Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

ĐỀ BÀI 06: “Phân tích ưu điểm, hạn chế của biện pháp giải quyết tranh chấp quốc tế thông qua trọng tài quốc tế so với các biện pháp giải quyết tranh chấp quốc tế khác. Đánh giá khả năng áp dụng biện pháp này để giải quyết tranh chấp quốc tế mà Việt Nam l

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (304.91 KB, 15 trang )

BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TIỂU LUẬN
MÔN:

CÔNG PHÁP QUỐC TẾ
ĐỀ BÀI 06:
“Phân tích ưu điểm, hạn chế của biện pháp giải quyết tranh chấp
quốc tế thông qua trọng tài quốc tế so với các biện pháp giải quyết
tranh chấp quốc tế khác. Đánh giá khả năng áp dụng biện pháp này
để giải quyết tranh chấp quốc tế mà Việt Nam là một bên”.

Họ và tên
Mã số sinh viên
Nhóm
Lớp

:
:
:
:

Hà Nội, 2021


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
Hiện nay, hợp tác cùng phát triển trên cơ sở tơn trọng độc lập, chủ quyền và



tồn vẹn lãnh thổ là xu hướng tất yếu mà các quốc gia lựa chọn. Nhưng sự gia
tăng của quan hệ hợp tác quốc tế lại tiềm ẩn nguy cơ nảy sinh mâu thuẫn, bất
đồng dẫn đến các tranh chấp quốc tế. Do đó, vấn đề đặt ra là phải giải quyết
các tranh chấp phát sinh như thế nào để đảm bảo được lợi ích hợp pháp của
các bên tranh chấp nói riêng và khơng phương hại đến hịa bình, an ninh quốc
tế nói chung. Để giải quyết các tranh chấp, Luật quốc tế đã ban hành nhiều
biện pháp giải quyết tranh chấp trong đó, biệ pháp Trọng tài quốc tế được coi
là biện pháp giải quyết tranh chấp chiếm nhiều ưu điểm với những cơ chế giải
quyết mềm dẻo và linh hoạt. Tuy nhiên bên cạnh những ưu điểm đó vẫn cịn
tồn tại một số hạn chế nhất định tiềm ẩn trong cơ chế giải quyết tranh chấp
này. Bài luận dưới đây em xin được triển khai vấn đề này thông qua đề bài :
“Phân tích ưu điểm, hạn chế của biện pháp giải quyết tranh chấp quốc tế
thông qua trọng tài quốc tế so với các biện pháp giải quyết tranh chấp quốc
tế khác. Đánh giá khả năng áp dụng biện pháp này để giải quyết tranh
chấp quốc tế mà Việt Nam là một bên”.
NỘI DUNG
I.
Một số vấn đề lý luận về trọng tài quốc tế.
1. Khái niệm.
Trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp ngồi tịa án, trong đó,
các bên tham gia tranh chấp thống nhất tranh chấp phát sinh nếu có sẽ do một
hoặc một số người (“trọng tài viên”, “Ủy ban trọng tài”) giải quyết, và quyết
định của một hoặc một số người đó (“phán quyết”) có tính chất bắt buộc thực
hiện.
Trọng tài quốc tế là cơ quan tài phán quốc tế được các quốc gia và các chủ
thể khác của Luật quốc tế thỏa thuận thành lập trên cơ sở Điều ước quốc tế
hoặc các điều khoản về trọng tài, nhằm giải quyết tranh chấp quốc tế.
2. Đặc điểm của giải quyết tranh chấp bằng trọng tài quốc tế.


