VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội
BÁO CÁO BÀI TẬP NHĨM
Mơn học: Kinh tế chính trị Mác-Lênin
Đề tài: Quan hệ lợi ích kinh tế ở Việt Nam và liên hệ thực tiễn
về quan hệ lợi ích kinh tế ở Việt Nam hiện nay
THÀNH VIÊN NHĨM 3:
1.
2.
3.
4.
Phạm Minh Trang
Lị Phương Lâm
Đặng Quang Anh
Huỳnh Ngọc Vũ
5.
6.
7.
8.
9.
Nguyễn Bùi Hoàng Chiến
Vũ Thị Hương Thảo
Lê Hoàng Tùng
Lê Thị Ngọc Ánh
Nguyễn Công Kiên
Hà Nội, ngày 16 tháng 01 năm 2022
4
5
Lời mở đầu
Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII một lần nữa khẳng định sự
kiên trì chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, đề ra chính sách: Cơng
nghiệp hố và hiện đại hố để đưa nước ta nhanh chóng trở thành một nước có
nền kinh tế phát triển ngay trong thập kỷ đầu của thế kỷ XXI. Nền kinh tế nớc ta
đã chuyển đổi dần dần từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần, mở cửa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự
điều tiết quản lý của Nhà nước.
Khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, xây dựng nền cơng nghiệp
hố hiện đại hố thì vấn đề nổi lên khơng chỉ ở nước ta mà ở cả các nước đang
phát triển là tình trạng cơ sở hạ tầng kém, thiếu kinh nghiệm, trình độ đội ngũ
cán bộ cơng nhân viên chưa cao, các quan hệ lợi ích kinh tế chưa được quan tâm.
Vì thế, cùng một lúc chúng ta phải bắt tay vào giải quyết nhiều vấn đề cấp bách
thì mới đáp ứng kịp thời với yêu cầu đặt ra.
Đặc biệt vấn đề về lợi ích kinh tế là một trong những vấn đề kinh tế lớn của
Nhà nước mà đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII đã đề ra cho giai đoạn phát
triển kinh tế nước ta hiện nay.
Việt Nam trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập
trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, trong điều kiện đó nhiều loại hình Doanh nghiệp, nhiều loại hình kinh
tế cùng tồn tại, cùng tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh. Để tồn tại trong cơ
chế mới với sự cạnh tranh khốc liệt, địi hỏi hoạt động kinh doanh nói chung, thì
lợi ích kinh tế của các chủ thể nói riêng và lợi ích của tồn xã hội nói chung ln
được quan tâm hàng đầu. Vì vậy chúng em sẽ nghiên cứu về vấn đề: “Quan hệ
6
lợi ích kinh tế ở Việt Nam và liên hệ thực tiễn về quan hệ lợi ích kinh tế ở Việt
Nam hiện nay”.
Mục tiêu nghiên cứu: nhằm chỉ ra cho người đọc hiểu rõ đợc thế nào là lợi
ích kinh tế nói chung, các quan hệ lợi ích kinh tế. Từ đó thơng qua lý luận chỉ ra
rằng tính tất yếu cho các doanh nghiệp là phải quan tâm đến lợi ích kinh tế, các
chủ thể kinh tế và lợi ích xã hội.
Do khả năng hạn chế nên bài luận của chúng em khơng thể tránh khỏi những
thiếu xót. Rất mong nhận được sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của thầy cơ để chúng
em có thể hồn thiện được kiến thức của mình.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
7
I. LỢI ÍCH KINH TẾ VÀ QUAN HỆ LỢI ÍCH KINH TẾ
1. Lợi ích kinh tế
Để tồn tại, phát triển, con người cần được thoả mãn các nhu cầu vật chất cũng
như nhu cầu tinh thần. Lợi ích thu được khi con người được thỏa mãn nhu cầu
của mình. Lợi ích có thể là lợi ích vật chất, có thể là lợi ích tinh thần.
Trong mỗi điều kiện lịch sử, tuỳ từng bối cảnh mà vai trò quyết định đối với
hoạt động của con người là lợi ích vật chất hay lợi ích tinh thần. Nhưng xun
suốt q trình tồn tại của con người và đời sống xã hội thì lợi ích vật chất đóng
vai trị quyết định thúc đẩy hoạt động của mỗi cá nhân, tổ chức cũng như xã hội.
1.1 Khái niệm lợi ích kinh tế
Lợi ích kinh tế là lợi ích vật chất, nó phản ánh mục đích và động cơ khách quan
của các chủ thể khi tham gia vào các hoạt động kinh tế - xã hội và do hệ thống
quan hệ sản xuất quyết định.
Mỗi một con người hay xã hội muốn tồn tại và phát triển thì nhu cầu của họ phải
được đáp ứng.
Ví dụ: Hoạt động của con người nói chung bao giờ cũng nhằm thỏa mãn nhu
cầu như : ăn, mặc, ở, đi lại, học tập, vui chơi... Vì vậy, để thỏa mãn nhu cầu của
mình thì một trong những cách thức đó là con người phải tiến hành hoạt động
lao động sản xuất để tạo ra những của cải, vật chất thỏa mãn nhu cầu của mình.
=> Vì vậy lợi ích kinh tế là một phạm trù kinh tế, một mặt, nó phản ánh những
điều kiện, những phương diện nhằm đáp ứng nhu cầu vật chất của mỗi con
người, mỗi chủ thể. Suy cho cùng, lợi ích kinh tế được biểu hiện ở mức độ của
cải vật chất mà mỗi con người có được khi tham gia vào các hoạt động kinh
tế - xã hội.
1.2 Tính chất lợi ích kinh tế
8
Phản ánh quan hệ xã hội giữa các thành viên trong xã hội với nhau thông qua
hoạt động kinh tế. Nghĩa là phản ánh quan hệ giữa con người với con người
trong quá trình tham gia vào các hoạt động kinh tế để tạo ra của cải, vật chất của
mình.
=> Những quan hệ đó chính là quan hệ sản xuất trong xã hội.
