Tải bản đầy đủ (.docx) (54 trang)

Khóa luận sự kết hợp giữa yếu tố giáo dục và giải trí trong các chương trình truyền hình cho trẻ em hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.25 KB, 54 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiêt của đề tài
Truyền hình nói chung đang đã và đang trở thành món ăn tinh thần không
thể thiếu trong đời sống xã hội hiện đại. Ngày nay, sở hữu một chiếc TV và xem
chương trình mình u thích khơng cịn là một điều q xa xỉ đối với nhiều người.
Bởi vậy, các nhà làm truyền hình đang ngày càng đầu tư sản xuất ra các chương
trình có chất lượng để đáp ứng nhu cầu cơng chúng ở mọi ngành nghề và lứa tuổi
trrong đó có trẻ em.
Đầu tư cho trẻ em là sự đón đầu, bắt kịp vượt qua khu vực và thế giới. Vì
thế, nhiều đài truyền hình ln dành cho cơng chúng trẻ em sự quan tâm và ưu đãi.
Kể từ khi ra đời cách đây hơn 40 năm, đài truyền hình Việt Nam đã luôn quan tâm
đến đối tượng khán giả này. Đài truyền hình Việt Nam đã cho ra đời rất nhiều
chương trình có ý nghĩa, phát trên tất cả các kênh, trong đó phải kể đến kênh thơng
tin thể thao và giải trí VTV3. Khơng thể phủ nhận rằng, VTV3 đã dành một lượng
lớn thời gian để phát sóng những chương trình dành cho trẻ em, những nhu cầu,
tình cảm của trẻ em ln là mục đích của kênh truyền hình này.
Những chương trình truyền hình đang được phát sóng không chỉ dừng lại ở
việc tạo cho các em một sân chơi lành mạnh mà qua đó tác động đến suy nghĩ, tình
cảm của các em, giúp các em nhận thức được đúng, sai, tốt, xấu. Những chương
trình kết hợp cả hai yếu tố giáo dục và giải trí như trên xuất hiện ngày càng nhiều,
đa dạng về nội dung và phong phú về hình thức thể hiện. Từ việc giáo dục thơng
qua hình thức trị chơi như chương trình:“Đường lên đỉnh Olympia”, “Trẻ em luôn
đúng”, “Ai thông minh hơn học sinh lớp 5”, cho đến giáo dục qua âm nhạc như:
“Đồ rê mí”, và sử dụng kết hợp đa dạng các hình thức thể hiện khác. Nhưng cho
dù dưới dạng hình thức nào đi nữa, thì những chương trình kể trên thực sự đã trở
1


thành một món ăn tinh thần khơng thể thiếu đối với trẻ em. Nó khơng chỉ mang lại
những giây phút thư giản, thoải mái mà còn làm giàu thêm vốn hiểu biết của các
em về mọi kiến thức lý thú và hữu ích cho cuộc sống. Những kiến thức tưởng


chừng khô khan của nhân loại như kiến thức về khoa học tự nhiên cho đến những
kiến thức về văn hoá, xã hội được thể hiện khéo léo dưới nhiều hình thức khác
nhau sinh động và hấp dẫn.
Tuy nhiên, khơng có nghĩa là những chương trình kết hợp giáo dục và giải
trí dành cho trẻ em trên VTV3 khơng có những khiếm khuyết. Trên thực tế, sự kết
hợp này ở nhiều chương trình chưa thật sự linh hoạt, hình thức nhiều chương trình
cịn đơn điệu và đi theo lối mịn. Nhiều nội dung quan trọng và cần thiết cho trẻ em
còn chưa được khai thác.
Việc nâng cao chất lượng của sự kết hợp giáo dục và giải trí trong những
chương trình dành cho trẻ em là rất cần thiết. Bởi làm chương trình truyền hình cho
trẻ em và vì cuộc sống trẻ em tốt đẹp hơn từ lâu đã trở thành nhiệm vụ của báo chí
nói chung và truyền hình nói riêng. Thực tế lại chưa có tài liệu nào nghiên cứu về
sự kết hợp giữa yếu tố giáo dục và giải trí trong các chương trình truyền hình cho
trẻ em hiện nay. Trong hồn cảnh đó, khố luận đưa ra đề tài này để góp thêm
những ý kiến trong việc nghiên cứu vấn đề cấp thiết này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Báo chí với trẻ em nói chung và truyền hình cho trẻ em nói riêng khơng cịn
là vấn đề mới mẻ. Thế nhưng thực tế, chưa có một cơng trình khoa học độc lập nào
nghiên cứu về sự kết hợp giữa hai yếu tố giáo dục và giải trí trong cùng một
chương trình truyền hình một cách đầy đủ, khoa học và toàn diện. Dưới đây là một
vài tài liệu nghiên cứu có liên quan, tuy nhiên chưa chỉ đề cập đến một vài khía
cạnh:
2


Biên tập chương trình truyền hình thiếu nhi, luận văn khoa tốt nghiệp khoa
báo chí, Đại học quốc gia Hà nội, của tác giả Nguyễn Hồi Hương, 1996
Chương trình truyền hình cho thiếu nhi và cách tiếp cận khán giả nhỏ tuổi,
khố luận tốt nghiệp khoa báo chí của tác giả Nguyễn Thị Vân Ngọc, đại học quốc
gia Hà nội, 2001

Giáo dục thiếu niên nhi đồng trên sóng Đài truyền hình Việt Nam, luận văn
Thạc sỹ Truyền thơng đại chúng của Trần Thị Thu Hương chuyên ngành báo chí
học, Học viện Báo chí và Tuyền truyền, 2005
Bởi vậy, với những kiến thức được trang bị trên giảng đường và những vấn
đề tìm hiểu được, tơi mạnh dạn thực hiện đề tài này, với mong muốn ít nhiều khố
luận sẽ mang lại những đóng góp để sự kết hợp giữa giáo dục và giải trí trong các
chương trình truyền hình dành cho trẻ em đạt được hiệu quả như mong muốn.
3. Đối tượng phạm vi nghiên cứu:
Trong phạm vi khoá luận tốt nghiệp, tơi khơng kì vọng có thể nghiên cứu
tồn bộ các chương trình truyền hình cho trẻ em, mà chỉ tập trung vào một số
chương trình đang được phát sóng trên kênh VTV3 đài Truyền hình Việt Nam. Bởi
thực tế cho thấy, hiện nay có rất nhiều chương trình truyền hình cho trẻ em, chưa
bàn tới chất lượng ra sao, nhưng chúng ta có thể thấy nó xuất hiện với tần suất lớn
và ngày càng thu hút khán giả ở độ tuổi này.
Về đối tượng nghiên cứu, chúng ta đi sâu vào tìm hiểu các chương trình
truyền hình dành cho trẻ em đang được phát sóng trên kênh VTV3 đài truyền hình
Việt Nam. Cụ thể là các chương trình kết hợp cả hai yếu tố giáo dục và giải trí:
- Chúc bé ngủ ngon
- Cùng là sũng sĩ
3


-

Ai thông minh hơn học sinh lớp 5
Mười vạn câu hỏi vì sao
Trẻ em ln đúng
Đường lên đỉnh Olympia
( Thời gian khảo sát từ tháng 1 đến tháng 4 năm 2012)