3


Thứ nhất, quá trình trọng tài diễn ra trên cơ sở thoả thuận trọng tài được
thiết lập bởi các bên tranh chấp.
Thứ hai, thủ tục trọng tài được xác định bởi các bên và thường là một thủ
tục xét xử kín được điều khiển bởi hội đồng trọng tài gồm một hoặc một số lẻ
các trọng tài viên.
Thứ ba, phán quyết của trọng tài về vụ tranh chấp là chung thẩm, buộc các
bên phải thực hiện.
Trọng tài quốc tế luôn chứa đựng những đặc điểm chung của một trọng tài,
nhưng một trọng tài chỉ được coi là trọng tài quốc tế nếu nó chứa đựng đầy đủ
tính “quốc tế”, về mặt lý luận cũng như thực tiễn, việc xác định một trọng tài
là quốc tế hay nội địa thường rất có ý nghĩa bởi vì hầu hết các nước đều xây
dựng các quy chế pháp lý khác nhau cho mỗi loại trọng tài này. Các trọng tài
nội địa (trọng tài giải quyết các tranh chấp thuần tủy nội địa, không có yếu tố
nước ngồi) thường bắt buộc phải tn theo những quy định về trọng tài của
quốc gia đó như: tố tụng trọng tài, luật điều chỉnh nội dung tranh chấp, ngơn
ngữ trọng tài.
3. Các hình thức trọng tài quốc tế.

Nghiên cứu mơ hình tổ chức hoạt động, thẩm quyền của các Trọng tài
quốc tế, có thể phân loại Trọng tài quốc tế thành các loại sau:
Thứ nhất, căn cứ vào số lượng trọng tài viên, Trọng tài quốc tế được phân
thành Trọng tài cá nhân và Trọng tài tập thể hay còn gọi là Hội đồng trong tài
(từ 3 thành viên trở lên).
Thứ hai, căn cứ vào thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Trọng tài quốc tế
được phân chia thành Trọng tài có thểm quyền chung như Trọng tài thường
trực quốc tế La Haye và Trọng tài có thẩm quyền chuyên môn như Trọng tài
về Luật biển, Trọng tài của tố chức thương mại thế giới WTO,...

Thứ ba, căn cứ vào tính chấp hoạt động, Trọng tài quốc tế được phân chia
thành Trọng tài vụ việc (Ad-Hoc) và Trọng tài thường trực (Trọng tài quy
chế).
4


Trên cơ sở bản chất của tranh chấp và ý chí của các bên tranh chấp, vụ
việc có thể sẽ được giải quyết tại hội đồng trọng tài do các bên tự thành lập
hoặc hội đồng trọng tài của một tổ chức trọng tài thường trực. Hiện nay, trọng
tài được phân thành hai loại (hai hình thức) đó là: Trọng tài Ad-hoc và Trọng
tài thường trực. Mỗi hình thức trọng tài đều có những ưu điểm và nhược điểm
của nó. Các bên tranh chấp tự mình cân nhắc, quyết định về hình thức trọng
tài giải quyết tranh chấp và cùng nhau thống nhất một hình thức nhất định.
Hình thức trọng tài giải quyết tranh chấp cần được thể hiện cụ thể trong thoả
thuận trọng tài bởi vì một thoả thuận khơng rõ ràng có thể sẽ bị vơ hiệu.
3.1.

Trọng tài thường trực.

Trọng tài thường trực (còn gọi là trọng tài thiết chế) là một hình thức trọng
tài được quản lý bởi một tổ chức trọng tài nhất định và tuân theo những quy
tắc trọng tài của tổ chức trọng tài đó. Hiện nay có nhiều tổ chức trọng tài
thường trực có uy tín và nổi tiếng trên thế giới như: Hiệp hội trọng tài Hoa Kỳ
(AAA), Toà án trọng tài quốc tế London (LCIA), Trung tâm quốc tế về giải
quyết tranh chấp đầu tư (ICSID), Uỷ ban trọng tài thương mại liên Hoa Kỳ,
hoặc các viện trọng tài khu vực hết sức nổi tiếng tại Zurich, Stokholm và
Vienna. Khi quyết định giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thường trực.
Ưu điểm, Điểm thuận lợi nhất của hình thức này là các thủ tục, các giai
đoạn, quy trình tố tụng được quy định chi tiết từ lúc bắt đầu tố tụng cho đến
khi kết thúc. Điều này đảm bảo trong hầu hết mọi trường hợp tranh chấp sẽ