Ví dụ: Trong q trình khai thác mỏ than, nếu các công nhân chỉ làm việc
một cách tách biệt, khơng có sự phối hợp giữa các cơng nhân với nhau, khơng
có sự chỉ đạo của quản lý thì giữa họ khơng có tồn tại một mối quan hệ giữa con
người với con người, khơng có quan hệ sản xuất thì tập thể đó khơng thể nào
khai thác than một cách hiệu quả và không đạt được lợi ích kinh tế mong muốn.
=> Khơng có lợi ích kinh tế nằm ngồi những quan hệ sản xuất mà nó là sản
phẩm của những quan hệ sản xuất, là hình thức vốn có bên trong, hình thức tồn
tại và biểu hiện của các quan hệ sản xuất.
1.3 Bản chất lợi ích kinh tế
Lợi ích kinh tế là biểu hiện ra bên mặt xã hội của các quan hệ lợi ích.
Về thực chất, quan hệ lợi ích là mối quan hệ giữa người với người nảy sinh và
phát triển tất yếu do chính các quan hệ sản xuất, quan hệ kinh tế chuyển hóa
thành nhu cầu đời sống xã hội và mỗi thành viên. Quan hệ kinh tế, quan hệ lợi
ích có thể xem là “cốt lõi vật chất” của các mối quan hệ xã hội.
Ví dụ: Các mối quan hệ lợi ích trong lĩnh vực kinh tế như là: quan hệ lao
động và tiền lương giữa chủ và thợ trong mỗi doanh nghiệp, quan hệ thương
trường giữa các doanh nhân với nhau, quan hệ đồng làm chủ và chia lợi nhuận
công ty giữa các cổ đông trong mỗi cơng ty và trong thực tế lợi ích kinh tế ln
được biểu hiện ở các hình thức thu nhập như: tiền lương, tiền cơng, lợi nhuận,
lợi tức, thuế, phí và lệ phí.
1.4 Biểu hiện lợi ích kinh tế
9
Gắn với những chủ thể kinh tế khác nhau là những lợi ích tương ứng với chủ
thể đó. Trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì tồn tại
nhiều quan hệ sản xuất mà trước hết phải là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất.
Tùy vào những góc độ xem xét của nó và phân chia lợi ích kinh tế thành những
loại khác nhau:
Góc độ khái quát nhất có thể phân chia hệ thống lợi ích kinh tế thành: lợi ích
kinh tế cá nhân, lợi ích kinh tế tập thể và lợi ích kinh tế xã hội.
Góc độ các thành phần kinh tế: lợi ích kinh tế tương ứng với các thành phần kinh
tế đó.
Góc độ các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội: lợi ích kinh tế của người sản
xuất, người phân phối, người trao đổi, người tiêu dùng.
Tuy nhiên, mỗi chủ thể kinh tế đều có mục tiêu để hướng đến là tối đa hóa lợi
ích kinh tế của họ.
Ví dụ: Mục tiêu của các doanh nghiệp là tối đa hóa lợi nhuận, mục tiêu của
người tiêu dùng là tối đa hóa mức độ tiêu dùng, mục tiêu của người lao động là
tối đa hóa tiền cơng và mục tiêu của chính phủ là tối đa hóa lợi ích xã hội.
1.5 Vai trị của lợi ích kinh tế đối với các chủ thể kinh tế - xã hội
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động kinh tế được biểu hiện vô cùng phong
phú. Mặc dù vậy điểm chung hết thảy các hoạt động đó là hướng tới lợi ích.
Có thể khái qt vai trị của lợi ích kinh tế trên một số khía cạnh chủ yếu sau:
Lợi ích kinh tế là một trong những vấn đề sống còn của sản xuất và đời sống. Lợi
ích kinh tế giữ vai trị quyết định nhất, chi phối các lợi ích khác.
Lợi ích kinh tế được nhận thức và thực hiện đúng thì nó sẽ là động lực kinh tế
thúc đẩy con người hành động => động lực và mục tiêu của hoạt động kinh tế.
10
Lợi ích kinh tế cịn có vai trị quan trọng trong cơng việc củng cố, duy trì các
mối quan hệ kinh tế giữa các chủ thể sản xuất – kinh doanh => động lực của
hoạt động xã hội.
Lợi ích kinh tế là cơ sở thúc đẩy sự phát triển các lợi ích khác
=> Lợi ích kinh tế mang tính khách quan và là động lực mạnh mẽ để phát
triển kinh tế - xã hội.
Lợi ích kinh tế là động lực của các hoạt động kinh tế, của sự phát triển xã hội.
Tuy nhiên, điều đó khơng có nghĩa là chúng ta hạ thấp vai trò của lợi ích chính
trị, tư tưởng, văn hóa – xã hội. Nhất là trong điều kiện mở rộng hợp tác, giao lưu
kinh tế với các nước khác, phải quan tâm chú trọng khơng chỉ đến lợi ích kinh tế,
mà cả lợi ích chính trị, tư tưởng, văn hóa – xã hội.
2. Quan hệ lợi ích kinh tế
2.1 Khái niệm về quan hệ lợi ích kinh tế
Quan hệ lợi ích kinh tế là sự thiết lập những tương tác giữa con người với con
người, giữa các cộng đồng người, giữa các tổ chức kinh tế, giữa các bộ phận hợp
thành nền kinh tế, giữa con người với tổ chức kinh tế, giữa quốc gia với phần
còn lại của thế giới nhằm mục tiêu xác lập các lợi ích kinh tế trong mối liên hệ
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng tương ứng
của một giai đoạn phát triển xã hội nhất định.
Như vậy, quan hệ lợi ích kinh tế có biểu hiện hết sức phong phú:
Quan hệ đó có thể là các quan hệ theo chiều dọc, giữa một tổ chức kinh tế với
một cá nhân trong tổ chức kinh tế đó. VD: quan hệ người nơng dân với ngân
hàng, đại lí bán bn, người tiêu thụ.
Cũng có thể theo chiều ngang giữa các chủ thế, các cộng đồng người, giữa các tổ
chức, các bộ phận chủ thể có thể trở thành bộ phận cấu thành của chủ thể khác.
VD: hợp tác xã, doanh nghiệp, các thành viên trong tổ chức.
