Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

Một số giải pháp thu hút đầu tư tư nhân vào phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị đến năm 2015 ở Việt Nam .DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (371.31 KB, 77 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Trong giai đoạn hội nhập kinh tế như hiện nay, đặc biệt là khi Việt
Nam đã ra nhập WTO thì việc phát triển cơ sở hạ tầng một cách đồng bộ, đạt
trình độ tiên tiến, tiêu chuẩn hiện đại đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế- xã
hội, vừa là điều kiện vừa là một nội dung cơ bản của sự nghiệp CNH – HĐH
đất nước và tạo cơ sở quan trọng cho sự nghiệp đổi mới và phát triển bền
vững nền kinh tế đất nước. Nó là động lực để phát triển kinh tế, hội nhập kinh
tế quốc tế và rút ngắn khoảng cách với bên ngoài. Hệ thống cơ sở hạ tầng tiên
tiến và đồng bộ tạo điều kiện phát triển đồng đều giữa các địa phương, các
vùng lãnh thổ, làm giảm sự chênh lệch về mức sống và dân trí giữa các khu
vực dân cư.
Như chúng ta đã biết, tốc độ đô thị hóa ngày càng tăng, dân số đô thị
cũng tăng lên với tốc độ chóng mặt, điều này sẽ đồng nghĩa với sự gia tăng
các nhu cầu về các dịch vụ cơ sở hạ tầng tại các lĩnh vực trọng yếu, trong đó
có lĩnh vực cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị . Do vậy, vấn đề về vốn để đầu tư
cho cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị là rất lớn, nhưng khi mà các nguồn vốn
Ngân sách nhà nước, nguồn vốn ưu đãi quốc tế như ODA có xu hướng giảm
thì việc đẩy mạnh thu hút đầu tư tư nhân đang ngày càng trở nên có vai trò
quan trọng hơn. Tuy nhiên trong giai đoạn hiện nay thì việc thu hút vốn đầu
tư tư nhân còn chiếm tỷ trọng nhỏ. Vì vậy vấn đề đặt ra là làm thế nào để thu
hút đầu tư tư nhân vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị? Và đó cũng là lý do vì
sao em chọn đề tài : “Một số giải pháp thu hút đầu tư tư nhân vào phát triển
cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị đến năm 2015 ở Việt Nam ”.
SVTH: §ç ThÞ H»ng Líp: KÕ ho¹ch 46B
2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Đề tài sẽ tập trung nghiên cứu vấn đề thu hút vốn đầu tư từ khu vực tư
nhân vào phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị ở Việt Nam, trên cơ sở đánh
giá, phân tích và đưa ra các giải pháp thu hút vốn đầu tư tư nhân vào cơ sở hạ
tầng cấp nước đô thị đến năm 2015
3. Phương pháp nghiên cứu.


Phương pháp chủ đạo trong đề tài là sử dụng phương pháp duy vật biện
chứng, phương pháp phân tích, thu thập, thống kê, khái quát hóa trong quá
trình nghiên cứu.
4. Mục đích nghiên cứu.
Trên cơ sở mục tiêu phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị đến năm
2015, xuất phát từ thực trạng đầu tư, đầu tư tư nhân từ đó đưa ra những giải
pháp nhằm thu hút đầu tư tư nhân vào phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị
ở Việt Nam.
5. Kết cấu của đề tài.
Đề tài được trình bày trong 3 chương :
Chương I. Đầu tư và đầu tư tư nhân vào phát triển Cơ sở hạ tầng cấp nước
đô thị
Chương II. Thực trạng đầu tư tư nhân trong phát triển cơ sở hạ tầng cấp
nước đô thị ở Việt Nam
Chương III. Giải pháp thu hút đầu tư tư nhân trong phát triển cơ sở hạ
tâng cấp nước đô thị
SVTH: §ç ThÞ H»ng Líp: KÕ ho¹ch 46B
Chương 1 : Đầu tư và đầu tư tư nhân vào phát triển cơ sở hạ
tầng cấp nước đô thị
1.1. Cơ sở hạ tầng và cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị
1.1.1. Cơ sở hạ tầng và phân loại cơ sở hạ tầng
1.1.1.1. Khái niệm chung về cơ sở hạ tầng.
Trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất, năng lực sản xuất hay sức
sản xuất được quyết định bởi lực lượng sản xuất. Đến lượt mình, toàn bộ lực
lượng sản xuất chỉ có thể hoạt động bình thường trên chỉ có thể hoạt động
bình thường trên cơ sở nền tảng hoàn chỉnh hay có đầy đủ các điều kiện. Nó
bao gồm bản thân người lao động, tư liệu lao động, tư liệu sản xuất và công
nghệ. Trong tư liệu sản xuất, có một bộ phận tham gia vào quá trình sản xuất
với tính cách là những cơ sở, phương diện chung mà nếu thiếu nó thì quá
trình sản xuất và những dịch vụ trong sản xuất sẽ trở nên khó khăn hay không

thể diễn ra được. Tòan bộ những phương diện đó được đúc kết trong khái
niệm cơ sở hạ tầng.
Nói đến cơ sở hạ tầng, có rất nhiều khái niệm được đưa ra, trước hết,
chúng ta đề cập tới thuật ngữ “ Cơ sở hạ tầng” ( trong tiếng anh là
infrastructure) được hiểu với quan điểm sau:
Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những hệ thống cấu trúc, thiết bị và các công
trình vật chất, kỹ thuật được tạo lập tồn tại và phát huy tác dụng trong mỗi
quốc gia, khu vực hay vùng lãnh thổ, nó đóng vai trò là nền tảng và điều kiện
chung cho các hoạt động kinh tế - xã hội, cho quá trình sản xuất và nâng cao
đời sống dân cư.
Thuật ngữ cơ sở hạ tầng ngày càng được sử dụng nhiều, tuy nhiên ngay
cả thuật ngữ này cũng còn nhiều ý kiến khác nhau, chúng ta có thể thấy có hai
loại ý kiến khác nhau xuất phát từ hai quan niệm theo nghĩa rộng và theo
SVTH: §ç ThÞ H»ng Líp: KÕ ho¹ch 46B
nghĩa hẹp về cơ sở hạ tầng. Theo nghĩa hẹp, cơ sở hạ tầng được hiểu là tập
hợp các ngành phi sản xuất vật chất thuộc lĩnh vực lưu thông bao gồm các
công trình vật chất kỹ thuật phi sản xuất và các tổ chức dịch vụ có chức năng
bảo đảm những điều kiện chung cho sản xuất, phục vụ những yêu cầu phổ
biến của sản xuất và đời sống xã hội, theo cách hiểu này cơ sở hạ tầng chỉ bao
gồm các công trình giao thông, cấp thoát nước, cung ứng điện, hệ thống
thông tin liên lạc…và các đơn vị bảo đảm duy trì các công trình này. Tuy
nhiên, quan niệm cơ sở hạ tầng theo nghĩa hẹp không cho chúng ta thấy mối
quan hệ hữu cơ giữa các bộ phận vốn không cùng tính chất nhưng lại có mối
liên quan mật thiết với nhau trong một hệ thống thống nhất. Theo nghĩa rộng,
cơ sở hạ tầng là tổng thể các công trình và nội dung hoạt động có chức năng
đảm bảo những điều kiện “ bên ngoài” cho việc sản xuất và sinh hoạt của dân
cư. Cơ sở hạ tầng là một phạm trù gần nghĩa với “môi trường kinh tế” bao
gồm các phân hệ : Phân hệ kỹ thuật (đường, giao thông, cầu cảng, sân bay,
năng lượng, bưu chính viễn thông…), phân hệ tài chính ( hệ thống tài chính,
tín dụng…), phân hệ thiết chế ( pháp luật…), phân hệ xã hội ( giáo dục, y

