHH sản xuất chương trình truyền hình ở Việt Nam phát triển
ngày càng rầm rộ, đem lại nhiều kết quả đáng khích lệ, tuy nhiên bên cạnh đó,
hoạt động này cũng còn bộc lộ những hạn chế, điều này đã tác động tiêu cực
vào quá trình phát triển của các đài truyền hình nói riêng và ngành truyền
hình nói chung. Nếu không có những khảo sát, phân tích một cách khoa học
thực trạng đang diễn ra từ đó chỉ ra những thành công, hạn chế, những cơ
hội và thách thức phải đối mặt cùng những giải pháp thực hiện hợp lí thì
hoạt động XHH sẽ khó phát huy hết hiệu quả của những ưu thế mà thậm chí
còn có những tác động khó lường khi để hoạt động này phát triển.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận án

- Thứ nhất: Luận án triển khai nghiên cứu hệ thống và khái quát hóa khung
lý thuyết về hoạt động XHH sản xuất chương trình truyền hình: (1)Làm rõ
khái niệm về XHH sản xuất chương trình truyền hình và một số khái niệm liên
quan để so sánh. (2)Tính tất yếu của hoạt động XHH. (3)Các hình thức XHH
sản xuất chủ yếu. (4)Những nguyên tắc để đảm bảo tính định hướng nhưng
vẫn khai thác, khuyến khích được các nguồn lực xã hội tham gia vào hoạt
động sản xuất chương trình truyền hình Khung lý thuyết này cùng các cơ sở
thực tiễn sẽ làm nền tảng, chỗ dựa cho việc nghiên cứu, đánh giá các vấn đề
liên quan đến XHH truyền thông nói chung và XHH sản xuất các chương trình
truyền hình nói riêng.
- Thứ hai: Điều tra, phân tích các hoạt động XHH ở một số đài truyền hình ở
Việt Nam hiện nay một cách toàn diện, chi tiết qua các yếu tố cơ bản: đối
tượng hợp tác, hình thức, nội dung XHH, các phương thức tổ chức, quản lí
hoạt động XHH từ đó nhận định khái quát về thực trạng của hoạt động này
trên thực tế. Luận án khẳng định tính tích cực của hoạt động XHH, đồng thời
chú trọng chỉ rõ những hạn chế cần sớm khắc phục đặc biệt là về nhận thức
cũng như quá trình quản lí hoạt động này.
- Thứ ba: Trên cơ sở các kết luận khái quát đó, kết hợp với phân tích những
kinh nghiệm phát triển lĩnh vực này của một số nước trên thế giới luận án dự
báo những vấn đề đặt ra trong thời gian tới và đưa ra một hệ thống những
giải pháp nhằm góp phần để hoạt động XHH sản xuất chương trình ở Việt
Nam thực hiện có hiệu quả, phù hợp với thực tiễn.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
7.1. Ý nghĩa lí luận: Luận án là công trình khoa học đầu tiên tổng kết một
cách hệ thống rút ra các luận điểm, các kết luận có tính lý luận về một vấn đề
mới, đang có nhiều tranh cãi ở Việt Nam đó là XHH hoạt động truyền hình.
Luận án được nghiên cứu thành công sẽ góp phần làm phong phú hơn những
tri thức về truyền hình nói chung, vấn đề sản xuất, hợp tác sản xuất chương
trình truyền hình nói riêng.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn: Những kết quả nghiên cứu xuất phát từ lý luận và thực

tế của luận án có thể là tài liệu tham khảo cho những nhà hoạch định chính
sách; những người đang trực tiếp hoạt động, tham gia vào lĩnh vực truyền
hình; là tài liệu phục vụ hoạt động nghiên cứu, giảng dạy, học tập tại các cơ
sở đào tạo cán bộ làm truyền hình và tất cả những ai quan tâm đến đề tài.
8. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, tổng quan nghiên cứu đề tài, kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo, nội dung chính của luận án gồm 4 chương, 16 tiết.

TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU

Ngoài những tài liệu của nước ngoài, qua nghiên cứu chúng tôi thấy, trong
những tài liệu đã công bố trong nước, các tác giả đã đề cập tới hoạt động
XHH sản xuất chương trình truyền hình, cơ bản tập trung vào 4 nhóm nghiên
cứu sau:
- Nhóm thứ nhất: gồm những nghiên cứu liên quan đến cơ sở lý luận truyền
hình, những xu hướng phát triển của truyền hình Việt Nam trong xã hội hiện
đại, đặc biệt là trong tiến trình hội nhập, toàn cầu hoá. Mặc dù có đề cập đến
vấn đề XHH truyền hình nhưng chỉ ở một góc độ nhỏ lẻ và thường được
nghiên cứu như một tác nhân nhỏ thúc đẩy sự phát triển của truyền hình
trong xã hội hiện đại hoặc một giải pháp giúp truyền hình hội nhập phát
triển.
- Nhóm thứ 2: là những đề tài, công trình khoa học đề cập tới vấn đề XHH
truyền hình nhưng ở một góc độ hẹp, có tính chất khảo cứu đơn lẻ với tư cách
giới thiệu một mô hình XHH cụ thể.
- Nhóm thứ ba: vấn đề XHH truyền hình được đề cập tới trong những tham
luận tại các hội thảo khoa học, liên hoan truyền hình. Nhưng đa số các tham
luận và các ý kiến ở đây mới chỉ mang tính đặt vấn đề, mang tính chất định
tính, cá nhân.
- Nhóm thứ tư: vấn đề XHH, XHH sản xuất chương trình truyền hình được đề
cập tới trong định hướng phát triển của Đảng, trong các văn kiện, nghị quyết,