Qua đó, có thể thấy một cách tồn diện và sâu sắc về xu hướng kết hợp này
và thực trạng của viết kết hợp. Từ những mặt được và chưa được, chúng ta sẽ đi
sâu vào nghiên cứu phương pháp để sự kết hợp đạt hiểu quả cao.
4. Mục đích và nghiện vụ nghiên cứu
Trên có sở các khái niệm công cụ và phát phiếu điều tra xã hội học, tơi muốn
muốn tìm hiểu về sự kết hợp yếu tố giáo dục và giải trí trong một chương trình
truyền hình dành cho trẻ em hiện nay như thế nào, và hiệu quả đạt được ra sao.
Trên cơ sở đó rút ra những bài học kinh nghiệm, những giải pháp nhằm để
cho sự kết hợp này đạt được hiệu quả cao nhất. Q trình nghiên cứu dẫn đến việc
hệ thống hố các vấn đề về vai trò, chức năng và tiêu chí của một chương trình
truyền hình cho trẻ em. Và cao hơn, tơi mong muốn góp phần nâng cao chất lương
của các chương trình truyền hình dành cho trẻ em nói chung. Để đạt được mục
đích trên khố luận đặt ra các nhiệm vụ như sau:
-Trình bày cơ sở lí luận và thực tiễn của việc kết hợp yếu tố giáo dục và giả
trí trong các chương trình truyền hình dành cho trẻ em.
- Làm rõ thực trạng của việc kết hợp hai yếu tố này trong các chương trình
truyền hình cho trẻ em trên kênh VTV3 hiện nay: cụ thể, tìm hiểu nội dung của các
chương trình, hình thức thể hiện, nghiên cứu những mặt mạnh và mặt hạn chế,
nguyên nhân của những hạn chế, từ đó xây dựng bức tranh chung về thực trạng
này. Cuối cùng đề xuất giải pháp đẻ sự kết hợp này đạt hiểu quả tốt, và góp phần
nâng cao chất lượng của các chương trình truyền hình cho trẻ em nói chung.
4


5. Ý nghĩa lí luận, thực tiễn của đề tài
Về mặt lí luận: Trên cơ sở khảo sát thực tiễn, đề tài góp phần làm rõ một số
nội dung lí luận, các khái niệm về trẻ em, truyền hình cho trẻ em, về giáo dục, giải
trí và sự kết hợp hai yếu tố này trong cùng một chương trình truyền.
Về thực tiễn: Có thể bài khố luận chưa khái qt được một cách toàn diện
về bức tranh chung của các chương trình truyền hình cho trẻ em hiện nay, thế

nhưng, hy vọng ít nhiều những kiến thức được trình bày trong khoá luận cũng sẽ là
một tài liệu tham khảo cho những người làm truyền hình nói chung và đội ngũ làm
truyền hình cho trẻ em nói riêng.
6. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp luận:
- Đề tài được tiến hành dựa trên đường lối, chủ trương, chính sách, chiến
lược của Đảng và Nhà nước về về việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em..
- Dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác Lê Nin, và tư tưởng Hồ Chí Minh
Phương pháp nghiên cứu:
Bài khoá luận sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: nghiên cứu một số sách báo, tài liệu về
trẻ em, về các chương trình truyền hình dành cho trẻ em.
- Phương pháp khảo sát thực tế: Khảo sát các chương trình truyền hình cho
trẻ em trên kênh VTV3 (chỉ tập trung khảo sát các chương trình kết hợp được cả
hai yếu tốt giáo dục và giả trí)

5


- Phương pháp phân tích tổng hợp: Dựa trên những tài liệu, khảo sát các
chương trình thực tế tiến hành phân tích tổng hợp đưa ra nhận xét và những đánh
giá cụ thể.
- Phương pháp thống kê: thống kê các tác phẩm, chương trình cho trẻ em từ
đó đi đến những so sánh cụ thể.
- Phương pháp phỏng vấn: tiến hành phỏng vấn lấy ý kiến của các bậc phụ
huynh và trẻ em ở nhiều lứa tuổi khác nhau
6. Kết cấu khố luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận, mục lục và tài liệu kham khảo, khố luận gồm
3 chương chính:
Chương 1: Những vấn đề lí luận chung

Chương 2: Thực trạng việc kết hợp yếu tố giáo dục và giải trí trong các chương
trình truyền hình dành cho trẻ em trên kênh VTV3 hiện nay
Chương 3: Một số giải pháp góp phần nâng cao chất lượng các chương trình truyền
hình dành cho trẻ em

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG
1.1 Các khái niệm
1.1 .1 Giáo dục
Trong các tài liệu giáo dục hiện nay tuy có nhiều các diễn giải khác nhau (do
quan niệm, phạm vi, giới hạn của vấn đề khác nhau) nhưng nhìn chung các giáo
6


trình nghiên cứu về giáo dục học đều quan niệm giáo dục là hiện tượng xã hội đặc
biệt, bản chất của nó là sự truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử xã hội của
thế hệ loài người. Những quan niệm này nhấn mạnh đến cách thức của hoạt động
giáo dục, đó là sự truyền đạt và lĩnh hội giữa kinh nghiệm, kiến thức giữa các thế
hệ Định nghĩa trên nhấn mạnh đến sự truyền đạt và lĩnh hội giữa các thế hệ.
Nhà giáo dục Jonh DeWey cũng đề cập đến việc truyền đạt nhưng ơng đã
nói rõ hơn mục tiêu cuối cùng của việc này là để tồn tại xã hội. [1, t17-26]
Hay theo từ điển Tiếng Việt quan niệm giáo dục cũng được nhìn nhận ở
mục đích và kết quả :“hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát
triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy dần dần
có một phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra”. [6, tr.627]
Qua một số quan niệm đó, có thể thấy khái niệm giáo dục thường chỉ mới
được đưa ra dưới một góc độ, hoặc là cách thức thực hiện hoạt động giáo dục. Như
vậy khái niệm này chưa mang tính chất tồn diện, bao qt hết các góc độ.
Để tiện cho q trình nghiên cứu chúng tôi xin khái quát và đưa ra một quan
niệm về giáo dục như sau: “giáo dục là quá trình trình dạy và học (truyền thụ,
tiếp nhận) kiến thức hướng tới mục đích hồn thiện trí tuệ và nhân cách người học

bằng những tác động có ý thức từ bên ngồi, góp phần đáp ứng các nhu cầu tồn
tại và phát triển của con người trong xã hội”.
1.1.2 Giải trí
“Giải trí” là một thuật ngữ được nhắc tới từ rất sớm, đồng hành với việc lao
động làm ra của cải vật chất. Có nhiều nhà nghiên cứu hay tài liệu đã đưa ra những
khái niệm nhằm cụ thể hoá thuật ngữ này.
Theo Bách khoa tồn thư mở định nghĩa: “Giải trí là một dạng hoạt động
của con người đáp ứng nhu cầu phát triển về thể chất, trí tuệ và mĩ học .Giải trí
cũng là nhu cầu của con người vì nó đáp ứng những địi hỏi bức thiết từ phía cá
nhân. Nhu cầu giải trí là động cơ của hoạt động giải trí. Khi xuất hiện nhu cầu
giải trí, con người bị thôi thúc hành động để thỏa mãn nhu cầu đó”.
(wikipedia.org)
7


