Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

mô hình xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.7 KB, 38 trang )

Mô hình xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay
LỜI MỞ ĐẦU
Phát triển kinh tế - xã hội gắn kết với bảo vệ môi trường là mục tiêu và cũng là
đường hướng cơ bản để đạt tới sự phát triển bền vững. Thật khó có thể dùng một
thước đo hay một công cụ nào khác để đo đếm sự hơn kém về tầm quan trọng giữa
môi trường và phát triển. Do đó không thể có sự đánh đổi của môi trường cho phát
triển hay ngược lại. Bảo vệ môi trường theo đó trở thành một vấn đề mang tính tất yếu
khách quan trong thời đại phát triển ngày nay.
Việt Nam đang trên con đường phát triển, Đảng và Nhà nước ta luôn nhấn mạnh
sự cần thiết của công tác bảo vệ môi trường, coi đó là công việc mang tính thường
xuyên, cấp bách của toàn xã hội. Quan điểm, chủ trương xã hội hóa công tác bảo vệ
môi trường được Đảng, Nhà nước xác định rõ và bước đầu được cụ thể hóa triển khai
vào thực tế đời sống.
Vấn đề xây dựng mô hình cộng đồng tham gia bảo vệ môi trường mà nhóm
chúng em trình bày dưới đây là một nội dung quan trọng, góp phần thực hiện chủ
trương xã hội hóa mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. Trong phạm vi đề tài nghiên cứu,
trên cơ sở nền tảng lý luận được xây dựng, chúng em sẽ đi sâu vào phân tích, đánh giá
về một số mô hình và đưa ra những giải pháp cơ bản góp phần hoàn thiện các mô hình
này.
Trong quá trình thực hiện đề tài, mặc dù đã có nhiều cố gắng song không thể
tránh khỏi thiếu xót và hạn chế. Vì vậy, chúng em rất mong nhận được ý kiến nhận
xét đóng góp của cô.
Xin chân thành cảm ơn!
Nguyễn Thị Xiêm – Bùi Thị Hằng –Nguyễn Thị Vân (a) – KH7D
Mô hình xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÃ HỘI HÓA BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
I. GIẢI THÍCH MỘT SỐ THUẬT NGỮ LIÊN QUAN
1. Môi trường
Nhiều học giả đưa ra định nghĩa khác nhau về môi trường. Sau đây là một số


định nghĩa:
- Môi trường là toàn bộ những điều kiện tự nhiên, xã hội trong đó con người hay
một sinh vật tồn tại, phát triển, trong quan hệ với con người, với sinh vật ấy (Hoàng
Phê. Từ điển Tiếng Việt, 1998)
- Môi trường bao gồm tất cả những gì bao quanh sinh vật, tất cả các yếu tố vô
sinh, hữu sinh có tác động trực tiếp lên sự sống, phát triển và sinh sản của sinh vật.
- Sau Hội nghị Stockholm, năm 1972 đến nay, định nghĩa được dùng phổ biến là:
“ Môi trường là khung cảnh tự nhiên, là khu nhà chung của giới sinh vật, là nơi con
người sinh sống, lao động, nghỉ ngơi và giải trí, là nơi hình thành và tích lũy nguồn tài
nguyên thiên nhiên”.
- Theo Luật Bảo vệ môi trường Việt Nam (29/11/2005), đã quy định: “Môi
trường bao gồm các yếu tố tự nhiên, yếu tố vật chất nhân tạo. quan hệ mật thiết với
nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại và phát
triển của con người và thiên nhiên”. (Điều 1)
Như vậy, môi trường là tập hợp các yếu tố tự nhiên và xã hội bao quanh con
người có ảnh hưởng tới con người và tác động qua lại với các hoạt động sống của con
người như: không khí, nước, đất, sinh vật, xã hội loài người. Môi trường sống của con
người, theo chức năng được chia làm ba loại: môi trường tự nhiên, môi trường xã hội,
môi trường nhân tạo.
2. Hoạt động bảo vệ môi trường
Theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường năm 2005: “Bảo vệ môi trường là
hoạt động giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp; phòng ngừa, hạn chế tác động xấu
đến với môi trường, ứng phó sự cố môi trường, khắc phục ô nhiễm. suy thoái, phục
hồi và cải thiện môi trường; khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ
đa dạng sinh học”.
Nguyễn Thị Xiêm – Bùi Thị Hằng –Nguyễn Thị Vân (a) – KH7D
Mô hình xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay
3. Khái niệm cộng đồng
Cộng đồng là một khái niệm cơ bản của khoa học xã hội và nhân văn, có nhiều
cách hiểu và theo mỗi cách hiểu nội hàm này có giao diện rất khác nhau.

Theo quan niệm của Unesco thì cộng đồng được coi là: “ Là một tập hợp người
cùng sống trong một khu vực địa lý hoặc trong cùng một đơn vị hành chính, có chung
các lợi ích, các điều kiện tồn tại và họat động” (Cứu lấy trái đất, 1983). Khái niệm
cộng đồng ở đây được dùng với ý nghĩa là cộng đồng người cùng chung sống trên
một đơn vị hành chính, như kiểu một đô thị; có chung một nền văn hóa, như kiểu một
bộ tộc; hoặc một vùng địa phương thuộc thành thị hay nông thôn, như kiểu một nhóm
người cùng sống tại một vùng thung lũng hoặc một nơi cùng có tính đặc thù.
Ngoài ra, cộng đồng còn được hiểu là mối liên hệ qua lại giữa các cá nhân, được
quyết định bởi sự cộng đồng các lợi ích của các thành viên có sự giống nhau về các
điều kiện tồn tại và hoạt động của những con người hợp thành cộng đồng đó, bao gồm
các hoạt động sản xuất vật chất và hoạt động khác của họ, sự gần gũi giữa họ về tư
tưởng, tín ngưỡng, hệ giá trị và chuẩn mực, nền sản xuất, sự tương đồng về điều kiện
sống cũng như các quan niệm chủ quan của họ về các mục tiêu và các phương tiện
hoạt động (Tô Duy Hợp& Lương Hồng Quang.2000).
Mặc dù có nhiều khái niệm khác nhau về cộng đồng nhưng nhìn chung chúng ta
có hai cách hiểu về cộng đồng: cộng đồng tính và cộng đồng thể, đó là hai cách hiểu
khác nhau nhưng không phải là đối lập nhau.
- Cộng đồng tính: là thuộc tính hay quan hệ xã hội có đặc trưng cho một cộng
đồng như tình cảm cộng đồng, tinh thần cộng đồng, ý thức cộng đồng …
- Cộng đồng thể: là những tập hợp người (nhóm người, nhóm xã hội) có tính
cộng đồng với rất nhiều thể có quy mô khác nhau, đó là các thể nhỏ, thể vừa, thể lớn,
thể cực lớn, từ gia đình đến quốc gia và rộng ra nhân loại.
4. Xã hội hóa về bảo về môi trường
Trong những năm 90 đến nay Đảng và Nhà nước đã đề ra nhiều văn bản để thực
hiện chủ trương XHH các hoạt động kinh tế - xã hội nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế và tiến bộ xã hội. Ngày 15/11/2004, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 41 về bảo về
môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong đó
nhấn mạnh XHH là một trong những giải pháp chính để giải quyết vấn đề bảo vệ môi
trường hiện nay. Qua đó XHH BVMT được nhìn nhận với các nội dung sau:
Nguyễn Thị Xiêm – Bùi Thị Hằng –Nguyễn Thị Vân (a) – KH7D

Mô hình xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay
- Là vận động và tổ chức sự tham gia rộng rãi của nhân dân, của toàn xã hội vào
BVMT.
- Là xây dựng cộng đồng trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân đối với tạo lập
và thực hiện các biện pháp nhằm cải thiện, BVMT.
- Là đa dạng hóa các hình thức hoạt động trong lĩnh vực BVMT. Bên cạnh việc
củng cố vai trò của nhà nước, cần phát triển rộng rãi các hoạt động do các tập thể
hoặc cá nhân tiến hành.
- Là mở rộng các nguồn đầu tư, khai thác các tiềm năng và nhân lực, vật lực và
tài lực trong xã hội. Phát huy và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của nhân dân.
II. VAI TRÒ CỦA MÔI TRƯỜNG VỚI PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
1. Mối quan hệ giữa môi trường với phát triển kinh tế - xã hội
Phát triển kinh tế - xã hội là quá trình nâng cao đời sống về vật chất và tinh thần
của con người qua việc sản xuất ra của cải vật chất, cải biến quan hệ xã hội, nâng cao
chất lượng văn hóa. Phát triển là xu thế chung của từng cá nhân và cả loài người trong
quá trình sống. Giữa môi trường và phát triển có mối quan hệ rất chặt chẽ: môi trường
là địa bàn và đối tượng của sự phát triển, còn phát triển là nguyên nhân tạo nên các
biến đổi của môi trường.
Trong phạm vi một quốc gia cũng như trên phạm vi thế giới, luôn luôn tồn tại hai
hệ thống: hệ thống kinh tế - xã hội và hệ thống môi trường.
Trong hệ thống kinh tế - xã hội, hàng hóa được di chuyển từ sản xuất, lưu thông,
phân phối, tiêu dùng cùng với dòng luân chuyển của nguyên liệu, năng lượng, sản
phẩm, phế thải. Các thành phần đó luôn ở trạng thái tương tác với các thành phần tự
nhiên và xã hội của hệ thống môi trường đang tồn tại trong địa bàn đó. Khu vực giao
nhau giữa hai hệ thống trên là môi trường nhân tạo.
Tác động của hoạt động kinh tế - xã hội đến môi trường thể hiện ở khía cạnh có
lợi là cải tạo môi trường tự nhiên hoặc tạo ra kinh phí cần thiết cho sự cải tạo đó,
nhưng có thể gây ra ô nhiễm môi trường tự nhiên hoặc nhân tạo. Mặt khác, môi
trường tự nhiên cũng tác động đến sự phát triển kinh tế - xã hội thông qua việc làm
suy thoái tài nguyên đang là đối tựợng của hoạt động phát triển hoặc gây ra thảm họa