các văn bản pháp quy. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, một số quy
định về hoạt động này mang tính chất khái quát, chưa bắt kịp yêu cầu thực tế
vì vậy còn nhiều điểm bất cập.
Ngoài những công trình nghiên cứu trên, một số tờ báo, trang web cũng có
những bài viết đơn lẻ đề cập đến những khía cạnh khác nhau của vấn đề XHH
truyền hình Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên mới bước đầu đề
cập đến một số lát cắt của vấn đề XHH truyền hình.Về mặt học thuật, các công
trình này chưa lý thuyết hóa được một cách khoa học những vấn đề cơ bản
liên quan đến XHH sản xuất chương trình truyền hình. Về mặt thực tiễn, các
công trình này cũng chưa chỉ ra được mạch lạc xu hướng của quá trình XHH
truyền hình, chưa phác hoạ được bức tranh khái quát về thực trạng, lộ trình,
những mô hình, nguyên tắc, những trở ngại khi tiến hành XHH sản xuất
chương trình của ngành truyền hình Việt Nam hiện nay, do vậy, chưa đưa ra
được giải pháp cụ thể để phát huy tối đa hiệu quả của hoạt động này nhằm
giúp cho ngành truyền hình phát triển mạnh mẽ. Đây chính là khoảng trống
cần tiếp tục được bổ sung và phát triển.

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ THỰC TIỄN
VỀ XÃ HỘI HÓA SẢN XUẤT CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH
1.1. Khái niệm
1.1.1. Xã hội hoá
Thuật ngữ “xã hội hóa”, hiện được nhìn nhận, nghiên cứu dưới đa dạng các
góc độ: xã hội học, kinh tế - chính trị học, triết học Mặc dù, mỗi nghiên cứu
có sự định nghĩa khác nhau về cụm từ này nhưng nhìn chung có sự tiệm cận
ở việc cùng cho rằng: “xã hội hóa” chính là quá trình hình thành và khẳng
định tính xã hội của mỗi thành viên hay một sự vật, sự việc nào đó. Trên cơ sở
các phân tích, chúng tôi đưa ra một khái niệm riêng để tiện cho quá trình
nghiên cứu tiếp theo: “Xã hội hóa là quá trình mở rộng sự tham gia, chia sẻ
của xã hội với một hoạt động, một dịch vụ hay một tri thức vốn là độc quyền

của một tổ chức hay cá nhân nhằm để hoạt động hay sản phẩm đó được
nhiều người biết tới, sử dụng hay thưởng thức”
1.1.2. Xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình
Hiện nay, ở Việt Nam, công việc sản xuất - làm ra sản phẩm truyền hình
không phải chỉ do các phóng viên của đài TH thực hiện, mà là công việc
chung của nhiều người. Ở đó, họ có thể tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp làm
nên sản phẩm truyền hình. Vậy nên, có thể hiểu: “Xã hội hóa sản xuất chương
trình truyền hình là quá trình mở rộng sự tham gia và thu hút nguồn lực của
các cá nhân, tổ chức hay doanh nghiệp vào một hay nhiều khâu trong quy
trình sản xuất các chương trình truyền hình – đây vốn là công việc của một tổ
chức chuyên trách về lĩnh vực truyền hình của nhà nước Việt Nam”
Việc tham gia của các cá nhân, đối tác bên ngoài vào hoạt động sản xuất
chương trình (vốn trước đây chỉ của Nhà nước lo) không chỉ làm gia tăng về
số lượng và chất lượng các chương trình, mà hoạt động này còn góp phần
hạn chế sự độc quyền trong việc làm nên sản phẩm truyền hình.
Thực tế, còn có một số khái niệm khác có một phần ý nghĩa gần giống với
thuật ngữ XHH sản xuất chương trình truyền hình đó là “liên kết sản xuất
chương trình truyền hình”, “xã hội hóa truyền hình”. Nhưng những thuật ngữ
này lại có những nội hàm rộng hoặc hẹp quá, vì vậy để việc nghiên cứu sâu
sắc hơn, bên cạnh việc bám sát những vấn đề thời sự, vấn đề vĩ mô của ngành
truyền hình, luận án chỉ đi sâu nghiên cứu về một vấn đề cụ thể đó là: nghiên
cứu việc tham gia của xã hội vào việc sản xuất làm nên sản phẩm truyền hình
đó là “xã hội hóa sản xuất chương trình truyền hình”.
1.2. Những yếu tố thúc đẩy sự ra đời và phát triển hoạt động XHH sản xuất
chương trình TH
1.2.1. Nhu cầu thông tin của công chúng và khả năng nội tại của đài truyền
hình
Để có nhiều chương trình hấp dẫn quy mô lớn, hiện đại phục vụ nhu cầu đa
dạng của công chúng luôn cần tới các nguồn lực rất lớn: nhân lực, công nghệ,
tài chính. Nhưng thực tế, không ít đài truyền hình còn khó khăn nhất là về tài