Định nghĩa trên, “giải trí” được nhìn nhận vừa như một dạng hoạt động lại
vừa là nhu cầu không thể thiếu trong xã hội loài người. Cách định nghĩa này mang
tính diễn giải - dẫn dắt khó hiểu, chưa làm nổi rõ được đặc trưng của hoạt động
này. Nó có điểm giống hoạt động “Thể thao”, vì theo như quan niệm trên “giải trí
đáp ứng nhu cầu về thể chất”. Nghĩa là giải trí giúp cho con người khoẻ mạnh; hay
thuật ngữ này nếu được quan niệm như trên lại có điểm giống với hoạt động “giáo
dục” vì theo họ “giải trí đáp ứng nhu cầu về trí tuệ”.
Hay trong Đại từ điển Tiếng Việt, “giải trí” được hiểu là “làm cho đầu óc thư giãn,
thoải mái, cơ thể hết mệt mỏi” [6 tr.620]
Với khái niệm này thuật ngữ “giải trí” được lí giải ngắn gọn, rõ nét hơn tuy
nhiên thuật ngữ này nhìn nhận như một dạng hoạt động để đạt được sự thoải mái
về mặt tinh thần.
Tóm lại cần phải có một quan niệm rõ ràng, mạch lạc hơn về thuật ngữ này.
Từ những phân tích trên chúng tơi xin đưa ra quan niệm về giải trí như sau: “giải
trí vừa là nhu cầu, vừa là hoạt động khơng thể thiếu trong xã hội, nhằm vào mục

đích giải toả sự căng thẳng tinh thần làm cho con người thư giãn, thoải mái”.
1.1.3 Kết hợp giáo dục và giải trí
Theo Đại từ điển Tiếng Việt “kết hợp” là “gắn với nhau, để bổ sung cho
nhau”. [6, tr782]
Qua khái niệm trên có thể phần nào thấy được “kết hợp” ở đây không phải là
một hoạt động diễn ra ngẫu nhiên mà bao giờ cũng là một sự chủ động. Có sự tính
tốn để làm sao những yếu tố được “gắn với nhau” đó đem lại một kết quả chung
tốt nhất.
Tuy nhiên, chúng ta cần hiểu sự kết hợp (giữa hai hay nhiều yếu tố) ấy
thường diễn ra cùng một khoảng thời gian, để các yếu tố đó có thể hỗ trợ, bổ sung
những khiếm khuyết cho nhau trong một hoạt động. Có như vậy mới có thể mang
lại hiểu quả, lợi ích và chất lượng cao nhất.
Ví dụ, trong giáo dục chúng ta vẫn thường nói: kết hợp học với hành. Tức là,
nhấn mạnh việc lý thuyết phải đi đôi với thực hành. Hai quá trình này phải được
8


thực hiện đồng thời với nhau để bổ sung và hỗ trợ nhau, nhằm đạt được chất lượng
giáo dục tốt nhất.
Từ cách hiểu trên, có thể thấy kết hợp yếu tố giáo dục và giải trí tức là gắn
kết yếu tố giáo dục với giải trí để làm cho hai yếu tố này hoà quyện vào nhau thành
một, vừa bổ sung vừa hỗ trợ cho nhau, để mục đích cuối cùng của mỗi yếu tố đạt
chất lượng và hiệu quả nhất.
Chúng tôi xin đưa ra một khái niệm để phục vụ cho quá trình nghiên cứu
tiếp sau: Kết hợp yếu tố giáo dục và giải trí“là sự gắn kết một cách hợp lý giữa
việc truyền tải và tiếp thu tri thức, với những hoạt động vui chơi, giải trí với mục
đích để đối tượng tác động vừa được tiếp nhận tri thức lại có thể đạt được sự thoải
mái nhất định về mặt tinh thần”.
1.1.4 Chương trình truyền hình dành cho trẻ em
* Trẻ em

Trên thực tế, khơng ít người nghĩ “trẻ em” chỉ là những em bé nơn nớt cần
sự che chở của người lớn, chưa tự nhân thức được hết thế giới quan, cần giáo dục
về tình thần lẫn thể chất. Việc xác định rõ độ tuổi, đặc điểm của đối tượng này rất
quan trọng. Điều này còn mang ý nghĩa để “người lớn” có những cách đối xử và
đánh giá phù hợp về đối tượng được gọi là “trẻ em”.
Điều 1, Công ước quốc tế về quyền trẻ em ghi rõ: “ Trẻ em là những người
dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp quốc gia quy định tuổi thành niên sớm
hơn.” [5, tr.70]
Với quy định này, “trẻ em” đã được xác định rõ là những người thuộc độ
tuổi nào. Tuy nhiên, Cơng ước cũng có những yếu tố “mở” để phù hợp với điều
kiện của mỗi đất nước. Và ở Việt Nam, xác định điều kiện phát triển của mình Luật
Pháp Việt Nam đã có những giới hạn lại về độ tuổi của đối tượng này.

9


Điều 1, Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em của Việt Nam được ban
hành ngày 24 tháng 6 năm 2004 đã quy định: “trẻ em là công dân Việt nam dưới
16 tuổi” [8, tr.5]
*Chương trình truyền hình dành cho trẻ em
Chương trình truyền hình là sản phẩm lao động của tập thể các nhà báo và
cán bộ kỹ thuật, dịch vụ. Trong cuốn sách Truyền thông đại chúng (do nhà xuất
bản Chính trị quốc gia phát hành năm 2001) của PGS.TS Tạ Ngọc Tấn, thuật ngữ
chương trình truyền hình thường được sử dụng trong hai trường hợp.
Trường hợp thứ nhât,người ta dùng chương trình truyền hình để chỉ
tồn bộ nội dung thơng tin phát đi trong ngày, trong tuần, trong tháng
của một kênh truyền hình hay của cả một đài truyền hình. Trường hợp
thứ hai, chương trình truyền hình dùng để chỉ một hay nhiều tác phẩm
hồn chỉnh hoặc kết hợp với một số thông tin tài liệu khác được tổ
chức theo một chủ đề cụ thể, với hình thức tương đối nhất quán, thời

lượng ổn định và được phát đi theo định kỳ. [12, tr.143]
Trong bài khố luận này, chương trình truyền hình được hiểu và nghiên cứu
theo cách định nghĩa thứ hai. Tức là nghiên cứu chương trình truyền hình với tư
cách là một sản phẩm cụ thể và hồn chỉnh, có thể đứng được độc lập ở một khung
giờ phát nhất định.
Chương trình truyền hình rất phong phú và đa dạng, có thể phân loại các
chương trình truyền hình theo nhiều cách khác nhau: xét theo nội dung, xét theo
cách thức sản xuất, hoặc xét theo công chúng mục tiêu. Trẻ em hiện cũng đang là
một trong những đối tượng công chúng mà nhiều Đài truyền hình đang hướng tới.
Những sản phẩm truyền hình được sản xuất cho đối tượng này được gọi là chương
trình truyền hình dành cho trẻ em.

10


Hiện nay, có một số thuật ngữ liên quan đến những chương trình truyền hình
về đối tượng trẻ em. Đó là “chương trình truyền hình vì trẻ em” hay “truyền hình
vì trẻ em”. Vậy cần hiểu như thế nào về thuật ngữ này?
Trong Đại từ điển Tiếng Việt từ “cho” mang ý nghĩa “hướng đối tượng cần
tác động”. [6, tr.280]
Còn từ “vì” biểu thị “ý nghĩa mục đích” [6, tr.1761]
Như vậy có thể hiểu các chương trình truyền hình cho trẻ em thì trẻ em là
đối tượng nhắm đến, chịu tác động và ảnh hưởng trực tiếp của chương trình đó.
Cịn trong chương trình truyền hình vì trẻ em thì người lớn lại là đối tượng được
nhiều người làm chương trình nhắm đến nhưng mục đích cuối cùng cũng hướng tới
trẻ em. Hay nói một cách khác trong trường hợp này trẻ em là người chịu ảnh
hưởng gián tiếp.
Qua phân tích như trên có thể khẳng định, chương trình truyền hình cho trẻ
em và chương trình truyền hình vì trẻ em là khác nhau, và khác nhau là ở đối tượng
khán giả mục tiêu. Vậy nên khi đốitượng tiếp nhận chương trình khác nhau thì nội

dung phản ánh và hình thức thể hiện mỗi chương trình dành cho mỗi đối tượng đó
cũng sẽ khác nhau.
Chương trình truyền hình vì trẻ em có thể phản ánh các nội dung như: tuyên
truyền chính chăm sóc và bảo vệ trẻ em nói chung từ đó nhằm mục đích để thay
đổi nhận thức và hành vi của người lớn về trẻ em, nhưng mục đích cuối cùng vẫn
là vì lợi ích tốt nhất của trẻ em. Cịn những chương trình dành cho trẻ em có thể là
những nội dung gắn với độ tuổi này như: kiến thức về mọi mặt, kỹ năng ứng xử…
những nội dung này sẽ tác động trực tiếp đến nhận thức và hành vi của trẻ, mục
đích cuối cùng vẫn là vì lợi ích tốt nhất cho trẻ em nhưng khơng thơng qua người
lớn.
Với sự phân tích như vậy, chúng tơi xin đưa ra khái niệm như sau: “Chương
trình truyền hình cho trẻ em là một sản phẩm truyền hình mà ở đó các nội dung
được xây dựng đều hướng tới phục vụ đối tượng xem là trẻ em”.
11