tế…). Theo cách hiểu này thì cơ sở hạ tầng rất rộng, nó bao gồm toàn bộ khu
vực dịch vụ. Theo nghĩa rộng thì cơ sở hạ tầng không có sự đồng nghĩa và lẫn
lộn giữa phạm trù “ khu vực dịch vụ” hoặc là “ môi trường kinh tế” bởi cơ sở
hạ tang tạo điều kiện cho các khu vực kinh tế khác nhau phát triển.
Như vậy, cơ sở hạ tầng là tổng hợp các công trình vật chất kỹ thuật có
chức năng phục vụ trực tiếp cho sản xuất và đời sống của nhân dân, được bố
trí trên phạm vi lãnh thổ nhất định. Các công trình vật chất kỹ thuật ở đây rất
đa dạng như các công trình giao thông vận tải (đường xá, cầu cống, sân
bay…); các công trình của ngành bưu chính - viễn thông (hệ thống đường cáp
quang, các trạm, vệ tinh…) hay các công trình của ngành điện (đường dây,
SVTH: §ç ThÞ H»ng Líp: KÕ ho¹ch 46B
nhà máy phát điện…)… Các công trình này có vị trí hết sức quan trọng, nó
phục vụ trực tiếp và gián tiếp cho các hoạt động của xã hội.
Xét ở góc độ nào thì cơ sở hạ tầng cũng là một yếu tố, một chỉ số của
sự phát triển. Hiện nay, xu thế hội nhập đang diễn ta mạnh mẽ thì tầm quan
trọng của cơ sở hạ tầng ngày càng tăng lên, cơ sở hạ tầng là nền tảng trong đó
diễn ra các quá trình phát triển mà thiếu hệ thống thông tin viễn thông hiện
đại, hệ thống giao thông vận tải, văn hóa, xã hội… thì sự phát triển đó khó có
thể diễn ra được. Chính vì điều đó mà việc xây dựng cơ sở hạ tầng trở thành
một nội dung quyết định của sự phát triển, nó đem lại sự thay đổi lớn về điều
kiện vật chất của toàn bộ sinh hoạt trong kinh tế xã hội.
1.1.1.2. Phân loại cơ sở hạ tầng
Để có thể nhận biết và có biện pháp tạo lập vốn phù hợp đối với từng
loại sơ sở hạ tầng nhằm tạo điều kiện huy động tối đa các nguồn lực cho phát
triển cơ sở hạ tầng. Có thể phân chia cơ sở hạ tầng theo nhiều tiêu thức khác
nhau:
 Phân chia theo tiêu thức ngành kinh tế quốc dân:
Dựa vào tiêu thức phân loại này, cơ sở hạ tầng được chia thành : Cơ sở
hạ tầng của công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, bưu chính viễn
thông…( Cơ sở hạ tâng kinh tế); giáo dục đào tạo, y tế, văn hoá, thể dục thể

thao...( Cơ sở hạ tầng xã hội)
Cơ sở hạ tầng phục vụ lĩnh vực kinh tế (Cơ sở hạ tầng kinh tế): Đó là
hệ thống vật chất kỹ thuật cho sự phát triển của các ngành, các lĩnh vực kinh
tế như cơ sở hạ tầng của ngành công nghiệp, nông nghiệp, hệ thống giao
thông vận tải; mạng lưới chuyên tải và phân phối năng lượng điện; hệ thống
công trình và phương tiện thông tin liên lạc, bưu điện, viễn thông, cấp thoát
nước…
SVTH: §ç ThÞ H»ng Líp: KÕ ho¹ch 46B
Cơ sở hạ tầng phục vụ lĩnh vực xã hội ( Cơ sở hạ tầng xã hội) : Đó là
toàn bộ hệ thống vật chất kỹ thuật phục vụ cho các hoạt động văn hoá, xã hội
đảm bảo cho việc thoả mãn và nâng cao trình độ dân trí, văn hoá tinh thần cho
dân cư, cho quá trình tái sản xuất sức lao động của xã hội như các cơ sở, thiết
bị và công trình phục vụ giáo dục đào tạo, nghiên cứu khoa học, các cơ sỏ y tế
phục vụ chăm sóc sức khỏe…nó thường gắn với đời sống của các điểm dân
cư, góp phần ổn định nâng cao đời sống dân cư trên lãnh thổ
Sự phân chia này chỉ là tương đối vì trên thực tế, ít loại cơ sở hạ tầng
nào hoàn toàn chỉ phục vụ kinh tế mà không phục vụ hoạt động xã hội và
ngược lại. Chẳng hạn như hệ thống mạng lưới điện mở rộng đến nông thôn,
đến vùng sâu, vùng xa giúp cho việc phát triển sản xuất nhưng đồng thời nó
còn phục vụ cho đời sống, ở những nơi có điện, người dân có thể sử dụng các
phương tiện hiện đại như đài, ti vi… để tiếp cận với những thông tin văn hóa
xã hôi, nâng cao trình độ dân trí.
Sự phân chia này cho phép chúng ta xác định rõ vai trò, chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của từng ngành cụ thể, đồng thời xác lập mối quan hệ
liên kết và phối hợp đồng bộ giữa các ngành trong quá trình xây dựng kế
hoạch huy động vốn đầu tư một cách cân đối và hợp lý.
 Phân chia theo khu vực lãnh thổ:
Cơ sở hạ tầng ở mỗi ngành , mỗi lĩnh vực hoặc liên ngành, liên lĩnh vực
hợp thành một tổng thể hoạt động, phối hợp hài hòa nhằm phục vụ sự phát
triển của tổng thế kinh tế - xã hội-an ninh - quốc phòng trên từng vùng và cả