chính. Vậy nên, việc cần có sự tham gia của các cá nhân, tổ chức, đặc biệt là
các doanh nghiệp, các tập đoàn kinh tế vào hoạt động sản xuất chương trình
truyền hình là điều cần thiết.
1.2.2. Sự phát triển của khoa học công nghệ
Khoa học kỹ thuật phát triển đã giúp cho các thiết bị thực hiện sản xuất
chương trình truyền hình ngày một hiện đại, tiện nghi và đặc biệt là rẻ hơn
rất nhiều so với trước. Đây là cơ hội giúp các cá nhân, tổ chức trong xã hội có
thể dễ dàng tham gia vào hoạt động sản xuất các chương trình truyền hình
cho đài truyền hình.
1.2.3. Khả năng của các đối tác
Sản phẩm truyền hình được làm ra với một quy trình phức tạp, đòi hỏi nhiều
nguồn lực lớn. Thực tế, có nhiều cá nhân, tổ chức có tiềm lực mạnh về nhân
lực cũng như kinh tế họ sẵn sàng đầu tư làm nên những chương trình chất
lượng thậm chí chương trình “dài hơi” có giá trị để đóng góp với các đài TH.
1.2.4. Lợi ích về kinh tế
Quá trình hợp tác giữa đài TH và đối tác để làm nên sản phẩm truyền hình
bao giờ cũng gắn chặt với lợi ích của các bên. Đặc biệt, đối với đối tác, lợi ích
đó là: được quảng bá thương hiệu nâng cao uy tín của mình trong xã hội và
tìm kiếm các lợi ích về kinh tế từ nhiều nguồn nhưng trong đó lớn nhất là
nguồn thu từ quảng cáo.
1.2.5. Tác động toàn cầu hóa - mở rộng quan hệ giao lưu quốc tế
Kỷ nguyên toàn cầu hóa không những giúp truyền hình các quốc gia tiếp cận
nhanh chóng với công nghệ sản xuất hiện đại mà còn giúp cho các chương
trình truyền hình các quốc gia trở nên phong phú hơn thông qua các hoạt
động đặt hàng, mua bán, trao đổi chương trình với những đối tác có khả
năng ở nước ngoài.
1.2.6. Áp lực cạnh tranh thông tin
Những nước phát triển có điều kiện về mọi mặt, thông tin truyền hình của họ
phủ sóng rộng khắp mọi ngóc ngách của xã hội, tạo nên áp lực cạnh tranh
thông tin mạnh mẽ giữa các nước, các phương tiện truyền thông. Việc mở

rộng các hình thức sản xuất nhằm có nhiều chương trình hấp dẫn hơn nữa từ
nhiều nguồn là điều tất yếu nếu như không muốn làm “tuột tầm tay” công
chúng của mình.
1.2.7. Chính sách và cơ chế quản lý của Nhà nước
Mỗi nước có nền kinh tế, chính trị, văn hóa khác nhau nhưng đều nhận thức
và đánh giá cao vai trò của truyền hình trong việc thông tin, định hướng tư
tưởng và đem lại lợi ích kinh tế. Vì vậy, đã có nhiều cơ chế chính sách kịp
thời, phù hợp để tạo điều kiện cho hoạt động này phát triển, trong đó có
chính sách huy động các nguồn lực xã hội - đây là cơ hội giúp cho sự tham gia
của xã hội vào hoạt động truyền hình suôn sẻ, hiệu quả.
1.3. Các hình thức XHH sản xuất chương trình TH
1.3.1. Hợp tác sản xuất chương trình
Đó là việc đài TH và các đối tác “bắt tay” cùng khai thác, sử dụng một cách
hợp lí nguồn lực của mỗi bên (con người, phương tiện kỹ thuật, tài chính )
để tham gia vào quy trình sản xuất làm nên sản phẩm truyền hình. Có ba mức
độ hợp tác: hợp tác sản xuất một phần chương trình, hợp tác sản xuất hoàn
chỉnh một chương trình và hợp tác sản xuất nhiều chương trình cho một
kênh truyền hình.
1.3.2. Đặt hàng sản xuất chương trình
Trong hình thức đặt hàng, chủ thể đặt hàng là đài TH, đối tượng được đặt
hàng là các công ty truyền thông. Với hình thức này, đài TH thường chủ động,
các đối tác chỉ là người thực thi. Có ba mức độ đặt hàng: đặt sản xuất một
phần chương trình, đặt sản xuất trọn vẹn một chương trình và đặt sản xuất
chương trình cho cả kênh.
1.3.3. Khai thác chất liệu và sản phẩm truyền hình
Khai thác chất liệu và sản phẩm truyền hình đó là việc đài TH tìm kiếm, lựa
chọn những chất liệu (thông tin, hình ảnh thô) hoặc những sản phẩm truyền
hình đã được cá nhân hoặc một tổ chức nào đó trong xã hội thực hiện, để sử
dụng vào việc xây dựng một chương trình của một kênh truyền hình.
1.3.4. Trao đổi sản phẩm