1.1.5 Kết hợp yếu tố giáo dục và giải trí trong các chương trình truyền hình
dành cho trẻ em
Từ các khái niệm cùng sự phân tích ở trên, để thuận lợi cho các q trình
nghiên cứu tiếp theo tơi xin đưa ra một định nghĩa như sau:
“Kết hợp yếu tố giáo dục và giải trí trong các chương trình truyền hình
dành cho trẻ em là việc những người sản xuất chương trình truyền hình sử dụng
linh hoạt các hình thức tuyên truyền để truyền đạt các kiến thức nhằm giúp trẻ em
có thể dễ dàng và thoải mái trong tiếp nhận các nội dung mà chương trình đó đề
cập”.
1.2 Vai trò, ý nghĩa của sự kết hợp giáo dục và giải trí trong các chương trình
truyền hình cho trẻ em
- Việc kết hợp giáo dục và giải trí sẽ góp phần tạo nên một chương trình
truyền hình_một sản phẩm truyền hình đa dạng về nội dung và sinh động về hình
thức . Có thể nói, những chương trình kết hợp cả hai yếu tố giáo dục và giải trí

chính là quá trình giáo dục đi kèm minh hoạ (bằng hình ảnh, âm thanh). Sự minh
hoạ ấy chính là hình thức thể hiện của nội dung giáo dục mà chương trình gửi gắm.
Sự kết hợp “hai trong một” này sẽ làm nên sự đa dạng về nội dung và sinh động về
hình thức trong một sản phẩm truyền hình.
- Việc kết hợp giáo dục và giải trí cũng góp phần gia tăng hiệu quả tiếp nhận
một chương trình. Nhu cầu chính của trẻ em là được vui chơi, giải trí. Và thoả mãn
nhu cầu này thì chúng ta mới có thể thu hút được sự chú ý của chúng. Chỉ bằng
những chương trình giáo dục có tính giải trí như thế, trẻ mới dễ dàng tiếp thu được
những điều mà chúng ta muốn giáo dục chúng, truyền thụ đến chúng. Những
chương trình kết hợp được hai yếu tố giáo dục và giải trí được ví như một phương
thức giáo dục tích cực và dễ hiểu. Bởi khi tiếp nhận chương trình, trẻ em được
chứng kiến mọi hình ảnh, âm thanh, tiếng động, ngơn ngữ của chương trình ấy.
Cảm giác là người trong cuộc, tự mình tham gia và kiểm chứng tất cả những tình
tiết của chương trình khiến trẻ em tiếp nhận sự giáo dục một cách tự nhiên. Những
12


kiến thức có phần khơ cứng được truyển tải linh hoạt bằng nhiều cách thức khác
nhau thôi thúc trẻ tự tìm đến, từ đó tiếp nhận tri thức một cách chủ động. Bất cứ
một sự chủ động tiếp cận với tri thức nào cũng sẽ đạt được hiểu quả cao.
-Việc kết hợp hai yếu tố giáo dục và giải trí giúp người làm chương trình trở
nên năng động và linh hoạt hơn. Trẻ em là công chúng đặc thù của truyền hình,
tâm lý trẻ em là tâm lý phát triển. Cho nên, những người làm chương trình ln
phải tính tốn với nội dung, kiến thức này phải thế hiện như thế nào để trẻ em dễ
dàng tiếp nhận hơn. Trẻ em cũng được chia ra làm nhiều độ tuổi, ở mỗi độ tuổi lại
có sự phát triển khác nhau, nên tâm lý tiếp nhận các sản phẩm truyền hình cũng
khác nhau. Lúc này, những người làm truyền hình cũng đồng thời đóng vai trị của
nhà tâm lý, để có thể biết ở độ tuổi này nên đưa nội dung giáo dục gì, với mức độ
thế nào và dưới hình thức nào là hợp lý nhất. Quá trình sản xuất ấy địi hỏi những
người làm chương trình khơng ngừng nghiên cứu và học hỏi, sự tác động ngược trở

lại khiến họ cũng trở nên năng động và linh hoạt hơn.
1.3 Yêu cầu và điều kiện để sự kết hợp giữa yếu tố giáo dục và giải trí trong
các chương trình truyền hình dành cho trẻ em đạt hiệu quả
1.3.1 Nội dung giáo dục và hình thức thể hiện cần hài hồ, phù hợp với mục
đích của từng yếu tố
Hình thức và nội dung là hai mặt của một vấn đề, chúng có quan hệ biện
chứng với nhau thành một chỉnh thể. Có thể ví von một cách hình ảnh đó là nội
dung của những chương trình giống như một con người, và hình thức của những
chương trình đó là một chiếc áo. Chỉ khi chiếc áo đó thật vừa vặn với người đang
mặc thì chúng ta mới thấy đẹp, thoải mái.
Với một chương trình truyền hình cũng vậy. Nội dung của chương trình phải
phù hợp với hình thức thể hiện. Tức là, chương trình phải đạt được sự hài hồ cả về
liều lượng kiến thức, về kết cấu chương trình cũng như thể loại chương trình ấy.
Nếu nội dung chuyển tải quá lớn, dung lượng kiến thức quá nhiều mà hình thức lại
đơn điệu, tẻ nhạt thì khó có thể hấp dẫn trẻ em, và ngược lại. Bởi vậy trong quá
trình sản xuất, những người làm chương trình phải xác định được dung lượng nội
13


dung để có thể tìm được một hình thức thể hiện phù hợp. Và trong một chương
trình khơng thể lặp đi lặp lại một hình thức thể hiện, bởi nó sẽ gây sự buồn tẻ và
nhàm chán. Ví như, một chương trình truyền hình dành cho trẻ em có nhiều phần
chơi, với nội dung phong phú thì cần thiết phải sử dụng đa dạng các trò chơi để tạo
nên sự mới lạ và hứng khởi. Hay nói cách khác,các chương trình truyền hình giống
như một chiếc xe, để chở được một lượng kiến thức lớn thì chiếc xe chở ấy phải đủ
rộng, có như vậy xe mới có thể “bon bon” về đích, cịn nếu khơng nó sẽ tiến “ì
ạch” và khơng thể hồn thành trách nhiệm của mình.
Để có thể chuyển tải được lượng kiến thức lớn đến với trẻ em, tuỳ nội dung
cụ thể, những người làm chương trình cần sử dụng các hình thức sao cho phù hợp.
Đó có thể là thơng qua những trị chơi, những bộ phim ngắn, clip tình huống hoặc

