Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

Tài liệu Đề tài " THU HÚT VÀ SỬ DỤNG ODA TRONG PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ TẦNG GIAO THÔNG VẬN TẢI VIỆT NAM " ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (362.15 KB, 62 trang )

------

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP

THU HÚT VÀ SỬ DỤNG ODA TRONG PHÁT
TRIỂN CƠ SỞ HẠ TẦNG GIAO THÔNG VẬN
TẢI VIỆT NAM


Mục lục
Lời nói đầu:...............................................................................................................................3
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ ODA.....................................................................................4
1.Lý luận chung về ODA ........................................................................................................4
1.1Tổng quan về lịch sử phát triển ODA trên thế giới....................................................4
1.2 Định nghĩa ODA và đặc điểm.........................................................................................5
1.3 Phân loại ODA .................................................................................................................6
1.4 Nguồn và đối tượng của ODA .........................................................................................9
2. Vai trò của ODA đối với các quốc gia trên thế giới.....................................................11
2.1 Vai trò của ODA đối với các nước tiếp nhận.............................................................11
3. Vai trò của ODA đối với phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam .................................14
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG THU HÚT VÀ SỬ DỤNG ODA TRONG LĨNH V ỰC
PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ TẦNG GTVT Ở VIỆT NAM TRONG NH ỮNG NĂM G ẦN
ĐÂY.........................................................................................................................................19
1. Thực trạng đường bộ, đường sắt, cảng biển và đường thuỷ nội địa..........................19
1.1 Thực trạng đường bộ .....................................................................................................19
1.2 Thực trạng đường sắt:....................................................................................................22
2. Thực trạng thu hút và sử dụng ODA trong phát triển c ơ s ở h ạ t ầng GTVT trong
những năm gần đây...............................................................................................................24
3. Đánh giá việc sử dụng ODA trong phát triển cơ sở hạ tầng GTVT những năm g ần
đây...........................................................................................................................................26
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG VÀ NÂNG CAO HIỆU QU Ả S Ử D ỤNG


ODA TRONG PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ TẦNG GTVT Ở VIỆT NAM.............................46
1. Đánh giá vai trò của các nước cấp ODA đối với Việt Nam..........................................46
1.1 Vai trò của Nhật Bản......................................................................................................46
1.2 Vai trò của Ngân hàng thế giới (WB)............................................................................48
2. Định hướng của nhà nước về phát triển cơ sở hạ tầng GTVT thông qua các d ự án
ODA .......................................................................................................................................50
3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng ODA trong phát triển c ơ s ở h ạ t ầng
GTVT ......................................................................................................................................55
Kết luận:.................................................................................................................................62


Lời nói đầu:
Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam đang bước vào thời kỳ phát triển kinh tế với tốc độ cao.
Điều kiện không thể thiếu để phục vụ cho phát triển kinh tế là nhu cầu về vốn nhưng nguồn
vốn trong nước lại không đủ đáp ứng được nhu cầu trong giai đoạn này. Do đó một nhiệm
vụ quan trọng được đặt ra là phải thu hút được một cách hiệu quả các nguồn vốn từ bên
ngoài. Vốn đầu tư nước ngồi trong đó nguồn hỗ trợ phát triển chính thức ODA đã đóng
góp vai trị quan trọng trong tiến trình tăng trưởng và hội nhập kinh tế của Việt Nam. Phát
triển cơ sở hạ tầng GTVT, một trong những lĩnh vực được ưu tiên hàng đầu được đầu tư
bằng nguồn ODA đã có những bước phát triển vượt bậc, góp phần đáng kể vào sự phát triển
nền kinh tế quốc dân. Trước tình hình đó khố luận đề cập đến thực trạng thu hút và sử
dụng ODA trong lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng GTVT ở Việt Nam trong những năm gần
đây.
Với tính chất quan trọng đó, khố luận sẽ là những nghiên cứu tổng hợp về vốn ODA
nhằm các mục đích sau:
- Về mặt lý luận, cho biết vị trí và vai trị của ODA trong nền kinh tế Việt Nam nói chung
và trong việc phát triển cơ sở hạ tầng GTVT nói riêng
- Về mặt thực tiễn, trình bày thực trạng việc thu hút và sử dụng vốn ODA vào phát triển cơ
sở hạ tầng GTVT trong giai đoạn từ năm 1993 trở lại đây.
- Đánh giá những thành tựu và tồn tại trong q trình sử dụng ODA vào những mục đích

trên.
- Đề ra một số kiến nghị và giải pháp nhằm thúc đẩy việc thu hút và sử dụng vốn ODA một
cách hiệu quả nhất.
Đối tượng nghiên cứu của khoá luận là toàn bộ hệ thống cơ sở hạ tầng GTVT tại toàn bộ
các tỉnh thành phố trên toàn đất nước Việt Nam được đầu tư từ nguồn vốn ODA trong
những năm gần đây.
Khoá luận sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu, so sánh, tổng hợp và phân tích, kết
hợp với những kết quả thống kê thu được từ thực tiễn, vận dụng lý luận để làm sáng tỏ vấn
đề cần nghiên cứu.
Như vậy, bố cục khoá luận gồm 3 chương:
Chương I
: Tổng quan về ODA
Chương II
: Thực trạng thu hút và sử dụng ODA trong lĩnh vực phát triển cơ sở hạ
tầng GTVT ở Việt Nam những năm gần đây.
Chương III
: Giải pháp tăng cường và nâng cao hiệu quả sử dụng ODA trong phát
triển cơ sở hạ tầng GTVT ở Việt Nam


CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ ODA
1.Lý luận chung về ODA
1.1Tổng quan về lịch sử phát triển ODA trên thế giới
Sau chiến tranh thế giới thứ II, hầu hết các quốc gia tham gia chiến tranh đều bị thiệt hại hết
sức nặng nề và đều phải nhanh chóng tiến hành cơng cuộc khôi phục kinh tế. Tuy nhiên,
khôi phục kinh tế đối với những quốc gia bị thiệt hại trong chiến tranh khơng thể chỉ dựa
vào nội lực mà cịn cần có sự hỗ trợ từ bên ngồi. Từ những lý do đó, nguồn hỗ trợ phát
triển chính thức đã ra đời cùng kế hoạch Marshall nhằm hỗ trợ các nước Châu Âu phục hồi
kinh tế, đặc biệt là phục hồi các ngành công nghiệp bị chiến tranh tàn phá. Các nước châu
Âu để tiếp nhận được các nguồn hỗ trợ này đều đã đưa ra một chương trình phục hồi kinh

tế toàn diện và lập kế hoạch thành lập tổ chức hợp tác kinh tế châu Âu, hiện nay là OECD.
Ngày 14 tháng 12 năm 1960, 20 nước châu Âu đã chính thức ký hiệp định tổ chức kinh tế
và phát triển OECD (Organization for Economic Cooperation and Development). Hiệp định
này chính thức có hiệu lực từ năm 1961 và sau đó có thêm 4 nước là Nhật Bản, Niudilân,
Phần Lan và Australia. Trong khuôn khổ hợp tác phát triển, các nước thành viên OECD đã
lập ra các uỷ ban chun mơn trong đó có uỷ ban viện trợ phát triển DAC (Development
Assistance Committee) để hỗ trợ các nước đang phát triển.
Sau đó, khái niệm về một chính sách viện trợ giúp các nước đang phát triển phục hồi nền
kinh tế đã ra đời với tên gọi: hỗ trợ phát triển chính thức (Official development assistance),
được gọi tắt là ODA.
Ngay từ đầu những năm 1950, phần đông các nước công nghiệp lớn đều viện trợ cho các
nước đang phát triển. Tính đến năm 1980, Mỹ đã viện trợ cho các nước hơn 180 tỷ USD và
là nước tài trợ lớn nhất thời kỳ đó. Ngồi ra cịn có các nước viện trợ lớn khác như Pháp,
Na Uy, Thuỵ Điển,… Liên Xô cũ, Trung Quốc và các nước Đông Âu cũng cung cấp các
khoản viện trợ tới các nước XHCN kém phát triển và một phần tới Trung Đông. Tổng viện
trợ từ các nước XHCN từ năm 1947 tới năm 1980 là 24 tỷ USD.
Năm 1970, để việc hỗ trợ các nước đang phát triển được tiến hành một cách đồng bộ và
hiệu quả, đồng thời mang tính bắt buộc đối với các nước phát triển, lần đầu tiên Đại hội
đồng Liên hợp quốc đã chính thức thơng qua Nghị quyết trong đó quy định chỉ tiêu ODA
bằng 0,7% GNP của các nước phát triển. Theo quyết định này, các nước phát triển sẽ phấn
đấu đạt chỉ tiêu trên vào năm 1985 hoặc muộn nhất vào cuối thập kỷ 80, và đạt 1% GNP
vào năm 2000. Tuy nhiên, trên thực tế việc thực hiện nghĩa vụ này của các nước là rất khác
nhau. Số liệu năm 1990 cho thấy một số nước thực hiện bằng hoặc vượt mức quy định này
như Đan Mạch (0,96%), Thuỵ Điển (0,92%), Hà Lan (0,88% GNP) trong khi một số nước


giàu như Mỹ chỉ trích có 0,17% GNP, Nhật Bản là 0,33% GNP,...(1)
Những năm gần đây, khơng chỉ có các nước cơng nghiệp phát triển mà cịn có một số nước
đang phát triển cũng bắt đầu cung cấp ODA như Ả Rập Xê út, Ấn Độ, Trung Quốc, Đài
Loan, Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan,...