Nếu hình thức hợp tác, khai thác và đặt hàng sản xuất, sản phẩm đài sử
dụng phải trả đối tác bằng tiền hoặc quyền lợi quảng cáo thì hình thức trao
đổi sản phẩm là sự trao đổi chéo các chương trình giữa các đài, các tổ chức
với nhau, không phải chi trả bằng khoản tài chính nào khác.
1.4. Những yêu cầu và điều kiện để hoạt động XHH sản xuất chương trình TH
thành công
1.4.1. Mục đích, yêu cầu đối với hoạt động XHH
- Mục đích: huy động các nguồn lực (nguồn lực sáng tạo và nguồn lực vật
chất) từ các tổ chức, cá nhân ngoài đài TH cùng tham gia với đài để tạo ra
nhiều sản phẩm truyền hình chất lượng đáp ứng nhu cầu đa dạng của công
chúng.
- Yêu cầu: sản phẩm truyền hình được sản xuất theo hình thức XHH phong
phú về nội dung, hấp dẫn về hình thức, đúng định hướng, hài hòa lợi ích của
mỗi bên tham gia; khai thác, sử dụng tối đa và hiệu quả các tiềm năng của
đối tác vào quá trình hợp tác sản xuất; mối quan hệ giữa các bên trong quá
trình hợp tác sản xuất lành mạnh, ổn định và không ngừng phát triển
1.4.2. Những điều kiện để hoạt động XHH sản xuất chương trình TH thành
công
1.4.2.1. Xác định được năng lực sản xuất: Mỗi bên phải xác định được khả
năng về nhân sự, về công nghệ, kỹ thuật và tài chính của mình trước khi tham
gia làm nên sản phẩm truyền hình. Đây là cơ sở quyết định chất lượng sản
phẩm cũng như tốc độ, sức bền của việc hợp tác sản xuất.
1.4.2.2. Xác định được năng lực quản lí: Nhà quản lí phải nắm vững được mục
đích, điểm mạnh, yếu của việc mở rộng phối hợp sản xuất chương trình và trả
lời được các câu hỏi: sản xuất chương trình đó cho ai xem? sản xuất cái gì?
sản xuất bao nhiêu? ai sản xuất? quản lí, duyệt chương trình đó như thế
nào? Từ đó xây dựng chiến lược, lập kế hoạch và điều hành quá trình tạo ra
sản phẩm hiệu quả.
1.4.2.3. Xác định, phân tích được cơ hội và thách thức: Ngoài xác định được
những điểm nội tại của mình (điểm mạnh, điểm yếu), mỗi đơn vị cần phân

tích được những tác động từ bên ngoài (cơ hội, thách thức) tới đơn vị mình
khi tham gia XHH. Đây là cơ sở quan trọng để phát huy, khai thác tốt ưu
điểm, thời cơ; hạn chế được những nhược điểm và đối phó linh hoạt với nguy
cơ để có kết quả hợp tác tốt nhất.
1.4.2.4. Xây dựng môi trường hợp tác phù hợp: đó là hành lang pháp lí, cơ
chế, chính sách chặt chẽ, phù hợp hoàn cảnh thực tế - đây cái “nôi” nuôi
dưỡng, phát triển các mối quan hệ trong quá trình hợp tác sản xuất.
1.5. Đặc điểm, yêu cầu và tình hình phát triển của truyền hình Việt Nam
1.5.1. Quá trình phát triển của ngành truyền hình Việt Nam
1.5.1.1. Đài truyền hình Việt Nam
Sau hơn 40 năm ra đời và phát triển, từ những bước chập chững thiếu thốn
đủ thứ chỉ lo được một vài giờ sóng/ngày, đến nay, đài THVN đã không
ngừng đổi mới và phát triển với nhiều kênh phát sóng quảng bá toàn quốc
với thời lượng trung bình 120 giờ/ngày cùng 2 hệ thống truyền hình cáp
(VCTV, SCTV) và hệ thống truyền hình kỹ thuật số vệ tinh DTH (VSTV) với
hàng trăm kênh.
1.5.1.2. Các đài truyền hình địa phương
Hiện nay, cả nước có 62 đài PTTH (trừ tỉnh Phú Yên, hiện đang xây dựng Đài
PTTH tỉnh, dự kiến 2012 đưa vào sử dụng), với hơn 80 kênh phát sóng quảng
bá. Thời lượng phát sóng (cả tiếp sóng đài THVN) trung bình là 18 giờ/kênh.
Một số đài lớn tới phát sóng 24/24 giờ/ngày. Bên cạnh, chương trình phát
sóng quảng bá, một số đài còn mở rộng khu vực truyền hình trả tiền.
1.5.1.3. Các đài truyền hình, kênh truyền hình khác
Hiện ở Việt Nam còn có một số đài TH, các kênh truyền hình khác của các Bộ,
các cơ quan báo chí như: Đài TH kỹ thuật số VTC, kênh truyền hình của Đài
tiếng nói Việt Nam (VOVTV); kênh truyền hình Thông tấn (TTXVN); kênh
truyền hình Công an nhân dân (ANTV).
1.5.2. Quan điểm của Đảng, Nhà nước và yêu cầu đặt ra đối với ngành truyền
hình Việt Nam trong bối cảnh XHH
1.5.2.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về vấn đề XHH