những bộ phim hoạt hình được xây dựng với các nhân vật ngộ nghĩnh và đáng
yêu… Sự đa dạng và linh hoạt trong cách thể hiện như vậy mới hấp dẫn và lôi
cuốn trẻ em.
1.3.2 Nội dung tuyên truyền và hình thức thể hiện phải phù hợp với đối tượng
phục vụ
Trẻ em là công chúng đặc thù của báo chí nói chung và truyền hình nói
riêng. Trẻ em được chia ra làm nhiều độ tuổi và mỗi độ tuổi ấy lại có sự phát triển
nhận thức và tâm lý riêng. Những người làm chương trình phải hiểu tâm lý của trẻ
em ở từng độ tuổi để có thể xây dựng được một chương trình phù hợp nhất với
khán giả mục tiêu mà chương trình hướng tới.
Ví dụ, ở giai đoạn mẫu giáo (3-6tuổi) trẻ em có thể tiếp nhận những chương
trình truyền hình. Nhưng đây là sự tiếp nhận thụ động, máy móc. Trẻ thích xem
những gì mới lạ, và bắt chước lời nói, hành động của các nhân vật. Các em chưa
biết phân biệt lợi, hại, tốt, xấu. Vì thế nội dung đề cập đến cần hướng dẫn trẻ tiếp
cận và tìm hiểu có thể thơng qua thế giới âm thanh, màu sắc, thế giới động vật,
thực vật, môi trường xung quanh. Trẻ em ở độ tuổi này luôn bị thu hút bởi những
gam màu nóng, rực rõ và hấp dẫn, những âm thanh vui nhộn. Chính vì thế, những
14


người làm chương trình có thể sử dụng đồ hoạ tạo ra những nhân vật hoạt hình,
hoạt hoạ ngộ nghĩnh và đáng yêu, hoặc lồng ghép vào chương trình những bản
nhạc hay và có ý nghĩa.
Cịn với trẻ em ở độ tuổi tiểu học (6-12 tuổi) khi các em bắt đầu có hiểu biêt
về thế giới xung quanh thì khi thực hiện chương trình, những nội dung đề cập có
thể phức tạp hơn so với các em lứa tuổi mẫu giáo. Nội dung có thể là về những vấn
đề khoa học tự nhiên, đời sống thường thức, giáo dục cách ứng xử… góp phần kích
thích sự sáng tạo của trẻ, giúp trẻ học và hiểu những điều hay lẽ phải, có cách cư
xử và hành vi đúng…
Tuy nhiên nếu đề cập đến những vấn đề có tình trừu tượng hoặc vượt quá tư

duy khoa học lứa tuổi này rất có thể làm cho các em hiểu sai bản chất của hiện
tượng, gây khó khăn, giảm hứng thú trong q trình tiếp nhận.
Với trẻ em từ 14-16 tuổi, các em đã phát triển tới tư duy logic, tư duy trừu
tượng, khả năng phân tích, tổng hợp, suy luận và phán đốn được nâng cao, nhu
cầu nhận thức, nhu cầu giao tiếp là rất lớn. Những đòi hỏi mới về kiến thức giới
tính định hướng nghề nghiệp, cung cấp tri thức, kinh nghiệm xã hội lịch sử, cách
ứng xử trong tình bạn, tình u...đây là những vấn đề thơi thúc các em đến với các
phương tiện truyền thông đại chúng.
Những người làm chương trình cần nghiên cứu tâm lý cũng như nhu cầu
thơng tin ở từng nhóm độ tuổi để có thể xây dựng nên một chương trình mà ở đó
lồng ghép kiến thức thơng qua những hình thức giải trí lơi cuốn, hấp dẫn khán giả
là các em.
1.3.3 Khai thác và sử dụng triệt để những thế mạnh của loại hình truyền hình
Nghiên cứu, nắm bắt được nhu cầu thơng tin của từng nhóm độ tuổi kết hợp
với việc sử dụng triệt để thế mạnh sẽ mang lại những ý tưởng thú vị cho chương
trình. Đó chính là việc những người làm chương trình “biết người, biết ta”, biết
khán giả cần gì, biết “ta” có lợi thế gì và khai thác triệt để những yếu tố đó.

15


Truyền hình có lợi thế hơn hẳn các loại hình truyền thông khác, bởi sự tiếp
thu tinh hoa của nhiều loại hình nghệ thuật trước nó.Truyền hình truyền tải thơng
tin bằng hình ảnh động và âm thanh. Tức là khả năng giao tiếp với con người bằng
thính giác và thị giác, hai giác quan quan trọng nhất. Mà tiếp nhận đầu tiên của trẻ
em nói riêng và con người nói chung chính là hình ảnh, tức là màu sắc và chuyển
động, sau đó là âm thanh. Sau khi kết thúc một chương trình, có thể trẻ sẽ qn mất
yếu tố âm thanh, nhưng ngược lại, những hình ảnh sống động, giàu màu sắc sẽ
được ghi lại rất lâu trong trí nhớ. “Trước một hình ảnh của truyền hình nói về cuộc
sống kiến ăn cần cù của loài kiến, các em nhỏ có thể bước đầu hình thành trong trí

óc mình ấn tượng về sự tích luỹ, sự góp nhặt của cải (hay đơn giản là thức ăn) cho
gia đình mình” [3 ,tr.28]
Như vậy có thể thấy sức mạnh của hình ảnh có tác động vơ cùng lớn.
Những hành động sau này chính là hình ảnh mà mắt trẻ thu thập được, đó là những
thơng tin ban đầu để hình thành nên những hành động tiếp theo của trẻ. Cùng với
thế mạnh về hình ảnh, cần phải tận dụng những lợi ích mà âm thanh (âm nhạc,
tiếng động hiện trường…) mang lại để tạo hiệu ứng cao…Những gì “mắt thấy, tai
nghe” luôn đáng tin và ảnh hưởng mạnh hơn là khi chúng ta chỉ nhìn hoặc chỉ nghe
thấy. Với trẻ em cũng vậy, trẻ sẽ tiếp thu kiến thức nhanh và sâu hơn nếu như bài
học ấy được minh hoạ bằng cả hai yếu tố hình ảnh và âm thanh.
Những người làm chương trình truyền hình cho trẻ em cũng nên tận dụng
một số thể loại điển hình và rất hấp dẫn của truyền hình như: trị chơi, giao lưu gặp
gỡ, truyền hình thực tế, hoạt hình với hình thức kỹ xảo 3D…và tận dụng thế mạnh
của từng thể loại đó để chuyển tải kiến thức sao cho phù hợp với độ tuổi trẻ em mà
chương trình hướng tới. Tất cả những yếu tố trên cần phải được kết hợp một cách
hài hồ và hợp lí mới có thể phát huy hiệu quả một cách tốt nhất.