Nhìn chung, ODA đã giúp nhiều nước kém phát triển có được những bước tiến rõ rệt và
vững chắc. Điển hình là Nhật Bản, sau Đại chiến thế giới lần thứ II, nền kinh tế Nhật Bản
kiệt quệ vì chiến tranh, nhưng cho đến nay Nhật Bản đã trở thành một trong số những nước
có nền kinh tế phát triển nhất thế giới và vốn ODA chính là một yếu tố quan trọng đóng góp
cho thành cơng của Nhật Bản. Nguồn vốn này còn phát huy hiệu lực ở nhiều quốc gia khác
trên thế giới như Hàn Quốc, Thái Lan, Singapore,...
Khơng nằm ngồi xu hướng phát triển chung của thế giới, Việt Nam cũng đang cố gắng thu
hút vốn ODA để phát triển nền kinh tế đất nước và coi đây là một nguồn lực quan trọng đặc
biệt cho việc phát triển cơ sở hạ tầng nhằm đưa nền kinh tế tăng trưởng vượt bậc. Do đó,
chúng ta cần tìm hiểu rõ bản chất của ODA, ưu điểm và nhược điểm của nó để có thể thu
hút và sử dụng một cách có hiệu quả nhất. Vậy, hỗ trợ phát triển chính thức ODA là gì?

1.2 Định nghĩa ODA và đặc điểm
1.2.1 Định nghĩa ODA:
Cho đến nay, vẫn chưa có một định nghĩa hồn chỉnh về ODA, dưới đây là một số định
nghĩa mà chúng ta có thể tham khảo:
Hỗ trợ phát triển chính thức ODA là các khoản viện trợ khơng hồn lại hoặc vay với điều
kiện ưu đãi về lãi suất, thời gian ân hạn và trả nợ của các cơ quan chính thức thuộc các
nước và các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi Chính phủ.
Viện trợ phát triển chính thức là hình thức chuyển giao vốn (tiền tệ, vật chất, công nghệ,...)
từ các tổ chức tài chính quốc tế, từ các nước công nghiệp phát triển cho các nước đang phát
triển và chậm phát triển.
Hỗ trợ phát triển chính thức là tất cả các khoản viện trợ khơng hồn lại và các khoản tài trợ
có hồn lại (cho vay dài hạn với một số thời gian ân hạn và lãi suất thấp) của chính phủ, các
hệ thống của tổ chức Liên hợp quốc, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức tài chính quốc
tế (như Ngân hàng thế giới - WB, Ngân hàng phát triển Châu Á - ADB, Quỹ tiền tệ quốc tế
– IMF...) dành cho chính phủ và nhân dân nước nhận viện trợ.
Đặc điểm của ODA:
Tuy nhiên dù hiểu theo bất cứ định nghĩa nào, ODA cũng có những đặc điểm chung sau:
+ Là nguồn vốn tài trợ ưu đãi của nước ngồi, các nhà tài trợ khơng trực tiếp điều

hành dự án, nhưng có thể tham gia gián tiếp dưới hình thức nhà thầu hoặc hỗ trợ chuyên
gia. Tuy nước chủ nhà có quyền quản lý sử dụng vốn ODA, nhưng thông thường danh mục


dự án ODA phải có sự thoả thuận với các nhà tài trợ.
+ Nguồn vốn ODA gồm viện trợ không hoàn lại và các khoản viện trợ ưu đãi. Tuy
vậy, nếu quản lí, sử dụng vốn ODA khơng hiệu quả vẫn có nguy cơ để lại gánh nặng nợ nần
trong tương lai.
+ Các nước nhận vốn ODA phải hội đủ một số điều kiện nhất định mới được nhận
tài trợ. Điều kiện này tuỳ thuộc từng nhà tài trợ.
+ Chủ yếu dành hỗ trợ cho các dự án đầu tư và cơ sở hạ tầng như GTVT, giáo dục
y tế...
+ Các nhà tài trợ là các tổ chức viện trợ đa phương (gồm các tổ chức thuộc Tổ
chức Liên hợp quốc, Liên minh châu Âu, các tổ chức phi chính phủ IMF, WB, ADB) và các
tổ chức viện trợ song phương như các nước thuộc Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
OECD, các nước đang phát triển như Ả Rập xê-út, Tiểu vương quốc Arập, Hàn Quốc, Đài
Loan, Trung Quốc. Các nước cung cấp viện trợ nhiều nhất hiện nay là Mỹ, Nhật, Pháp,
Anh, Australia, Thuỵ Điển...
Các tiêu chuẩn được viện trợ và vay ODA
Tiêu chuẩn được viện trợ và vay ODA thường được xác định trên cơ sở tình hình phát triển
kinh tế xã hội của từng quốc gia, trong đó các tiêu chuẩn cơ bản chủ yếu nhất là GDP tính
theo đầu người và khả năng trả nợ của quốc gia đó. Thơng thường những nước đang phát
triển có mức thu nhập bình qn đầu người một năm thấp hơn mức tối thiểu mới có đủ tiêu
chuẩn để vay ODA. Mức tối thiểu này được điều chỉnh theo thời gian và tuỳ vào chính sách
của từng tổ chức tài trợ. Ví dụ năm 1996 Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB) quy định
mức thu nhập bình quân tối thiểu là 851 USD/người, đối với Ngân hàng Thế giới, con số
này là 1.305 USD/người (2),...
Các điều kiện và thời hạn vay ODA
Các khoản vay ODA dành cho các nước nghèo, kém phát triển thường có lãi suất thấp,
thậm chí khơng có lãi suất, thời hạn trả vốn lâu, thời gian ân hạn dài. Ví dụ như thời gian

hoàn trả vốn của Nhật Bản là 30 năm, của ADB và WB là 40 năm, lãi suất của ADB là
1%/năm, của WB là 0,75%/năm, thời gian ân hạn là 10 năm,... Nếu cán cân thanh tốn và
tình hình kinh tế của nước đi vay được cải thiện một cách đáng kể thì thời hạn các khoản
vay có thể được điều chỉnh nhằm thể hiện những thay đổi to lớn trong tình hình kinh tế của
từng nước. Tuy nhiên, nếu sự điều chỉnh đó làm nền kinh tế của quốc gia vay vốn bị bất ổn
thì có thể điều chỉnh lại.

1.3 Phân loại ODA
1.3.1 Phân loại ODA theo nguồn cung cấp và nơi tiếp nhận
Phân loại theo nguồn cung cấp


Nếu phân loại theo nguồn cung cấp, ODA có thể chia làm 2 loại:
+ ODA song phương: là viện trợ phát triển chính thức của chính phủ nước này dành cho
chính phủ nước kia. Hiện nay, trong số các nước cung cấp ODA song phương, Nhật Bản và
Mỹ là những nước dẫn đầu thế giới.
+ ODA đa phương: là viện trợ phát triển chính thức của một tổ chức quốc tế (như Ngân
hàng phát triển Châu Á, Liên minh Châu Âu,...) hoặc của chính phủ một nước dành cho
chính phủ một nước khác nhưng được thực hiện thông qua các tổ chức phương như
Chương trình phát triển Liên hiệp quốc (UNDP) hay Quỹ nhi đồng Liên hiệp quốc
(UNICEF),...
Phân loại theo nước tiếp nhận
Nếu phân loại theo nước tiếp nhận ODA, có thể chia ODA làm hai loại:
+ ODA thơng thường: là hỗ trợ cho nước có thu nhập bình qn đầu người thấp.
+ ODA đặc biệt: là hỗ trợ cho các nước đang phát triển với thời hạn cho vay ngắn, lãi suất
cao hơn so với ODA thông thường.
Phân loại ODA theo tính chất
Thơng thường ODA gồm hai phần: phần khơng hồn lại và phần hồn lại với điều kiện ưu
đãi (lãi suất thấp, thời gian ân hạn dài,...) Phần khơng hồn lại lớn hay nhỏ tuỳ thuộc vào
khả năng tài chính và hảo tâm của chủ tài trợ, thơng thường chiếm khoảng 15% tổng số

ODA. Phần hoàn lại với điều kiện ưu đãi chiếm phần lớn ODA. Như vậy, nếu phân loại
theo tính chất, ODA có thể chia thành hai loại chính: Viện trợ khơng hồn lại và viện trợ có
hồn lại. Ngồi ra, cịn có một phần nhỏ ODA được thực hiện dưới dạng viện trợ hỗn hợp,
nghĩa là ODA một phần cấp khơng, phần cịn lại thực hiện theo hình thức vay tín dụng, có
thể ưu đãi hoặc bình thường.
Viện trợ khơng hồn lại
Viện trợ khơng hồn lại là viện trợ cấp không, không phải trả lại và thường được thực hiện
dưới hai dạng sau đây:
+ Hỗ trợ kỹ thuật (Technical Assistance - TA): là việc chuyển giao công nghệ hoặc truyền
đạt những kinh nghiệm xử lý, bí quyết kỹ thuật cho nước nhận ODA nhờ sự trợ giúp của
các chuyên gia quốc tế. Tuy nhiên, trong hình thức viện trợ này thì lương của các chuyên
gia quốc tế lại chiếm phần đáng kể trong tổng giá trị viện trợ.
+ Viện trợ nhân đạo bằng hiện vật: Các nước tiếp nhận ODA dưới hình thức hiện vật như
lương thực thực phẩm, thuốc men, vải vóc... Tuy nhiên, đơn giá tính cho những hàng hố
này thường tương đối cao. Chính vì thế, rất khó huy động những hàng hố này vào mục
đích đầu tư phát triển. Hơn nữa cũng cần nhận thấy rằng các khoản viện trợ không hoàn lại
thường kèm theo một số điều kiện về tiếp nhận, về đơn giá mà nếu nước chủ nhà có tiền
chủ động thực hiện thì chưa chắc đã cần đến những hàng hố hay kỹ thuật đó, hay ít nhất