thiên tai đối với các hoạt động kinh tế - xã hội trong khu vực.
Ở các quốc gia có trình độ phát triển kinh tế khác nhau thì có các xu hướng gây ô
nhiễm môi trường khác nhau. Ví dụ:
Nguyễn Thị Xiêm – Bùi Thị Hằng –Nguyễn Thị Vân (a) – KH7D
Mô hình xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay
- Ô nhiễm do dư thừa: 20% dân số thế giới ở các nước giàu hiện sử dụng 80% tài
nguyên và năng lượng của loài người.
- Ô nhiễm do nghèo đói: những người nghèo khổ ở những nước nghèo chỉ có con
đường phát triển duy nhất là khai thác tài nguyên thiên nhiên (rừng, khoáng sản, nông
nghiệp…). Do đó, ngoài 20% số người giàu thì 80% số dân còn lại chỉ sử dụng 20%
phần tài nguyên và năng lượng của loài người.
Mâu thuẫn giữa môi trường và phát triển dẫn đến sự xuất hiện các quan niệm
hoặc các lý thuyết khác nhau về phát triển: lý thuyết đình chỉ phát triển là làm cho sự
phát triển kinh tế bằng 0 hoặc mang giá trị âm để bảo vệ tài nguyên thiên nhiên của
trái đất. Một số nhà khoa học lại đề xuất lấy bảo vệ để ngăn chặn sự khai thác tài
nguyên thiên nhiên. Năm 1992, các nhà môi trường đã đưa ra qua niệm phát triển bền
vững, đó là phát triển trong mức độ duy trì chất lượng môi trường, giữ cân bằng giữa
môi trường với phát triển. Môi trường đã trở thành một trong những yếu tố đầu vào
của quá trình phát triển kinh tế, đảm bảo cho một quốc gia phát triển mà không ảnh
hưởng đến thế hệ tương lai.
2. Con người và môi trường là thể thống nhất với nhau
Con người là một bộ phận của xã hội có mối quan hệ chặt chẽ, biện chứng với
môi trường. Lịch sử phát triển của tự nhiên cũng như của loài người đã chứng minh
một luận điểm quan trọng rằng: môi trường chứa đựng và cung cấp nguồn sống cho
con người, ngược lại con người là tác nhân là chủ thể cải tạo môi trường tự nhiên, gây
ra những biến đổi quan trọng của môi trường sống. Chúng ta đều biết rằng năm cuộc
khủng hoảng lớn hiện nay mà thế giới đang đối mặt là: dân số, lương thực, năng
lượng, tài nguyên và sinh thái đều liên quan rất chặt chẽ với môi trường và rằng tất cả
các cuộc khủng hoảng đó đều do con người chúng ta gây ra. Chính vì vậy, không ai
ngoài con người phải nhận lấy trách nhiệm giữ gìn và bảo vệ môi trường sinh thái của

mình nếu không muốn sự sống trên trái đất bị đe dọa.
Nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học đã chứng minh rõ mối quan
hệ này. Đầu thập kỷ 70, Hamilton – nhà hóa học địa cầu của Vương quốc Anh đã đưa
ra một kế hoạch thực nghiệm ngoài sức tưởng tượng giám định hàm lượng các nguyên
tố hóa học trong đá, bụi đất, giấy, cá, lượng thực và máu, não của con người. Ông đã
tiến hành thực nghiệm khoa học, giám định hơn 60 loại nguyên tố hóa học và phát
hiện ra một kết luận thú vị: tỷ lệ hàm lượng các nguyên tố hóa học trong máu người
trùng lặp rất kỳ lạ với tỷ lệ hàm lượng các nguyên tố hóa học trong lớp vỏ trái đất.
Nguyễn Thị Xiêm – Bùi Thị Hằng –Nguyễn Thị Vân (a) – KH7D
Mô hình xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay
Giữa máu người và vỏ trái đất có nhiều điểm giống nhau. Ví dụ: 4 loại nguyên tố hóa
học là cacbon, hidro, oxy, nito chiếm tới 94,4% khối lượng của con người. 4 loại
nguyên tố hóa học đó cũng chiếm khối lượng lớn nhất trong thành phần vơ trái đất.
Ăngghen đã nói rằng: “Bản thân con người là sản phẩm của tự nhiên, cùng tồn
tại trong môi trường tự nhiên, phát triển với môi trường tự nhiên đó”. Vật chất trong
cơ thể con người do môi trường tự nhiên cung cấp. Không khí con người hít thở, nước
con người uống đều lấy từ môi trường tự nhiên. Và thức ăn của con người xét cho
cùng cũng là lấy từ môi trường tự nhiên: lúa, gạo, hoa màu, rau xanh, trái cây đều
mọc từ đất; tôm, cá lớn lên trong nước. Con người và môi trường luôn thống nhất với
nhau.
Trái đất đang thay đổi và môi trường cũng đang thay đổi. Quá trình thay đổi này
diễn ra rất chậm chạp. Sự thống nhất giữa con người và môi trường luôn ở dạng cân
bằng. Một thay đổi nhỏ sẽ không phá vỡ thể thống nhất đó. Nhưng nếu vượt qua
phạm vi giới hạn, sự cân bằng sẽ bị phá vỡ, khi đó hậu quả rất nặng nề. Do đó, trách
nhiệm của con người trong việc đảm bảo sự thống nhất, cân bằng đó là rất quan trọng.
Ngày nay, cộng đồng quốc tế cũng như mỗi quốc gia ngày càng nhận thức rõ hơn sự
tác động tiêu cực từ việc môi trường tự nhiên bị xâm hại nghiêm trọng do chính hoạt
động của con người gây ra. Chính vì vậy, cần có sự chung tay hợp tác giữa các nước
trong giải quyết các vấn đề liên quan đến môi trường, đồng thời bản thân mỗi quốc
gia cũng cần xây dựng cho mình những chương trình hành động cụ thể để bảo vệ môi

trường sống của quốc gia mình.
III. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VỀ CÔNG TÁC XHH
BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
1. Mục tiêu của xã hội hóa
Đảng và nhà nước ta luôn nhấn mạnh bảo vệ môi trường là một trong những vấn
đề sống còn, là nhân tố quan trọng hàng đầu trong bảo đảm sức khỏe, chất lượng cuộc
sống nhân dân; bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu vừa là một trong những nội dung
cơ bản để đạt được sự phát triển bền vững ở nước ta. BVMT được xác định là một
nhiệm vụ vừa phức tạp vừa cấp bách, do đó cần có sự tham gia của toàn xã hội. Nói
cách khác, công tác XHH bảo vệ môi trường là cần thiết và cần được đẩy mạnh thực
hiện.
Nguyễn Thị Xiêm – Bùi Thị Hằng –Nguyễn Thị Vân (a) – KH7D
Mô hình xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay
Trong chỉ thị số 36/CT-TW của Bộ Chính trị ngày 25/6/1998 xác định: “Bảo vệ
môi trường là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân”. Nghị quyết số
41/NQ-TW của Bộ Chính trị ngày 15/11/2004 về bảo vệ môi trường trong thời kỳ
công nghiệp hóa – hiện đại hóa và Chiến lược quốc gia về bảo vệ môi trường giai
đoạn 2001-2010, định hướng đến năm 2020 tiếp tục nhấn mạnh: “BVMT là nhiệm vụ
của toàn xã hội, của các cấp, các ngành, các tổ chức, cộng đồng và của mọi ngừời
dân”. Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 là bước cụ thể hóa chủ trương của Đảng về
bảo vệ môi trường trong thời kỳ mới trong đó cũng xác định rõ trách nhiệm của toàn
xã hội đối với công tác bảo vệ môi trường, hướng tới sự phát triển bền vững.
Công tác XHH bảo vệ môi trường được xác định hướng vào các mục tiêu cơ bản
như sau:
Trước hết, XHH bảo vệ môi trường nhằm tạo ra sự chuyển biến căn bản trong
nhận thức của toàn xã hội về BVMT, BVMT liên quan đến lợi ích thiết thân, là quyền
và nghĩa vụ của từng cá nhân, tổ chức trong xã hội. Trên cơ sở đó xây dựng cộng
đồng trách nhiệm trong BVMT.
Xã hội hóa bảo vệ môi trường nhằm huy động, vận động và tổ chức sự tham gia
rộng rãi của toàn xã hội, bao gồm sự huy động về vật lực, nhân lực, sự tham gia bằng

những hành động cụ thể vào sự nghiệp BVMT. Qua đó giảm gánh nặng trong vấn đề
BVMT lên vai Chính phủ.
Như vậy có thể thấy rằng công tác XHH bảo vệ môi trường mà Đảng và nhà
nước ta xác định hướng trọng tâm vào việc tạo ra sự gắn kết cộng đồng trong BVMT;
tạo cơ sở và tiền đề nhất quán cho việc thực hiện phương châm “nhà nước và nhân
dân cùng làm”.
2. Nội dung của XHH bảo vệ môi trường
Trên cơ sở những mục tiêu mang tính chất định hướng đã nêu trên, XHH bảo vệ
môi trường được cụ thể hóa thành những nội dung cơ bản sau:
Một là, thiết lập cơ sở pháp lý cho vấn đề XHH bảo vệ môi trường. Trên cơ sở
chủ trương, quan điểm của Đảng tiến hành xây dựng, ban hành hệ thống văn bản pháp
luật tạo ra môi trường pháp lý cần thiết cho hoạt động XHH. Xây dựng và hoàn thiện
cơ chế, chính sách, các chương trình hành động theo hướng khuyến khích, động viên
cá nhân, tổ chức tham gia công tác BVMT. Hình thành các loại hình tổ chức đánh giá,
tư vấn, giám định, công nhận, chứng nhận về BVMT.
Nguyễn Thị Xiêm – Bùi Thị Hằng –Nguyễn Thị Vân (a) – KH7D
Mô hình xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay
Thứ hai, chú trọng xây dựng và thực hiện quy ước, hương ước, cam kết về
BVMT. Việc xây dựng và thực hiện các văn bản quy phạm xã hội này dựa trên ý chí,
nguyện vọng, sự tự nguyện thỏa thuận và cũng là những quy tắc xử sự chung áp dụng
cho các cá nhân và toàn thể cộng đồng dân cư trên cùng địa bàn.
Thứ ba, phát triển các phong trào quần chúng tham gia BVMT. Trước hết các
phong trào tác động trực tiếp đến nhận thức của mọi người dân về môi trường và sự
cần thiết phải bảo vệ môi trường. Qua đó tuyên truyền, vận động và huy động sự tham
gia của toàn thể cộng đồng vào các hoạt động bảo vệ môi trường.
Thứ tư, xây dựng và triển khai thực hiện các mô hình XHH bảo vệ môi trường .
Việc xây dựng các mô hình này gắn liền với đời sống sinh hoạt của người dân, được
lồng ghép vào trong các hoạt động kinh tế - xã hội. Qua tổ chức thực hiện các mô
hình sẽ là cơ sở để đánh giá, từ đó phát hiện các mô hình điểm để phổ biến và nhân
rộng.