16


Trên thế giới, có rất nhiều chương trình truyền hình kết hợp được cả hai yếu
tố giáo dục và giải trí. Cũng khơng ít những chương trình có được thành công và
vượt qua khoảng cách về mặt địa lý và thời gian. Trong đó khơng thể khơng kể đến
chương trình thiếu nhi lâu đời nhất trong lịch sử truyền hình: Sesame
Street ("Phố Vừng") của đài truyền hình Mỹ. Đây là một chương trình kết hợp
được một cách khéo léo, linh hoạt và nhuần nhuyễn hai yếu tố giáo dục và giải trí.
Trẻ em bị lơi cuốn bởi các con rối dễ thương, ngộ nghĩnh hoà cùng những giai điệu
nhẹ nhàng, mượt mà của các ca khúc quen thuộc và dễ nhớ. Sesame Street pha
trộn hoạt hình và diễn viên thật để kích thích đầu óc của con nhỏ, cải thiện khả
năng nhận ra chữ và từ, kỹ năng phân biệt, giải bài toán đơn giản, dạy những căn

bản về số học và hình học, và giúp tương tác ngồi đường bằng cách chiếu người
trẻ cũng như người lớn trong cuộc đời bình thường.
Hoặc có thể kể đến chương trình truyền hình Plays school của Úc dành cho
trẻ em trước độ tuổi đến trường. Playschool ra đời nhằm khuyến khích trẻ em
khám phá, suy nghĩ, cảm nhận và tưởng tượng. Mỗi chương trình là một chủ đề
khác nhau mà ở đó các em được giới thiệu ý tưởng của các trò chơi, được tham gia
thực hiện những thứ dễ làm. Với bố cục rõ ràng và chặt chẽ, Playschool sẽ mang
đến cho các bạn nhỏ một sân chơi thú vị với nhiều chuyên mục hấp dẫn như: Các
câu chuyện về động vật, cây cỏ, côn trùng, nhiều bài hát hay và nhiều hoạt động
ngoại khóa….
Những chương trình ấy đã trở thành nổi tiếng và thu thút được đông đảo
khán giả là trẻ em bởi những người làm chương trình đều biết nắm bắt được tâm lý
trẻ em, biết tận dụng và khai thác lợi thế lợi thế của mình để từ đó tạo ra những
chương trình hấp dẫn, vừa đáp ứng được nhu cầu giải trí lại thực hiện được chức
năng giáo dục cho trẻ .
1.4 Sự ra đời và phát triển của các chương trình truyền hình ở Việt Nam
Hơn 40 năm ra đời và phát triển, đài truyền hình Việt Nam đã khẳng định vai
trị quan trọng của mình trong đời sống xã hội. Các chương trình truyền hình luôn
17


hướng đến công chúng ở mọi ngành nghề và lứa tuổi. Trong đó, trẻ em là đối tượng
được quan tâm đặc biệt.
Ngay từ những ngày đầu thành lập, Đài Truyền hình Việt Nam - Đài truyền
hình quốc gia - Đài truyền hình đầu tiên của Việt Nam đã sản xuất những chương
trình truyền hình dành cho các em. “Những bơng hoa nhỏ” là chương trình như
vậy.
Chương trình có thời lượng 15 phút, phát sóng vào 19 giờ các ngày trong
tuần. Chương trình gồm có 2 phần, phần đầu thường là các tin tức về học tập, hoạt
động đội hay thông tin về chăm sóc sức khoẻ cho trẻ em như: lịch khám sức khoẻ

hoặc tiêm chủng vác xin…Phần hai của chương trình là các tiết mục văn nghệ như:
ca hát, diễn kịch của thiếu nhi…hoặc chiếu các bộ phim hoạt hình của Việt nam
hay nước ngồi sản xuất – đây cũng là tiết mục luôn được mong chờ nhất.
Sau này, khi điều kiện tài chính, kỹ thuật, nhân lực cho phép, đài truyền hình
Việt Nam đã cho ra đời thêm nhiều kênh truyền hình mới như VTV1, VTV2,
VTV3…Cùng với đó, hàng loạt các chương trình truyền hình dành cho trẻ em
được đầu tư và sản xuất.
Kênh VTV1 có chương trình “Thế giới trong mắt em” , chương trình “Chơi
với tơi”…
Kênh VTV2 có chương trình “Khoa học vui”, “Cuộc phiêu lưu của Đá
Tiên”,“Tweenies”, “Bob và đội xây dựng lưu động Bob”. Và rất nhiều những
chương trình khác như “Lực sĩ tí hon”, “Góc sáng tạo”, “Kiốt âm nhạc”…
Kênh thể thao, giải trí VTV3 cũng dành một lượng thời gian nhất định
để phát sóng những chương trình dành cho trẻ em. Trong đó phải kể đến một
vài chương trình nổi bật đã lên sóng như: “Vườn cổ tích”, “Lăng kính thơng
minh”… và những chương trình đang được phát sóng như: “Đồ rê mí”,
“Chúc bé ngủ ngon”, “Cùng là dũng sĩ”, “Ai thơng minh hơn học sinh lớp
5”,“Trẻ em luôn đúng”, “10 vạn câu hỏi vì sao” và chương trình “Đường lên
đỉnh olympia”.

18


Cùng với đài truyền hình Việt Nam, các đài truyền hình địa phương
cũng sản xuất những chương trình dành cho trẻ em với đa dạng hình thức
như: ca nhạc, trị chơi, kịch ngắn…
Hiện nay, ngồi những chương trình riêng lẻ mang tính định kì, nhiều
đài truyền hình đã xây dựng hẳn những kênh truyền hình chuyên biệt dành
cho trẻ các em. Tính đến thời điểm này tại Việt Nam, có 3 kênh truyền hình
dành riêng cho trẻ em: kênh HTV3, kênh Kids và kênh Bibi.

HTV3 là kênh truyền hình thuộc Đài truyền hình Thành phố Hồ Chí
Minh, phát sóng chính thức vào tháng 1/2004. Đây là kênh truyền hình đầu
tiên dành riêng cho thiếu nhi tại Việt Nam, phát sóng hầu hết ở các mạng
truyền hình cáp và truyền hình kỹ thuật số trên cả nước. Chương trình bao
gồm nhiều bộ phim Châu Á độc quyền và có bản quyền được lồng tiếng, cùng
với những chương trình giải trí, giáo dục thiếu nhi đặc sắc được mua bản quyền từ
những hãng truyền hình danh tiếng trên thế giới như: WB, Disney Channel…
Kids TV là kênh truyền hình chuyên biệt dành cho thiếu nhi độ tuổi 1 –
15tuổi, phát sóng trên kênh VTC11- Đài Truyền hình kỹ thuật số VTC. Kids TV
được phát trên nhiều hệ thống: Truyền hình KTS, TH cáp VTC, TH cáp địa
phương, TH internet, TH Di động, IPTV và TH vệ tinh. Chương trình chủ yếu phát
sóng nhiều bộ phim hoạt hình nổi tiếng được mua bản quyền trên thế giới: “Những
nốt nhạc ngộ nghĩnh”, “Chú chim cánh cụt Pơ-rơ-rơ”….hoặc một số chương trình
dành cho các em như: “Hộp quà bí ẩn”, “Thế giới diệu kỳ”, “Câu đố dân gian”
…Các chương trình của Kids TV mang đến một sân chơi lý thú, bổ ích, đồng thời
cung cấp kiến thức trên nhiều lĩnh vực để phát triển tài năng cho thanh thiếu nhi
Việt Nam.
Bibi là kênh truyền hình dành cho trẻ em ra đời muộn nhất trong số ba
chương trình nêu trên. Bibi lên sóng vào năm 2006, được phát trên kênh VCTV8 thuộc mạng truyền hình cáp (trực thuộc đài Truyền hình Việt Nam). Bibi chun
phát sóng phim hoạt hình và các chương trình đặc biệt dành riêng cho thiếu nhi.
19