Quan điểm phát huy nguồn lực trong xã hội đóng góp cùng với nhà nước để
giải quyết những vấn đề chung của xã hội đã được xác định, đề cập trong
phương hướng phát triển bắt đầu từ đại hội Đảng VIII và các đại hội tiếp sau
này.
1.5.2.2. Phương hướng phát triển của ngành truyền hình trước thực tế XHH
Phát triển theo chủ trương chung của Đảng, Nhà nước trên cơ sở điều kiện,
nhu cầu của mỗi đài truyền hình nhằm mục đích có được nhiều nhất những
chương trình với nội dung phong phú, hấp dẫn phục vụ nhu cầu đa dạng của
khán giả.

Tiểu kết chương 1:
Bản chất của hoạt động XHH sản xuất chương trình truyền hình là sự tham
gia của mọi cá nhân, tổ chức một cách tự nguyện vào hoạt động làm nên sản
phẩm truyền hình cho một đài TH - nơi mà trước đây vốn là hoạt động độc
quyền của nhà nước. Có nhiều hình thức để xã hội tham gia vào hoạt động
này. Mỗi hình thức có những ưu điểm và hạn chế riêng. Sự đa dạng này tạo ra
sự phong phú cho hoạt động của ngành truyền hình nói chung và hoạt động
tổ chức sản xuất chương trình của mỗi đài nói riêng.
Để hoạt động XHH sản xuất chương trình truyền hình thành công, điều
sống còn, quyết định sự tồn tại, thương hiệu của mỗi đơn vị khi tham gia hoạt
động này đó là phải xác định được rõ ràng năng lực sản xuất, trình độ quản lí
của bản thân cũng như đối tác, cơ hội, thách thức phải đối mặt và đặc biệt
phải xây dựng được môi trường hợp tác - cái nôi nuôi dưỡng các mối quan
hệ đa chiều nhưng bền vững.
Những vấn đề lí luận và một số thực tiễn về hoạt động XHH trình bày ở
chương 1 là tiền đề, cơ sở quan trọng để triển khai nội dung các chương tiếp
theo của luận án.
Chương 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XÃ HỘI HÓA SẢN XUẤT
CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1. Sự ra đời và phát triển hoạt động XHH sản xuất chương trình TH ở Việt
Nam
2.1.1. Tình hìnhXHH sản xuất chương trình ở Đài THVN
Đài THVN là đơn vị đầu tiên triển khai hoạt động XHH. Ban đầu là sự hợp tác
sản xuất và phát sóng một số chương trình của một số cơ quan, đoàn thể, các
tổ chức chính trị xã hội. Đến nay, hoạt động này ngày càng phát triển với
nhiều hình thức đa dạng. Hiện, trên hệ thống truyền hình quảng bá và truyền
hình trả tiền của đài (VTV, VCTV và SCTV) có tổng số 143 kênh, trong đó sản
xuất nội địa (trong nước sản xuất) là 41 kênh, còn lại 102 kênh là khai thác.
Trong 41 kênh sản xuất nội địa, ở đó đều có một hay nhiều những chương
trình được thực hiện theo hình thức XHH. Hiện nay, ở khu vực truyền hình
quảng bá hoạt động XHH diễn ra chủ yếu ở mức độ XHH một phần; khu vực
trả tiền mức độ đa dạng hơn, đặc biệt có XHH sản xuất chương trình cho cả
kênh.
2.1.2. Tình hình XHH sản xuất chương trình ở một số đài truyền hình địa
phương
So với đài Quốc gia, hoạt động XHH ở các đài TH địa phương xuất hiện sau,
phổ biến bắt đầu từ sau năm 2000. Hoạt động XHH phát triển mạnh nhất ở
Đài TH TP Hồ Chí Minh và Đài PTTH Hà Nội, cả ở khu vực truyền hình quảng
bá và truyền hình trả tiền. Trong đó, riêng thời lượng chương trình XHH trên
kênh quảng bá chiếm trung bình khoảng 25 - 30% tổng thời lượng chương
trình sản xuất mới.
Ở các đài TH địa phương khác, hoạt động XHH sản xuất cũng đã, đang tồn tại
tuy nhiên số lượng, qui mô còn ít, chủ yếu thực hiện XHH một phần chương
trình ở một số khung giờ.
2.1.3. Tình hình XHH ở Đài truyền hình kỹ thuật số VTC
Đài TH kỹ thuật số VTC thuộc Tổng Công ty truyền thông đa phương tiện VTC,
thành lập ngày 19/8/2004. Năm 2007, hoạt động XHH bắt đầu được tiến
hành và nhanh chóng phát triển. Đài được cấp phép sản xuất 18 kênh
chương trình trong đó có 15 kênh quảng bá. Đài có 7 kênh XHH cả kênh, còn