Thứ năm, huy động cộng đồng đóng góp nguồn lực cho công tác BVMT. Nguồn
lực bao gồm sự đầu tư về vốn, nguồn lực con người, nguồn lực khoa học công nghệ…
Trên cơ sở đó góp phần thực hiện thành công các chương trình, mô hình cũng như các
phong trào BVMT.
3. Vai trò của các mô hình cộng đồng tham gia bảo vệ môi trường
Cộng đồng tham gia vào giải quyết các vấn đề môi trường trước hết là nội dung
thể hiện tính dân chủ, tức là mọi người dân có quyền và được khuyến khích tham gia
vào công việc quản lý của nhà nước, góp phần cùng với nhà nước thực hiện việc
BVMT. Tuy nhiên, vấn đề cần được nhấn mạnh ở đây là ý thức của cộng đồng về môi
trường. Đó là cơ sở, là nền tảng cho các yếu tố nhận thức, thái độ và hành động cụ thể
của các thành viên trong cộng đồng.
Xã hội hóa công tác BVMT được đặt ra song phải có hướng đi và các giải pháp
đúng đắn. Trong đó việc xây dựng các mô hình cộng đồng tham gia BVMT hay mô
hình XHH bảo vệ môi trường là một nội dung quan trọng.
Các mô hình được xây dựng có sự gắn kết giữa lý luận và thực tiễn, đó là một
quá trình có sự đầu tư về trí tuệ, tâm huyết và cả những yếu tố vật chất khác. Mô hình
XHH bảo vệ môi trường được triển khai trên nhiều lĩnh vực khác nhau và thông
thường sẽ theo hai phương thức thứ nhất là người dân chủ động thiết lập các mô hình
theo kiểu tự quản, thứ hai là người dân sẽ cùng với các cơ quan nhà nước mà cụ thể ở
đây là các Trung tâm, các Viện nghiên cứu khoa học áp dụng và triển khai trên thực tế
Nguyễn Thị Xiêm – Bùi Thị Hằng –Nguyễn Thị Vân (a) – KH7D
Mô hình xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay
các mô hình. Mô hình XHH bảo vệ môi trường hiện nay được tập trung vào 4 loại cơ
bản là mô hình trong đời sống sinh hoạt; mô hình trong công nghiệp; trong nông
nghiệp; và các phong trào BVMT. Qua việc thực hiện các mô hình đã mang lại những
chuyến biến tích cực trên mọi phương diện của đời sống kinh tế - xã hội, như gắn kết
giữa mục tiêu phát triển kinh tế với mục tiêu BVMT, nâng cao ý thức cộng đồng về
vấn đề BVMT, giúp khắc phục và cải thiện những vấn đề môi trường bức xúc hiện
nay.
CHƯƠNG II

THỰC TRẠNG CÁC MÔ HÌNH XÃ HỘI HÓA BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
I. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG CỦA VIỆT NAM
HIỆN NAY
1. Những kết quả đạt được
So sánh với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, Việt Nam là một trong
những quốc gia sớm hưởng ứng lời kêu gọi của quốc tế về vấn đề môi trường. Trong
những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhà nước và sự nỗ lực của toàn thể nhân
dân, công tác bảo vệ môi trường đã có được những chuyển biến tích cực:
Trước hết, chúng ta đã thiết lập và từng bước hoàn thiện hệ thống thể chế, chính
sách về BVMT như: Chỉ thị số 36/CT- TƯ, Nghị quyết số 41/ NQ-TƯ của Bộ Chính
trị; Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia giai đoạn 1991 – 2000 và giai đoạn 2001
– 2010; Luật Bảo vệ môi trường năm 1994 sửa đổi, bổ sung năm 2005 và các nghị
định hướng dẫn thi hành; các chương trình quốc gia về môi trường …
Nhận thức về BVMT trong các cấp, các ngành và trong nhân dân đã được nâng
lên rõ rệt: bảo vệ môi trường vừa là mục tiêu, vừa là giải pháp để hướng tới sự phát
triển bền vững của đất nước.
Hoạt động giáo dục, tuyên truyền, nâng cao nhận thức về BVMT đã được tăng
cường triển khai và có nhiều tác dụng tích cực đến công tác BVMT. Các hoạt động
này được cụ thể hóa thành các phong trào, các cuộc vận động, phát động về môi
trường, trong đó có sự hỗ trợ của các phương tiện thông tin đại chúng ngày càng hiện
đại.
Bước đầu đã hạn chế được mức độ gia tăng ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi
trường. Trong công tác bảo tồn thiên nhiên và bảo vệ đa dạng sinh học đã có những
tiến bộ rõ rệt.
Nguyễn Thị Xiêm – Bùi Thị Hằng –Nguyễn Thị Vân (a) – KH7D
Mô hình xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay
Lãnh đạo nhiều Bộ, ngành, địa phương đã quan tâm hơn đến công tác BVMT
trong các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội. Báo cáo hiện trạng môi trường trong
quá trình lập kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và đầu tư BVMT ngày càng được
chú trọng.

Những nội dung cơ bản của XHH hoạt động BVMT đang được thực hiện như
xác định trách nhiệm các bên, tạo cơ sở pháp lý cho cộng đồng; xây dựng và thực
hiện hương ước, quy ước bảo vệ môi trường; phát triển phong trào quần chúng; xây
dựng mô hình BVMT lồng ghép các mô hình kinh tế - xã hội; huy động cộng đồng
đóng góp nguồn lực…kết quả mang lại từ những họat động này là việc nâng cao nhận
thức và hiểu biết của toàn xã hội về BVMT, thu hút sự chung tay, đóng góp và hành
động vì một môi trường bền vững.
2. Những yếu kém, hạn chế
Môi trường nước ta vẫn tiếp tục bị xuống cấp mạnh, có nơi đã đến mức báo
động. Cụ thể là:
Tình trạng suy thoái môi trường đất: diện tích đất tự nhiên bình quân trên đầu
người và diện tích đất nông nghiệp trên đầu người thấp và ngày càng giảm. Các hiện
tượng thoái hóa đất như xói mòn, rửa trôi, nhiềm mặn,…ở cả vùng đồng bằng và miền
núi đều gia tăng. Diện tích đất sử dụng cho mục đích nông nghỉệp ở nước ta là rất lớn
song trong quá trình sản xuất đất đai bị sử dụng quá tải, việc sử dụng không đi đôi với
bảo vệ, khiến cho chất lượng đất ngày càng suy giảm.
Chất lượng các nguồn nước suy giảm mạnh: nguồn nước ở nước ta phong phú,
dồi dào song việc xây dựng chiến lược sử dụng lâu dài cũng như quản lý đối với tài
nguyên này còn nhiều yếu kém. Mặt khác, những tác động xuất phát từ chính đời
sống sinh hoạt của người dân, đã trở thành những nguyên nhân làm cho môi trường
nước ở nhiều nơi bị ô nhiễm nghiêm trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe nhân
dân, vấn đề nước sạch đối với cả hai khu vực thành thị và nông thôn đều trở nên bức
thiết và gặp nhiều khó khăn trong giải quyết .
Tình trạng ô nhiễm nặng về không khí ở nhiều đô thị và khu dân cư. Sự phát
triển mạnh của các ngành công nghiệp, giao thông vận tải, nông nghiệp…làm cho các
hiện tượng khí độc, khói bụi, chất thải, hiện nay đang ở mức báo động, đặc biệt ở các
khu công nghiệp lớn như Việt Trì, Thái Nguyên, Biên Hòa, Đồng Nai….
Khối lượng phát sinh và mức độ độc hại của chất thải ngày càng tăng đặc biệt là
chất thải rắn. Thống kê cho thấy lượng chất thải rắn ở đô thị, khu công nghiệp được
Nguyễn Thị Xiêm – Bùi Thị Hằng –Nguyễn Thị Vân (a) – KH7D