11
Trong điều kiện hội nhập ngày nay, quan hệ lợi ích kinh tế cịn phải xét tới quan
hệ giữa quốc gia với phần còn lại của thế giới.
2.2 Sự thống nhất và mâu thuẫn trong các quan hệ lợi ích kinh tế
a. Sự thống nhất của quan hệ lợi ích kinh tế:
Biểu hiện:
Ba lợi ích kinh tế cùng đồng thời tồn tại trong một hệ thống kinh tế của xã hội,
trong đó lợi ích kinh tế cá nhân là cơ sở để thực hiện lợi ích kinh tế tập thể và xã
hội. Đồng thời, lợi ích kinh tế tập thể và xã hội lại tạo điều kiện thực hiện tốt hơn
lợi ích kinh tế cá nhân. Sự thống nhất giữa các hình thức lợi ích kinh tế khác
nhau trong xã hội sẽ dẫn đến sự liên hệ chặt chẽ và thâm nhập lẫn nhau, khơng
có lợi ích nào tách rời riêng rẽ. Vì vậy, cần quan tâm đúng mức đến ba loại lợi
ích; trong đó, xét về lâu dài thì lợi ích xã hội đóng vai trị chủ đạo, thể hiện
những nhiệm vụ phát triển và tiến bộ xã hội, nó cũng bao qt những lợi ích kinh
tế căn bản của tập thể và xã hội. Chẳng hạn, khi Nhà nước thu đúng, đủ thuế của
các cấp kinh tế thì Nhà nước mới có điều kiện để đầu tư, xây dựng những cơ sở
hạ tầng như: cầu cống, đường xá, các cơng trình cơng cộng. Từ đó tạo điều kiện
cho các cá nhân tập thể phát triển. Mặt khác, khi các cá nhân làm tốt công việc
cũng như bổn phận của mình thì các tập thể và xã hội cũng ngày càng phát triển
hơn.
Lợi ích của chủ thể kinh tế có quan hệ trực tiếp trong việc phân phối kết quả hoạt
động sản xuất, kinh doanh. Cụ thể là khi các tổ chức phân phối công việc một
cách hợp lý, có hiệu quả thì hiệu quả cơng việc của cá nhân tăng, lợi ích cá nhân
cũng tăng theo thì trách nhiệm của cá nhân cũng tăng. Từ đó, kết quả hoạt động
sản xuất ngày càng tốt hơn, lợi ích kinh tế tập thể và xã hội cũng được đảm bảo.
b. Sự mâu thuẫn trong quan hệ lợi ích kinh tế
Biểu hiện:
12
Mặt mâu thuẫn thể hiện ở sự tách biệt nhất định giữa chúng, do đó nếu dành quá
nhiều cho lợi ích này thì bộ phận lợi ích khác sẽ bị ảnh hưởng và ngược lại.
Các quan hệ lợi ích kinh tế mâu thuẫn với nhau vì các chủ thể kinh tế có thể
hành động theo những phương thức khác nhau để thực hiện các lợi ích của mình.
Sự khác nhau đó đến mức đối lập thì trở thành mâu thuẫn Ví dụ, vì lợi ích của
mình, các cá nhân, doanh nghiệp có thể làm hàng giả, bn lậu, trốn thuế...thì lợi
ích của cá nhân, doanh nghiệp và lợi ích của xã hội mâu thuẫn với nhau. Khi đó,
chủ doanh nghiệp càng thu được nhiều lợi nhuận, lợi ích kinh tế của người tiêu
dùng, của xã hội càng bị tổn hại.
Lợi ích của những chủ thể kinh tế có quan hệ trực tiếp trong việc phân phối kết
quả hoạt động sản xuất, kinh doanh cũng có thể mâu thuẫn với nhau vì tại một
thời điểm kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh là xác định. Do đó, thu nhập
của chủ thể này tăng lên thì thu nhập của chủ thể khác giảm xuống. Chẳng hạn,
tiền lương của người lao động bị bớt xén sẽ làm tăng lợi nhuận của chủ doanh
nghiệp; nhà nước giảm thuế sẽ làm lợi nhuận doanh nghiệp tăng...
Trong các hình thức lợi ích kinh tế, lợi ích cá nhân là nền tảng của các lợi ích
khác bởi vì: thứ nhất, nhu cầu cơ bản sống trước hết thuộc về các cá nhân; thứ
hai thực hiện lợi ích cá nhân là cơ sở tạo nên tập thể.
2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ lợi ích kinh tế
Các quan hệ lợi ích trong nền kinh tế thị trường chịu tác động của nhiều nhân
tố, cụ thể như sau:
Thứ nhất, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
Là phương thức và mức độ thỏa mãn các nhu cầu vật chất của con người, lợi ích
kinh tế trước hết phụ thuộc vào số lượng, chất lượng hàng hóa và dịch vụ, mà
điều này lại phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Do đó,
13
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất càng cao, việc đáp ứng lợi ích kinh tế
của các chủ thể cảng tốt.
Lực lượng sản xuất chính là người lao động và tư liệu sản xuất.
Ví dụ: trong xã hội nơng nghiệp, thì đất đai và cuốc, xẻng chính là tư liệu sản
xuất. Hoặc một ví dụ khác hiện tại thì như tơi mù cơng nghệ thơng tin thì tư liệu
sản xuất của tơi đó chính là internet và máy tính, nếu như sau này tơi đi làm thì
tơi sẽ là người lao động và tích lũy được nhiều kinh nghiệm, vượt qua những khó
khăn, thách thức thì tơi sẽ có một vị trí cao hơn cũng như là của cải của tơi được
tạo ra nhiều hơn. Qua đó, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và người
lao động tơi đây đã ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế và quan hệ lợi ích kinh tế.
Thứ hai, địa vị của chủ thể trong hệ thống quan hệ sản xuất xã hội
Quan hệ sản xuất trước hết là quan hệ tư liệu sản xuất, quyết định vị trí,vai trị
của mỗi con người, mỗi chủ thể trong quá trình tham gia các hoạt động kinh tếxã hội, tham gia vào q trình phân chia lợi ích.