được giải quyết không quá phụ thuộc vào việc một bên có tham gia vào q
trình tố tụng trọng tài hay khơng; Hầu hết các tổ chức trọng tài đều có những
chuyên gia/chuyên viên được đào tạo tốt để hỗ trợ, các chuyên gia/chuyên
viên này sẽ giám sát để đảm bảo việc một Hội đồng trọng tài được thành lập,
các khoản phí trọng tài sẽ được nộp đủ, đúng hạn và đảm bảo quá trình tố
tụng được diễn ra đúng thời hạn đã vạch ra trước đó.
Hạn chế, Tốn kém nhiều chi phí. Bao gồm các khoản phí như thù lao cho
các Trọng tài viên và các chi phí hành chính khác; Do các bên phải tuân thủ
5


thời hạn của Quy tắc tố tụng nên các bên khơng thể rút ngắn thời hạn bất kì
nếu muốn như hình thức Trọng tài vụ việc ở trên; Các thủ tục hành chính đơi
khi tiêu tốn một khoảng thời gian đáng kể và điều này là không phù hợp với
những vụ việc yêu cầu xét xử nhanh.
3.2.

Trọng tài Ad-hoc.

Trọng tài Ad-hoc (còn gọi là trọng tài vụ việc) là một hình thức trọng tài
được quản lý theo những quy tắc trọng tài do chính các bên tham gia trọng tài
xây dựng nên.
Đối với hình thức trọng tài này, các bên được tự do thoả thuận về các quy
tắc tố tụng mà khơng buộc phải tn theo bất kì một bộ quy tắc tố tụng trọng
tài nào. Các bên có quyền thoả thuận về cách thức bổ nhiệm trọng tài viên, địa
điểm trọng tài, luật điều chỉnh quá trình trọng tài, ngơn ngữ trọng tài ....
Trọng tài Ad-hoc cũng có những ưu điểm và nhược điểm riêng biệt của nó
mà các bên tham gia giao dịch cần xem xét kĩ trước khi quyết định có lựa
chọn nó hay khơng.
Ưu điểm, Một trong những ưu điểm nổi bật của hình thức trọng tài này là

đáp ứng được ước vọng của các bên và thực tế của một tranh chấp cụ thể.
Trên cơ sở thực tế của tranh chấp như: khối lượng tài liệu cần xử lý, số lượng
nhân chứng sẽ được mời, khả năng tài chính của mỗi bên ... mà các bên sẽ
thiết lập các quy tắc trọng tài phù hợp. Một ưu điểm nữa cần nhắc tới đó là
khả năng tiết kiệm tiền bạc và thời gian của các bên bằng cách thay đổi các
thủ tục tố tụng (thường là rút ngắn các thủ tục tố tụng), không phải thanh tốn
các chi phí cho dịch vụ hành chính.
Hạn chế, chính của hình thức trọng tài này bắt nguồn từ chính một sự trì
hồn kéo dài nào trong q trình giải quyết tranh chấp thương mại đều sẽ ảnh
hưởng tới công việc kinh doanh của họ. Trong suốt thời gian dài trong quá
khứ cũng như hiện nay trọng tài được coi như một phương thức giải quyết
tranh chấp có tốc độ. Q trình trọng tài có thể diễn ra rất nhanh trong vòng
vài tuần hay vài tháng nếu các bên muốn như vậy. Ngược lại, nếu so với toà
6


án, vụ việc thường kéo dài bởi vì hệ thống toà án được tổ chức theo các cấp
xét xử và thủ tục tư pháp phức tạp.
Phân tích ưu điểm và hạn chế của biện pháp giải quyết
tranh chấp quốc tế thông qua trọng tài quốc tế so với các
biện pháp giải quyết tranh chấp quốc tế khác.
1. Ưu điểm.