Mô hình xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay
thu gom chỉ đạt khoảng 20-40%. Công tác phân loại rác tại nguồn chưa được chú
trọng, việc xử lý phần lớn là thủ công bằng việc chôn lấp và các bãi chôn lấp hầu hết
không đạt tiêu chuẩn vệ sinh.
Tài nguyên thiên nhiên trong nhiều trường hợp bị khai thác quá mức, không có
quy hoạch. Điển hình là việc khai thác, chặt phá rừng bừa bãi khiến cho diện tích rừng
hàng năm đều suy giảm đáng kể, rừng phòng hộ và rừng đầu nguồn bị chặt phá (đặc
biệt ở Bình Thuận, Tây Nguyên, Tây Bắc) đã và đang gây ra hậu quả nghiêm trọng về
lũ lụt và xói lở đất. Ngoài ra, tình trạng khai thác các hải sản ở biển, ven biển và một
số loại khoáng sản nhiều nơi còn thiếu quy hoạch hoặc không theo quy hoạch nên dẫn
đến nguy cơ cạn kiệt và không có khả năng phục hồi.
Đa dạng sinh học bị đe dọa nghiêm trọng: đa dạng sinh học nước ta đa dạng và
phong phú, song hầu hết các hệ sinh thái tự nhiên đều chịu sự tác động của quá trình
phát triển hiện nay như rừng bị chặt phá làm mất hệ sinh thái rừng tự nhiên lan rộng;
chất lượng nguồn nước giảm do ô nhiễm làm suy giảm đa dạng sinh học thủy vực và
số lượng cá thể…
Ngoài ra, việc đẩy mạnh phát triển công nghiệp, dịch vụ, quá trình đô thị hóa, sự
gia tăng dân số trong khi mật độ dân số đã quá cao tình trạng đói nghèo chưa được
khắc phục tại một số vùng nông thôn, miền núi; các thảm họa do thiên tai và những
diễn biến xấu về khí hậu toàn cầu đang tăng (biến đổi khí hậu, suy giảm tầng ôzon) đã
và đang gây áp lực lớn lên tài nguyên và môi trường, đặt công tác bảo vệ môi trường
trước những thách thức gay gắt.
Những yếu kém, khuyết điểm trong công tác BVMT do nhiều nguyên nhân
khách quan và chủ quan nhưng chủ yếu là do chúng ta chưa có nhận thức đúng đắn về
tầm quan trọng của công tác BVMT; chưa biến nhận thức, trách nhiệm thành hành
động cụ thể trong từng cấp, ngành và toàn thể nhân dân. Sự gắn kết giữa các mục tiêu,
chương trình phát triển kinh tế - xã hội và công tác BVMT chưa được quan tâm đúng
mức. Nội dung XHH bảo vệ môi trường đang trong quá trình đẩy mạnh thực hiện
song nguồn lực đầu tư cho công tác này của nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng
dân cư còn rất hạn chế. Mặt khác, trong công tác quản lý nhà nước về môi trường còn

nhiều điểm bất cập chưa được tháo gỡ như sự phân công, phân cấp trách nhiệm chưa
rõ ràng; việc tổ chức và triển khai pháp luật, chương trình, kế hoạch về BVMT chưa
nghiêm, chưa hiệu quả; năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý còn thiếu và yếu.
Nguyễn Thị Xiêm – Bùi Thị Hằng –Nguyễn Thị Vân (a) – KH7D
Mô hình xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay
II. THỰC TRẠNG CÁC MÔ HÌNH XÃ HỘI HÓA BẢO VỆ MÔI
TRƯỜNG
1. Mô hình XHH trong sinh hoạt
Đối với mỗi người dân nhu cầu sinh hoạt là nhu cầu thiết yếu, liên quan đến đời
đống thường ngày của họ. Tuy nhiên trên thực tế hiện nay vấn đề ô nhiễm môi trường
trong sinh hoạt của người dân đã và đang là thực trạng bức xúc ở cả nông thôn và
thành thị. Để giải quyết vấn đề này, việc xây dựng các mô hình XHH bảo vệ môi
trường trong sinh họat trở thành một trong những giải pháp được chú trọng và mang
lại những hiệu quả thiết thực trong việc BVMT sinh hoạt.
Dưới đây là việc tìm hiều về một số mô hình:
1.1 Mô hình tự quản bảo vệ môi trường
1.1.1 Thành lập tổ, đội tự quản BVMT
Đây là mô hình được cụ thể hóa với hai hình thức cơ bản:
Hình thức thứ nhất là việc thành lập tổ, đội chuyên môn thu gom rác thải giữ gìn
vệ sinh chung:
Đây là mô hình có sự tác động và khởi xướng của chính quyền xã, phường để
hình thành nên tổ, đội chuyên làm công tác thu gom rác thải. Các tổ, đội này do chính
người dân trên địa bàn tham gia dưới hình thức cử hoặc tự nguyện, họ được trang bị
những phương tiện cần thiết: xe thu gom rác, quần áo bảo hộ…và tiến hành thu phí
thu gom rác từ các hộ gia đình. Việc thu phí và trả tiền công hàng tháng cho những
người thu gom có sự thảo luận, bàn bạc quyết định của người dân và chính quyền. Sau
khi thu gom rác, tổ, đội sẽ làm công tác vận chuyến rác đến các bãi rác đã được quy
hoạch trên địa bàn. Hiện nay mô hình này đã và đang được triển khai thực hiện trên
nhiều địa bàn dân cư ở cả thành thị và nông thôn. Điển hình là:
- Đội chuyên trách vệ sinh môi trường ở xã Thạch Kim – Thạch Hà – Hà Tĩnh.

UBND xã Thạch Kim đã khởi xướng và ra quyết định thành lập đội chuyên trách vệ
sinh môi trường hoạt động từ năm 1998 trên cơ sở lấy thu bù chi, nguồn thi là do các
hộ dân trong xã đóng góp hàng tháng.
- Tổ thu gom rác dân lập ở phường Nhân Chính quận Thanh Xuân – Hà Nội. Tổ
thu gom này do UBND phương ra quyết định thành lập với các nhiệm vụ là thu gom
rác thải trên địa bàn phường và tập kết đến nơi quy định; khơi thông một số hệ thống
cống rãnh công cộng. Phương thức hoạt động của tổ là lấy thu bù chi và có lợi nhuận
Nguyễn Thị Xiêm – Bùi Thị Hằng –Nguyễn Thị Vân (a) – KH7D
Mô hình xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay
hợp lý. Nguồn thu của tổ gồm: thu phí dịch vụ vệ sinh thu gom rác thải từ các hộ dân,
thu từ hợp đồng dịch vụ với các đơn vị, các hộ kinh doanh đóng trên địa bàn phường.
- Tổ tự quản môi trường ở phường Hồng Hải thành phố Hạ Long – Quảng Ninh.
Tổ được thành lập có chức năng thu gom rác sinh hoạt từ các hộ dân, phương tiện thu
gom rác do dân cư đóng góp, khi xe thu gom rác bị hỏng cần sửa chữa thì dân cư cũng
là người đóng góp cho việc sửa chữa này…Hoạt động thu chi được thực hiện trên
nguyên tắc công khai, các mức thu phí có sự đồng ý của UBND phường.
Qua thực tế mô hình tại các địa phương có thể đánh giá một số điểm như sau: ưu
điểm của mô hình này là hoạt động mang tính chuyên môn của các tổ, đội gắn với địa
bàn dân cư nên việc thu gom rác thải được thực hiện tương đối nhanh gọn; có sự gắn
kết giữa chính quyền và nhân dân thể hiện ở việc chính quyền hỗ trợ một phần và
người dân đóng góp một phần. Mô hình này cũng giải quyết việc làm và mang lại thu
nhập cho một bộ phận người dân trên địa bàn. Tuy nhiên, hạn chế ở mô hình này là
quy mô của các tổ, đội là nhỏ nên không đáp ứng được nhu cầu thu gom rác thải với
khối lượng lớn. Mặt khác thu nhập của những người tham gia các tổ, đội thường thấp
nên ít có động lực để làm việc. Mô hình này cũng đòi hỏi sự đồng thuận và nhất trí
cao của người dân trên địa bàn.
Hình thức thứ hai là thành lập tổ tự quản bảo vệ môi trường theo cụm dân cư liên
gia (nhóm gia đình):
Theo mô hình này thì tính tự quản của mỗi hộ gia đình được phát huy tối đa.
Trên địa bàn cư trú, tổ tự quản được thành lập với một số lượng các hộ gia đình nhất

định, trong đó nhóm các hộ này sẽ tự tổ chức bảo nhau giữ gìn vệ sinh trong phạm vi
gia đình mình cũng như tổ của mình. Mô hình này tập trung vào việc thực hiện khẩu
hiệu “sạch từ nhà ra ngõ”, nâng cao tính tự giác của bản thân mỗi gia đình cũng như
tăng cường sự đoàn kết giữa các gia đình trong nhóm vì môi trường chung. Đặc biệt
mô hình này sẽ đạt hiệu quả rất cao khi được lồng ghép vào cuộc vận động toàn dân
xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư. Qua đó góp phần nâng cao từng bước nhận
thức của người dân, giúp họ có thói quen tự giác thực hiện các nhiệm vụ bảo vệ môi
trường, các họat động tự quản được đi vào nền nếp.
Trên thực tế mô hình này đã được áp dụng thành công ở nhiều vùng dân cư, ví
dụ như các phường trên địa bàn Hà Nội (Ngọc Khánh, Thành Công…), từ đó nhiều
cụm, khu dân cư văn hóa được thành lập, trong đó người dân tích cực tham gia hoạt
động BVMT góp phần tạo dựng nếp sống văn minh, lành mạnh.
Nguyễn Thị Xiêm – Bùi Thị Hằng –Nguyễn Thị Vân (a) – KH7D
Mô hình xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay
1.1.2 Mô hình hợp tác xã dịch vụ bảo vệ môi trường
Hợp tác xã (HTX) được thành lập trong đó tập hợp các xã viên chuyên thực hiện
các công việc liên quan đến môi trường như: thu gom và xử lý rác thải. Các xã viên sẽ
đóng góp cổ phần và có trách nhiệm thu phí vệ sinh của các hộ dân, các cơ quan đóng
trên địa bàn để trả lương và duy trì hoạt động.
Trên thực tế mô hình này đã thực hiện thành công ở một số địa phương sau:
- Ở thị trấn Chờ - Yên Phong – Bắc Ninh, trước tình hình ô nhiễm môi trường
lãnh đạo huyện Yên Phong và UBND thị trấn đã cùng nghiên cứu, tổ chức HTX dịch
vụ vệ sinh môi trường, trồng, chăm sóc cây xanh, chế biến phân vi sinh từ rác thải
phục vụ sản xuất nông nghiệp. Thời gian đầu, trang thiết bị, phương tiện làm việc, bãi
đổ rác thải được ngân sách huyện bao cấp còn UBND thị trấn bố trí nhà và nơi làm
việc cho xã viên. Chín xã viên trong HTX phải đóng cổ phần và có trách nhiệm thu
phí vệ sinh để trả lương và duy trì hoạt động. Sau một tháng hoạt động, HTX đã thành
lập các tổ: vệ sinh môi trường, tổ trồng, chăm sóc cây và tổ sản xuất phân vi sinh. Tổ
vệ sinh môi trường hàng ngày quét dọn đường phố, thu gom rác thải đổ ở bãi rồi phun
chế phẩm EM để khử mùi hôi thối.