Ví dụ: cụ thể như nền kinh tế thị trường ở Việt Nam chính là nền kinh tế thị
trường hiện đại và trong đó có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, điều
này cũng có nghĩa là nền kinh tế hiện đại đều được phát huy, phát triển ở mức
cao như tính tích cực, năng động và hiệu quả. Nhờ có sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam đã hạn chế được các mặt trái tiêu cực cũng như tác động
làm cho quan hệ kinh tế cũng thay đổi về cách thức và phương thức mới theo
hướng phát triển tốt hơn, hiệu quả hơn.
Thứ ba, chính sách phân phối thu nhập của nhà nước
Trong các chính sách kinh tế - xã hội, chính sách phân phối thu nhập của nhà
nước làm thay đổi mức thu nhập và tương quan thu nhập của các chủ thể kinh tế.
Khi mức thu nhập và tương quan thu nhập thay đổi, lợi ích kinh tế và quan hệ lợi
ích kinh tế giữa các chủ thể cũng thay đổi.
14
Để có một nền kinh tế thị trường địi hỏi phải có mơi trường cơng khai, minh
bạch, có bộ máy nhà nước tinh gọn, đủ năng lực điều hành và quản lý nền kinh
tế, đưa nền kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng cao, chất lượng và hiệu quả, giải
quyết tốt những vấn đề xã hội, bảo đảm nền kinh tế phát triển bền vững một cách
thật sự.
Thứ tư, hội nhập kinh tế quốc tế
Bản chất của nền kinh tế thị trường là hội nhập. Khi mở cửa hội nhập, các
quốc gia có thể gia tăng lợi ích kinh tế từ thương mại và đầu tư. Để nền kinh tế
thị trường phát triển, cần tạo lập một môi trường kinh doanh thơng thống, hịa
nhập với thị trường thế giới. Và để đạt được điều đó thì kinh tế nhà nước và kinh
tế hợp tác cần được xem như mọi thành phần kinh tế khác, được đối xử bình
đẳng, khơng có sự ưu tiên hay phân biệt.
Các khu vực kinh tế đều là bộ phận hợp thành của nền kinh tế thị trường, hoạt
động bình đẳng, đúng luật pháp và được bảo vệ, phát triển như nhau.
Ví dụ: Ở Châu Âu, các nước đã thống nhất với nhau sử dụng một đồng tiền để
kinh doanh giữa các nước đó chính là đồng Euro; qua đó, đã tạo lập một mơi
trường kinh doanh thơng thống, hịa nhập với thị trường giữa các nước.
2.4 Một số quan hệ lợi ích kinh tế cơ bản trong nền kinh tế thị trường
Trong điều kiện kinh tế thị trường, ở đâu có hoạt động kinh tế, ở đó có quan
hệ lợi ích. Trong đó, có một số quan hệ lợi ích kinh tế cơ bản sau đây:
Một là, quan hệ lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động
Người lao động là người làm việc tạo ra sản phẩm cho người sử dụng lao động
và được trả cơng phù hợp với trình độ và kỹ năng nghề nghiệp của người đó trên
cơ sở thỏa thuận với người sử dụng lao động.
Người sử dụng lao động là người thuê mướn, sử dụng và trả cơng cho người lao
động nhằm mục đích thu lại lợi nhuận từ các sản phẩm bán được.
15
Lợi ích kinh tế của người lao động và người sử dụng lao động có quan hệ chặt
chẽ, vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn nhau.
* Thống nhất:
Nếu người sử dụng lao động thực hiện các hoạt động kinh tế trong điều kiện bình
thường họ sẽ thu được lợi nhuận, thực hiện được lợi ích kinh tế của mình; đồng
thời họ sẽ tiếp tục sử dụng lao động => người lao động cũng thực hiện được lợi
ích kinh tế của mình vì có việc làm, có tiền lương.
Nếu người lao động tích cực làm việc, lợi ích kinh tế của họ được thực hiện
thông qua tiền lương được nhận; đồng thời góp phần vào việc gia tăng lợi nhuận
của người sử dụng lao động
=> Tạo lập sự thống nhất trong quan hệ lợi ích giữa người lao động và người sử
dụng lao động là điều kiện quan trọng để thực hiện lợi ích kinh tế của 2 bên.
* Mâu thuẫn:
Vì lợi ích của mình nên người sử dụng lao động ln tìm cách cắt giảm tới mức
thấp nhất các chi phí, trong đó có tiên lương của người lao động để tăng lợi
nhuận
Vì lợi ích của mình, người lao động sẽ đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm
=> Nếu mâu thuẫn không được giải quyết hợp lý sẽ ảnh hưởng xấu tới các hoạt
động kinh tế
=> Để bảo vệ lợi ích của mình người lao động và người sử dụng lao động đã
thành lập các tổ chức riêng. Cơng đồn là tổ chức quan trọng nhất bảo vệ quyền
lợi của người lao động. Người sử dụng lao động có các nghiệp đồn, hội nghề
nghiệp...
Hai là, quan hệ lợi ích giữa những người sử dụng lao động
16
Những người sử dụng lao động có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong cơ chế
thị trường, họ vừa là đối tác, vừa là đối thủ của nhau. Từ đó tạo ra sự thống nhất
và mâu thuẫn về lợi ích kinh tế
* Thống nhất:
Làm cho người sử dụng lao động liên kết chặt chẽ với nhau, hỗ trợ lẫn nhau.
Quan hệ chặt chẽ về lợi ích kinh tế giữa những người sử dụng lao động làm cho
họ trở thành đội ngũ doanh nhân.
Trong cơ chế thị trường, đội ngũ doanh nhân đóng góp quan trọng vào sự phát
triển kinh tế - xã hội. Vì vậy cần tôn vinh và tạo điều kiện thuận lợi để đội ngũ
doanh nhân phát triển.
Ví dụ: Bên A là cơng ty sản xuất linh kiện, bên B là công ty sản xuất máy móc
thì bên A sẽ cần những máy móc của bên B để họ tháo ra và chế tạo linh kiện
còn bên B sẽ cần linh kiện của bên A để lắp ráp máy móc. Cho nên, cả hai sẽ
hợp tác với nhau để cùng có lợi ích trong việc kinh doanh.