Những bộ phim được phát trên kênh Bibi hầu hết đã đạt nhiều giải thưởng quốc tế
như: “Công chúa Ori”, “Chuyện chú mèo máy”, “Siêu anh hùng Danny”… Ngoài
ra, hiện nay Bibi cịn có các chương trình khác như: “Thế giới ABC”, “Xứ sở diệu
kỳ”, “Bé làm họa sỹ” – đây đều là những chương trình thuần Việt nhận được nhiều
tình cảm của các em.
Khơng dừng lại ở đó, để mở rộng các sân chơi cho đối tượng khán giả nhí,
vào cuối năm 2011, BiBi đã lên sóng loạt chương trình mới như “Xúc xắc Lúc

lắc”, “Thế giới động vật”, “Tủ sách của bé”. Qua những chương trình này, các em
được lắng nghe nhiều chuyện cổ tích, truyện cổ dân gian nổi tiếng của Việt Nam và
thế giới. Đặc biệt, ngồi lựa chọn hình thức trị chơi hay kể chuyện để cung cấp
thơng tin , BiBi cịn chú trọng đến thể loại truyền hình thực tế, giúp các em dễ dàng
khám phá thế giới xung quanh, và nâng cao sự hiểu biết về thế giới mn lồi.
Kết luận chương
Có thể khặng định kết hợp giáo dục và giải trí đang là xu hướng của nhiều
đài truyền hình trong việc sản xuất ra những chương trình dành cho trẻ em. Sự kết
hợp “hai trong một” ấy dễ dàng tạo nên những chương trình hấp dẫn, ý nghĩa và
phù hợp với trẻ em, góp phần gia tăng hiệu quả tiếp nhận của trẻ em. Việc kết hợp
hai yếu tố này trong cùng một chương trình cũng giúp người làm chương trình trở
nên năng động và linh hoạt hơn trong quá trình làm việc. Nhưng để làm tốt việc
này, những người làm chương trình phải nắm bắt được một số yêu cầu như: nội
dung phản ánh và hình thức thể hiện phải hài hồ, phù hợp với mục đích của từng
yếu tố, từng đối tượng. Bên cạnh đó, những người làm chương trình phải khai thác
triệt để thế mạnh của loại hình truyền hình. Chỉ có như vậy mới có thể tạo ra được
các chương trình vừa đáp ứng nhu cầu giải trí lại vừa thực hiện tốt giáo dục đối với
trẻ em.
20


Chương 2: THỰC TRẠNG VIỆC KẾT HỢP YẾU TỐ GIÁO DỤC VÀ GIẢI
TRÍ TRONG CÁC CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH DÀNH CHO TRẺ
EM TRÊN KÊNH VTV3 HIỆN NAY
2.1 Sơ lược một số chương trình dành cho trẻ em khảo sát trên kênh VTV3
2.1.1 Chương trình “Chúc bé ngủ ngon”
Đây là chương trình dành riêng cho các em nhỏ lứa tuổi từ 2 đến 7, ra mắt
khán giả các nước vào tháng 7/ 2007. Chương trình phát sóng vào 21h00 từ thứ 2
đến thứ thứ 7 hàng tuần. Hình thức chương trình đa dạng và ln có sự thay đổi:
từ kể chuyện cho đến các trò chơi vận động, hay những bộ phim hoạt hình hấp dẫn

kết hợp với những bài hát vui nhộn…Chương trình sử dụng nguồn phim hoạt hình
bản quyền thuộc Baby TV, một trong những chương trình truyền hình dành cho trẻ
em nổi tiếng nhất trên thế giới (của hãng Fox International - Mỹ). Đến với chương
trình, các em sẽ được dẫn dắt vào những câu chuyện thông qua 3 nhân vật chính vơ
cùng đáng u, đó là Thỏ Láu - thông minh, lém lỉnh; Heo mập - tinh nghịch, ham
ăn và ham chơi; Chị Kính Hồng - người chị sáng suốt và luôn là trọng tài trong các
cuộc tranh cãi. Khi xem chương trình, các em sẽ được nhận biết về thế giới vật
chất âm thanh, màu sắc, hình khối, âm nhạc…
2.1.2 Chương trình “Mười vạn câu hỏi vì sao”
Chương trình ra đời năm 2010, do Đài truyền hình Việt Nam phối hợp với
cơng ty Cổ phần Đào tạo và Truyền thông Sông Xanh thực hiện. Đây là chương
trình dành cho lứa tuổi thiếu nhi 6-12 tuổi. Với thời lượng 11-20 phút, chương trình
“ Mười vạn câu hỏi vì sao” phát sóng lúc 11h30 từ thứ 2 đến thứ 6 hàng tuần trên
VTV3. Đến với “Mười vạn câu hỏi vì sao” các em sẽ được gặp được gặp chị Ong
Vàng xinh xắn, Adi nhí nhảnh cùng Abu thơng thái và có cơ hội khám phá những
vùng đất ở khắp nơi trên thế giới, tìm hiểu thế sinh vật đa dạng và phong phú.
Chương trình góp phần mở mang tri thức và giúp các em hiểu thêm về thế giới tự
nhiên. Chương trình thật sự là kho tàng tri thức, đáp ứng nhu cầu ham hiểu biết của
trẻ.
21


2.1.3 Chương trình “Cùng là dũng sĩ”
Chương trình đầu tiên được phát sóng vào ngày 4/12/2010 dành cho các em
nằm trong độ tuổi tiểu học. Hiện nay chương trình được phát sóng chính thức vào
lúc 18g50 Chủ nhật hàng tuần trên VTV3, và phát lại vào lúc 10g50 thứ bảy kế
tiếp. Chương trình được xây dựng dưới dạng phim tình huống, kết hợp với nhân
vật 3D, với nội dung tìm kiếm các bạn nhỏ đang làm điều tốt, giúp đỡ những người
xung quanh, biết đấu tranh chống lại cái xấu, gan dạ, dũng cảm và đặt lợi ích cộng
đồng lên hàng đầu. Tất cả những việc tốt đều là những hành động gần gũi, những

tấm gương thực tế mà các em hồn tồn có thể bắt gặp xung quanh mình mỗi ngày
và chính các em cũng có thể làm được điều đó. Với thời lượng từ 5 - 10 phút,
chương trình "Cùng là dũng sỹ" hiện đang là một trong số những chương trình
dành được sự quan tâm của khán giả nhỏ tuổi.
2.1.4 Chương trình “Ai thơng minh hơn học sinh lớp 5”
Chương trình phát sóng đầu tiên vào ngày 19/1/2012, được mua bản quyền
từ gameshow “Are you smarter than a 5th graders?” của Mỹ với hơn 50 phiên bản
trên tồn thế giới. Ở Việt Nam, chương trình do Đài Truyền hình Việt Nam và cơng
ty Đơng Tây Promotion phối hợp thực hiện với sự tài trợ của nhãn hàng Nuti IQ,
công ty Nutifood. "Ai thông minh hơn học sinh lớp 5" là sân chơi bổ ích để các em
học sinh lớp tiểu học ôn lại kiến thức. Và đây cũng là khán giả mục tiêu mà mình
hướng đến. Chương trình có thời lượng 45 phút và người chơi là các nhân vật, diễn
viên, ca sỹ nổi tiếng. Họ sẽ trả lời từng câu hỏi của chương trình đưa ra với sự trợ
giúp từ các em nhỏ. Khán giả sẽ thấy được sự quyết đoán cũng như những khoảnh
khắc lúng túng đến hài hước của người chơi khi vấp phải câu hỏi hóc búa. Chính vì
có sự tương tác giữa người lớn và trẻ em nên gameshow thật sự có tính giáo dục
cao, phù hợp với mọi lứa tuổi.