cũng áp dụng một đơn giá thấp hơn nhiều lần. Đây chính là lý do tại sao tỉ trọng viện trợ
khơng hồn lại trong tổng số hỗ trợ phát triển chính thức có xu hướng ngày càng giảm.
Viện trợ có hồn lại
Viện trợ có hồn lại thực chất là vay tín dụng với điều kiện ưu đãi. Tính chất ưu đãi của các
khoản viện trợ được thể hiện ở những mặt sau:
- Lãi suất thấp: lãi suất áp dụng cho các khoản vay tín dụng ưu đãi của WB là 0,75%/năm,
của ADB là 1%/năm, của Nhật Bản dao động trong khoảng 0,75-2,3%/năm,...
- Thời hạn vay dài hạn: Nhật cho Việt Nam vay trong 30 năm, Ngân hàng thế giới cho Việt
Nam vay trong 40 năm,...
- Thời gian ân hạn (thời gian từ khi vay đến khi trả vốn gốc đầu tiên) dài: ADB, Nhật Bản

cho Việt Nam thời gian ân hạn 10 năm,...
Chính vì những tính chất ưu đãi này nên ở các nước, ODA dưới dạng các khoản vay ưu đãi
thường được sử dụng để đầu tư vào các dự án phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, tạo
điều kiện thuận lợi cho sản xuất và đời sống.
Phân loại ODA theo điều kiện
ODA có hai loại: khơng điều kiện và có điều kiện. Trên thực tế, chỉ có Thuỵ Điển là nước
duy nhất cấp ODA khơng điều kiện. Còn lại các nước viện trợ khi cấp ODA thường gắn với
những điều kiện cụ thể về kinh tế, chính trị,… Ngồi ra, cịn có loại ODA ràng buộc một
phần, tức là một phần ở cấp viện trợ, phần cịn lại có thể chi tiêu ở các cấp khác tuỳ theo
nước nhận tài trợ.
ODA không ràng buộc
ODA không ràng buộc nghĩa là việc sử dụng nguồn tài trợ khơng bị ràng buộc bởi nguồn sử
dụng hay mục đích sử dụng mà có thể chi tiêu ở bất kỳ lĩnh vực nào hay khu vực nào.
ODA có ràng buộc
ODA có ràng buộc nghĩa là bắt buộc phải chi tiêu ở cấp, ở lĩnh vực viện trợ. Nước nhận
ODA có thể bị ràng buộc bởi nguồn sử dụng hoặc mục đích sử dụng.
ODA bị ràng buộc bởi nguồn sử dụng: nghĩa là việc mua sắm hàng hoá hay trang thiết bị
hay dịch vụ bằng ODA đó chỉ giới hạn cho một số công ty do nước tài trợ sở hữu hoặc
kiểm sốt (đối với tài trợ song phương), hoặc cơng ty của nước thành viên (đối với viện trợ
đa phương).
ODA bị ràng buộc bởi mục đích sử dụng: nghĩa là nguồn ODA cung cấp chỉ được sử dụng
cho một số lĩnh vực nhất định hoặc một số dự án cụ thể.
Phân loại ODA theo hình thức
Hỗ trợ cán cân thanh toán
Hỗ trợ cán cân thanh toán thường là hỗ trợ tài chính trực tiếp nhưng đơi khi cũng có thể là
hiện vật thơng qua hỗ trợ hàng hố hoặc hỗ trợ nhập khẩu. Ngoại tệ hoặc hàng hoá chuyển


vào trong nước qua hình thức hỗ trợ cán cân thanh tốn có thể được chuyển hố thành hỗ
trợ ngân sách. Điều này xảy ra khi hàng hoá nhập vào nhờ hình thức này được bán trên thị

trường trong nước, và số thu nhập bằng bản tệ được đưa vào ngân sách của Chính phủ.
Tín dụng thương mại
ODA có thể thực hiện dưới dạng tín dụng thương mại với các điều khoản "mềm" như lãi
suất thấp, hạn trả dài,...
Viện trợ chương trình
Viện trợ chương trình (cịn gọi là hỗ trợ phi dự án) là viện trợ khi đạt được một hiệp định
với đối tác viện trợ nhằm cung cấp một khối lượng ODA cho một mục đích tổng quát trong
một thời hạn nhất định, mà không phải xác định một cách chính xác nó sẽ được sử dụng
như thế nào.
Hỗ trợ dự án
Hỗ trợ dự án là hình thức chủ yếu của hỗ trợ phát triển chính thức, có thể liên quan đến hỗ
trợ cơ bản hoặc hỗ trợ kỹ thuật, và thông thường các dự án phải được chuẩn bị rất kỹ lưỡng
trước khi thực hiện.
Hỗ trợ cơ bản: chủ yếu là các dự án về xây dựng (đường xá, cầu cống, đê đập, điện năng,
viễn thông, trường học, bệnh viện,...). Thơng thường các dự án này có kèm theo một bộ
phận của viện trợ kỹ thuật dưới dạng thuê chuyên gia nước ngoài để kiểm tra những hoạt
động nhất định nào đó của dự án hoặc để soạn thảo xác nhận các báo cáo cho đối tác viện
trợ.
Hỗ trợ kỹ thuật: chủ yếu là các dự án tập trung vào chuyển giao tri thức (know-how) hoặc
tăng cường cơ sở lập kế hoạch, cố vấn, nghiên cứu tình hình cơ bản trước khi đầu tư.

1.4 Nguồn và đối tượng của ODA
1.4.1 Nguồn cung cấp ODA
Như đã đề cập trong định nghĩa về ODA, nguồn cung cấp ODA có thể đến từ các chính
phủ, các tổ chức liên chính phủ, các tổ chức phi chính phủ. Như vậy, hiện nay, nguồn viện
trợ ODA đối với các nước đang phát triển gồm các loại sau:
+ Chính phủ nước ngồi và các cơ quan đại diện cho hợp tác phát triển của chính phủ nước
ngồi ví dụ như: Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản - JICA, Ngân hàng hợp tác quốc tế
Nhật Bản - JBIC, Cơ quan phát triển quốc tế Australia - AUSAID, Hội đồng viện trợ hải
ngoại Australia ACFOA; Cơ quan viện trợ chính thức Nauy - NORAD,...

+ Các tổ chức phát triển Liên hiệp quốc (LHQ), bao gồm: Chương trình Phát triển Liên
hiệp quốc (UNDP), Quỹ Nhi đồng Liên hiệp quốc (UNICEF); Chương trình Lương thực
Thế giới (WFP); Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên hiệp quốc (FAO); Quỹ Dân
số Liên hiệp quốc (UNFPA); Quỹ Trang thiết bị của Liên hiệp quốc (UNCDF); Tổ chức


Phát triển Công nghiệp của Liên hiệp quốc (UNIDO); Cao uỷ Liên hiệp quốc về Người tị
nạn (UNHCR); Tổ chức Y tế Thế giới (WHO); Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế
(IAEA); Tổ chức Văn hoá, Khoa học và Giáo dục của LHQ (UNESCO);...
+ Các tổ chức Liên chính phủ, bao gồm: Liên minh Châu Âu (EU), Tổ chức hợp tác kinh tế
và phát triển (OECD), Hiệp hội các nước ASEAN...
+ Các tổ chức Tài chính quốc tế bao gồm: Ngân hàng Thế giới (WB); Ngân hàng Phát triển
Châu Á (ADB); Quỹ các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC); Ngân hàng Đầu tư Bắc Âu
(NIB) và Quỹ Phát triển Bắc Âu (NID); Quỹ Quốc tế về Phát triển nông nghiệp (IFAD),...
(trừ Quỹ tiền tệ Quốc tế IMF).
Đối tượng của ODA
ODA của các tổ chức và các quốc gia trên thế giới chỉ tập trung vào những nước có thu
nhập bình quân đầu người thấp, đặc biệt là những nước ở dưới mức 220 USD/người, năm.
Mặc dù vậy, việc xem xét một quốc gia có đủ điều kiện để được viện trợ ODA hay khơng
cịn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác trong đó quan trọng nhất lại là chính sách ngoại
giao, tiếp đến là mức độ ổn định chính trị- kinh tế -xã hội và lộ trình cam kết phát triển kinh
tế xã hội của quốc gia đó. Do đó, một quốc gia có mức thu nhập bình quân đầu người cao
hơn 220 USD/ người, năm vẫn có thể thu hút lượng ODA lớn hơn nhiều lần so với một
nước có thu nhập thấp hơn 220 USD/người, năm. Điều kiện về thu nhập luôn luôn được
nhắc đến trong việc cấp ODA nhưng đó chỉ là điều kiện cần chứ không hẳn là điều kiện đủ
để một quốc gia trở thành nước được nhận viện trợ. Do vậy, năng lực của bộ máy lãnh đạo
của một quốc gia cũng chính là điều kiện quyết định khả năng thu hút ODA của quốc gia đó
vì đơi khi việc tăng hoặc giảm quyết định viện trợ cũng do các lý do chính trị chứ khơng
phải lý do viện trợ kinh tế theo đúng nghĩa của nó.
Sau khi đã ký các cam kết viện trợ, để được tiếp nhận nguồn viện trợ ODA, các nước phát

triển phải tuân theo các điều kiện của nguồn hỗ trợ và từng dự án, chương trình.
Một yêu cầu nữa đối với nước nhận viện trợ là uy tín của nước đó và những tiến bộ đạt
được thơng qua q trình sử dụng vốn viện trợ của các nước này. Đây là tiền đề quan trọng
tạo thuận lợi cho nước tiếp nhận ODA có được sự tin tưởng từ phía các nhà tài trợ qua đó
tiếp tục và nhận được nhiều sự ủng hộ hơn nữa.
Ngoài những yêu cầu được đặt ra ở trên, nước nhận viện trợ, thường là những nước đang
phát triển còn gặp một khó khăn khơng nhỏ đó là nguồn vốn đối ứng theo yêu cầu của từng
dự án, từng giai đoạn của dự án. Khi các nước đó gặp phải khó khăn về kinh tế hoặc do sự
yếu kém của các cơ quan thi hành, việc không đáp ứng đủ nguồn vốn đối ứng sẽ làm chậm
tiến độ giải ngân, làm chậm thời gian đưa cơng trình vào sử dụng, tăng chi phí thực hiện dự
án và làm giảm sút uy tín đối với nhà tài trợ.