* Mâu thuẫn:
Trong cơ chế thị trường, mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa những người sử dụng
lao động làm cho họ cạnh tranh với nhau quyết liệt. Hệ quả tất yếu là các nhà
doanh nghiệp có giá trị cá biệt cao hơn giá trị xã hội và các rủi ro khác sẽ bị thua
lỗ, phá sản..., bị loại khỏi thương trường. Đồng thời, những người thu được
nhiều lợi nhuận sẽ phát triển nhanh chóng.
Cạnh tranh khơng chỉ trong nội bộ ngành mà cịn cạnh tranh giữa các ngành bằng
việc di chuyển vốn (tư bản) từ ngành này sang ngành khác. Từ đó, hình thành tỷ
suất lợi nhuận bình quân, tức là người sử dụng lao động đã chia nhau lợi nhuận
theo số vốn đóng góp.
=> Sự thống nhất và mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa những người sử dụng lao
động biểu hiện tập trung ở lợi nhuận bình quân mà họ đạt được.
17
Ba là, quan hệ lợi ích giữa những người lao động
Để thực hiện lợi ích kinh tế của mình, người lao động không chỉ phải quan hệ
với người sử dụng lao động, mà cịn phải quan hệ với nhau. Nếu có nhiều người
bán sức lao động, người lao động phải cạnh tranh với nhau, hậu quả là tiền lương
của người lao động bị giảm xuống, một bộ phận người lao động bị sa thải. Nếu
những người lao động thống nhất được với nhau, họ có thể thực hiện được các
yêu sách của mình (ở một chừng mực nhất định) đối với giới chủ.
Để hạn chế mâu thuẫn lợi ích kinh tế trong nội bộ, đặc trưng với những người
sử dụng lao động, những người lao động đã thành lập tổ chức riêng. Sự đoàn kết,
giúp đỡ lẫn nhau giữa những người lao động trong giải quyết các mối quan hệ là
rất cần thiết nhưng phải dựa trên các quy định của pháp luật.
Bốn là, quan hệ giữa lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm và lợi ích xã hội
Trong cơ chế thị trường, cá nhân tồn tại dưới nhiều hình thức. Người lao động,
người sử dụng lao động đều là thành viên của xã hội nên mỗi người đều có lợi
ích cá nhân và có quan hệ chặt chẽ với xã hội.
Lợi ích các nhân là tất cả những lợi ích về mặt tinh thần, vật chất để đáp ứng đầy
đủ các nhu cầu riêng tư của mỗi cá nhân bao gồm: lợi ích vật chất, lợi ích tinh
thần, lợi ích kinh tế, chính trị...
Lợi ích nhóm là lợi ích chung của nhóm người có chung một mục đích trong các
hoạt động.
Lợi ích xã hội là lợi ích thỏa mãn nhu cầu chung của toàn xã hội nhằm đảm bảo
sự tồn tại và duy trì của xã hội đó trong từng giai đoạn lịch sử. Lợi ích xã hội
khơng phải là lợi ích của một nhóm người hay một giai cấp mà là lợi ích chung
của tồn thể dân tộc.
Quan hệ giữa các lợi ích này là quan hệ hợp tác với nhau, hỗ trợ nhau cùng
phát triển.
18
Ví dụ: Xổ số kiến thiết, khi mà một người mua vé số thì mục đích hướng tới
chính là số tiền trúng được và đó là lợi ích cá nhân. Tiền mà họ mua vé số sẽ
được chuyển tới đại lý vé số mà đại lý vé số đó là một nhóm người và lợi nhuận
ấy sẽ là lợi ích nhóm. Đại lý vé số sẽ phải đóng thuế cho Nhà nước và tiền thuế
chính là lợi ích xã hội bởi tiền đó sẽ được Nhà nước đưa vào sử dụng trong các
cơng trình như: đường xá, cầu cống... Và việc xây dựng các cơng trình đó sẽ
giúp ngược lại cho các cá nhân, các nhóm trong xã hội.
2.5 Phương thức thực hiện lợi ích kinh tế trong các quan hệ lợi ích chủ yếu
Mặc dù có nhiều quan hệ lợi ích đan xen, tuy nhiên, trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, có hai phương thức cơ bản để thực hiện lợi
ích kinh tế gồm:
Thứ nhất, thực hiện lợi ích kinh tế theo nguyên tắc thị trường.
Các quan hệ lợi ích, các chủ thể lợi ích kinh tế mặc dù đa dạng, song để có thể
thực hiện được lợi ích của mình, trong bối cảnh kinh tế thị trường cần phải căn
cứ vào các nguyên tắc của thị trường. Đây là phương thức phổ biến trong mọi
nền kinh tế thị trường, bao gồm cả kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam.
Thứ hai, thực hiện lợi ích kinh tế theo chính sách của nhà nước và vai trị
của các tổ chức xã hội.
Khi thực hiện lợi ích kinh tế, nếu chỉ căn cứ theo nguyên tắc thị trường, tất
yếu sẽ dẫn đến những hạn chế về mặt xã hội. Do đó, đề khắc phục những hạn
chế của dựa trên chính sách của nhà nước và vai trò của các tổ chức xã hội cần
phải được chú ý nhằm tạo sự bình đắng và thúc đẩy tiến bộ xã hội.
II. VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG VIỆC BẢO ĐẢM MỐI QUAN
HỆ HÀI HỊA GIỮA CÁC LỢI ÍCH
19
Hài hịa các lợi ích kinh tế là sự thống nhất biện chứng giữa lợi ích kinh tế của
các chủ thể, trong đó mặt mâu thuẫn được hạn chế, trách được va chạm, xung
đột; mặt thống nhất được khuyến khích, tạo điều kiện phát triển cả chiều rộng và
chiều sâu, từ đó tạo động lực thúc đẩy các hoạt động kinh tế, góp phần thực hiện
tốt hơn các lợi ích kinh tế, đặc biệt là lợi ích xã hội.