22


2.1.5 Chương trình “ Trẻ em ln đúng”
Chương trình “trẻ em ln đúng” phát sóng đầu tiên vào ngày 17/9/2011,
được mua bản quyền chương trình “The kids are all right” của nước Anh. Chương
trình đã rất thành cơng trên 20 nước như Argentina, Canada, Hy Lạp, Mexico, Hà
Lan, Na Uy, Mỹ... Việt Nam là nước châu Á đầu tiên mua bản quyền game show
này. Hiện nay chương trình xuất hiện cố định vào hồi 11giờ thứ bảy hàng tuần. Đối
tượng khán giả mục tiêu của chương trình là trẻ em ở độ tuổi 9-15 tuổi. Bộ câu hỏi
được sưu tầm trong chương trình “Trẻ em ln đúng” sẽ khơng q khó, khơng
mang tính chất thách đố trẻ con hay làm khó người lớn. Khơng chú trọng vào bất

cứ một chủ đề nào, những câu hỏi của “Trẻ em luôn đúng” trải dài trên nhiều lĩnh
vực từ các vấn đề văn hóa xã hội cho đến những vấn đề về lịch sử, khoa học kỹ
thuật… và còn nhiều hơn thế những lượng kiến thức mà các em có thể thu lượm
được qua chương trình này. Sự hấp dẫn của chương trình “Trẻ em ln đúng” sự
ganh đua kịch tính trong q trình chơi giữa đội người lớn và đội trẻ em.
2.1.6 Chương trình “Đường lên đỉnh Olympia”
Chương trình “Đường lên đỉnh Olympia” là một cuộc thi kiến thức trên
truyền hình dành cho học sinh trung học phổ thông do VTV3 – Đài Truyền hình
Việt Nam tổ chức, dưới sự tài trợ của cơng ty LG. Chương trình phát sóng số đầu
tiên vào ngày 28/3/1999 và cũng là chương trình ra đời sớm nhất trong 3 chương
trình kể trên, đối tượng tham gia và theo dõi cũng lớn hơn, đó là các em ở độ tuổi
trung học phổ thông (khoảng từ 15-18 tuổi). Mỗi năm có 36 cuộc thi Tuần, 12 cuộc
thi Tháng, 4 cuộc thi Quý và 1 cuộc Chung kết được truyền hình trực tiếp. Đến với
chương trình, khán giả có cơ hội tiếp thu nhiều kiến thức ở mọi lĩnh vực và rèn
luyện bản thân mình thơng qua tham gia, trả lời các câu hỏi, tình huống mà chương
trình đưa ra.
2.2 Thực trạng việc kết hợp yếu tố giáo dục và giải trí trong các chương trình
truyền hình dành cho trẻ em trên kênh VTV3 hiện nay
2.2.1 Giáo dục thơng qua các trị chơi truyền hình
23


Để chuyển tải kiến thức cùng nhiều nội dung khác, các chương trình truyền
hình dành cho trẻ em hiện nay đã sử dụng đa dạng các hình thức thể hiện. Khảo
sát thấy phổ biến bao gồm các hình thức: giáo dục thơng qua trị chơi, giáo dục
thơng qua các nhân vật hoạt hình…Trong 6 chương trình khảo sát, có 3 chương
trình dành cho trẻ em (chiếm 50% tổng số chương trình) được thực hiện dưới dạng
trị chơi đó là: “Đường lên đỉnh Olympia”,“ Trẻ em luôn đúng” và “Ai thông minh
hơn học sinh lớp 5”.
Trong các chương trình đó, các trò chơi được sử dụng chủ yếu là dạng trò

chơi trí tuệ. Nội dung giáo dục được truyền đạt trong các trị chơi thường thơng
qua các câu hỏi. Và hình thức thể hiện chủ yếu là MC (người dẫn chương trình)
đưa ra câu hỏi trực tiếp, người chơi đưa ra đáp án bằng cách trả lời theo suy nghĩ,
lựa chọn của mình.
Mặc dù đây là hình thức chủ đạo, nhưng do đặc trưng đối tượng, format
chương trình thấy rằng trong 3 chương trình kể trên, mức độ sử dụng hình thức này
có sự khác nhau. Ở chương trình “ai thơng minh hơn học sinh lớp 5”, tất cả phần
chơi (100%) các kiến thức được truyền đạt thông qua cách hỏi – đáp. Trong mỗi
một chương trình phát sóng, người chơi là người lớn phải trả lời 11 câu hỏi. Như
vậy, trong 17 chương trình khảo sát, có 187 câu hỏi và cùng với nó là 187 đáp án
được đưa ra.
Tuy nhiên trong một số chương trình, để tăng sự đa dạng về hình thức, các
câu hỏi đã được những người làm chương trình linh hoạt trong cách thể hiện.
Chẳng hạn, sử dụng các hình ảnh, hoặc các clip đoạn phim tình huống…Nghĩa là
thơng qua những đoạn phim, những phóng sự các câu hỏi đã được đưa ra cho
người chơi trả lời. So với hình thức MC đưa ra câu hỏi, người chơi trả lời thì hình
thức này có ưu điểm là sinh động hơn, bởi người xem, người chơi không chỉ nghe
mà cịn được nhìn, xem.
Trong chương trình “Trẻ em ln đúng” trung bình có khoảng gần 20% các
câu hỏi được thể hiện thơng qua các hình thức này. Ví dụ, trong chương trình phát
24


sóng ngày 03/03, trong phần chơi Ghi nhớ, những người làm chương trình đã phát
một đoạn băng trong vịng 60s, trong đó chứa rất nhiều clip với nội dung khác
nhau: clip về hình ảnh cột cờ Hà nội, clip về cách trồng phong lan, clip về chế tác
cồng chiêng, clip về hoa Đà Lạt, clip các làm kim chi… và cùng với đó là sự xuất
hiện của rất nhiều hình ảnh chạy song song với các clip: hình chiếc TV, hình ảnh
khối rubic, mèo Kitty, vịt Donan…Thơng qua đoạn băng này, các câu hỏi đã được
đưa ra để thử tài ghi nhớ của hai đội chơi: Chiếc TV xuất hiện mấy lần?, có mấy

hình con cừu đeo kính?, hình mèo Kitty mặc váy màu gì?, đoạn băng nhắc đến chế
tác loại nhạc cụ nào?…
Trong chương trình “đường lên đỉnh Olympia”, hình thức đưa ra câu hỏi
thơng qua hình ảnh hoặc các clip cũng được sử dụng nhưng qua khảo sát thấy chỉ
chiếm trung bình khoảng 5% tổng số câu hỏi được đưa ra trong chương trình.
Sự linh hoạt trong cách đưa ra câu hỏi như vậy đã mang lại cho khán giả khả
năng tiếp nhận thông tin một cách uyển chuyển , hào hứng và tất yếu những ưu thế
đó sẽ dẫn đến hiệu quả của giáo dục thông tin cao hơn.
Thông qua hệ thống các câu hỏi: kiến thức ở rất nhiều lĩnh vực , đặc biệt là
lĩnh vực khoa học đã được chuyển tải tới các em. Vì 3 chương trình “Đường lên
đỉnh Olympia”, “Trẻ em ln đúng”, “Ai thông minh hơn học sinh lớp 5” hướng
đến các đối tượng khán giả khác nhau, cho nên mức độ và liều lượng những kiến
thức được đưa ra qua những câu hỏi cũng có sự khác nhau.
“Đường lên đỉnh Olympia” có đối tượng khán giả mục tiêu là các em học
sinh Trung học phổ thông và trẻ em ở độ tuổi 14-15 tuổi. Đây là lứa tuổi các em đã
có những nhận thức và kiến thức nhất định. Chính vì vậy mà những kiến thức được
đưa ra trong chương trình “Đường lên đỉnh Olympia” có phần phức tạp và sâu hơn
hai chương trình cịn lại. Trong 3 tháng (từ tháng1-tháng 4/2012) chương trình đã
phát sóng 17 số, mỗi số lại là sự dàn trải đều các kiến thức về các mơn khoa học cơ
bản (tốn học, vật lý, hóa học, sinh vật học, văn hoc, lịch sử, địa lý), về văn hoá,

25


×