- Hợp tác xã BVMT Duy Tiến ở thị trấn Thanh Lãng – Bình Xuyên – Vĩnh Phúc
cũng được thành lập đảm nhiệm việc thu gom, xử lý rác thải trên địa bàn. Ông
Nguyễn Duy Tá chủ nhiệm HTX môi trường Duy Tiến khẳng định: toàn bộ rác hữu
cơ được dùng để chế biến phân bón hữu cơ, màu nâu đen không mùi và giàu chất dinh
dưỡng. Còn rác vô cơ: túi nilon, xỉ than, gạch… được chôn lấp đúng nơi quy định.
HTX dự định mở rộng lĩnh vực hoạt động để phát triển, hợp đồng với những địa
phương lân cận thu gom rác thải, tăng thu nhập cho HTX và các xã viên. Ngoài ra,
tiếp tục đầu tư mở rộng xưởng sản xuất đồ nhựa bán ra thị trường từ việc tận dụng túi
nilon, nhựa, bao chứa rác thải…Đây là mô hình đã được UBND tỉnh Vĩnh Phúc đánh
giá và tiến hành nhân rộng ra nhiều địa phương khác ra toàn tỉnh.
Qua mô hình có thể thấy ưu điểm của nó là việc các HTX hoạt động mang tính
chất chuyên trách, cơ cấu chặt chẽ, giữa các xã viên có sự phân chia trách nhiệm và
lợi nhuận thu được nên họ có động lực làm việc và hiệu quả công việc là tương đối
cao. Tuy nhiên, khó khăn là ở hầu hết các nơi quy mô các HTX còn nhỏ, các xã viên
còn thiếu kiến thức, chưa có sự hỗ trợ của công nghệ xử lý hiện đại nên khâu xử lý rác
thải chưa được làm tốt.
1.1.3 Xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước bảo vệ môi trường
Nguyễn Thị Xiêm – Bùi Thị Hằng –Nguyễn Thị Vân (a) – KH7D
Mô hình xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay
Theo quy định tại Thông tư liên tịch số 03/2000/TTLT giữa Bộ tư pháp, Bộ văn
hóa thông tin, Ban tư tưởng UBTƯ Mặt trận tổ quốc Việt Nam: “Hương ước, quy ước
là văn bản quy phạm xã hội trong đó quy định các quy tắc xử sự chung do cộng đồng
dân cư cùng thỏa thuận đặt ra để điều chỉnh các quan hệ xã hội mang tính tự quản của
nhân dân, nhằm giữ gìn và phát huy những phong tục tập quán tốt đẹp và truyền thống
văn hóa trên địa bàn làng, bản, thôn ấp, cụm dân cư, góp phần hỗ trợ tích cực cho việc
quản lý nhà nước bằng pháp luật” .
Đặc trưng cơ bản của hương ước, quy ước thể hiện ở chỗ chúng được xây dựng
dựa trên ý chí, nguyện vọng, tự nguyện thỏa thuận và xuất phát từ nhu cầu của chính
bản thân người dân sống trong cộng đồng dân cư. Hương ước, quy ước cũng quy định
các quy tắc xử sự chung áp dụng riêng cho một cộng đồng dân cư (thôn, tổ dân phố).

Hương ước có lịch sử hình thành và phát triển từ nhiều thế kỷ trước đây. Một
nội dung không thể thiếu ở bất kỳ hương ước nào là các quy định về BVMT. Những
quy định về bảo vệ môi trường của các bản hương ước đã góp phần quan trọng vào
công tác BVMT ở các địa phương, tăng cường ý thức BVMT của mỗi người dân trên
địa bàn.
Xin nêu một vài điển hình về mô hình này:
- Làng Chiết Bi – Thủy Tân – Hương Thủy – Thừa Thiên Huế là một trong
những địa phương đầu tiên trong cả nước có hương ước BVMT. Một trong những tác
giả khởi xướng việc xây dựng hương ước BVMT của Chiết Bi là đội Tình nguyện
xanh – tập hợp những đoàn viên tích cực BVMT. Các thành viên của đội tình nguyện
xanh đã truyền đạt những kiến thức về BVMT, những việc làm cụ thể để làm cho nhà
sạch, xóm sạch, cuộc sống văn minh, đẩy lùi bệnh tật. Nội dung xây dựng hương ước
– ý tưởng của đội tình nguyện xanh được chính quyền xã, hội Nông dân, hội Người
cao tuổi ủng hộ. Mười hai trưởng họ trong làng đã họp với nhau và thống nhất trong
việc xây dựng hương ước của làng.
Hương ước của làng Chiết Bi gồm bốn chương: Chương I, quy định chung gồm
2 điều nói lên trách nhiệm của làng và mỗi người dân trong làng đối với việc chấp
hành pháp luật; chương II gồm 5 điều quy định về các hành vi: không được phóng uế,
xả rác bừa bãi, xây dựng nhà tiêu, hố rác, không vất bừa bãi vỏ chai thuốc trừ sâu, hạn
chế sử dụng bao nilon, mọi gia đình có trách nhiệm bảo vệ nguồn nước, …đặc biệt là
hẹn nhau là cứ vào ngày 30 và 14 âm lịch hàng tháng và sau bão lụt làng đều tổ chức
làm vệ sinh môi trường ở đường làng, ngõ xóm, tu sửa đường xá…và các gia đình
Nguyễn Thị Xiêm – Bùi Thị Hằng –Nguyễn Thị Vân (a) – KH7D
Mô hình xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay
phải có người tham gia. Chương III gồm 2 điều nêu ra các quy định về thưởng phạt.
Chương IV gồm 3 điều khoản về thi hành. Làng cử ra Ban thường trực để tổ chức
giám sát việc thực hiện hương ước. Các trưởng làng, trưởng họ, trưởng xóm và các tổ
trưởng của các đoàn thể: hội nông dân, hội phụ nữ, thanh niên, hội cựu chiến binh,
người cao tuổi, mặt trận tổ quốc trên đại bàn dân cư, đội tình nguyện xanh, ban y tế
giúp đỡ Ban điều hành trong giám sát, thực hiện hương ước. Điều 11 quy định, hương

ước chỉ có giá trị trong làng và sẽ được xem xét sửa đổi bổ sung hàng năm, khi xét
thấy các điều khoản đó không còn phù hợp với thực tế nữa. Ngày ký hương ước thực
sự là một ngày hội của làng góp phần phổ biến rõ và sâu rộng hơn nữa sự quan tâm
tham gia tự nguyện của người dân vào việc BVMT. Hương ước được sao ra cho mỗi
họ một bản và giao cho trưởng làng giữ một bản.
Ngoài ra có thể nêu thêm hương ước bảo vệ rừng ở bản Hợp Thành xã Xá Lượng
– Tương Dương – Nghệ An thuộc khu đệm vườn quốc gia Pù Mát có các quy định về
bảo vệ rừng như “không bắn vượn, mang; nếu chúng mắc bẫy thì phải thả ra”.
Quy ước BVMT là một hình thức của hương ước và cũng được sử dụng ngày
càng nhiều ở các cộng đồng dân cư. Quy ước rất đa dạng song điều cơ bản là đảm bảo
tính chất phù hợp với đặc điểm của từng địa phương. Một số ví dụ điển hình là:
- Quy ước BVMT ở xã Nậm Loòng – Tam Đường – Lai Châu có một số điều
khoản đặc trưng như không làm chuồng trâu, bò ở gần nhà hoặc gần nguồn nước,
không hạ cây tươi để làm củi, không vứt cỏ rác của nương hộ này sang nương hộ
khác, không lấn chiếm đất đai của nhau…
- Quy ước BVMT của làng Vân Cù – Hương Toàn – Hương Thủy – Thừa Thiên
Huế gồm 4 chương và 12 điều, trong đó có một số quy định như cá nhân, tập thể
không được sản xuất, sinh hoạt, vui chơi… gây tiếng ồn làm ảnh hưởng đến người
khác đặc biệt sau 22 giờ; hàng tháng vào ngày 14 âm lịch ban chỉ huy thôn có trách
nhiệm tổ chức làm vệ sinh ở đường làng ngõ xóm.
Như vậy, việc xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước là mô hình tích cực,
mang lại hiệu quả thiết thực trong BVMT ở các địa bàn dân cư. Thông qua việc đưa
những nội dung về BVMT trong các bản hương ước, quy ước đã góp phần tạo ra tính
tự quản, tự giác của mỗi người dân trong cộng đồng, tăng cường tính gắn kết cộng
đồng trong công tác BVMT. Đặc biệt việc xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước
bảo vệ môi trường trên thực tế cũng đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện phong
Nguyễn Thị Xiêm – Bùi Thị Hằng –Nguyễn Thị Vân (a) – KH7D
Mô hình xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay
trào toàn dân xây dựng đời sống văn hóa. Vì vậy, đây là một mô hình cần được
khuyến khích nhân rộng trên nhiều vùng lãnh thổ khác.