Để có sự hài hịa giữa các lợi ích kinh tế chỉ có kinh tế thị trường là khơng đủ
vì các lợi ích kinh tế luôn vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn với nhau, mà cần có sự
can thiệp của nhà nước. Bảo đảm hài hịa các lợi ích kinh tế là sự can thiệp của
nhà nước vào các quan hệ lợi ích kinh tế bằng các công cụ giáo dục, pháp luật,
hành chính, kinh tế… nhằm gia tăng thu nhập cho các chủ thể kinh tế; hạn chế
mâu thuẫn, tăng cường sự thống nhất, xử lý kịp thời khi có xung đột
1. Bảo vệ lợi ích hợp pháp, tạo mơi trường thuận lợi cho hoạt động tìm kiếm
lợi ích của các chủ thể kinh tế
Các hoạt động kinh tế bao giờ cũng cũng diễn ra trong một môi trường nhất
định. Môi trường càng thuận lợi, các hoạt động kinh tế càng hiệu quả và không
ngừng mở rộng. Môi trường vĩ mô thuận lợi khơng tự nhiên hình thành, mà phải
được nhà nước tạo lập. Tạo lập môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế
trước hết là giữ vững ổn định về chính trị. Trong những năm vừa qua, Việt Nam
đã thực hiện rất tốt điều này. Nhờ đó, các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước
rất yên tâm khi tiến hành đầu tư. Tiếp tục giữ vững ổn định về chính trị là góp
phần bảo đảm hài hịa các lợi ích kinh tế ở Việt Nam.
Tạo lập mơi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế đòi hỏi phải xây dựng
được mơi trường pháp luật thơng thống, bảo vệ được lợi ích chính đáng của các
chủ thể kinh tế trong và ngoài nước, đặc biệt là lợi ích của đất nước. Trong bối
cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia
20
cịn phải tn thủ các chuẩn mực và thơng lệ quốc tế. Trong những năm vừa qua,
hệ thống pháp luật của nước ta đã và đang thay đổi tích cực.
Tạo lập môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế tất yếu phải đầu tư xây
dựng kết cấu hạ tầng của nền kinh tế (bao gồm hệ thống đường bộ, đường sắt,
đường sông, đường hàng không..., hệ thống cầu cống; hệ thống điện, nước; hệ
thống thông tin liên lạc...).
Tạo lập môi trường thuận lợi cho các hoạt động kinh tế cịn là tạo lập mơi
trường văn hóa phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường. Đó là mơi
trường trong đó con người năng động, sáng tạo, tơn trọng kỷ cương, pháp luật;
giữ chữ tín...
2. Điều hịa lợi ích giữa cá nhân – doanh nghiệp – xã hội
Nhà nước cần có các chính sách, trước hết là chính sách phân phối thu nhập
nhằm đảm bảo hài hịa lợi ích kinh tế
Một mặt phải thừa nhận sự chênh lệch thu nhập giữa các tập thể, các cá nhân là
khách quan
Một mặt phải ngăn chặn sự chênh lệch thu nhập quá đáng.
Sự phân hóa xã hội thái quá có thể dẫn đến căng thẳng, xung đột xã hội.
Phân phối không chỉ phụ thuộc vào quan hệ sở hữu, mà còn phụ thuộc vào sản
xuất. Do đó phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, phát triển khoa học
Cơng nghệ sẽ góp phần nâng cao thu nhập cho các chủ thể kinh tế.
=> Đây chính là những điều kiện vật chất để thực hiện ngày càng đầy đủ sự công
bằng xã hội trong phân phối.
3. Kiểm sốt, ngăn ngừa các quan hệ lợi ích có ảnh hưởng tiêu cực đối với
sự phát triển xã hội.
21
Lợi ích kinh tế là kết quả trực tiếp của phân phối thu nhập. Phân phối cơng
bằng, hợp lý góp phần quan trọng bảo đảm hài hịa các lợi ích kinh tế. Do đó,
Nhà nước phải tích cực, chủ động thực hiện công bằng trong phân phối thu nhập.
Hiện nay, cơng bằng trong phân phối có hai quan niệm chính: công bằng
theo mức độ (căn cứ vào mức thu nhập mà mỗi chủ thể nhận được) và công bằng
theo chức năng (căn cứ vào mức đóng góp trong q trình tạo ra thu nhập). Mỗi
quan niệm đều có ưu và nhược điểm riêng, vì vậy cần kết hợp cả hai quan niệm
này. Trước hết, Nhà nước phải chăm lo đời sống vật chất cho mọi người dân. Để
đạt được mức sống tối thiểu, Nhà nước cần thực hiện hiệu quả các chính sách
xóa đói, giảm nghèo, tạo điều kiện và cơ hội tiếp cận bình đẳng các nguồn lực
phát triển, hưởng thụ các dịch vụ xã hội cơ bản. Chú trọng các chính sách ưu đãi
xã hội, vận động người dân tham gia hoạt động đền ơn đáp nghĩa, uống nước
nhớ nguồn. Nhà nước cần có chính sách khuyến khích người dân làm giàu hợp
pháp, tạo điều kiện và giúp đỡ họ bằng mọi biện pháp.
Để lợi ích kinh tế thật sự là động lực của các hoạt động kinh tế, người lao
động và người sử dụng lao động phải có nhận thức và hành động đúng trong lĩnh
vực phân phối thu nhập. Tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức, hiểu biết
về phân phối thu nhập cho các chủ thể kinh tế - xã hội là giải pháp cần thiết để
loại bỏ những địi hỏi khơng hợp lý về thu nhập.
Bên cạnh đó, trong cơ chế thị trường, thu nhập từ các hoạt động bất hợp pháp
như buôn lậu, hàng giả, lừa đảo, tham nhũng… tồn tại khá phổ biến, ngày càng
gia tăng, làm tổn hại đến lợi ích kinh tế của các chủ thể làm ăn chân chính. Để
chống các hình thức thu nhập bất hợp pháp, bảo đảm hài hịa các lợi ích kinh tế
của các chủ thể làm ăn chân chính, trước hết phải có bộ máy nhà nước liêm
chính, có hiệu lực. Bộ máy nhà nước phải tuyển dụng, sử dụng được những
người có tài, có tâm; sàng lọc ra những người khơng có tiêu chuẩn, đồng thời cán
22
bộ công chức phải được đãi ngộ xứng đáng và chịu trách nhiệm đến cuối cùng
mọi quyết định trong phạm vi, chức trách của họ.