nước. Sự phát triển kinh tế - xã hội và cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội trên một
vùng lãnh thổ có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Mà mỗi vùng lãnh thổ riêng
biệt lại có cơ sở hạ tầng riêng biệt, do đó phải có cơ sở hạ tầng phù hợp.
Theo tiêu thức phân loại này, Cơ sở hạ tầng được phân chia thành: Cơ sở
hạ tầng đô thị và Cơ sở hạ tầng nông thôn.
SVTH: §ç ThÞ H»ng Líp: KÕ ho¹ch 46B
 Phân loại theo cấp quản lý và đối tượng quản lý
Căn cứ vào tiêu chí này, Cơ sở hạ tầng được chia thành : Hệ thống cơ
sở hạ tầng kinh tế xã hội do trung ương quản lý, hệ thống cơ sở hạ tầng do
địa phương quản lý
Hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội do trung ương quản lý bao gồm
những tài sản quan trọng, có giá trị lớn, có chiến lược quốc gia gồm : hệ
thống đường quốc lộ, đường sắt, sân bay, bưu chính viễn thông, điện, các
trung tâm y tế, giáo dục lớn …
Hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội do địa phương quản lý, đó là
những tài sản được nhà nước giao cho địa phương quản lý như : đường giao
thông liên tỉnh, các trạm bơm tưới tiêu, hệ thống cơ sở vật chất các ngành
giáo dục, y tế, văn hoá xã hội của địa phương.
Cách phân loại này cho phép chúng ta xác định rõ trách nhiệm của
từng cấp chính quyền trong việc quản lý, khai thác và sử dụng các công trình
cơ sở hạ tầng. Trên cơ sở đó để xây dựng kế hoạch huy động các nguồn vốn
đầu tư theo quy hoạch, kế hoach đã đề ra.
1.1.2. Cơ sở hạ tầng đô thị và phân loại cơ sở hạ tầng đô thị
1.1.2.1. Khái niệm cơ sở hạ tầng đô thị
Đô thị là một điểm tập trung dân cư với mật độ cao, chủ yếu là lao
động phi nông nghiệp, có hạ tầng cơ sở thích hợp là trung tâm tổng hợp hay
trung tâm chuyên ngành, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của
cả nước của một vùng lãnh thổ, một tỉnh, một huyện hay một vùng trong tỉnh,
trong huyện.
Cơ sở hạ tầng đô thị là một bộ phận của cơ sở hạ tầng. Cơ sở hạ tầng đô

thị là những tài sản vật chất và các hoạt động hạ tầng có liên quan dùng để
phục vụ các nhu cầu kinh tế - xã hội của cộng đồng dân cư đô thị. Nó chính là
tiêu chuẩn để phân biệt đô thị với nông thôn.
SVTH: §ç ThÞ H»ng Líp: KÕ ho¹ch 46B
Cơ sở hạ tầng đô thị bao gồm toàn bộ các công trình giao thông vận tải,
bưu điện, thông tin- liên lạc, dịch vụ xã hội như : đường sá, cấp thoát nước,
sân bay, nhà ga, xe lửa, y tế, dịch vụ ăn uống công cộng, nghỉ ngơi, du lịch,
vui chơi giải trí…phục vụ trực tiếp hoặc gián tiếp cho dân cư khu vực đô thị.
1.1.2.2. Phân loại cơ sở hạ tầng đô thị
Dựa vào các tiêu chí khác nhau, chúng ta có thể phân chia cơ sở hạ tầng
đô thị thành nhiều loại khác nhau, nhưng phân loại theo tính chất ngành là
thông dụng nhất và có ý nghĩa nhiều nhất đối với công tác quy hoạch và phát
triển đô thị. Theo tính chất này, cơ sở hạ tầng đô thị được phân chia thành: cơ
sở hạ tầng kỹ thuật đô thị, cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, cơ sở hạ tầng dịch vụ
xã hội.
Cơ sở hạ tầng kỹ thuật đô thị: đây là hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật
phục vụ cho sự phát triển của các ngành, các lĩnh vực kinh tế trong nền kinh
tế quốc dân bao gồm : hệ thống giao thông vận tải, cầu cống, sân bay, bến
cảng, cấp thoát nước…Hệ thống cung ứng vật tư kỹ thuật, nguyên nhiên vật
liệu phục vụ sản xuất và đời sống; cơ sở hạ tầng môi trường phục vụ cho việc
bảo vệ, giữ gìn và cải tạo môi trường sinh thái của đất nước và môi trường
sống của con người…
Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội : Bao gồm toàn bộ các công trình như nhà
xưởng, kho bãi, khách sạn, khu thương mại (chơ, siêu thị..), trụ sở làm việc
của các cơ quan hành chính, kinh tế và các tổ chức xã hội…
Cơ sở hạ tầng dịch vụ xã hội : Đó là toàn bộ hệ thống cơ sở vật chất, kỹ
thuật phục vụ cho hoạt động văn hóa, xã hội, bảo đảm cho việc thỏa mãn và
nâng cao trình độ lao động của người lao động, hệ thống này bao gồm các cơ
sở thiết bị và các công trình phục vụ cho giáo dục và đào tạo, nghiên cứu
khoa học, các cơ sở y tế, văn nghệ, thể dục- thể thao…

SVTH: §ç ThÞ H»ng Líp: KÕ ho¹ch 46B
1.1.3. Cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị
1.1.3.1. Khái niệm cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị
Trước hết, để hiểu được khái niệm về cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị,
cần có một khái niệm chung nhất về cơ sở hạ tầng cấp nước. Theo khái niệm
chung nhất, cơ sở hạ tầng cấp nước là một bộ phận cấu thành cơ sở hạ tầng kỹ
thuật bao gồm một hệ thống các công trình kiến trúc và các phương tiện vật
chất kỹ thuật mang tính nền móng cho sự phát triển của cơ sở hạ tầng cấp
nước, có chức năng phục vụ nhu cầu sản xuất và sinh hoạt của xã hội bao
gồm hệ thống ống dẫn, các trạm bơm, các nhà máy nước…cùng với các cơ sở
vật chất khác phục vụ cho người dân. Xét về phạm vi lãnh thổ, nó gồm có cơ
sở hạ tầng cấp nước đô thị và cơ sở hạ tầng cấp nước nông thôn.
Từ khái niệm cơ sở hạ tầng cấp nước trên, chúng ta có thể định nghĩa
cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị như sau :
Cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị là một bộ phận cấu thành nên cơ sở hạ
tầng cấp nước. Nó bao gồm một hệ thống các công trình, nhà máy, đường ống,
hệ thống ống dẫn, các trạm bơm…cùng những cơ sở vật chất khác ( hệ thống
máy đếm nước…) phục vụ và đảm bảo cho các đối tượng dân cư đô thị tham
gia vào hệ thống cấp nước đô thị hoạt động một cách an toàn, thông suốt và
liên tục.
1.1.3.2. Vai trò của cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị
Việt Nam hiện nay có 708 đô thị với dân số 21,59 triệu người ( chiếm
26,3% dân số toàn quốc). Cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị có vai trò quan trọng
đối với sự phát triển bền vững của đô thị.
Trước hết để biết được vai trò của cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị, ta tìm
hiểu thế nào là nước sạch cũng như vai trò của nước sạch trong đời sống và
SVTH: §ç ThÞ H»ng Líp: KÕ ho¹ch 46B
trong sản xuất. Nước sạch là nước phải trong, không có màu, không có mùi
vị, không chứa các mầm bệnh và các chất độc hại. Chất lượng nước sạch sử
dụng cho mục đích sinh hoạt phải đảm bảo theo quy chuẩn vệ sinh nước ăn