II.

Các bên thường mong muốn đưa tranh chấp ra giải quyết tại trọng tài quốc
tế bởi lẽ biện pháp này có nhiều ưu thế so với các biện pháp giải quyết tranh
chấp quốc tế khác, cụ thể như sau:
Thứ nhất, việc tự do lựa chọn trọng tài viên: đối với những tranh chấp có
tính chun mơn cao, các bên có thể lựa chọn trọng tài viên có trình độ

chun mơn đúng với lĩnh vực tranh chấp. Đặc trưng của trọng tài là quy tắc
“tính độc lập của các bên”. Đồng thời, trọng tài là cơ chế giải quyết tranh
chấp liên tục và việc giải quyết tranh chấp đòi hỏi kiến thức chuyên sâu, trong
một số trường hợp đặc thù còn đòi hỏi chun mơn riêng biệt. Từ đó, các bên
đương sự tự do thỏa thuận đưa tranh chấp tới một chủ thể để giải quyết mà
các bên tin tưởng sự phán xét của chủ thể đó. Mỗi bên trình bày vụ việc của
mình cho người ra quyết định, một hoặc ba chủ thể tư – còn được gọi là
“trọng tài viên”. Trọng tài viên lắng nghe các bên, xem xét tình hình, lập luận
của các bên và đưa ra quyết định. Có lẽ bởi phương thức này chỉ tồn tại khi
các trọng tài viên hoạt động độc lập với nhau, và thông thường trọng tài viên
theo vụ kiện từ đầu đén cuối nên yêu cầu về tính dân chủ, khách quan trong
quá trình tố tụng được bảo đảm. Đối với giải quyết tranh chấp bằng Tòa án,
Thẩm phán Tòa án các cấp được bổ nhiệm theo pháp luật quốc gia cho nên
chưa tích lũy được nhiều kinh nghiệm đối với kiến thức áp dụng pháp luật
quốc tế khi giải quyết các loại vụ việc tranh chấp. Ngồi ra, trong những
trường hợp có tính chất kéo dài, có thể có các thẩm phán kế tiếp nhau xét xử
tranh chấp chứ không đảm bảo tính xuyên suốt về chủ thể như trọng tài. Đối
với giải quyết tranh chấp bằng hòa giải cũng vậy, hòa giải viên chỉ cần có ít

7


nhất 02 năm kinh nghiệm công tác như vậy sẽ khơng đảm bảo được tính
chun mơn cao.
Thứ hai, thời gian nhanh chóng, thủ tục linh hoạt: thủ tục giải quyết tranh
chấp tại trọng tài nhanh hơn một số biện pháp giải quyết khác ví dụ như đối
với kiện tụng tại tòa án. Đối với thủ tục trọng tài, đa số các quy tắc trọng tài
quy định rất linh hoạt việc xác định thủ tục trọng tài, phiên họp giải quyết
tranh chấp, gia hạn, địa điểm tổ chức phiên họp giải quyết tranh chấp và nơi
các trọng tài viên gặp gỡ, thời gian soạn thảo quyết định trọng tài. Điều này