2. Vai trò của ODA đối với các quốc gia trên thế giới
2.1 Vai trò của ODA đối với các nước tiếp nhận
2.1.1 Những tác động tích cực
Các nước đang phát triển nói chung và đối với Việt Nam nói riêng muốn đẩy mạnh nền
kinh tế thì phải có một lượng vốn lớn để tập trung đầu tư cho một số lĩnh vực đặc biệt là cơ
sở hạ tầng còn ở mức rất thấp. Do đó khơng thể chỉ dựa vào nguồn lực trong nước mà còn
phải biết tận dụng nguồn vốn từ bên ngoài. Một thực tế là muốn phát triển kinh tế, các nước
đều phải có một khoản đầu tư tương xứng (ví dụ như muốn đạt được tốc độ tăng trưởng
kinh tế khoảng 10% như Việt Nam thì cần đầu tư một lượng tiền vốn khoảng 30% GDP).
Mà thực tế các nước này chỉ có mức tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế chỉ dưới 10% GDP.
Đáp ứng yêu cầu trên, nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức có đặc thù là lãi suất vay
thấp, thời hạn dài (thường từ 15 - 40 năm lại thêm thời gian ân hạn từ 10 đến 20 năm),vốn
đầu tư tập trung lớn, có thể lên tới hàng trăm triệu USD cho một dự án. Bên cạnh đó nguồn
vốn này nhằm hỗ trợ các nước nghèo giải quyết các vấn đề trên, điều mà nguồn vốn tư bản
(đầu tư trực tiếp) không bao giờ làm được.
Tuy xét về mối quan hệ thì ODA và tăng trưởng kinh tế khơng hồn tồn tỉ lệ thuận tức là
khơng phải cứ viện trợ tăng lên thì tăng trưởng kinh tế cũng tăng lên. Tăng trưởng kinh tế

còn phụ thuộc vào khả năng quản lý tốt của nước nhận viện trợ. Trong điều kiện quản lý
tốt, thêm 1% viện trợ trong GDP thì tăng trưởng kinh tế tăng thêm là 0.5%.
ODA giúp tăng thu nhập bình quân đầu người dẫn đến tăng phúc lợi và mức sống cho
người dân từ đó thúc đẩy phát triển. Ví dụ vào năm 1966, Thái Lan là nước nghèo với thu
nhập dưới mức 1 USD/ngày (theo thời giá 1985), tỷ lệ tử vong sơ sinh năm 1967 là 0,84%.
Tuy nhiên nước này đã có những biến đổi mạnh mẽ, nhất là những năm cuối thập kỷ 80 và
đầu thập kỷ 90. Những thành tựu này được đánh giá là có vai trị quan trọng của viện trợ
ODA.
ODA giúp đầu tư vào con người mà vấn đề quan trọng nhất là các dự án liên quan đến phổ
cập giáo dục và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng. Vấn đề này càng trở nên cấp thiết vì theo
thống kê gần đây của WB trong số gần 5 tỷ người sống ở các nước đang phát triển là thành
viên của WB thì có:
3 tỷ người sống dưới mức 2 USD/ngày và khoảng 1,3 tỷ người sống dưới mức 1 USD/ngày.
Mỗi ngày có 40.000 người chết do các bệnh liên quan đến hô hấp.
130 triệu trẻ em trong độ tuổi không có cơ hội đến trường.
1,3 tỷ người khơng có cơ hội tiếp cận với nguồn nước sạch.
ODA cũng có vai trị đối với cơng cuộc cải tổ kinh tế của chính phủ các nước đang phát
triển qua các dự án, chương trình hỗ trợ năng lực, cải tổ cơ cấu các tổ chức, các cơ quan


chức năng của chính phủ.
Hơn nữa việc sử dụng ODA còn mang lại nhiều thuận lợi khác cho các quốc gia đang phát
triển trong công cuộc cải cách kinh tế nhờ những ưu điểm sau:
Vốn ODA sẽ giúp nước nhận tài trợ có cơ hội ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật và
công nghệ trên thế giới. Tuy các nước công nghiệp phát triển không muốn chuyển giao
công nghệ cao cho các nước nhận viện trợ nhưng những công nghệ được chuyển giao cũng
tương đối hiện đại so với trình độ của các nước này. Trong quá trình thực hiện, nước viện
trợ thường cử chuyên gia sang hướng dẫn thực hiện dự án do đó cán bộ của nước nhận viện
trợ có thể học hỏi được rất nhiều kinh nghiệm đáng quý.
Vốn ODA cũng giúp nước nhận viện trợ có cơ hội đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước

mình. Khi thực hiện các dự án có vốn nước ngoài, các cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật cũng
như cơng nhân sẽ có cơ hội tiếp thu cơng nghệ mới, làm quen với các quy trình làm việc
khoa học và hiện đại, đồng thời rèn luyện được tác phong làm việc cơng nghiệp.
Tóm lại, ODA đóng một vai trò hết sức qua trọng đối với việc phát triển kinh tế của các
nước đang phát triển đặc biệt là trong lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội do
tính chất ưu đãi đặc thù của nguồn vốn này. Tuy vậy, việc sử dụng nguồn vốn này khơng
phải là khơng có hạn chế.
ODA và nguy cơ phụ thuộc của các nước tiếp nhận
Tuy nhiên, đối với nước tiếp nhận, nguồn hỗ trợ song phương tạo điều kiện giúp tăng
trưởng và phát triển kinh tế đồng thời họ cũng phải chấp nhận những điều kiện ràng buộc
rất chặt chẽ từ phía các nước tài trợ. Những ràng buộc này có thể xuất phát từ lý do kinh tế
cũng có thể là ràng buộc về chính trị. Ví dụ năm 2003 này Mỹ sẵn sàng viện trợ và cho Thổ
Nhĩ Kỳ vay một khoản tiền lớn để đổi lấy việc Thổ Nhĩ Kỳ cho phép Mỹ đóng quân trong
cuộc chiến tranh tấn công I-rắc.
Kinh nghiệm phát triển 50 năm qua của thế giới cho thấy. Những nước tiến hành phát triển
dựa trên việc tăng cường và sử dụng nguồn vốn trong nước tiết kiệm được đồng thời hạn
chế tối thiểu vay nợ nước ngoài là những nước đã đạt được kết quả phát triển tốt và bền
vững. Trái lại, một số nước đang phát triển trông cậy q nhiều vào viện trợ tài chính của
nước ngồi, đặc biệt là các khoản vay nợ, hiện vẫn đang nằm trong danh sách những nước
mất cân đối và lệ thuộc vào nước ngoài.
Trong xu hướng phát triển hiện nay, toàn cầu hố là một xu hướng khơng thể tránh khỏi,
các nước phát triển hay các nước đang phát triển cũng đều muốn thúc đẩy quá trình này vì
về bản chất nó đem lại lợi ích cho tất cả các quốc gia. Nếu xem xét một cách cụ thể, các
nước đang phát triển đều phải trả giá cho tiến trình hội nhập vì đều phải chấp nhận các điều
kiện để được nhận viện trợ. Các điều kiện này đôi khi không thể thực hiện được hoặc nếu
thực hiện được thì hậu quả về mặt xã hội mà nó gây ra cịn to lớn hơn lợi ích mà nó mang


lại. Có các yêu sách để viện trợ đi ngược lại với lợi ích quốc gia hoặc khơng phù hợp với
đường lối phát triển kinh tế của quốc gia đó. Chính điều này đã khiến chính phủ nhiều nước

từ chối các khoản viện trợ do sức ép từ bên trong.
Với các lý do nêu trên, các nước đang phát triển ln phải cân nhắc để vừa có thể tận dụng
tối đa các nguồn viện trợ lại không bị rơi vào nguy cơ lệ thuộc. Các nước đang phát triển
phải luôn có chính sách mềm dẻo và linh hoạt để tranh thủ tối đa các nguồn viện trợ khơng
hồn lại đồng thời sử dụng có hiệu quả nhất các khoản vay.
Các nước đang phát triển cần chọn lọc đúng các dự án có hiệu quả kinh tế, đảm bảo hồn
vốn để có thể xây dựng lộ trình trả nợ hợp lý. Đồng thời đẩy mạnh các hình thức đầu tư
khác nhằm phát triển các ngành công nghiệp xuất khẩu thu ngoại tệ để trả nợ vì đơi khi lãi
suất vay thấp không đủ để bù lại những thiệt hại do sự thay đổi tỷ giá.
Vai trò của ODA đối với việc mở rộng thị trường của các nước cung cấp
Xu thế đầu tư quốc tế trong những năm cuối của thế kỷ đã cho thấy các khu vực thu hút đầu
tư mạnh mẽ khơng cịn là các nước tư bản phát triển, thay vào đó là các nước đang phát
triển, đặc biệt là khu vực Đơng Nam Á. Chính vì vậy việc cải tạo, đổi mới cơ sở hạ tầng
cũng như kiến trúc thượng tầng lên một trình độ phát triển cao hơn, tạo điều kiện cho đầu
tư có hiệu quả khơng cịn là nhu cầu của riêng các nước đang phát triển mà nó đã trở thành
mong muốn của cả các nước phát triển, đặc biệt trong xu thế toàn cầu hoá.
Nhu cầu mở rộng thị trường của các nước phát triển đang thúc đẩy các nước này đầu tư
mạnh mẽ vào các nước đang phát triển hơn bao giờ hết. Khi các nước đang phát triển có
một cơ sở hạ tầng phát triển ở một mức độ nhất định, một kiến trúc thượng tầng hoạt động
có hiệu quả thì các nhà đầu tư mới có thể yên tâm với các quyết định đầu tư trong tương lai
của mình. Để thúc đẩy đầu tư trực tiếp, các nước đang phát triển cần phải phát triển cơ sở
hạ tầng và hoàn thiện kiến trúc thượng tầng nhưng việc này lại rất khó thực hiện với nguồn
vốn hạn hẹp của các nước đang phát triển, đặc biệt là đầu tư cho cơ sở hạ tầng.
Ngoài ra, nguồn hỗ trợ ODA song phương tạo điều kiện thuận lợi cho nước viện trợ trong
việc củng cố vị thế chính trị cũng như kinh tế. ODA giúp các nước phát triển dễ dàng tìm
hiểu thị trường của các nước đang phát triển, vươn ra để chiếm lĩnh và mở rộng thị trường,
khai thác tài nguyên phong phú và nhân lực dồi dào từ nước nhận viện trợ, tiêu thụ được
hàng hố thơng qua các điều kiện ràng buộc như buộc các nước nhận viện trợ phải mua
hàng, thiết bị, cơng nghệ... có khi với giá cao hơn so với giá trên thị trường thế giới, ràng
buộc về tỷ lệ tham gia trong tổng trị giá dự án... Ví dụ như Nhật bản, một đối tác song