uống do Bộ trưởng Bộ Y Tế ban hành( Theo quyết định số
1329/2002/BYT/QĐ ngày 18/04/2002 của Bộ trưởng Bộ Y Tế). Nước sạch
phải đảm bảo chất lượng theo quy định trên toàn hệ thống từ sau công trình
xử lý đến người trực tiếp sử dụng
Như chúng ta đã biết, trong đời sống sinh hoạt cũng như trong sản xuất,
nước sạch có vai trò vô cùng quan trọng
* Trong đời sống sinh hoạt:
Nước là tài nguyên, là tư liệu thiết yếu cho cuộc sống con người.
Không có nước thì không có sự sống. Chúng ta cần nước cho sinh hoạt, bảo
vệ sức khoẻ và vệ sinh.
Nước sạch có vai trò cực kì quan trọng trong đời sống của con người.
Nó đáp ứng nhu cầu cơ bản của con người : ăn, uống. Trong cơ thể con người
chiếm tới 70% là nước, chúng ta có thể không ăn trong một tuần nhưng không
thể sống không quá ba ngày mà không có nước. Hàng ngày mỗi người cần tối
thiểu 60 – 80 lít, tối đa tới 150 – 200 lít nước dùng cho sinh hoạt ; riêng lượng
nước ăn uống vào cơ thể ít nhất cũng tới 1,5-2 lít mỗi ngày. Ngoài ra, nước
dưới đất còn chứa 60 nguyên tố đa lượng, vi lượng rất cần thiết cho sự sống.
* Trong sản xuất:
Nước sạch không chỉ dùng trong ăn uống, sinh hoạt cho con người mà
nó càn rất cần cho sản xuất nông nghiệp (đảm bảo tưới tiêu nước đi đôi với
cải tạo đất lầy thụt, chua phèn, nhiễm mặn, bạc mầu, phục vụ thâm canh, tăng
vụ), thuỷ sản, công nghiệp (góp phần quan trọng, bảo đảm các điều kiện để
phát triển ngành công nghiệp với nhịp độ cao, mở rộng quy mô và phân bố lại
SVTH: §ç ThÞ H»ng Líp: KÕ ho¹ch 46B
các lĩnh vực sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại), du
lịch và các ngành kinh tế khác. Nước còn cần cho phát triển thuỷ điện và giao
thông thuỷ.
Thực tế cho chúng ta thấy, dân cư đô thị có nhu cầu chất lượng cao hơn
những vùng khác. Sở dĩ có những điều đó là do dân cư đô thị có mức sống
cao hơn so với dân cư khu vực nông thôn, do đó đòi hỏi về nước sạch cũng

như mức độ sẵn sàng chi trả cho dịch vụ nước sạch của dân cư đô thị so với
dân cư nông thôn cũng cao hơn.
Tốc độ đô thị hóa ngày càng tăng nhanh, theo cùng tốc độ đó thì dân cư
đô thị ngày một tăng lên. Mặc dù tốc độ tăng dân số tự nhiên ở các vùng đô
thị thấp hơn so với ở nông thôn nhưng tốc độ tăng dân số cơ học của các vùng
đô thị lại cao hơn, do một bộ phận dân số chuyển từ các vùng nông thôn ra
thành thị tìm việc làm. Do đó đòi hỏi nhu cầu về hệ thống cấp nước ngày càng
cấp thiết.
Cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị là điều kiện cho quá trình hình thành và
phát triển đô thị. Nó là một trong những yếu tố cấu thành cơ sở hạ tầng đô
thị , cung cấp những dịch vụ cơ bản, thiết yếu nhất cho các đô thị và phản ánh
trình độ phát triển của từng đô thị, trình độ văn minh của đô thị
Có thể nói, đối với các đô thị thì cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị còn
được coi là bộ mặt của đô thị, hơn thế nữa nó còn là bộ mặt của đất nước. Do
vậy chúng ta không thể không quan tâm đến cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị.
Cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị là một trong những cơ sở hạ tầng rất
quan trọng, đáp ứng nhu cầu cần thiết của đời sống hàng ngày, quyết định
việc đảm bảo chất lượng vệ sinh môi trường sống cho người dân và góp phần
tích cực phát triển và hiện đại hoá đô thị.
SVTH: §ç ThÞ H»ng Líp: KÕ ho¹ch 46B
1.2. Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị
1.2.1. Một số quan niệm về đầu tư và đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp
nước đô thị
1.2.1.1. Khái niệm về đầu tư phát triển
Đầu tư là một hoạt động cơ bản tồn tại tất yếu và nó có vai trò quan
trọng trong bất kì nền kinh tế xã hội nào. Nói về khái niệm đầu tư, có rất
nhiều cách tiếp cận khác nhau.
Theo nghĩa rộng, đầu tư là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến
hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất
định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được kết quả đó.

Nguồn lực đó có thể là tiền, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động hay
công nghệ. Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm của các tài sản tài chính (
tiền vốn ); tài sản vật chất (nhà máy, đường sá, các của cải vật chất khác…);
tài sản trí tuệ ( trình độ văn hoá, chuyên môn, khoa học kỹ thuật…) và nguồn
nhân lực có đủ điều kiện làm việc với năng suất cao hơn cho xã hội
Theo nghĩa hẹp, đầu tư chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các
nguồn lực hiện tại nhằm đem lại cho nền kinh tế - xã hội những kết quả trong
tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được kết quả đó.
Như vậy, xét theo bản chất có thể chia hoạt động đầu tư trong nền kinh
tế ra làm 3 loại : Đầu tư tài chính ( là hình thức đầu tư mang lại lợi nhuận trực
tiếp cho người bỏ tiền ra để cho vay hay mua bán các chứng chỉ có gia mà
không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế). Đầu tư thương mại (đây là hình
thức mà nhà đầu tư bỏ tiền ra để mua hàng hoá và sau đó bán với giá cao
nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá khi mua và khi bán). Đầu tư tài sản vật
chất và sức lao động ( còn gọi là đầu tư phát triển ), khác với hai hình thức
trên, đầu tư phát triển là loại đầu tư trong đó các nhà đầu tư bỏ tiền và tài sản
để tiến hành các hoạt động nhằm duy trì và tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế,
SVTH: §ç ThÞ H»ng Líp: KÕ ho¹ch 46B
nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh, góp phần tạo nên việc làm, nâng cao
đời sống của mọi thành viên trong xã hội. Trong đầu tư tài sản vật chất, có
đầu tư các điều kiện cơ sở vật chất, kỹ thuật, kiến trúc, thông tin, dịch vụ tài
chính, tạo nền tảng cho các hoạt động kinh tế - xã hội ; đầu tư sức lao động
bao gồm đầu tư công sức và đầu tư trí tuệ của người lao động.
Hoạt động đầu tư bao gồm 3 yếu tố cơ bản :
- Đầu tư phát triển là một chuỗi các hoạt động chi tiêu, hao phí các
nguồn lực : nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất (đất đai, máy
móc, thiết bị, nguyên nhiện vật liệu…), nguồn lực lao động và trí
tuệ.
- Phương thức tiến hành các hoạt động đầu tư : xây dựng mới, sửa
chữa nhà cửa và cấu trúc hạ tầng. mua sắm máy móc thiết bị và lắp