1.2. Mô hình doanh nghiệp hoạt động công ích chuyên trách BVMT
Ở loại mô hình này, doanh nghiệp chuyên trách về môi trường (do nhà nước
hoặc tư nhân thành lập) đảm nhận việc huy động sự đóng góp của cộng đồng dân cư.
Nguồn lực hoạt động của mô hình có sự hỗ trợ từ nhiều nguồn như hỗ trợ tài chính từ
ngân sách địa phương, thu phí môi trường từ cộng đồng (dân cư, kinh doanh, sản
xuất ), các dự án môi trường trong nước và các tổ chức quốc tế tài trợ.
Doanh nghiệp công ích do nhà nước thành lập như Công ty môi trường đô thị Đà
Nẵng thực hiện việc thu phí vệ sinh môi trường. Mức thu phí được xác định cụ thể
phù hợp theo từng đối tượng như: đối với hộ gia đình mức thu phí được tính theo
khẩu, đối với khách sạn thhu theo số lượng phòng, đối với khu vực chợ thu theo sạp
hàng…mức thu phí cũng được phân biệt theo loại đường phố, khu vực dân cư theo
nguyên tắc hộ dân cư được hưởng nhiều dịch vụ (thu gom rác, quét đường, tưới nước
chống bụi) có mức thu phí cao hơn; theo mức độ nguy hại của chất thải thực hiện
nguyên tắc chất thải có mức độ nguy hại cao hơn phải trả phí cao hơn. Với các quy
định mức thu hợp lý như vậy cộng với việc tổ chức thu tốt nên Công ty môi trường đô
thị Đà Nẵng đã huy động được một lượng tiền khá lớn, hơn hẳn khoản chi của ngân
sách thành phố cho khoản mục này. Cụ thể năm 1998 tổng chi phí cho thu gom rác
thải của công ty là 5 tỷ đồng trong khi khoản chi cho mục này từ ngân sách thành phố
chỉ là 200 triệu đồng.
Mô hình thành lập các doanh nghiệp thu gom rác thải cũng được nhân rộng và
thực hiện ở nhiều địa phương khác, đặc biệt là các đô thị như Hà Nội, thành phố Hồ
Chí Minh…
Doanh nghiệp do tư nhân thành lập như Công ty TNHH Huy Hoàng, doanh
nghiệp này hoạt động từ năm 1993 theo quyết định của UBND tỉnh Lạng Sơn với
chức năng hoạt động trong lĩnh vực vệ sinh môi trường. Mức thu phí vệ sinh môi
trường do công ty này đảm nhận nhưng thực hiên theo quyết định của HĐND tỉnh.
Như vậy, qua mô hình này có thể thấy được vai trò rất lớn của các doanh nghiệp
trong hoạt động BVMT, do có những ưu điểm như thu gom, vận chuyển, xử lý rác
thải được thực hiện nhanh hơn, chuyên nghiệp hơn, có sự đầu tư về trang thiết bị,
công nghệ xử lý… nên tạo dựng được khung cảnh xanh – sạch – đẹp cho các khu vực

Nguyễn Thị Xiêm – Bùi Thị Hằng –Nguyễn Thị Vân (a) – KH7D
Mô hình xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay
dân cư. Vì vậy, nhà nước cần có những chính sách để hỗ trợ mô hình phát triển trong
tương lai.
2. Mô hình xã hội hóa trong lĩnh vực nông nghiệp – nông thôn
2.1 Mô hình làng kinh tế sinh thái
Do điều kiện tự nhiên của nước ta có những đặc thù so với các nước trong khu
vực nên quá trình sản xuất nông –lâm – ngư nghiệp có những đặc điểm khác biệt so
với các nước. Diện tích đồi núi chiếm tới 3/4 diện tích lãnh thổ, còn lại đất nông
nghiệp chỉ tập trung vào khu vực ĐB Sông Hồng, ĐB Sông Cửu Long và rải rác ở các
đồng bằng nhỏ hẹp của Duyên hải miền trung. Chúng ta có một phần rất lớn diện tích
đất ở hệ kém bền vững như bãi cát, đầm lầy, cao nguyên khô cạn… Cuộc sống của
đại đa số những người dân ở những vùng đất này là rất khó khăn. Đây là những vùng
đất dễ bị suy thoái nhất, điều kiện tự nhiên không thuận lợi cho canh tác sản xuất
nông nghiệp; đồng thời phương thức sản xuất, sinh hoạt không hợp lý của người dân
địa phương đã khiến họ tác động vào môi trường tự nhiên nhằm khai thác những thứ
cần thiết cho nhu cầu hàng ngày của họ, làm cho môi trường suy thoái, tài nguyên cạn
kiệt.
Đứng trước thực trạng đó, nhà nước đã đề ra nhiều biện pháp giúp người dân ổn
định cuộc sống và có ý thức BVMT. Một trong số những giải pháp là xây dựng những
làng kinh tế sinh thái gắn với hoạt động sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp và yếu tố
tập quán, sinh hoạt văn hóa của người dân.
Mô hình làng kinh tế sinh thái đã được Viện nghiên cứu sinh thái nghiên cứu xây
dựng từ năm 1993. Theo GS. TS. Viện trưởng Nguyễn Văn Trương, thì làng sinh thái
là nơi tái lập lại cơ bản hệ sinh thái phù hợp với sự sống của con người, cây trồng, vật
nuôi. Làng sinh thái là kết quả thực tế từ một sự mong muốn của con người nhằm tìm
ra một lối sống bền vững, dựa trên thái độ và cách tiếp cận đối với vấn đề loại bỏ chất
thải. Theo TS Nguyễn Đắc Hy (Trung tâm nghiên cứu sinh thái và môi trường) cho
biết thêm, mô hình làng kinh tế sinh thái được xác định bằng công thức: đặc trưng
sinh thái + kiến thức bản địa + kiến thức khoa học = mô hình làng kinh tế sinh thái.

Có nghĩa là mô hình làng sinh thái được xác định trên cơ sở sinh thái học và sự kết
hợp kiến thức truyền thống (hay còn gọi là kiến thức bản địa) với kiến thức khoa học
trong tổ chức, xây dựng không gian sống, các hình thức sản xuất, sinh hoạt, hoạt động
văn hóa dân gian, cũng như chăm sóc sức khỏe cho cộng đồng.
Nguyễn Thị Xiêm – Bùi Thị Hằng –Nguyễn Thị Vân (a) – KH7D
Mô hình xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay
Các nghiên cứu khoa học đã chỉ ra rằng, xây dựng thành công mô hình làng sinh
thái ở các vùng sinh thái nhạy cảm, kém bền vững sẽ mang lại nhiều lợi ích cho người
dân. Từ việc nâng cao chất lượng cuộc sống của bản thân bằng những ngành nghề
nông – lâm – ngư nghiệp và làm giàu cho xã hội, tạo dựng một cuộc sống ấm no,
hạnh phúc trên cơ sở phát triển bền vững, bảo tồn đa dạng sinh học có hiệu quả đến
việc phòng chống và giảm nhẹ thiên tai, dịch bệnh, đồng thời cũng bảo tồn và phát
huy truyền thống văn hóa dân tộc. Mô hình làng kinh tế sinh thái thực chất là một
biện pháp tác động đến nhiều hướng đích tập trung ở những vùng nông thôn có điều
kiện tự nhiên đặc thù và đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn.
Thực tế cho đến nay, 6 mô hình làng kinh tế sinh thái được Viện kinh tế sinh
thái xây dựng thành công tại các địa phương, áp dụng cho các vùng đất có hệ sinh thái
kém bền vững là đất dốc, bãi cát và vùng ngập nước. Để phân tích tính thực tế và hiệu
quả của mô hình này, chúng ta sẽ tìm hiểu ví dụ sau đây về làng kinh tế sinh thái Hợp
Nhất – Ba Vì – Hà Tây cũ. Đây là làng sinh thái xây dựng cho vùng đất dốc, vùng đất
được đánh giá là có địa hình đa dạng và phức tạp nhất. Đặc điểm địa hình của vùng
vừa là yếu tố tăng thêm tính đa dạng của vùng sinh thái này, nhưng đồng thời là yếu
tố hạn chế sự phát triển. Do địa hình phức tạp nên giao thông đi lại khó khăn, hạn chế
sự buôn bán, trao đổi hàng hóa, thông tin giữa các cộng đồng dân cư trong vùng. Địa
hình bị chia cắt mạnh, phân hóa theo chiều hướng khác nhau tạo nên mạng lưới thủy
văn phức tạp và nhiều tiểu vùng với các đặc trưng về khí hậu, đất đai, tài nguyên nước
khác nhau.
Làng Hợp Nhất là làng người Dao xuống dưới núi định canh, định cư, được hình
thành từ những năm 60. Trước đây, do phong tục tập quán, cách sống của đồng bào
của người Dao ở Ba Vì không biết trồng trọt thâm canh, tăng vụ, vùng đất chuẩn để

xây dựng làng kinh tế sinh thái mang đặc điểm của vùng đất dốc, trơ trọi, bị xói mòn,
cây lương thực không được trồng. Đối với rừng, bà con khai thác rừng làm nương rẫy,
chặt phá, đốt rừng phá hủy môi trường. Việc khai thác rừng, sử dụng tài nguyên rừng
rất bừa bãi và thiếu hợp lý.
Từ khi xây dựng làng kinh tế sinh thái đến nay (1993), bộ mặt của xã Hợp Nhất
đã từng bước thay đổi. Một màu xanh của ruộng bậc thang, của những vườn cây trái
đã dần che phủ những quả đồi trọc trước kia. Cái nghèo, cái đói đã dần được xóa bỏ
và thay vào đó là một cuộc sống ấm no hơn. Cơ cấu hạ tầng phát triển, trình độ hiểu
biết của bà con được nâng cao, đời sống bà con thay đổi cả về vật chất và tinh thần.
Nguyễn Thị Xiêm – Bùi Thị Hằng –Nguyễn Thị Vân (a) – KH7D
Mô hình xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay
Từ những buổi đầu thành lập làng, các cán bộ của Viện kinh tế sinh thái đã nhiệt
tình giúp đỡ bà con, bên cạnh sự tài trợ của Tổ chức chống nghèo đói cho sự phát
triển CCFD. Viện đã tặng áo rét, sách vở, bút cho các em nhỏ, hỗ trợ kinh phí cho bà
con chuyển đổi sản xuất do đó đã dần tạo được lòng tin nơi đây. Viện đã mở lớp tập
huấn cho bà con sử dụng đất đồi để trồng cây lương thực, thực phẩm, lấy thức ăn cho
người và chăn nuôi gia súc, gia cầm. Viện cử người trực tiếp ở tại Làng sinh thái với
bà con để chỉ đạo thực hiện trên từng khoảng đất được giao và đã cho áp dụng những
kỹ thuật trồng trọt với mục tiêu không phải là đem tới một phương pháp mới mà là sự
vận dụng kiến thức làm ruộng bậc thang của bà con đã thực hiện ở một số vùng đồi,
chỉ cần có những cải tiến để đỡ tốn công và có hiệu quả kinh tế cao hơn. Các bờ đất
được thay bằng các bờ cây vừa ngăn đất giữ nước, cải tạo đất, vừa cho những sản
phẩm để bà con sử dụng và bán ra thị trường, những loại cây đó là cây bản địa, sẵn
giống. Trên các dải đất bậc thang trồng cây ăn quả nhiều tầng kết hợp với cây lương
thực thực phẩm như đỗ, lạc, vừng, để cải thiện chế độ dinh dưỡng cho người dân và
có tác dụng làm cho đất tốt lên. Các nương bậc thang không làm từ đỉnh đến chân đồi
như một số vùng mà chỉ làm từ 1/2 sườn đồi trở xuống còn phía trên trồng cây gỗ, củi
có quả ăn được và thích hợp với môi trường như dọc, trám, tai chua, bồ kết, sấu,
nhãn…Các băng đất ở sườn đồi trồng các cây chè, quế, hồng, na, …ở chỗ đất ẩm
trồng đu đủ, cam , chanh, bưởi…kết hợp với chăn nuôi gà lợn, trâu bò lấy sức kéo và