phương lớn nhất thế giới về ODA, thì 1/2 kim ngạch ngoại thương năm 1997 là buôn bán
với các nước đang phát triển là những nước nhận ODA từ Nhật bản. Viện trợ ODA chính là
sự mở đường cho các loại hình đầu tư trực tiếp khác.


3. Vai trò của ODA đối với phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam
Từ sau năm 1990, kinh tế xã hội nước ta bắt đầu thay đổi, công cuộc xây dựng phát triển
kinh tế của chúng ta có nhiều thuận lợi nhưng cũng gặp phải khơng ít khó khăn.
Trong bối cảnh như vậy, chúng ta đã biết phát huy những thành tựu đã đạt được, vượt qua
những khó khăn và đã thu được thắng lợi trên tất cả các lĩnh vực. Những sự kiện nổi bật
của quan hệ đối ngoại có ý nghĩa quan trọng đối với hợp tác phát triển trong thời gian này
là:
Tháng 10 năm 1993, Việt Nam nối lại quan hệ với Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng
Thế giới (WB) và Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB).
Tháng 11 năm 1993, Hội nghị lần thứ nhất các nhà tài trợ cho Việt Nam họp tại Pari mở ra
giai đoạn hợp tác phát triển giữa nước ta với cộng đồng các nhà tài trợ. Từ đó đến nay đã có
6 Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ dành cho Việt Nam được tổ chức.
Tháng 12 năm 1993, Hội nghị các nước thành viên Câu lạc bộ Pari ra khuyến nghị xoá và
giảm nợ cho Việt Nam.
Ngày 3 tháng 2 năm 1994, Mỹ xoá bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam. Tháng 8 năm 1994,
Thượng nghị viện Mỹ bãi bỏ lệnh cấm viện trợ cho Việt Nam áp dụng từ hơn hai thập kỷ
qua.
Ngày 28 tháng 7 năm 1995, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội các
quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).
Ngày 7 tháng 4 năm 1997, Việt Nam và Mỹ ký Hiệp định về việc xử lý và cơ cấu lại số nợ
của Việt Nam với Mỹ và cơ quan phát triển quốc tế Mỹ (USAID). Đây là văn bản song
phương cuối cùng về xử lý nợ của Việt Nam với các nước trong khuôn khổ biên bản thoả
thuận khung tại Câu lạc bộ Pari..
Tháng 4 năm 1999, Hội thảo quốc tế về quan hệ đối tác được tổ chức tại Hà Nội.
Do có sự đẩy mạnh cơng tác thu hút đầu tư cùng với những chính sách đúng đắn của Đảng

và Nhà nước về việc cải thiện môi trường đầu tư, chúng ta đã thu hút được một lượng lớn
cả vốn đầu tư trực tiếp và vốn ODA vào Việt Nam. Những nguồn vốn này chủ yếu được
đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cũng như nhà xưởng và máy móc thiết bị phục vụ cho việc
sản xuất, trong đó vốn ODA chủ yếu dành cho các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng và chính là
biện pháp hiệu quả để thu hút đầu tư trực tiếp.
Sơ lược về tình hình vận động, cam kết và giải ngân ODA dành cho Việt Nam
Trong khi khẳng định nguồn nội lực giữ vị trí quyết định, Việt Nam hết sức coi trọng các
nguồn vốn nước ngoài. Cùng với nguồn vốn đầu tư trực tiếp FDI, nguồn vốn hỗ trợ phát
triển chính thức ODA là đã đóng góp một nguồn vốn ngoại lực bổ sung hết sức quý báu góp
phần thay đổi mọi mặt của đời sống kinh tế xã hội, có những đóng góp quan trọng trong


tiến trình hội nhập kinh tế của nước ta.

Biểu đồ 1:

ODA cam kết và ODA giải ngân giai đoạn 1993 n 2002

3000
2600
2430

2500

2400

2400
2200

Triệu US$


2000 1810

2400

ODA cam kết

2100

1940

ODA giải ngân
1650
1500

1500

1242
900

1000
725

500

2500

1995

1350


1000

737

1994

1530

413

0
1993

1996

1997

1998

1999

2000

2001

2002

Năm


(Ngun: B K hoạch và Đầu Tư)(3)
Kể từ khi nguồn ODA được chính thức viện trợ trở lại cho Việt Nam trong những năm gần
đây, ODA cam kết tuy có giảm trong hai năm 1997 và 1998 do ảnh hưởng của cuộc khủng
hoảng tài chính khu vực nhưng đã tăng lại từ năm 1999 đến nay. Nhìn chung nguồn ODA
dành cho Việt Nam có xu hướng tăng, đặc biệt là nguồn ODA đã giải ngân, đây là dấu hiệu
đáng mừng trong khi ODA đang có xu thế giảm ở các nước và các khu vực khác.
Qua biểu đồ trên ta thấy rõ sự tăng đều đặn qua các năm của ODA đã giải ngân. Điều này
chứng tỏ năng lực của các cơ quan chức năng liên quan đến việc triển khai và thực thi các
dự án ODA đã có những bước tiến bộ, thu nhặt được nhiều kinh nghiệm và đẩy nhanh tốc
độ giải ngân qua các năm.
Năm 1993, năm đầu tiên sau nhiều năm gián đoạn, Việt Nam tiếp nhận và quản lý nguồn
ODA, lượng giải ngân chỉ đạt 413 triệu USD trên tổng số 1.810 triệu USD cam kết, chiếm
tỷ lệ rất thấp là 22.8%. Đến năm 1998, lượng giải ngân đạt 1.242 triệu USD trên 2.200 triệu


USD cam kết, chiếm tỷ lệ 56.5%. Tỷ lệ này đã đạt 66.9 % vào năm 2000 với 1.650 triệu
USD đã giải ngân trên 2.600 triệu USD cam kết.
Bảng 1: Tổng hợp phân tích ODA giai đoạn 1993 - 2002

Năm

ODA
cam Tỷ lệ tăng ODA ODA đã giải Tỷ lệ tăng ODA Tỷ lệ ODA giải
kết
cam kết năm sau ngân từng năm giải ngân năm sau ngân/cam
kết
(Triệu USD) so với
(Triệu USD)
so với
của từng năm

năm trước
năm trước
(%)
(%)
(%)

1993

1.810

-

413

-

22.8%

1994

1.940

107,2%

725

175,5%

37,4%


1995

2.600

134,0%

737

101,7%

28,3%

1996

2.430

93,5%

900

122,1%

37,0%

1997

2.400

98,8%


1.000

111,1%

41,7%

1998

2.200

91,7%

1.242

124,2%

56,5%

1999

2.100

95,5%

1.350

108,7%

64,3%


2000

2.400

114,3%

1.650

118,9%

67,9%

2001

2.400

100,0%

1.500

90,9%

62,5%

2002

2.500

104,2%


1.530

102,0%

61,2%

(Nguồn Bộ Kế hoạch Đầu Tư) (4)
Chỉ trong năm tháng đầu năm 2001, đã có thêm 800 triệu USD ODA được hợp thức hoá
bằng các hiệp định ký kết giữa Chính Phủ nước ta với các Nhà tài trợ quốc tế, gần bằng
47% tổng giá trị các hiệp định đã ký kết năm 2000. Trong năm 2001, tổng vốn ODA giải
ngân là khoảng 1.500 triệu USD, giảm so với năm 2000, trong đó có 1.187 triệu USD vốn
vay và 313 triệu USD vốn viện trợ không hoàn lại. Các nhà tài trợ dẫn đầu là Nhật Bản
chiếm 45.3% (652,5 triệu USD), WB chiếm 18.7% (280,5 triệu USD), ADB chiếm 13.1%
(196,5 triệu USD), phần còn lại 22.9% (343,5 triệu USD) là của các nhà tài trợ khác. Tiếp
đó vào năm 2002 bằng các hiệp định ký kết với đại diện các nhà tài trợ số vốn ký kết đạt
hơn 1.574 triệu USD, giảm 26% so với kết quả của năm 2001. Trong đó vốn vay là gần
1.334,7 triệu USD, viện trợ khơng hồn lại khoảng 239,4 triệu USD.
Theo Bộ kế hoạch và đầu tư, nguyên nhân đạt thấp chủ yếu do vốn vay cho một số dự án
qui mô lớn chưa ký kết được hiệp định. Nhưng kết quả lớn hơn đạt được là kết quả giải
ngân vốn hiệp định, tức là số vốn đã được luật hoá. Số vốn này được giải ngân vào khoảng