lại một số kênh khác thực hiện theo hình thức XHH một phần.
2.2. Đối tượng tham gia hoạt động XHH sản xuất chương trình TH ở Việt
Nam
2.2.1. Các doanh nghiệp truyền thông
Hiện, ở Việt Nam có gần 3.000 doanh nghiệp truyền thông nhưng khảo sát từ
năm 2008 đến 2011 thấy chỉ có khoảng hơn 50 công ty (20 ở miền Bắc, 30
miền Nam) hợp tác thường xuyên với các đài TH. Khảo sát cũng cho thấy, có
công ty chỉ là đối tác duy nhất của một đài nhưng cũng có công ty lại là đối
tác, phối hợp sản xuất cùng một lúc nhiều chương trình với nhiều đài. Mặc
dù, số công ty tham gia thường xuyên còn chưa nhiều nhưng nhóm đối tượng
này đã đóng góp thời lượng sóng gần như lớn nhất so với các đối tượng khác.
2.2.2. Các hãng phim tư nhân
Điều 17, nghị định 54/2010, luật Điện ảnh quy định: tỷ lệ thời lượng phát
sóng phim Việt Nam của mỗi đài TH đạt ít nhất 30% so với tổng thời lượng
phát sóng phim. Nghĩa là cứ hai phim nước ngoài phải có một phim Việt
Nam. Vậy nên, chỉ với các hãng phim truyền hình Nhà nước thì không lo đủ số
lượng phim đó để phát sóng trên các đài. Đến 2010, Việt Nam có khoảng hơn
40 hãng phim tư nhân đã, đang hợp tác sản xuất cung cấp phim cho các đài.
2.2.3. Các cơ quan, đoàn thể ở trung ương và địa phương
Đây là những cơ quan không chỉ cung cấp những nguồn tin nóng hổi, nguồn
tài trợ kịp thời để các phóng viên tác nghiệp mà còn là những cơ quan có mối
quan hệ hợp tác từ lâu và quan trọng trong sản xuất chương trình cho nhiều
đài TH ở Việt Nam. Ví dụ: Bộ Y tế - cơ quan bảo trợ thông tin cho kênh O2TV…
2.2.4. Các cơ quan báo chí
Nhận thức được thế mạnh của truyền hình, hiện nay, ở Việt Nam, nhiều cơ
quan thông tấn, báo chí (báo in, báo mạng điện tử, báo phát thanh ) đã phối
hợp với truyền hình để chia sẻ thông tin và mở rộng tầm ảnh hưởng cũng
như hình ảnh của cơ quan mình. Ví dụ: năm 2009, báo Thời báo kinh tế Việt
Nam, báo Đầu tư đã tham gia một phần với Đài THVN sản xuất “Bản tin tài
chính” (VTV1)…