Nhà nước phải kiểm soát được thu nhập của công dân, trước hết là thu nhập
của cán bộ, công chức nhà nước. Trước pháp luật, mọi người dân và cán bộ,
cơng chức phải thực sự bình đẳng, mọi vi phạm phải được xét xử theo quy định
của pháp luật.
Việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử lý
vi phạm là đặc biệt cần thiết. Thực hiện tốt hoạt động này không chỉ khắc phục
được bất cập, thực hiện công bằng xã hội, mà quan trọng hơn là ngăn chặn được
các hình thức thu nhập bất hợp pháp.
4. Giải quyết những mâu thuẫn trong quan hệ lợi ích kinh tế.
Mâu thuẫn giữa các lợi ích kinh tế là khách quan, nếu không được giải quyết sẽ
ảnh hưởng trực tiếp đến động lực của các hoạt động kinh tế. Do đó, khi các mâu
thuẫn phát sinh cần được giải quyết kịp thời. Muốn vậy, các cơ quan nhà nước
cần phải thường xuyên quan tâm phát hiện mâu thuẫn và chuẩn bị chu đáo các
giải pháp đối phó.
Khi có xung đột giữa chủ thể kinh tế với nhau, cần có sự tham gia hịa giải của
các tổ chức xã hội có liên quan, đặc biệt là nhà nước. Ngăn ngừa là chính nên khi
mâu thuẫn giữa các lợi ích kinh tế bùng phát có thể dẫn đến xung đột (đình cơng,
bãi cơng, ...). Để giải quyết xung đột giữa các chủ thể kinh tế cần có sự tham gia
của các tổ chức xã hội có liên quan, đặc biệt là nhà nước.
III. LIÊN HỆ THỰC TIỄN QUAN HỆ LỢI ÍCH KINH TẾ VIỆT NAM
1. Nội dung đảm bảo hài hịa lợi ích kinh tế phát triển ở Việt Nam
1.1. Tạo lập điều kiện gia tăng thu nhập cho chủ thể
Mức độ thực tế lợi ích kinh tế phụ thuộc vào số lượng, chất lượng hàng hóa,
dịch vụ mà chủ thể nhận. Ở tầm vĩ mơ, lợi ích kinh tế phụ thuộc tốc độ, chất
23
lượng tăng trưởng, ổn định tăng trưởng kinh tế dài hạn. Đồng thời, phương thức
mức độ thỏa mãn nhu cầu vật chất thực tế môi trường xã hội, môi trường tự
nhiên an tồn, ổn định. Nói cách khác, phát triển theo hướng bền vững tạo cơ sở
đảm bảo cho việc thực hiện lợi ích kinh tế.
Những điều kiện cần tạo lập để gia tăng thu nhập cho chủ thể Việt Nam là
phát triển, hoàn thiện kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường có nhiều ưu việt, thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh, nâng cao thu nhập cho chủ thể kinh tế. Nền kinh
tế thị trưởng phát triển, ưu việt thể hiện đầy đủ. Do đó, đẩy nhanh q trình phát
triển, hoàn thiện kinh tế thị trường là điều kiện cần thiết để nâng cao thu nhập
cho chủ thể kinh tế.
Mơi trường thuận lợi cho hoạt động kinh tế, góp phần nâng cao hiệu hoạt
động kinh tế, từ đó nâng cao thu nhập cho chủ thể kinh tế. Môi trường kinh tế
thuận lợi bao gồm:
o Ổn định chính trị;
o Nâng cao kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, hồn thiện chính sách kinh tế
phù hợp với vận động, phát triển kinh tế hệ thống luật pháp đồng bộ, hồn
thiện, bảo vệ lợi ích đáng của chủ thể kinh tế;
o Phát triển khoa học - công nghệ. Đây là nguồn lực quan trọng, đồng thời là
chìa khóa để nâng cao năng suất lao động, động lực cạnh tranh, từ đó nâng
cao thu nhập cho chủ thế kinh tế.
Trong điều kiện nước ta hiện nay, để phát triển khoa học - cơng nghệ, nhà
nước cần có định hướng đúng đắn, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng khoa học công nghệ, phát triển nguồn nhân lực, phát triển thị trường khoa học - công nghệ,
hợp tác quốc tế khoa học - công nghệ. Nhà nước pháp quyền phải thật sự hành
động vì lợi ích để xứng đáng là người dẫn dắt đất nước. Khi nhà nước pháp
quyền xây dựng, lợi ích kinh tế được bảo vệ, hình thức thu nhập bất hợp pháp
đang dần được hạn chế, loại bỏ hạn chế mâu thuẫn lợi ích kinh tế - xã hội thực tế
24
ở Việt Nam, xây dựng nhà nước pháp quyền phải đặt lãnh đạo Đảng CSVN lên
hàng đầu, phải chọn người có tâm, có tầm có tài, làm việc tại bộ máy nhà nước,
nhân lực tổ chức phải thật bình đẳng trước pháp luật.
Thể chế chính trị, xã hội phải tương hợp với thể chế kinh tế. Đây điều kiện
đảm bảo cho hoạt động kinh tế phát triển nhanh, ổn định. Từ đó nâng cao thu
nhập cho chủ thể kinh tế. Sự tương hợp giữa thể chế trị, xã hội với thể chế kinh
tế địi hỏi thể chế chính trị, xã hội vừa phải vận động, biến đổi phù hợp với yêu
cầu thể chế kinh tế, vừa phải mở đường cho thể chế kinh tế vận động, biến đổi.
Quan hệ tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội để bảo vệ mơi trường phải thật
hài hịa. Giải quyết tốt quan hệ tạo điều kiện tăng trưởng kinh tế nhanh, ổn định,
góp phần nâng cao thu nhập cho chủ thể kinh tế. Sự hài hòa giúp tăng trưởng
kinh tế, phát triển xã hội, bảo vệ mơi trường địi hỏi giải quyết vấn đề, cịn phải
tính đến vấn đề cịn lại tránh xung đột, tối ưu hóa mối quan hệ.