đặt…, bồi dưỡng, đào tạo nguồn nhân lực…
- Kết quả đầu tư : hoạt động đầu tư không chỉ mang lại lợi ích cho
chủ đầu tư nói riêng ( doanh thu, lợi nhuận…) mà còn đem lại lợi
ích cho toàn xã hội ( tạo thêm việc làm…). Đầu tư được tiến hành
trong hiện tại và kết quả của nó được thu về trong tương lai.
Hay có thể nói, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội là bỏ ra
một lượng tiền vào việc tạo mới hay tăng cường cơ sở vật chất, các điều kiện
kỹ thuật, phương tiện, thiết chế, tổ chức làm nền tảng cho kinh tế - xã hội phát
triển
1.2.1.2. Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị.
Vì đầu tư phát triển là rất rộng, do hạn chế của đề tài nên ở đây em xin
tập trung đi sâu vào nghiên cứu việc đầu tư về vốn cho cơ sở hạ tầng cấp nước
đô thị.
Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị là hình thức đầu tư cho
việc khôi phục, nâng cấp, bảo dưỡng hay xây dựng mới các nhà máy nước, hệ
SVTH: §ç ThÞ H»ng Líp: KÕ ho¹ch 46B
thống đường ống và năng lực cấp nước cho người dân nhằm đáp ứng nhu cầu
sinh hoạt và sản xuất cho người dân ở khu vực đô thị
Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị là một hoạt đồng đầu tư
phát triển của Nhà nước, của các đơn vị kinh tế tư nhân hay của các địa
phương vào các công trình cấp nước
Như vậy đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị bao gồm:
- Đầu tư xây dựng cơ bản: là các khỏan đầu tư làm mới, mở rộng, cải
tạo và nâng cấp các nhà máy nước, hệ thống đường ống… khoản đầu tư này
làm tăng năng lực cấp nước cho người dân đô thị.
- Đầu tư (chi) thường xuyên : là đầu tư cho công tác duy trì, bảo dưỡng
hệ thống cấp nước… tuy không làm gia tăng năng lực cấp nước nhưng nó
giúp phục hồi năng lực đã mất do tình trạng xuống cấp của hệ thống ống
dẫn…
1.2.2. Đặc điểm của đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị

Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nói chung và đầu tư xây dựng cơ sở hạ
tầng cấp nước đô thị nói riêng là ngành sản xuất đặc biệt, do nó có những đặc
điểm khác với các ngành sản xuất vật chất khác. Đó là :
 Vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi chậm:
Đầu tư phát triển hệ thống cấp nước đô thị có đặc điểm là vốn đầu tư
lớn và thời gian thu hồi vốn chậm. Mỗi nhà máy nước được xây dựng có thể
phục vụ cho một số lượng lớn người sử dụng, đi kèm với các nhà máy lại phải
có một hệ thống ống nước dẫn từ nhà máy tới các hộ tiêu dùng. Thường thì hệ
thống ống dẫn nước lại chạy ngầm dưới đất nên vẫn đề đầu tư ở đây rất tốn
kém. Mà, mỗi hộ dân đấu nối sẽ cần phải có đồng hồ đo nước để tính phí
nước. Do vậy, có thể thấy đầu tư cho hệ thống nước là một hoạt động đầu tư
đòi hỏi vốn lớn.
SVTH: §ç ThÞ H»ng Líp: KÕ ho¹ch 46B
 Mang tính xã hội hóa cao:
Hoạt động đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị mang tính xã
hội hóa cao, nó đem lại lợi ích cho nền kinh tế xã hội, mục tiêu của đầu tư
không phải vì mục đích kinh doanh đơn thuần để thu lợi nhuận mà quan trọng
hơn cả là nó đáp ứng nhu cầu nước sạch cho sinh hoạt và sản xuất của người
dân trong xã hội.
 Nguồn vốn cho đầu tư chủ yếu là vốn ODA :
Đầu tư cho cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị là một lĩnh vực đầu tư mang
lại hiệu quả kinh tế - xã hội to lớn, nó gíup cải thiện điều kiện sống cho người
dân, chính vì vậy việc đầu tư phát triển vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị thu
hút được đầu tư của các nhà tài trợ quốc tế. Nhận thức được điều này, song vì
điều kiện ngân sách hạn hẹp chúng ta không đủ ngân sách để tự đầu tư phát
triển hệ thống cấp nước đô thị. Vì vậy, nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức
ODA hiện nay vẫn đang là nguồn chủ yếu cho đầu tư phát triển hệ thống cấp
nước đô thị.
 Công tác quy hoạch đóng vai trò hêt sức quan trọng:
Việc đầu tư cho cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị liên quan mật thiết đến

nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau. Việc đầu tư cho cơ sở hạ tầng cấp
nước đô thị phải luôn đi kèm với đầu tư cho hệ thống cấp nước. Bên cạnh đó,
hệ thống đường ống lại liên quan tới việc đào đường, san lấp mặt đường, ảnh
hưởng không chỉ tới mỹ quan đô thị mà còn tới an toàn giao thông.... Do đó,
khi đầu tư phát triển hệ thống cấp nước mới cần thiết phải nghiên cứu kỹ
lưỡng các quy hoạch, phối hợp với hoạt động của các cơ quan liên quan để
nhằm đảm bảo đạt được hiệu quả cao nhất.
1.2.3. Nguồn vốn đầu tư trong phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị
Như chúng ta đã biết, trong đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nói chung và
cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị nói riêng thì vốn đầu tư đóng vai trò đặc biệt
SVTH: §ç ThÞ H»ng Líp: KÕ ho¹ch 46B
quan trọng vì các dự án, các công trình cấp nước đô thị đòi hỏi lượng vốn đầu
tư lớn, thời gian thu hồi vốn chậm, hơn nữa việc cải tạo, nâng cấp, khôi phục
các công trình là thường xuyên, liên tục cho nên yêu cầu về vốn luôn được đặt
lên hàng đầu với các chủ thể đầu tư.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, vốn đầu tư được
khai thác từ nhiều nguồn vốn khác nhau, có cả nguồn vốn trong nước và
nguồn vốn nước ngòai. Đối với cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị mà nói, vốn đầu
tư bao gồm từ những nguồn vốn chủ yếu sau : vốn ngân sách Nhà nước, vốn
ODA, vốn tín dụng đầu tư phát triển và các nguồn vốn khác ( Doanh nghiệp
tư nhân…)
1.2.3.1. Vốn Ngân sách Nhà nước
Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị được coi là một lĩnh
vực đầu tư công ích. Do đó, nguồn vốn Ngân sách Nhà nước có ý nghĩa quan
trọng.
Nguồn vốn đầu tư từ Ngân sách nhà nước là tất cả các khoản Ngân sách
dùng để làm tăng thêm tài sản quốc gia, đối với hoạt động đầu tư phát triển cơ
sở hạ tầng cấp nước đô thị thì đó là các khoản đầu tư cho việc xây dựng mới,
mở rộng, nâng cấp các nhà máy nước sạch và các hệ thống đường ống dẫn
nước…