1.527 triệu USD vào năm 2002 bao gồm 1.207 triệu USD vốn vay và 320 triệu USD khơng
hồn lại, nghĩa là vốn viện trợ được giải ngân khá tốt nhưng vốn vay đạt thấp.
Như vậy kể từ năm 1993 đến nay, tổng vốn ODA được các nhà tài trợ cam kết dành cho
Việt Nam lên đến 22,43 tỷ USD, chưa kể phần tài trợ riêng để cải cách kinh tế. Trong đó
tính đến hết năm 2002 tổng số vốn được hợp thức hoá bằng các hiệp định đạt khoảng 16,5
tỷ USD và tổng số vốn đã được giải ngân đạt khoảng 11,4 tỷ USD. Rõ ràng tỷ lệ vốn giải
ngân đạt chưa cao so với vốn hiệp định và so với vốn cam kết thì cịn thấp hơn nữa, chỉ đạt
49,2%. Theo "Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xố đói giảm nghèo" đã được chính

phủ phê duyệt và công bố tại văn bản số 2685/VPCP-QHQT ngày 21 tháng 5 năm 2002 thì
trong thời kỳ 2001-2005 Việt Nam cần thực hiện số vốn ODA trị giá khoảng 9 tỷ USD
(theo giá năm 2000), bao gồm khoảng 7,5 tỷ USD vốn vay và khoảng 1,5 tỷ USD vốn viện
trợ không hoàn lại. Nghĩa là mỗi năm cần thực hiện khoảng 1,8 tỷ USD.(5)
Chỉ trong một thời gian ngắn, nước ta đã nhận được sự cam kết tài trợ một lượng ODA lớn
và ngày càng tăng, điều này chứng tỏ Việt Nam đã có được sự tin tưởng của các nhà tài trợ
quốc tế. Lịng tin đó bắt nguồn từ sự ổn định về chính trị và từ sự thành cơng đáng khâm
phục trong thực hiện chính sách đổi mới và mở cửa, hội nhập quốc tế với những thành tựu
khá ngoạn mục cả về kinh tế, giáo dục, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng và xố đói giảm
nghèo. Tuy nhiên không nên quá vội mừng trước số vốn cam kết tương đối lớn và tăng đều
qua các hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ quốc tế (CG) hàng năm, bởi đó mới chỉ là số
vốn hứa hẹn, hay nói đúng hơn, là số vốn cịn nằm ngồi tầm tay, mà trước hết, nước nhận
tài trợ cần xem xét vì sao đã khơng giải ngân tốt nguồn vốn q giá này.
Vai trò của ODA đối với phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam
Từ khi được viện trợ lại đến nay, Việt Nam là một trong số các nước được nhận nguồn vốn
ODA tương đối lớn và ổn định, luôn là đối tượng ưu tiên của một số nhà tài trợ, đặc biệt là
Nhật Bản. ODA đã trở thành nguồn vốn bổ xung hết sức quan trọng, năm 1995 thu ngân
sách từ ODA chiếm 13.63% (53.000 nghìn tỷ VNĐ), đến năm 1999 nguồn thu này chiếm
tới 59% (42.525 nghìn tỷ VNĐ)
Từ năm 1993 đến nay, tổng mức ODA cam kết là 17.76 tỷ USD, như vậy nhu cầu trung
ODA trung bình mỗi năm trên 2 tỷ USD. Nhu cầu vốn ODA mỗi năm từ 1996 - 2000 chiếm
khoảng 20% tổng nhu cầu vốn đầu tư của Việt Nam (khoảng 10 tỷ USD), phần còn lại là
nguồn vốn trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Điều đó có thể cho thấy nhu
cầu và vai trị bổ xung quan trọng của ODA trong tổng vốn đầu tư của Việt Nam.
Việt Nam đã có mức tăng trưởng kinh tế cao từ 7% - 9% (1992 - 1997), đặc biệt là sự
vượt lên thử thách và tiếp tục tăng trưởng trong điều kiện khó khăn do tác động của khủng
hoảng kinh tế khu vực thêm vào đó là tình hình thiên tai bão lũ từ năm 1995 đến nay. Tăng
trưởng kinh tế Việt Nam năm 1998 tăng 5,8% so với năm 1997 trong khi tăng trưởng ở khu



vực Châu Á - Thái Bình Dương chỉ đạt 0,7%. Tăng trưởng của Việt Nam năm 1999 đạt
4.8% trong khi tăng trưởng ở Malaysia, Thái Lan khoảng 1%, Hàn Quốc khoảng 2,5%,
Singapore khoảng 0,5%, năm 2000 đạt 6.75%, quý I năm 2001 là 7.2%. Hai năm trở lại
đây, mức tăng trưởng kinh tế của Việt Nam cũng đạt 7 – 8%, rất cao so với các nước khác
trong khu vực.(6)
Những thành tựu về kinh tế - xã hội mà Việt Nam đạt được trong 10 năm tiến hành đổi
mới là do nhiều yếu tố trong đó có sự đóng góp quan trọng của nguồn ODA. Nguồn vốn
này đã giúp Việt Nam tăng trưởng kinh tế, phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội phát
triển nguồn nhân lực, điều chỉnh cơ cấu kinh tế. ODA đã có đóng góp trên hầu hết các lĩnh
vực quan trọng. Dưới đây là cơ cấu ODA đã giải ngân đối với các ngành kinh tế.
Bảng 3: Cơ cấu ODA theo ngành
Lĩnh vực

Cơ cấu(%)

1. GTVT

27,28%

2. Điện

24,57%

3. Y tế, giáo dục, khoa học

14,20%

4. Nông, lâm, thuỷ sản, thuỷ lợi

12,87%


5. Cấp thốt nước, mơi trường

7,2%

6. Hỗ trợ ngân sách

5,62%

7. Các lĩnh vực khác

7,65%

Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư (7)
Lĩnh vực GTVT luôn luôn được ưu tiên hàng đầu trong các dự án sử dụng vốn ODA. Tính
đến hết năm 2000, ODA dành cho GTVT chiếm khoảng 27,5% lượng ODA đã giải ngân
(khoảng 2.630 triệu USD). Vai trò của ODA trong GTVT sẽ được đề cập chi tiết ở các phần
sau.
Trong những năm qua, năng lượng cũng là ngành được ưu tiên nhằm khắc phục tình trạng
nền kinh tế thiếu "năng lượng" theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Tính đến hết năm 2001,
ODA trong lĩnh vực năng lượng chiếm khoảng 24% ODA đã giải ngân (khoảng 2.297
triệu USD). Các dự án năng lượng quan trọng sẽ góp phần giảm bớt tình trạng thiếu điện
hiện nay và đáp ứng đủ vào năm 2010, đó là các dự án xây dựng nhà máy Nhiệt điện Phú
Mỹ, Nhiệt điện Phả Lại II, nhà máy Thuỷ điện Hàm Thuận-Đa Mi, cải tạo hệ thống lưới
điện thành phố Hà Nội, Hải Phịng, Nam Định, Huế, Thành phố Hồ Chí Minh.
Trong lĩnh vực thơng tin liên lạc có các dự án Tổng đài điện thoại nông thôn, mạng thông
tin di động Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, hệ thống quản lý tần số.
Trong lĩnh vực nông nghiệp lâm nghiệp và thuỷ sản có các dự án khơi phục hệ thống thủy
lợi Bái Thượng - Đơ Lương, cơng trình thủy lợi Ya Zun Hạ, dự án phát triển cà phê, chè ,



trồng rừng, xây dựng các cảng cá, phát triển cơ sở hạ tầng ở các tỉnh nghèo, một số hệ
thống thuỷ lợi ở cả ba miền.
Trong lĩnh vực giáo dục, y tế và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng nguồn ODA được tài trợ cho
các dự án giáo dục tiểu học, cải tạo và nâng cấp khoa nông nghiệp trường Đại học Cần Thơ,
hỗ trợ y tế quốc gia nâng cấp cải tạo nhiều bệnh viện trong đó có Bệnh viện Chợ Rẫy, Bạch
Mai, Việt Đức, hỗ trợ các chương trình tiêm chủng mở rộng, phịng chống sốt rét, bướu cổ,
AIDS
Trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo các dự giúp tăng cường trang thiết bị và đồ dùng dạy
học, xây dựng trường học của một số tỉnh.
Trong lĩnh vực cấp nước và môi trường, việc cải thiện cung cấp nước sinh hoạt ở các thành
phố thị xã và các vùng nông thông miền núi cũng được ưu tiên cao trong sử dụng ODA.
Đến nay, hầu hết các thành phố, thị xã của các tỉnh đã có các dự án ODA về phát triển hệ
thống cung cấp nước sạch.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG THU HÚT VÀ SỬ DỤNG ODA TRONG LĨNH VỰC
PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ TẦNG GTVT Ở VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM GẦN
ĐÂY
1. Thực trạng đường bộ, đường sắt, cảng biển và đường thuỷ nội địa
1.1 Thực trạng đường bộ
Theo số liệu thống kê tháng 12/2000 của cục đường bộ Việt Nam, tổng chiều dài mạng lưới
đường bộ của nước ta là 232.400 km, trong đó có: 15.100 km đường quốc lộ với 78 tuyến
đường,17.449 km đường tỉnh lộ với 520 tuyến đường, 36.372 km đường huyện lộ, 159.558
km đường xã thôn, 3.500 km đường đô thị
Mạng lưới đường bộ được phân bố khá hợp lý, vừa bố trí theo chiều dọc của đất nước vừa
theo hướng Đông-Tây lại có cả hình nan quạt nối các trục chính và nối các thành phố lớn
về các miền của đất nước. Bình quân mật độ đường là 201km/1.000km2, bình quân mật độ
đường trên đầu người là 3.13km/1000 dân. Các chỉ tiêu này được xem là đáp ứng yêu cầu
phát triển kinh tế ở mức trung bình là từ 200 đến 1000 km/1000km2 và từ 2.5 đến
5km/1000 dân.
Như vậy chiều dài mạng lưới đường bộ của ta tuy còn rất thấp so với các nước kinh tế phát

triển nhưng không đến nỗi thua kém quá nhiều so với các nước trong khu vực, nếu có chất
lượng đảm bảo thì về cơ bản là đáp ứng được yêu cầu vận tải của nền kinh tế.
Tuy nhiên vấn đề đặt ra là chất lượng đường bộ của ta còn ở mức quá thấp. Tỷ lệ đường tốt