tận dụng phân bón cho cây trồng cải tạo đất. Chỗ thích hợp có thể đào ao thả cá, lấy
cá ăn và giữ nước tưới cho vườn. Vận dụng VAC để phát triển kinh tế gia đình ở các
sườn dốc, bà con tận dụng làm máy phát điện, làm đập giữ nước để tưới cây trồng vào
các mùa khô. Đến nay, 95% các gia đình đều có vườn bậc thang trồng rau, quả cung
cấp cho người, chăn nuôi lấy thịt bán ra thị trường, lấy phân cho cá, cho vườn. Vì vậy
bà con vừa có thêm thu nhập vừa bảo vệ môi trường.
Ngoài mô hình chúng ta phân tích ở trên thì ở một số địa phương cũng đã triển
khai thực hiện có hiệu quả mô hình này như mô hình Làng sinh thái ở Hải Thủy-
Quảng Bình, là một trong 6 mô hình do Viện kinh tế sinh thái xây dựng và áp dụng
trong thực tế.
Như vậy, cái lớn nhất mà mô hình mang lại là việc tác động thay đổi những tập
quán sản xuất lâu đời, sống thân thiện với môi trường hơn. Bên cạnh việc tạo cho
người dân có cuộc sống ổn định thì lợi ích về môi trường mà làng kinh tế sinh thái
đem lại là rất lớn. Từ một hệ sinh thái đang bị suy thoái trầm trọng, đất bị rửa trôi bạc
Nguyễn Thị Xiêm – Bùi Thị Hằng –Nguyễn Thị Vân (a) – KH7D
Mô hình xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay
màu, cây cối thưa thớt thành một hệ sinh thái cây cối đan xen phát triển, độ phì nhiêu
của đất tăng lên, lượng nước giữ được trong đất cao, tạo điều kiện phát triển cây
trồng, diện tích phủ xanh không ngừng được tăng lên. Chính vì vậy đây là mô hình
cần tiếp tục nghiên cứu và nhân rộng trên nhiều địa bàn có điều kiện về tự nhiên
tương đồng.
2.2. Mô hình sản xuất nông nghiệp hữu cơ
Ngày nay khi chúng ta đã gia nhập WTO, hàng hóa nông sản của chúng ta đã có
mặt ở nhiều thị trường trong khu vực và thế giới. Để đáp ứng được nhu cầu cao về
chất lượng sản phẩm từ các thị trường “khó tính” này, đồng thời nhằm nâng cao giá trị
xuất khẩu của các mặt hàng trong nước, chúng ta cần nghiên cứu, thí điểm và nhân
rộng các mô hình sản xuất nông nghiệp vừa mang lại hiệu quả kinh tế vừa bảo vệ môi
trường sinh thái tại các vùng nông thôn ở nước ta. Một trong nhiều mô hình được
thực hiện trong lĩnh vực nông nghiệp là mô hình sản xuất “nông nghiệp hữu cơ”.
Sản xuất nông nghiệp hữu cơ được đánh giá là một trong những phương pháp

tiên tiến và đang được rất nhiều nước trên thế giới áp dụng do không sử dụng các loại
thuốc bảo vệ thực vật và hóa chất độc hại, cũng như các loại chế phẩm gây biến đổi
gen. Theo các chuyên gia nông nghiệp, sản xuất nông nghiệp hữu cơ sẽ mang lại
nhiều lợi ích như duy trì và bảo vệ toàn bộ độ phì nhiêu của đất; ít gây ô nhiễm môi
trường nước; bảo vệ đời sống hoang dã của các loài chim, ếch nhái, côn trùng,…; tính
đa dạng sinh học cao và tạo dựng được nhiều cảnh quan đẹp; đối xử tốt hơn đối với
động vật nuôi cũng như con người; ít sử dụng năng lượng và đầu vào không có khả
năng phục hồi từ bên ngoài; không có chất khoáng sinh và hoocmon trong các sản
phẩm động vật; chất lượng sản phẩm tốt hơn, sạch hơn, an toàn hơn.
Theo đó, để mô hình sản xuất nông nghiệp hữu cơ thành công phải đảm bảo 5
nguyên tắc: bảo toàn sinh thái trên vùng sản xuất; làm phong phú hệ sinh thái nông
nghiệp hơn; sử dụng biện pháp cơ học cùng chu trình tự nhiên, ngăn ngừa sự ô nhiễm
từ bên ngoài và sự tự cấp vật liệu sản xuất.
Sản xuất nông nghiệp hữu cơ được áp dụng tại nhiều địa phương với những tên
gọi, hình thức, phương thức khác nhau. Dưới đây là một ví dụ cụ thể của mô hình
này: Mô hình sản xuất nông nghiệp sạch tại tỉnh Bắc Giang
Bắc Giang là tỉnh còn rất nhiều huyện, xã nghèo; diện tích đồi núi chiếm phần
lớn, kinh tế kém phát triển, chưa tận dụng và phát huy hết tiềm năng của vùng nên đời
sống nhân dân còn gặp nhiều khó khăn. Từ thực tế đó, Bắc Giang đã áp dụng mô hình
Nguyễn Thị Xiêm – Bùi Thị Hằng –Nguyễn Thị Vân (a) – KH7D
Mô hình xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay
chuyển đổi nền kinh tế, cải thiện bộ mặt nông thôn. Trong đó có dự án nông nghiệp
hữu cơ do Tổ chức phát triển nông nghiệp Đan Mạch Châu Á (ADDA) hiện đang
được triển khai tại xã Thanh Hải – Lục Ngạn. Đây là mô hình có tính khả thi cao và
có khả năng được nhân rộng ra nhiều địa phương khác trong tỉnh cũng như cả nước.
ADDA là một tổ chức phi chính phủ của Đan Mạch phối hợp với TƯ Hội Nông
dân VN, góp phần mang lại nhiều lợi ích đáng kể như bảo vệ môi trường, tạo ra nông
sản hoàn toàn sạch và có giá trị kinh tế cao, bảo vệ sức khỏe con người.
Bắt đầu thực hiện từ năm 2006, 20 hộ nông dân tại xã Thanh Hải tham gia dự án,
được tham gia các lớp tập huấn và áp dụng quy trình sản xuất nông nghiệp hữu cơ đối

với cây vải thiều trên quy mô diện tích khoảng 10 ha. Các hộ nông dân đã áp dụng
nghiêm ngặt các quy trình kỹ thuật canh tác như sản xuất phân bón (phân ủ) tại chỗ;
nuôi các côn trùng có ích và giữ gìn đa dạng sinh học; chỉ sử dụng các loại thuốc
phòng trừ sâu bệnh sinh học để kiểm soát sâu bệnh và cỏ dại; thiết kế khu vườn trồng
bằng cắt tỉa, tạo tán; áp dụng hệ thống luân canh và trồng xen canh các loại cây trồng
ngắn ngày khác…
Đến nay, mô hình này đang được duy trì, nhân rộng và phát huy hiệu quả, ngày
càng có nhiều hộ nông dân địa phương tự nguyện áp dụng vào sản xuất do có nhiều
lợi ích như chất lượng quả vải thiều cao hơn, bán được giá cao hơn (vụ vải thiều năm
2008 bản được khoảng 7 nghìn đồng/kg, gấp 1,5 đến 2 lần so với canh tác truyền
thống) và được tiêu thụ tốt hơn, tăng độ phì nhiêu cho đất và bảo vệ môi trường. Bên
cạnh đó, một ưu điểm đáng chú ý khác của sản xuất nông nghiệp hữu cơ là đảm bảo
có sự tham gia của các thành viên, nghĩa là nếu các đơn vị, doanh nghiệp thu mua
nông sản theo dự án còn băn khoăn về ưu điểm và lợi ích của sản xuất nông nghiệp
hữu cơ thì có thể trực tiếp tham gia dự án và tự áp dụng quy trình sản xuất cũng như
giám sát chất lượng sản phẩm của chính mình.
Trong năm 2009 Hội Nông dân tỉnh BG đã tiếp tục tổ chức 8 lớp tập huấn sản
xuất nông nghiệp hữu cơ cho các hộ dân tự nguyên tham gia và tiếp tục nhân rộng mô
hình này trên cây vải thiều và các loại rau tại một số xã của thành phố BG và huyện
Lạng Giang.
Với những ưu điểm vượt trội trong sản xuất nông nghiệpvới giá trị kinh tế cao,
nên mô hình này tỉnh thành khác trong cả nước học tập kinh nghiệm và áp dụng vào
sản xuất nông nghiệp tại địa phương mình.
2.3. Mô hình kinh tế trang trại (KTTT)
Nguyễn Thị Xiêm – Bùi Thị Hằng –Nguyễn Thị Vân (a) – KH7D
Mô hình xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay
Đây cũng là một mô hình được áp dụng phổ biến tại các vùng nông thôn. Hiện
nay mô hình này đang phát huy hiệu quả với nhiều hình thức đa dạng, phong phú.
Kinh tế trang trại là một mô hình tổ chức sản xuất cơ sở trong nông – lâm – ngư
nghiệp, có mục đích chủ yếu là sản xuất hàng hóa, tư liệu sản xuất thuộc quyền sở