Nguồn vốn đầu tư Ngân sách nhà nước này phần lớn là các khoản cấp
phát không hoàn trả trực tiếp và mang tính bao cấp được thực hiện theo quy
định cụ thể của pháp luật. Nguồn vốn này chính là số thu Ngân sách còn lại
sau khi đã chi cho các nhu cầu chi thường xuyên, nó do Nhà nước sở hữu và
trực tiếp quản lý, sử dụng trong các mục tiêu kinh tế, xã hội mang tính chất
công cộng nên nó có tính chất xã hội rất lớn. Qúa trình sử dụng nguồn vốn
này đòi hỏi phải theo kế hoạch và gắn với các chương trình, dự án của Nhà
nước và bị chi phối bởi các quy định của các Nhà nước.
SVTH: §ç ThÞ H»ng Líp: KÕ ho¹ch 46B
Ở các nước đang phát triển như nước ta, nguồn vốn này có ý nghĩa
quan trọng trong việc quyết định xây dựng các công trình trọng điểm quốc gia
nói chung và cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị nói riêng. Nó có tác dụng làm đòn
bảy phát triển kinh tế và là nguồn vốn đối ứng để thu hút các nguồn vốn đầu
tư khác.
Nguồn vốn ngân sách Nhà nước bao gồm : Vốn ngân sách Trung ương
và Vốn ngân sách địa phương
Theo Luật ngân sách hiện nay, việc cung cấp tài chính cho các hệ thống
cấp nước đô thị thuộc trách nhiệm của các Uỷ ban nhân dân tỉnh. Tuy nhiên,
trong thực tế thì ngân sách tỉnh không đủ để đáp ứng những nhu cầu nâng cấp
cần thiết, do đó chính phủ trung ương phải hỗ trợ cung cấp vốn đầu tư cho cơ
sở hạ tầng cấp nước đô thị.
1.2.3.2. Vốn ODA
Vốn ODA là vốn hỗ trợ phát triển của các đối tác tài trợ nước ngoài
dành cho các nước nhận viện trợ, thường là các nước đang phát triển. Vốn
ODA giữ vai trò rất quan trọng trong việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp
nước đô thị, nó là nguồn chủ yếu cho đầu tư phát triển hệ thống cấp nước đô
thị.
Vốn ODA bao gồm tất cả các khoản viện trợ không hoàn lại và các
khoản tín dụng ưu đãi ( cho vay với lãi suất thấp…). Một khoản vay được coi
là vốn ODA khi nó thỏa mãn các tiêu thức sau : một là, nó phải do chính phủ

hoặc các tổ chức điều hành trực thuộc chính phủ cung cấp. Hai là, mục tiêu
chủ yếu là thúc đẩy phát triển kinh tế và phúc lợi xã hội các nước đang phát
triển. Ba là, với hình thức ODA cho vay ưu đãi phải có thành phần viện trợ
không hoàn lại không dưới 25 % giá trị khoản vay. Việc huy động vốn ODA
cho đầu tư phát triển chịu ảnh hưởng của những nhân tố như : quan hệ song
SVTH: §ç ThÞ H»ng Líp: KÕ ho¹ch 46B
phương và đa phương giữa Việt Nam và các bên tài trợ, việc thực hiện các
điều kiện ràng buộc như giải ngân…
Các nhà cung cấp ODA cho cấp nước đô thị là Ngân hàng Thế giới
(WB), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), các tổ chức DANIDA, JICA…
1.2.3.3. Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước
Tín dụng nhà nước về thực chất có thể coi như một khoản chi của ngân
sách nhà nước, vì cho vay theo lãi suất ưu đãi, tức lãi suất cho vay thường
thấp hơn lãi suất trên thị trường tín dụng, nên Nhà nước phải dành ra một
phần ngân sách trợ cấp bù lãi suất. Song tín dụng nhà nước có những ưu thế
riêng, phát triển hoạt động tín dụng nhà nước là đi liền với giảm bao cấp về
chi ngân sách nhà nước trong điều kiện ngân sách còn hạn hẹp, đồng thời
nâng cao hơn nữa trách nhiệm của người sử dụng vốn.
Cơ chế của tín dụng là đi vay có hoàn trả kèm lãi suất, nên dưới áp lực
này buộc các đối tượng vay vốn phải tăng cường hạch toán kinh tế, giám sát
chặt chẽ việc sử dụng các khoản vay để bảo đảm khả năng thanh toán nợ. Bên
cạnh đó, khả năng điều tiết nền kinh tế của Nhà nước sẽ ngày càng được cải
thiện khi các khoản vay được hoàn trả thay vì việc cấp phát không hoàn lại
như trước đây, cho nên đầu tư của Nhà nước vào các ngành then chốt, các
vùng trọng điểm, các vùng khó khăn...tăng lên sẽ góp phần nâng cao hiệu quả
kinh tế, xã hội của toàn bộ nền kinh tế.
1.2.3.4. Vốn từ các doanh nghiệp, tư nhân và các nguồn khác.
Bên cạnh nguồn vốn từ Ngân sách Nhà nước, vốn tín dụng đầu tư phát
triển và nguồn vốn ODA thì vốn từ các doanh nghiệp, tư nhân và các nguồn
khác cũng đóng một vai trò rất lớn vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị. Nguồn