(bê tông nhựa) chiếm tỷ lệ rất nhỏ là 9%, đường trung bình (rải nhựa hoặc đá dăm) là 35%,
đường xấu chiếm 23% và đường rất xấu chiếm 33%.
Biểu đồ 2: Thực trạng hệ thống đường bộ Việt Nam (nguồn: B GTVT)
Đường rất
xấu
33%

Đường
xấu
23%

Đường tốt
9%

Đường
trungbình
35%

Trong h thng ng b 93% l đường chỉ có một làn xe, các quốc lộ cũng chỉ có 30%
đường có trên một làn xe. Cường độ mặt đường chỉ đảm bảo 65% so với yêu cầu tải trọng
xe hiện nay.
Hệ thống đường bộ Việt Nam được chia thành 4 nhóm chủ yếu: Hệ thống đường quốc lộ,
hệ thống đường giao thông nông thôn (bao gồm tỉnh lộ, đường xã và đường thôn) và hệ
thống đường đô thị.
Hệ thống đường quốc lộ:

Quốc lộ đạt cấp kỹ thuật hoàn chỉnh chiếm tỷ lệ rất thấp, bao gồm: một số đoạn của Quốc
lộ 1A (Hà Nội - Vinh, Nha Trang - TP Hồ Chí Minh), quốc lộ 5, quốc lộ 51 và quốc lộ 18 là
các đoạn tuyến vừa mới đưa vào sử dụng. Tổng chiều dài các đoạn tuyến này khoảng
2914km chiếm tỷ lệ rất nhỏ là 1.5% trên tổng chiều dài các quốc lộ.
Trong số hơn 13.000 km quốc lộ cịn lại, chỉ một phần nhỏ có chất lượng ở mức khá và
trung bình, phần nhiều là xuống cấp và khổ hẹp. Trên các quốc lộ có hơn 20% là cầu có tải
trọng thấp dưới 13 tấn và khổ hẹp dưới 4m, 5% là cầu xây tạm từ thời chiến, cịn 43 điểm
vượt sơng lớn bằng phà và hàng trăm ngầm, tràn.
Hệ thống đường giao thông nông thôn
Chất lượng của mạng lưới đường giao thông nông thôn còn rất thấp và phân bố chưa đều.
Khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa giao thơng cịn gặp nhiều khó khăn.
Hiện vẫn cịn 5 huyện miền núi phía Bắc và 5 huyện Đồng Bằng Sông Cửu Long ô tô chỉ
đến được trung tâm huyện trong mùa khô, 606 xã trên tổng số 9816 xã (chiếm 6%) chưa có
đường ơ tơ đến trung tâm xã, trong đó có 500 xã thuộc diện nghèo. Rất nhiều xã tuy có
đường nhưng thường bị hư hại, ách tắc trong mùa mưa lũ, hệ thống đường liên thôn, đường
phục vụ sản xuất nông nghiệp còn thiếu rất nhiều. Các cầu trên hệ thống đường giao thông


nông thôn hầu hết là cầu yếu và cầu tạm.
Bảng 4: Thực trạng chất lượng đường giao thông nông thôn
Loại đường

Tổng số

Kết cấu mặt đường
BT nhựa

Đá nhựa

Cấp phối


Đất

1. Đường huyện

36.905 km

53 km

3.558 km

17.932 km

15.362 km

Tỷ lệ %

100%

0.14%

9.64%

48.50%

41.70%

2. Đường xã, thôn

132.054 km


_

2.922km

52.446 km

76.687 km

Tỷ lệ %

100%

_

2.20%

39.80%

58.00%

Tổng số

168.959 km

53 km

6.480 km

70.378 km


92.409 km

Nguồn: Bộ GTVT (8)
Hệ thống giao thơng đơ thị (GTĐT):
Nhìn chung mật độ mạng lưới giao thông thấp, phân bố khơng đều, mạng lưới có cấu trúc
hỗn hợp và thiếu sự liên thơng giữa các trục chính, đường phố ngắn tạo ra nhiều giao cắt,
chất lượng đường xấu, lòng đường hẹp, tỷ lệ quỹ đất giành cho giao thơng cịn quá ít 7%
đến 8% (các nước phát triển thường là 25%).
Giao thơng đơ thị của ta cịn q nhiều vấn đề, nhất là ở hai thành phố lớn là Hà Nội và
Thành Phố Hồ Chí Minh (chiếm 50% dân số đơ thị), tốc độ trung bình xe chạy trong đơ thị
hiện nay chỉ đạt vận tốc 20km/h với vô vàn các điểm ách tắc. Hiện nay các nút giao cắt lập
thể là giải pháp khá hữu hiệu cho vấn đề giao thông đô thị nhưng hiện nay ta mới chỉ có
một nút giao cắt duy nhất mới đưa vào sử dụng tháng 4 năm 2001 đó là nút Nam cầu
Chương Dương.
Bảng 5: So sánh một số chỉ tiêu của CSHT giao thông đô thị của Việt Nam
TT

Tiêu chuẩn phát triển

Các nước

Mức
thấp

Mức
T. bình

Mức
cao


phát triển

Tỷ lệ quỹ đất dành cho giao thơng

8%

15%

20%

25%

26%

7%

13%

16%

19%

20%

+ Giao thông tĩnh
2

Hiện
Trạng


+ Giao thông động

1

Chỉ tiêu

1%

2%

4%

6%

6%

Mật độ mạng lưới đường %

2.8%

3.5%

4%

5%

6.5%

0.20


0.30

0.35

0.5

Chiều dài đường tính bình qn cho 0.15
1000 dân (Km/1000 dân)

Nguồn: Bộ GTVT (9)
Với tốc độ đơ thị hố hiện nay là 3.5 đến 4%/năm, nhịp độ tăng trưởng kinh tế là 16 đến


18%/năm và với tốc độ xây dựng cơ sở hạ tầng GTĐT như hiện tại, sự mất cân đối giữa cơ
sở hạ tâng giao thông đô thị và mật độ các phương tiện giao thông sẽ ngày một nghiêm
trọng..
Hà Nội hiện có 319 đường phố với tổng chiều dài 267 km trên một diện tích là 71km2 với
dân số khoảng 1.4 triệu người. Đường đơ thị TP Hồ Chí Minh (khu vực 12 quận nội thành
cũ) có chiều dài là 544.4km trên diện tích 140.3km2 và dân số khoảng 3.5 triệu người.
1.2 Thực trạng đường sắt:
Đường sắt Việt Nam với tổng chiều dài là 3100km, mật độ đường sắt là 7.83 km/10km2.
Mật độ đường sắt của nước ta là tương đối cao so với các nước trong khu vực Đông Nam
Á, tuy nhiên so với các nước khác của Châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc thì mật độ này còn
là quá thấp.
Biểu đồ 3: Mật độ km/10km2 đường sắt Việt Nam so với một số nước trong khu vực và
trên thế giới.
Hệ thống đường sắt của Việt Nam đã được xây dựng cách đây gần một thế kỷ, sau gần 100
năm khai thác và khơng có đầu tư lớn (tuyến đường sắt Bắc - Nam được xây dựng từ năm
1899), lại bị tàn phá nặng nề qua 3 cuộc chiến tranh (khoảng 60%) nên chất lượng đường

90
80
MËt ®é km/10 km2

70
60
50
40

80

30
20

3 2 .1

10

c

ia
al
tr
A
us

t
N
hậ


uố
Q

H
àn

B
ản

4 .9 6

xi
a
ai
M
al

o

ne

xi
a

3 .6

In
d

iL



hi
lip
in

an

c
ng
ru

5 .6

T

T

Q

uố

N
am
t
Vi


7 .4 5


6 .6 5

P

7 .8 3

0

1 2 .6

sắt của ta hiện nay rất thấp, đường sắt khổ hẹp với chiều dài là 2609 km chiếm tỷ lệ cao
(84%). Đến nay chưa có một km đường sắt nào đủ cấp tiêu chuẩn.
Tốc độ trung bình chạy tầu của tuyến thống nhất là 55km/h, trong khi đó tốc độ trung bình
này ở in đơ nê xia là 90km/h, Malaixia và Singapore là 105km/h. Thái lan là 110km/h. Như
vậy thực chất của đường sắt Việt Nam hiện nay về chất lượng cơ sở hạ tầng và kỹ thuật là
còn tụt hậu xa so với các nước ASEAN và đặc biệt là các nước phát triển.
Cầu đường sắt hầu hết đều là cầu từ thời kỳ Pháp đơ hộ, hiện nay cịn trên 120 cầu dầm


thép tạm và 100 cầu vịm bê tơng trong tình trạng bị phong hố mạnh. Tốc độ trung bình
tầu chạy qua các cầu hiện nay là 25km/h. Hiện tổng số có 1.771 cầu với tổng chiều dài là
44.073 km trong đó có 1201 cầu yếu với tổng chiều dài là 27.850m (chiếm 63%). Cấp tải
trọng của cầu không đồng nhất (từ cấp 11 đến cấp 22). Phần lớn là cầu cũ (từ thời Pháp để
lại), dầm thép của các cầu này đều đã rỉ ở mức cao, hiện trạng đã vi phạm các quy trình cho
phép khai thác.
Hầm đường sắt hầu hết đã bị xuống cấp và rò rỉ nước trên đỉnh vòm, đặc biệt là các hầm
qua đèo Hải Vân. Phần lớn các hầm được xây dựng từ thời Pháp (giai đoạn 1906 đến 1933).
Bán kính cong nhỏ của hầu hết các hầm kể trên đã ảnh hường không nhỏ đến tốc độ và an
tồn chạy tầu.
Hệ thống thơng tin tín hiệu đường sắt hiện tại rất lạc hậu, chỉ có một số ga đường sắt mới