2.2.5. Các cá nhân
Ở Việt Nam hình thức tham gia của các cá nhân vào sản xuất chương trình
truyền hình đã xuất hiện và ngày một phổ biến. Giờ đây, khán giả không còn
là người thụ động tiếp nhận thông tin truyền hình hình nữa mà họ cũng có
thể tham gia sản xuất sản phẩm truyền hình như những nhà báo thực thụ.
Các cá nhân đã tham gia chủ yếu vào việc đóng góp chất liệu - hình ảnh “thô”
nhưng đậm giá trị thông tin, thời sự hoặc những sản phẩm “linh kiện” cho
các đài TH.
2.2.6. Các đối tác nước ngoài
Hiện nay, các đối tác nước ngoài tham gia chủ yếu qua hình thức khai thác,
trao đổi sản phẩm hoặc cũng có thể thông qua việc hợp tác sản xuất chương
trình với đài hay hợp tác với các công ty truyền thông để làm nên sản phẩm
truyền hình.
2.3. Thực trạng các hình thức XHH sản xuất chương trình TH ở Việt Nam
2.3.1. Hợp tác sản xuất chương trình
Đây là hình thức xuất hiện nhiều trong hoạt động XHH ở nhiều đài TH ở Việt
Nam. Qua khảo sát thấy rằng, mức độ hợp tác sản xuất một chương trình
hoàn chỉnh chiếm đa số ở cả khu vực truyền hình quảng bá và trả tiền. Mỗi
kênh có thể có nhiều đối tác cùng hợp tác sản xuất.
Tuy nhiên, trên một số kênh truyền hình trả tiền của một số đài hiện đang sử
dụng hình thức hợp tác sản xuất ở mức độ: một đối tác có thể hợp tác sản
xuất phần nhiều chương trình một kênh. FanshifanTV (VCTV1), RealTV
(VCTV5), FNBC (HTVC)… là một số ví dụ cụ thể.
2.3.2. Đặt hàng sản xuất chương trình
Hình thức này được sử dụng phổ biến ở các đài. Mức độ chủ yếu là: đặt hàng
sản xuất một phần chương trình và đặt hàng sản xuất hoàn chỉnh một
chương trình.
Ngoài hai mức kể trên, hiện trên một số kênh truyền hình trả tiền còn có hình
thức đặt hàng sản xuất chương trình cho cả kênh. Với hình thức này, trừ
phần thời lượng phát lại và khai thác thì 100% sản phẩm sản xuất mới là do

một đối tác sản xuất. Đài chỉ là người ra đề bài, tư vấn về fomat và nghiệm
thu những chương trình hoàn chỉnh của kênh đó. Hiện, cả nước có 4 đài có
những kênh đặt hàng sản xuất chương trình cho cả kênh: Đài THVN, Đài TH
TP. HCM, Đài TH kỹ thuật số VTC, Đài PTTH Hà Nội, với tổng số hơn 20 kênh.
Với hình thức, mức độ này, đối tác đảm đương được thời lượng sản xuất mới
trung bình 3 giờ/19 giờ/ngày.
2.3.3. Khai thác chất liệu và sản phẩm truyền hình
Trong thời gian khảo sát từ 2009 đến 2011, thấy rằng việc khai thác và sử
dụng chất liệu xuất hiện phần lớn ở Đài THVN còn các đài địa phương rất
hãn hữu. Ở Đài THVN, hình thức này lại chỉ thấy sử dụng ở trong một số
chương trình thời sự và số lượng cũng không đáng kể.
So với thành phẩm là chất liệu thô, thành phẩm là những chương trình hoàn
chỉnh chiếm số lượng nhiều hơn. Sản phẩm thuộc đa dạng các thể loại: từ
phim, trò chơi, ca nhạc đến các chương trình văn hóa, thể thao Nhiều đài đã
khai thác sản phẩm của hàng chục đối tác, điều này tạo nên sự phong phú
cho chương trình.
2.3.4. Trao đổi sản phẩm
Ở Việt Nam, hình thức này mới chỉ xuất hiện ở một số đài TH và tần xuất
cũng như mức độ còn rất ít.
Tóm lại, qua khảo sát các hình thức XHH thấy rằng, có 23/40 chương trình
sản xuất theo hình thức đặt hàng được lựa chọn xem thường xuyên (chiếm
57.5%) - xếp vị trí đầu tiên; đứng vị trí được lựa chọn nhiều thứ hai là
chương trình sản xuất theo hình thức hợp tác: 11/40 chương trình (chiếm
27.5%); xếp thứ ba là chương trình sản xuất theo hình thức khai thác: 6/40
chương trình (chiếm 15.0%)
2.4 Thể loại và nội dung các chương trình sản xuất theo hình thức XHH
2.4.1. Chương trình giải trí
Các đối tác tham gia sản xuất đa dạng các dạng chương trình nhưng trong
đó việc sản xuất chương trình giải trí chiếm số lượng lớn với khoảng hơn
50% tổng thời lượng các chương trình XHH ở các đài. Trong số đó, phim, trò