vốn này có một tiềm năng rất lớn nó bao gồm vốn của dân cư, vốn của các
doanh nghiệp, tổ chức... trong nước cũng như là Vốn đầu tư trực tiếp nước
SVTH: §ç ThÞ H»ng Líp: KÕ ho¹ch 46B
ngoài (FDI), hiện nay nó cũng góp phần rất lớn vào cơ sở hạ tầng cấp nước
đô thị.
1.3. Sự cần thiết của đầu tư tư nhân trong phát triển cơ sở hạ tầng cấp
nước đô thị
1.3.1. Đặc điểm của sản phẩm cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị
Cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị tuy không trực tiếp tham gia trong việc
tạo ra sản phẩm nhưng nó là một nhân tố không thể thiếu trong quá trình sản
xuất. Trong nền kinh tế thị trường, sản phẩm của cơ sở hạ tầng cấp nước đô
thị có hai thuộc tính : Thứ nhất, nó có giá trị bởi trên thực tế, các cơ sở hạ
tầng cấp nước đô thị không tự nhiên sinh ra, mà nó phải trải qua quá trình đầu
tư phát triển với một kinh phí rất lớn trong một thời gian dài. Thứ hai, nó
cũng có giá trị sử dụng theo đúng mục đích với khi quyết định đầu tư. Bên
cạnh đó, sản phẩm cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị còn sẵn sàng tham gia trao
đổi trên thị trường nên sản phẩm cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị thỏa mãn trở
thành hàng hóa. Không những thế, khác với những loại hàng hóa thông
thường, sản phẩm cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị còn được coi là hàng hóa
công cộng vì nó có hai đặc tính quan trọng:
Thứ nhất là nó không có tính cạnh tranh trong tiêu dùng, đối với hàng
hóa cá nhân là những hàng hóa cá nhân là những hàng hóa có tính cạnh tranh,
tức là việc tiêu dùng của người này sẽ loại trừ việc tiêu dùng của người kia, vì
vậy chi phí tiêu dùng cận biên cao. Còn đối với hàng hóa nước sạch thì khi có
thêm một người tiêu dùng sử dụng sẽ không làm giảm lợi ích tiêu dùng của
những người đang tiêu dùng hiện có. Ví dụ : Các vòi nước công cộng không
có tính cạnh tranh trong tiêu dùng, chúng có thể được rất nhiều người cùng sử
dụng một lúc. Việc ai đó mở hay tắt vòi nước đều không ảnh hưởng đến mức
độ tiêu dùng của người khác.
SVTH: §ç ThÞ H»ng Líp: KÕ ho¹ch 46B

Thứ hai, nó không có tính loại trừ trong tiêu dùng có nghĩa là không thể
loại trừ hoặc rất tốn kém nếu muốn loại trừ những cá nhân từ chối không chịu
trả tiền cho việc tiêu dùng của mình. Chẳng hạn không có ai có thể ngăn cản
những người không chịu trả tiền (đóng thuế) cho việc duy trì các vòi nước
công cộng khỏi việc hưởng thụ những lợi ích do vòi nước mang lại.
1.3.2. Chủ trương đa dạng hóa nguồn lực cho đầu tư phát triển cơ sơ hạ
tầng cấp nước đô thị.
Đa dạng hóa nguồn lực cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô
thị là chủ trương được triển khai dựa trên những căn cứ khoa học và khách
quan. Điều đó được phân tích dựa trên những góc độ sau:
 Xét dưới góc độ sở hữu :
Ta có thể nhận thấy, dưới thời bao cấp cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị
đều do nhà nước đầu tư, xã hội nói chung và từng cơ sở kinh tế nói riêng cứ
vậy mà thụ hưởng, đó là các công trình , các vòi nước công cộng. Tuy nhiên,
trong nền kinh tế thị trường, nhà nước chủ trương xã hội hóa mọi nguồn lực,
đã xuất hiện nhiều tổ chức, cá nhân tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng cấp nước
đô thị, vấn đề đặt ra là sở hữu, sở hữu ở đây xuất phát từ nguồn vốn được
chảy ra từ thành phần kinh tế nào, từ đó việc chuyển giao, mua bán chuyển
nhượng đã xuất hiện.
Như trên đã trình bày, sản phẩm của cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị là
hàng hóa công cộng. Mà hàng hóa công cộng cũng như hàng hoá thông
thường, hàng hóa công cộng cũng có thể tách ra thành quá trình sản xuất và
tiêu dùng. Tuy nhiên hàng hóa công cộng khác hàng hóa thông thường ở chỗ,
hàng hóa thông thường được sản xuất để cá nhân tiêu dùng, còn hàng hóa
công cộng được sản xuất ra cho cả cộng đồng sử dụng. Hàng hóa thông
thường được sản xuất ra sau đó đem bán ra thị trường trao đổi nhằm kiếm lợi
nhuận, phần lợi nhuận này lại được dùng để quay vòng sản xuất hay tái sản
SVTH: §ç ThÞ H»ng Líp: KÕ ho¹ch 46B
xuất mở rộng. Còn với hàng hóa công cộng, không thể bán ngay được mà để
phục vụ chung cho cộng đồng. Chính vì vậy, nguồn vốn đầu tư cho cơ sở hạ

tầng cấp nước đô thị chủ yếu là từ nguồn tài chính công và từ sự đóng góp của
xã hội hay nói cách khác là sự đa dạng hóa nguồn vốn trong phát triển cơ sở
hạ tầng cấp nước đô thị.
 Xét dưới góc độ sử dụng:
Cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị có đặc điểm là được sử dụng chung,
phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất của người dân khu vực đô thị. Do vậy, dẫn
đến mâu thuẫn đó là: Ai là việc khơi mào đầu tư, bỏ vốn, sửa chữa, quản lý...
điều đó sẽ phức tạp nếu không giải thoát bằng một biện pháp có tính nguyên
tắc đó là : cả xã hội tham gia đầu tư và cộng đồng sử dụng.
 Xét về khả năng huy động vốn :
Trong năm 2005, trong số vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước
đô thị th 30% nguồn vốn Ngân sách và gần 40% vốn ODA còn lại là một
lượng lớn nguồn vốn được huy động từ các cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp
trong nước và ngoài nước, như vậy trên thực tế cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị
đã thu hút được toàn xã hội tham gia. Cho dù tiếp cận theo cách nào đi chăng
nữa thì cũng có thể khẳng định rằng, muốn xây dựng cơ sở hạ tầng cấp nước
đô thị một cách nhanh chóng thì phải có sự góp sức của cả xã hội
 Xét về nghĩa vụ và quyền lợi của người dân:
Trong thời gian vừa qua, việc xây dựng và hưởng thụ cơ sở hạ tầng cấp
nước ở hai khu vực đô thị và nông thôn có sự khác biệt rất lớn. Các cơ sở hạ
tầng cấp nước đô thị được xây dựng với quy mô lớn, hiện đại, ở nông thôn thì
các công trình này thường có quy mô nhỏ hơn đặc biệt là các vùng miền núi.
Nguồn vốn đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị thường là vốn
Ngân sách nhà nước, còn cơ sở hạ tầng cấp nước nông thôn thì thường được
huy động từ người dân, người dân ở khu vực thành thị thường không phải
SVTH: §ç ThÞ H»ng Líp: KÕ ho¹ch 46B
đóng góp cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng cấp nước mà họ chỉ việc đóng góp
cho khối lượng nước mà mình sử dụng, người dân ở khu vực nông thôn ngoài
việc đóng góp cho khối lượng nước mà mình sử dụng phải bỏ ra tiền bạc,
công sức để xây dựng. Vì vậy, vấn đề đặt ra là việc huy động vốn và đầu tư