1.2. Hạn chế mâu thuẫn lợi ích kinh tế chủ thể
Dưới tác động quy luật thị trường, phân hóa mức thu nhập, mức sống tầng
lớp dân cư mang tính tất yếu. Điều có nghĩa việc thực hiện lợi ích kinh tế khác
nhau, nguy cơ căng thẳng, xung đột tầng lớp dân cư hoàn toàn có thể xảy ra.
Lịch sử phát triển đất nước trước đây minh chứng cho điều này. Hạn chế gia tăng
giãn cách thu nhập không phải hạn chế gia tăng thu nhập người giàu, mà phải tạo
điều kiện thuận lợi để họ giàu mà phù hợp với lợi ích xã hội. Điều quan trọng là
tạo điều kiện để người nghèo, người thu nhập thấp gia tăng nhanh thu nhập của
họ. Để hạn chế mâu thuẫn lợi ích kinh tế, Nhà nước phải đánh thuế thu nhập với
người có thu nhập cao để trợ cấp, hỗ trợ cho người có thu nhập thấp. Điều quan
trọng hơn, chính sách phân phối thu nhập của nhà nước phải công bằng, hợp lý
để chủ thể có liên quan tự giác thực hiện.
1.3. Xử lý hợp lý xung đột mâu thuẫn lợi ích kinh tế
25
Mâu thuẫn lợi ích kinh tế khách quan khơng kiểm sốt tốt dẫn đến xung đột,
hình thức cụ thể mít tinh, biểu tình, bãi cơng, đập phá nhà xưởng... Sự xung đột
chủ thể làm tổn hại đến lợi ích kinh tế nhiều bên, đặc biệt là lợi ích đất nước.
Nguyên tắc xử lý xung đột là:
o Nhanh chóng chấm dứt xung đột;
o Đặt lợi ích đất nước lên hết;
o Có nhân nhượng giữa các bên tham gia.
Ở Việt Nam năm vừa qua, có những xung đột lợi ích kinh tế xảy ra giữa
người lao động và người sử dụng lao động, hệ thống chính trị nhanh chóng giải
quyết, hạn chế được thiệt hại. Tuy nhiên, đối tượng khiếu kiện với quy mô lớn,
vượt cấp, kéo dài, khiếu kiện đất đai diễn ra phổ biến... Điều này ảnh hưởng
không tốt đến lợi ích đất nước.
2. Đảm bảo hài hịa lợi ích trong một số quan hệ lợi ích cụ thể phát triển ở
Việt Nam
Lợi ích kinh tế thực chất là quan hệ xã hội nên chúng có quan hệ với nhau
thơng qua quan hệ kinh tế chủ thể. Trong kinh tế thị trường, quan hệ kinh tế chủ
thể được thực hiện thông qua thị trường, chịu chi phối theo quy luật thị trường.
Đảm bảo hài hịa quan hệ lợi ích kinh tế giữa người lao động và người sử
dụng lao động
Để thực hiện được lợi ích kinh tế của mình, người lao động và người sử
dụng lao động trước hết phải tham gia thị trường lao động. Trên thị trường này,
người lao động xuất hiện với tư cách người bán, người sử dụng lao động là
người mua. Hai bên cần nhau: người lao động cần việc làm để có thu nhập,
người sử dụng lao động cần thuê lao động để sử dụng cho hoạt động kinh doanh
nhằm mục tiêu lợi nhuận. Điều này đòi hỏi họ phải quan hệ với nhau, làm cho lợi
ích kinh tế của họ thống nhất với nhau. Tuy nhiên, người bán muốn bán giá cao,
26
người mua lại muốn mua với giá thấp. Sự cạnh tranh hai bên hình thành mức giá
(tiền lương) mà hai bên chấp nhận. Đây là thỏa thuận, nhân nhượng, đồng thuận
để hai bên có thể thực hiện lợi ích kinh tế. Thỏa thuận việc thực hiện quá trình
lao động, trình độ người lao động tạo ra giá trị, giá trị thặng dư. Trong q trình
đó, người sử dụng lao động là người tổ chức, quản lý; người lao động là người bị
quản lý. Kết quả của quá trình lao động là hàng hóa, dịch vụ chứa đựng giá trị,
giá trị thặng dư mà người lao động tạo ra. Sau khi tạo ra giá trị, giá trị thặng dư,
người lao động được trả lương, người sử dụng lao động nhận được lợi nhuận.
Lợi ích kinh tế hai bên được thực hiện. Như vậy, quan hệ lợi ích kinh tế của
người lao động và người sử dụng lao động tác động đến thị trường lao động, đến
việc sử dụng sức lao động trong hoạt động sản xuất - kinh doanh, kết thúc việc
thực hiện giá trị, giá trị thặng dư trong thị trưởng hàng hóa, dịch vụ.
Đảm bảo hài hịa quan hệ lợi ích kinh tế giữa những người sử dụng lao động
Những người sử dụng lao động trước hết cạnh tranh với ngành kinh
doanh. Họ cạnh tranh với việc mua yếu tố đầu vào (thuê đất đai, vốn, sức lao
động... ). Cạnh tranh giữa họ làm yếu tố sản xuất tăng lên. Sau khi mua yếu tố
sản xuất cần thiết, người sử dụng lao động tiến hành quá trình sản xuất hàng hóa,
dịch vụ. Để thực hiện lợi ích cạnh tranh với người sản xuất, kinh doanh ngành,
họ phải tìm cách để nâng cao chất lượng hàng hóa, dịch vụ, tiết kiệm từ giảm chi
phí đến mức giá để bán hàng hóa, dịch vụ với mức giá thu hồi vốn mà vẫn có lãi.
Cạnh tranh giữa những người sử dụng lao động trong ngành hình thành nên giá
trị thị trường hàng hóa.
Những người sử dụng lao động trong các ngành kinh doanh khác cạnh
tranh với nhau. Họ di chuyển vốn đầu tư từ ngành có tỷ suất lợi nhuận thấp sang
ngành có tỷ suất lợi nhuận cao. Q trình này chấm dứt chênh lệch tỷ suất lợi
nhuận không cân bằng, hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân. Khi tỷ suất lợi
nhuận bình qn hình thành, hàng hóa, dịch vụ bán theo giá sản xuất (chi phí sản
27