hữu hoặc sử dụng của một người chủ độc lập, sản xuất được tiến hành trên quy mô
ruộng đất và các yếu tố sản xuất được tập trung đủ lớn với các hình thức tổ chức quản
lý tiến bộ, trình độ kỹ thuật cao, hoạt động chủ yếu và gắn với thị trường.
Theo các chuyên gia về sử học và kinh tế học, đối với nước ta mô hình KTTT
hình thành và phát triển dưới thời nhà Trần với tên gọi chung là “Thái ấp”. Hiện nay,
mô hình KTTT đã được phát triển mạnh mẽ và phổ biến ở khắp các vùng nông thôn
trong cả nước, mang lại hiệu quả kinh tế, giúp cải thiện rõ rệt bộ mặt của nông thôn
VN.
Các loại hinh sản xuất của KTTT cũng ngày ngày đa dạng như trang trại trồng
cây lâu năm, cây hàng năm, cây công nghiệp, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, trang
trại sản xuất kinh doanh tổng hợp …với các tên gọi như VAC, RVAC. Mô hình
KTTT có vai trò rất quan trọng không chỉ giúp chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp mà còn giúp khai thác một diện tích đất hoang hóa lớn, đất ven sông, ven biển
để đưa vào sản xuất nông nghiệp, tạo ra những vùng sản xuất hàng hóa tập trung, góp
phần chuyển đổi cơ cấu vật nuôi, cây trồng và công nghiệp chế biến. Mặt khác, KTTT
do ứng dụng thành tựu KHCN vào sản xuất nên giá trị hàng hóa và dịch vụ bình quân
của một trang trại ngày càng tăng, năm 2006 giá trị bình quân là 159 triệu đồng. Kinh
tế trang trại thu hút được một lượng vốn rất lớn vào trong sản xuất chủ yếu là từ người
dân, giúp họ tự sản xuất kinh doanh ngay trên mảnh đất quê hương của mình. Qua đó,
KTTT cũng góp phần giải quyết việc làm cho một lượng lớn lao động trong nông
nghiệp, góp phần xóa đói giảm nghèo ở nông thôn và giảm sức ép lên các đô thị lớn.
Hiệu quả của mô hình KTTT còn thể hiện ở tác động tích cực của nó đối với môi
trường, thông qua áp dụng mô hình sản xuất nông nghiệp hữu cơ thân thiện với môi
trường.
Chúng ta cùng tìm hiểu mô hình này thông qua ví dụ sau đây tại tỉnh Yên Bái:
Sau nhiều năm kinh tế chủ yếu trông vào sản xuất nông nghiệp tự túc, tự cấp,
hiện nay Yên Bái đã có một bước chuyến biến mạnh mẽ trong phát triển kinh tế, thể
hiện là hơn 7000 trang trại ra đời. Là một tỉnh diện tích đồi núi chiếm chủ yếu nhưng
cách đây 10 năm, vùng đất này toàn là đồi trọc do bị người dân khai thác hết cây rừng
Nguyễn Thị Xiêm – Bùi Thị Hằng –Nguyễn Thị Vân (a) – KH7D

Mô hình xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay
để làm nương rẫy; sản xuất được một đến hai vụ mùa, họ lại chuyển sang chặt đốt cây
vùng khác. Tài nguyên rừng trù phú đã biến thành đồi trọc hoang hóa, ảnh hưởng
nghiêm trọng đến môi trường sinh thái rừng, đến đời sống nhân dân và sự an toàn của
các vùng dân cư được rừng xưa nay bảo vệ.
Năm 1989, trong khi các tỉnh biên giới giáp Trung Quốc phất lên nhờ mở cửa
buôn bán với các nước bạn thì Yên Bái vẫn loay hoay với “tiềm năng đất đai” của
mình. Kinh tế trang trại trong thời gian đó đã xuất hiện nhưng chỉ mang tính thử
nghiệm ở một vài địa phương của miền núi phía Bắc. Nhưng là mô hình kinh tế linh
hoạt và phù hợp với điều kiện tự nhiên của vùng nên các cấp lãnh đạo tỉnh Yên Bái đã
quyết định chọn huyện Văn Chấn làm thí điểm mô hình KTTT và nếu thành công sẽ
phổ biến nhân rộng cho toàn tỉnh.
Trong vòng 10 năm từ năm 1989 – 1999, KTTT ở Văn Chấn đã có bước phát
triển nhanh chóng, đem lại hiệu quả kinh tế rõ rệt và môi trường cũng được cải thiện
đáng kể. Năm 1990, toàn huyện chỉ có chưa tới 100 trang trại với quy mô nhỏ từ 0,5-
4,5 ha thì năm 1999 đã phát triển gần 950 trang trại với quy mô từ 10 ha trở lên.
Hướng phát triển KTTT ở Văn Chấn rất phong phú, đa dạng, kết hợp nhiều ngành hỗ
trợ nhau, lấy ngắn nuôi dài. Hiệu quả KTTT của Văn Chấn là rõ ràng, hiện chỉ còn
khoảng 14% các hộ thuộc diện đói nghèo, nhiều hộ từ bàn tay trắng nhờ được giúp đỡ
biết làm trang trại đã vươn lên thoát nghèo làm giàu cho bản thân, gia đình và xã hội.
Bên cạnh những kết quả kinh tế đã đạt được thì mô hình này tại Yên Bái cũng đã
góp phần quan trọng vào BVMT nhất là đối với tài nguyên rừng, đất, nước…nâng cao
ý thức trách nhiệm của người dân trong công tác BVMT ngay tại địa bàn mình sinh
sống và sản xuất.
Với những ưu điểm của mình và hình thức triển khai linh hoạt thích hợp với
nhiều vùng miền khác nhau, nên mô hình KTTT được nhiều địa phương nghiên cứu
và áp dụng vào sản xuất. Tuy nhiên, mô hình này cũng đã gặp phải những khó khăn
nhất định trong quá trình thực hiện như: ở một số địa phương mô hình KTTT phát
triển một cách tự phát, chưa theo quy hoạch của nhà nước, đây là sự phát triển kém
bền vững; nhiều địa phương chưa thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của nhà

nước về ưu đãi đất đai, tín dụng; thêm vào đó trình độ quản lý của chủ trang trại còn
nhiều hạn chế so với những yêu cầu đòi hỏi về ứng dụng thành tựu KHCN, chưa có ý
thức bảo vệ môi trường …Những tồn tại này đã làm cho hiệu quả của mô hình trên
Nguyễn Thị Xiêm – Bùi Thị Hằng –Nguyễn Thị Vân (a) – KH7D
Mô hình xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay
thực tế không được như mong muốn, làm ảnh hưởng đến môi trường sống, đặc biệt là
những người dân sống ở trang trại đó.
3. Mô hình xã hội hóa trong lĩnh vực công nghiệp
Xu hướng phát triển bền vững gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội và bảo
vệ môi trường đang là mục tiêu của nhiều quốc gia trên thế giới. Đối với Việt Nam
hiện nay, thực hiện mục tiêu CNH-HĐH, xây dựng nền kinh tế thị trường bên cạnh
việc mang lại những kết quả đáng kể về đời sống kinh tế - xã hội thì mặt trái của quá
trình này tác động tiêu cực đến môi trường, đặc biệt là tác động từ sự phát triển các
ngành công nghiệp, khu công nghiệp, khu chế xuất. Hậu quả của sự phát triển này là
môi trường sống đang bị xuống cấp trầm trọng, nhiều nơi ô nhiễm ở mức báo động.
Nguồn rác thải công nghiệp ngày càng tăng trong khi việc xử lý không triệt để, thêm
vào đó công tác quản lý của các cơ quan nhà nước còn nhiều bất cập đã dẫn đến tình
trạng ô nhiễm không khí, nước, đất đai, tài nguyên khoáng sản…
Có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn đến tình trạng trên song về
cơ bản có hai nguyên nhân chính. Thứ nhất là do các danh nghiệp sản xuất chưa nhận
thức về vai trò, tầm quan trọng của môi trường đối với phát triển sản xuất kinh doanh
cũng như trách nhiệm trong công tác BVMT. Mặt khác do xu thế chạy theo lợi nhuận
mà các doanh nghiệp bỏ qua sự quan tâm cần thiết đến môi trường. Điều này đã dẫn
đến một thực tế là các doanh nghiệp khi xây dựng hệ thống xử lý rác thải không đưa
vào vận hành hoặc chỉ vận hành một thời gian thì dừng lại. Vấn đề ô nhiễm môi
trường tại các khu công nghiệp đã trở thành vấn đề được dư luận xã hội đặc biệt quan
tâm trong thời gian qua đã cho thấy một cái giá quá đắt mà chúng ta phải trả và đánh
đổi giữa lợi ích kinh tế và trách nhiệm BVMT. Nguyên nhân thứ hai là từ phía các cơ
quan quản lý nhà nước nói chung, quản lý về TNMT nói riêng ở trung ương và địa
phương, họ đã buông lỏng quản lý, thiếu trách nhiệm trong quá trình thực hiện chức

năng, nhiệm vụ của mình, hơn nữa việc phát hiện cũng như xử lý các vi phạm đối với
các doanh nghiệp còn chậm và chưa nghiêm.
Để giải quyết vấn đề ô nhiêm môi trường trong lĩnh vực sản xuất chúng ta cần
hoàn thiện trên rất nhiều mặt với hệ thống các giải pháp đồng bộ và kiên quyết. Trên
thực tế, sự ra đời và triển khai các mô hình trong lĩnh vực công nghiệp đã mang lại
những chuyển biến về cải thiện tình hình môi trường, đồng thời nâng cao được ý thức,
trách nhiệm của cộng đồng các doanh nghiệp trong BVMT.
Dưới đây là sự phân tích một số mô hình :
Nguyễn Thị Xiêm – Bùi Thị Hằng –Nguyễn Thị Vân (a) – KH7D

×