chơi và ca nhạc truyền hình chiếm đa số. Hiện nay, để phục vụ nhu cầu thông
tin chuyên sâu của khán giả một số đài đã phối hợp với một số đối tác xây
dựng những kênh giải trí chuyên biệt và thường phát sóng trên hệ thống
truyền hình cáp của các đài.
2.4.2. Chương trình tin tức, thời sự
Điều 5 chương 1, thông tư 19/2009/ TT - BTTTT của Bộ TT&TT, ban hành
ngày 28/5/2009, quy định: “không thực hiện hoạt động liên kết đối với các
chương trình phát thanh, truyền hình, thời sự, chính trị”. Nhưng trên thực tế,
khảo sát thấy rằng hoạt động phối hợp sản xuất có xuất hiện trong một số
chương trình thời sự ở một số đài. Cách thức chủ yếu là đặt hàng hoặc trao
đổi thông tin từ các đài TH hoặc các cơ quan báo chí khác hoặc thậm chí các
cá nhân trong xã hội. Bên cạnh những sản phẩm liên kết phần lớn dưới dạng
“linh kiện”, một số đài đã đặt hàng các công ty sản xuất một số bản tin chuyên
sâu về lĩnh vực kinh tế, văn hóa, thể thao.
2.4.3. Chương trình dạng chuyên mục
Đây là dạng chương trình (đứng thứ hai sau chương trình giải trí), cũng
được các đối tác quan tâm phối hợp sản xuất. Thực tế, số đầu mục chương
trình dạng chuyên mục nhiều hơn so với số đầu mục các chương trình giải trí
nhưng về thời lượng thì lại ít hơn bởi mỗi chuyên mục thời lượng thường
ngắn. Có chuyên mục chỉ dài khoảng 5 phút. Nội dung các chuyên mục phong
phú, đa dạng về lĩnh vực, dành cho nhiều đối tượng khác nhau. Có 5 chuyên
mục /40 chương trình XHH có tỷ lệ khán giả xem nhiều nhất.
2.4.4. Các dạng chương trình khác
Không chỉ dừng lại ở dạng chương trình với nội dung về kinh tế, sức khỏe,
giao thông, thời trang sự phối hợp trong sản xuất giữa đài TH và các đối tác
trong những năm qua còn tạo ra những sản phẩm mang tính nhân văn sâu
sắc, được nhiều khán giả hoan nghênh, đón đợi. Ví dụ: “Lục lạc vàng” (VTV1),
“Vượt lên chính mình” (HTV7), “Chuyến xe nhân ái” (Đài PTTH Vĩnh Long)…
2.5. Phương thức tổ chức và quản lí hoạt động XHH sản xuất chương trình
2.5.1. Quy trình đăng kí, lựa chọn đối tác tham gia hoạt động XHH

Để có thể tham gia vào hoạt động XHH sản xuất chương trình, các đối tác đều
phải thực hiện quy trình gần giống nhau và đều phải trải qua các bước: nộp
hồ sơ, đài lập hội đồng thẩm định, duyệt. Sau đó sẽ kí kết và thực hiện theo
hợp đồng. Trung tâm quảng cáo - dịch vụ truyền hình và Phòng (hoặc Ban
Thư kí biên tập) của đài TH là hai đầu mối chính giúp đối tác giải quyết về
mặt thủ tục.
2.5.2. Phương thức quản lí hoạt động XHH
- Quản lí cấp nhà nước
Hoạt động XHH phát triển rầm rộ ở nhiều đài nhất là từ đầu những năm
2000, nhưng đến tháng 5/2009 Bộ TT &TT mới có thông tư số 19/2009/TT-
BTTTT quy định về việc “Liên kết trong hoạt động sản xuất chương trình phát
thanh, truyền hình”. Mặc dù ra đời muộn nhưng với những điều khoản cụ thể
trong thông tư này đã góp phần làm cho hoạt động XHH ở các đài TH đi vào
khuôn khổ hơn sau một thời gian gần như phát triển tự phát. Tuy nhiên, bên
cạnh những mặt được, việc quản lí hoạt động này vẫn còn tồn tại những thực
tế cần khắc phục.
- Quản lí cấp Đài:
Cách thức duyệt chương trình XHH ở các đài TH hiện nay đều được phân
công cụ thể, quy trình có nhiều điểm chung. Đối với chương trình ở khu vực
quảng bá hay trả tiền đều theo quy trình với khoảng 3 đầu mối duyệt: lãnh
đạo phòng, hội đồng cấp ban và lãnh đạo ban (đài). Tuy nhiên, một số chương
trình ở một số kênh do đặc thù về sản xuất, để đảm bảo chất lượng, chương
trình đã có thêm một số khâu duyệt nữa (ví dụ: SCTV).
Tiểu kết chương 2:
- Hoạt động XHH sản xuất chương trình truyền hình hiện phát triển rộng
khắp ở các đài TH trên cả nước. Nhưng hoạt động này phát triển mạnh mẽ
nhất ở bốn đài TH là: Đài THVN, Đài TH TP. HCM, Đài TH kỹ thuật số VTC, Đài
PTTH Hà Nội - đây là những đài ở những địa bàn có mật độ dân cư lớn, trình
độ dân trí cao, điều kiện kinh tế phát triển.
- Qua một thời gian thực hiện XHH thấy rằng việc tham gia vào hoạt động

XHH của các đối tác không đơn giản bởi có hàng trăm doanh nghiệp truyền
thông đã, đang tham gia hợp tác sản xuất chương trình với các đài nhưng chỉ
có khoảng 50 đơn vị nổi trội, hợp tác tương đối bền vững.
- Một thời gian dài hoạt động XHH phát triển tự phát, chưa thực sự bền vững
bởi vấn đề quản lí chưa có những quy định cùng những biện pháp cụ thể, chặt
chẽ. Nhưng hiện nay, nhận thức rõ hơn về thời cơ cũng như thách thức của
hoạt động này đem lại, một số đài đang từng bước thay đổi cách thức quản lí

×