được xây dựng còn đa số là cải tạo lại.
Thực trạng cảng biển và đường thuỷ nội địa
Hệ thống cảng biển
Cảng biển Việt Nam hiện nay có trên 80 cảng lớn nhỏ nhưng mức độ hiện đại cịn thấp, hầu
hết các cơng trình kho bãi được xây dựng từ thời kỳ chiến tranh và hiện đang bị xuống cấp
nghiêm trọng. Ta còn thiếu bến container và các bên chuyên dùng cho tầu trên 20.000
DWT. Trang thiết bị bốc xếp lại quá lạc hậu.
Khu vực phía Bắc hồn tồn chưa có cảng biển nước sâu có thể tiếp nhận tầu trên 20.000
DWT.
Tàu lớn chưa thể cập cảng Việt Nam trong khi xu thế của ngành vận tải biển quốc tế là tăng
nhanh đội tầu có tải trọng lớn theo hướng: Tàu chuyên dụng Container: 40.000 đến 50.000
DWT, tàu hàng rời 50.000 đến 100.000 DWT, tàu chở dầu: 50.000 đến 200.000 DWT. (10)
Hệ thống đường thuỷ nội địa
Theo tài liệu thống kê năm 2000 của Cục đường sơng Việt Nam thì cả nước ta có 2360
sông, kênh, rạch với tổng chiều dài 41.900km. Đến nay mới khai thác trên gần 18.000 km
(chiếm 40% trên tổng số chiều dài)
Phía bắc, sơng ngịi tập trung chủ yếu ở vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng. Mức nước
mùa lũ và mùa cạn chênh lệch nhau từ 5m đến 7m, sau lũ thường tạo nên các bãi bồi gây
cản trở cho lưu thông đường sông. Miền trung với đồng bằng nhỏ hẹp, các sơng ngắn và có
độ dốc lớn, chênh lệch mực nước mùa khô và mùa mưa rất lớn. Mùa khơ nước cạn ktệt và
mùa mưa dịng chảy mạnh nên giao thông đường sông khu vực này không phát triển.
Phía Nam, sơng ngịi tập trung chủ yếu ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Các nhánh của
sông Mê Kông và hệ thồng kênh rạch chằng chịt đã tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho phát
triển giao thông đường sông. Vận tải đường sông ở đồng bằng sông Cửu Long chiếm 65%
khối lượng vận tải hàng hoá và 55% vận tải hành khách. Tuy nhiên một số luồng lạch


thường hay bị bồi lắng sau mùa lũ, gây cản trở giao thơng.
Hầu hết các cảng sơng có quy mơ nhỏ, thiết bị khơng đồng bộ. Tính đếnn thời điểm năm
2000 (trước khi xây dựng cảng Cần Thơ) chưa có cảng sơng nào có thiết bị bốc xếp

container.
2. Thực trạng thu hút và sử dụng ODA trong phát triển cơ sở hạ tầng GTVT trong
những năm gần đây
Trước thực trạng cơ sở hạ tầng của Việt Nam cịn trong tình trạng yếu kém, chính phủ Việt
Nam đã tìm mọi cách thu hút vốn ODA để đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng GTVT. Trong
những năm gần đây, tỷ trọng ODA dành cho Việt Nam dưới dạng các dự án đầu tư, chủ yếu
là các dự án phát triển cơ sở hạ tầng đã tăng lên đáng kể. Trong đó trong 2 năm từ 1996 đến
1998 giải ngân cho khu vực GTVT đã tăng gấp đôi từ 110 triệu USD lên tới 212 triệu USD.
Những dự án đầu tư vào lĩnh vực này thường được những nhà tài trợ lớn như JBIC, Ngân
hàng thế giới, Ngân hàng phát triển Châu á cấp vốn. Trong tổng vốn được cấp cho phát
triển cơ sở hạ tầng thì lượng ODA cấp cho lĩnh vực GTVT cũng chiếm một khối lượn đáng
kể và được chia làm nhiều lĩnh vực nhỏ như hệ thống giao thông đường bộ, hệ thống giao
thông đường sắt, hệ thống giao thơng đường thuỷ. Tuy nhiên có một điều đáng lưu ý là còn
tồn tại sự mất cân đối trong sự phân bổ vốn đầu tư trong khu vực này. Từ năm 1993, tỷ lệ
vốn ODA được cấp cho giao thông đường bộ đã chiếm đến hơn 80% tổng vốn đầu tư cho
khu vực GTVT trong đó chỉ riêng vốn cấp cho các dự án lớn về nâng cấp các tuyến quốc lộ
đã chiếm tới 83,6% tổng số vốn được cấp. Trong khi đó các tuyến đường nơng thơn và đơ
thị nói chung vẫn ở trong tình trạng xuống cấp nghiêm trọng. Các dự án dành cho hệ thống
giao thông nông thôn cũng như đô thị chỉ đạt hơn 16% tổng vốn đầu tư cho giao thông
đường bộ. Sự mất cân đối cũng thể hiện trong việc nguồn vốn cấp cho các dự án nâng cấp
đường sắt chỉ đạt 143,36 triệu USD tức là khoảng 4,65% vốn ODA dành cho GTVT trong
đó đường thuỷ nội địa chiếm 77,16 triệu USD (khoảng 17,19%) và cảng biển đạt 317, 59
triệu USD (khoảng 82,81%). Đây là vấn đề mà chính phủ và các nhà tài trợ phải xem xét
và điều phối ODA sao cho hợp lý, đảm bảo sự phát triển hài hoà giữa các vùng.
Bảng 6: Tỷ trọng vốn ODA của ngành GTVT từ năm 1993 tới nay
STT

Lĩnh vực đầu tư

Tổng vốn

đầu tư
(triệu USD)

Cơ cấu từng Tỷ trọng trong
lĩnh vực
tổng vốn GTVT

1

Giao thông đường bộ

2.488,67

100%

80,79%

Đường quốc lộ

2.080,66

83,6%

-


Đường giao thông đô thị

201,11


8,08

-

Đường giao thông nông thôn

206,9

8,32%

-

2

Hệ thống Đường sắt

143,36

100%

4,65%

3

Hệ thống Đường thuỷ

448,75

100%


14,56%

Đường thuỷ nội địa

77,16

17,19%

-

Cảng biển

371,59

82,81%

-

Tổng vốn đầu tư các lĩnh vực

3.080,78

-

100%

4

Nguồn: Bộ kế hoạch và đầu tư(11)
Như vậy, tính đến hết năm 2002, đã có hơn 60 dự án đầu tư vào lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ

tầng GTVT đã được triển khai với tổng mức đầu tư 4.866 triệu USD trong đó đã ký hiệp
định vay vốn 3.459 triệu USD.
Trong giai đoạn 1996-2000, tổng mức đầu tư đã giải ngân của ngành GTVT là 4.333 triệu
USD, trong đó ODA chiếm tới 61.5% (2.667 triệu USD), vốn ngân sách nhà nước chiếm
26% (1.135 triệu USD), vốn BOT chiếm 9.5% (415 triệu USD) phần còn lại thuộc về các
nguồn khác.
ODA được đầu tư rất toàn diện và đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực của ngành GTVT (tuy
còn mất cân đối), từ các dự án nâng cao chất lượng đào tạo, các dự án nghiên cứu phát triển
tổng thể và quy hoạch GTVT, các dự án phát triển năng lực vận tải và hàng chục dự án xây
dựng các cơng trình trọng điểm quốc gia về GTVT như cầu Gianh, cầu Mỹ Thuận, hầm Hải
Vân, cầu Hàm Rồng.
Sau 7 năm triển khai nguồn vốn ODA, hệ thống cơ sở hạ tầng GTVT đã có nhiều biến đổi
quan trọng: Đến 31 tháng 12 năm 2000 đã hoàn thành và đưa vào khai thác sử dụng trên
2.000 km quốc lộ quan trọng, 13.324m cầu đường bộ, 1.400 km tỉnh lộ, 2.400 m cầu
đường sắt, 1.400 km tỉnh lộ, 4.000 km đường và 12.000 m cầu giao thông nơng thơn.
ODA khơng chỉ đóng vai trọng trong việc xây dựng các cơng trình mà cịn là một cuộc
chuyển giao cơng nghệ lớn trong tồn ngành GTVT. Từ việc chuyển giao công nghệ thi
công qua các dự án xây dựng áp dụng các công nghệ tiên tiến (công nghệ cầu đúc hẫng cân
bằng, cầu dây văng, cọc khoan nhồi đường kính lớn, sử dụng bấc thấm, dầm super T...), đến
việc nâng cao năng lực quản lý và điều hành của tất cả các ban ngành có liên quan trực tiếp
cũng như gián tiếp đến dự án (các quy trình đấu thầu quốc tế, quản lý dự án đầu thầu, thủ
tục giảI ngân...) và quan trọng nhất là phía Việt Nam đã có thêm rất nhiều kinh nghiệm
trong cơng tác vận động cũng như sử dụng ODA.


×