xây dựng cơ sở hạ tầng cấp nước phải đảm bảo được sự công bằng xã hội
1.3.3.Yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh ngành nước.
Từ thực tế cho thấy, trước kia các cơ quan Nhà nước cung cấp và quản
lý cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị thường là độc quyền, thiếu sự công khai và
chỉ chịu trách nhiệm trước chính quyền và bộ máy hành chính chứ không phải
trực tiếp trước người dân, những người sử dụng hay khách hàng. Trong nền
kinh tế thị trường như hiện nay, đặc biệt xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra
mạnh mẽ, một yêu cầu đặt ra là làm cho các tổ chức này hoạt động có hiệu
quả hơn, khi kinh tế tư nhân tham gia vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị có thể
hoạt động tích cực, hiệu quả hơn. Mục tiêu của các thành phần kinh tế tư nhân
khi tham gia và đây chủ yếu là tìm kiếm lợi nhuận cho những đầu tư của
mình. Do khả năng tiếp cận các nguồn tài chính và năng lực quan lý hiệu qủa
hơn nên họ có thể đóng một vai trò trong việc cung cấp tài chính, dịch vụ,
điều hành, bảo dưỡng, quản lý tốt hơn.
Khi cơ hội tiếp cận các nguồn vốn vay ưu đãi quốc tế như ODA có xu
hướng giảm thì việc đẩy mạnh thu hút đầu tư tư nhân đang ngày càng trở nên
có vai trò quan trọng hơn. Bên cạnh đó, hiệu quả đầu tư từ khu vực tư nhân
thường cao hơn so với khu vực Nhà nước do sự quản lý vốn của khu vực này
thường chặt chẽ, nhạy cảm hơn với những chính sách khuyến khích ưu đãi
đầu tư của Nhà nước. Đây có thể coi là những ưu điểm dễ nắm bắt để khai
thác.
SVTH: §ç ThÞ H»ng Líp: KÕ ho¹ch 46B
Đứng trước nhu cầu ngày càng gia tăng về cơ sở hạ tầng cấp nước đô
thị trong giai đoạn hiện nay, cùng với việc hạn chế về Ngân sách và Việt Nam
sắp hết hạn hưởng các nguồn tài trợ ưu đãi ( ODA) đồng nghĩa với việc Việt
Nam phải tìm kiếm các nguồn cung cấp dịch vụ đa dạng hơn để đáp ứng được
nhu cầu về cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị như kế hoạch và đạt được các mục
tiêu đề ra, không còn nghi ngờ gì nữa, sự tham gia của khu vực tư nhân vào
lĩnh vực đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị sẽ là một phần quan
trọng trong việc đáp ứng các nhu cầu về cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị nói

riêng và cơ sở hạ tầng cấp nước nói riêng.
Việc tư nhân tham gia đầu tư vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị cũng sẽ
góp phần vào việc chống tham nhũng lãng phí, bởi nguồn vốn của tư nhân
luôn được quản lý chặt chẽ nhằm mang lại hiệu quả cao nhất. Đồng thời khi
đầu tư tư nhân vào phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị sẽ giảm được sức
ép về nhu cầu vốn đầu tư và làm tăng thêm thu nhập cho Chính Phủ. Khả
năng tiếp cận đến các nguồn vốn tài chính tư nhân nhất là khi các nguồn vốn
đó có được từ việc bán các tài sản hiện có sẽ giúp Chính Phủ không phải thực
hiện chi tiêu công cộng và vay nợ vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị nữa mà
tập trung vào các mục tiêu xã hội và y tế.
Đồng thời với sự tham gia của đầu tư tư nhân sẽ mang lại một số lượng
việc làm nhất định cho xã hội nhằm phục vụ cho việc xây dựng nhà mấy mới
cũng như nâng cấp các nhà máy cũ, ngòai ra nó còn mang lại việc làm cho số
nhân công trong quá trình tiến hành hoạt động đầu tư. Như vậy, với việc tham
gia của đầu tư tư nhân vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị đã mang lại hiệu quả
giải quyết công ăn việc làm cho một số lượng không nhỏ nhân công
Một tác dụng nữa của đầu tư tư nhân trong cơ sở hạ tầng cấp nước đô
thị đó là nó giúp nâng cao khả năng cạnh tranh của các ngành phụ trợ cho nó,
SVTH: §ç ThÞ H»ng Líp: KÕ ho¹ch 46B
ví dụ như chế tạo ống dẫn, xây dựng...và như thế thì càng thu hút thêm lượng
vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài.
Kết luận : Theo như trên đã trình bày, đã thấy được cơ bản về sự cần
thiết của hoạt động đầu tư vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị, cũng như thấy
được sự cần thiết của đầu tư tư nhân nói riêng vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô
thị. Muốn đưa ra các biện pháp nhằm thu hút đầu tư tư nhân vào phát triển cơ
sở hạ tầng cấp nước đô thị, tiếp theo ta xem xét thực trạng đầu tư vào cơ sở hạ
tầng nói chung và thực trạng đầu tư tư nhân vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị
nói riêng.
SVTH: §ç ThÞ H»ng Líp: KÕ ho¹ch 46B
Chương II: Thực trạng đầu tư tư nhân trong phát triển

cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị ở Việt Nam
2.1. Tổng quan về vốn đầu tư và các dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ
tầng cấp nước đô thị
Trong những năm qua, tình hình cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị ở nước
ta đã được cải thiện đáng kể. Hầu hết các thành phố, thị xã trong toàn quốc
đều đã có được các dự án đầu tư cải tạo mở rộng và xây dựng mới các hệ
thồng cấp nước. Kể từ năm 2000 đến nay, Việt Nam đã đầu tư xây dựng
khoảng 1 tỷ USD để phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị với mức độ đầu
tư khác nhau, tính tổng cộng trên toàn quốc có khoảng 240 nhà máy nước.
Hầu hết các thành phố, thị xã trong toàn quốc đều đã có được các dự án đầu
tư cải tạo mở rộng và xây dựng mới các hệ thống cấp nước. Các dự án cấp
nước được đầu tư chủ yếu từ nguồn vốn Ngân sách nhà nước, vốn ODA, vốn
tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, vốn từ các doanh nghiệp. Chất lượng
và số lượng cấp nước được thực hiện bởi các dự án này đã đáp ứng phần nào
nhu cầu nước sạch cho sản xuất và sinh hoạt của người.
2.1.1.Thực trạng vốn đầu tư trong phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị
*Quy mô và tốc độ tăng của nguồn vốn đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tầng
cấp nước đô thị:
Để không ngừng nâng cao chất lượng và đáp ứng nhu cầu ngày càng
tăng về nước sạch ở đô thị, ngành kinh doanh nước sạch đô thị đã chú trọng
quan tâm đặc biệt đến việc huy động tối đa các nguồn vốn đầu tư. Kết quả thu
hút đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị được phản ánh ở bảng sau:
SVTH: §ç ThÞ H»ng Líp: KÕ ho¹ch 46B

×