giúp giảm chi phí và tăng hiệu quả cho q trình giải quyết tranh chấp. Đồng
thời, giúp cho hoạt động trong tài diễn ra liên tục và nhanh chóng vì Hội đồng
trọng tài xét xử vụ kiện đã được các bên lựa chọn, hoặc được lựa chọn để giái
quyết tranh chấp. Theo quy định của pháp luật về trọng tài, các bên có quyền
lựa chọn Hội đồng trọng tài; trọng tài viên; địa điểm giải quyết tranh chấp;
ngôn ngữ sử dụng trong giải quyết tranh chấp và luật áp dụng để giải quyết
tranh chấp nếu một bên trong tranh chấp có yếu tố nước ngồi. Tịa án có
điểm khác so với trọng tài ở quy tắc tố tụng này là do việc xét xử của Tịa án
mang tính nghi thức nên việc áp dụng pháp luật nói chung và pháp luật về địa
điểm và chứng cứ nói riêng là rất chặt chẽ. Thêm nữa, Tòa án là cơ quan xét
xử nhân danh quyền lực nhà nước. Việc sử dụng quyền lực cơng của Nhà
nước phải theo trình tự nghiêm ngặt tn thủ quy định của pháp luật nên
không thể linh hoạt theo sự lựa chọn của các đương sự như đối với tố tụng
trọng tài. Vì thế, giải quyết tranh chấp bằng tóa án đơi khi khiến đương sự gặp
khó khăn do không am hiểu quy định và thủ tục tố tụng.
Thứ ba, tính chung thẩm: nhìn chung, phán quyết của trọng tài mang
tính chung thẩm, các bên tham gia tranh chấp khơng có quyền kháng cáo đối
với phán quyết của trọng tài. Về nguyên tắc, phán quyết trọng tài có giá trị
chung thẩm, tức là hiệu lực cuối cùng và khơng bị kháng cáo như bản án của
Tịa án.. Vì thế, tố tụng trọng tài chỉ xét xử một lần, bởi đương sự đã lựa chọn
và tín nhiệm thì phải chấp nhận quyết định của trọng tài đó. Đây là nguyên tắc
8


đặc trưng của tố tụng trọng tài so với tòa án. Nó xuất phát từ bản chất của tố
tụng trọng tài là nhân danh ý chí và quyền định đoạt của các bên đương sự.
Họ đã tự lựa chọn và tín nhiệm người phán xử cho mình thì đương nhiên phải
phục tùng quyết định của người đó.
Về điều kiện khởi kiện, do xuất phát từ nguyên tắc tự nguyện nên các bên
đương sự hồn tồn có thể lựa chọn các hình thức trọng tài mà họ cho là phù

hợp. Lựa chọn này trên cơ sở tự nguyện thỏa thuận giữa các chủ thể, khơng có
sự áp đặt ý chí của bất cứ cơ quan, tổ chức hay cá nhân nào. Chính vì vậy, khi
có tranh chấp xảy ra, các bên chỉ có thể đưa vụ tranh chấp ra trung tâm trọng
tài để giải quyết khi đã có sự thỏa thuận trước về việc này. Điều này có nghĩa
là sự thỏa thuận trọng tài là điều kiện quyết định quyền khởi kiện của đương
sự. Đây là điều mà trong tố tụng tịa án khơng có. Trọng tài khơng có ngun
tắc xét xử tập thể như tòa án. Việc chọn một hay nhiều trọng tài viên để giải
quyết tranh chấp cho mình là quyền của các bên tranh chấp, pháp luật không
can thiệp. Pháp luật chỉ can thiệp khi các bên không thỏa thuận được về cách
thức lựa chọn trọng tài viên. Ví dụ, khi các bên khơng nhất trí chọn một trọng
tài viên để giải quyết tranh chấp thì mỗi bên tranh chấp sẽ chọn cho mình một
trọng tài viên. Hai người được chọn sẽ chọn một người thứ ba làm chủ tịch
hội đồng trọng tài. Trường hợp hai trọng tài khơng chọn được người thứ ba đó
thì quyền quyết định thuộc về chủ tịch trung tâm trọng tài.
Thứ tư, tính bảo mật: nội dung tranh chấp được giữ bí mật, phán quyết của
trọng tài không được công bố rộng rãi. Các phiên họp giải quyết tranh chấp
của trọng tài không được tổ chức cơng khai và chỉ có sự tham gia của các bên
nhận được quyết định. Đây là một ưu điểm lớn của trọng tài khi vụ kiện liên
quan tới bí mật cần bảo mật theo yêu cầu của các bên. Trong hợp đồng, các
điều khoản chính ln bao gồm cả những bí mật phải được tuân thủ trong giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài. Bởi tính bí mật rất quan trọng trong tranh
chấp sở hữu trí tuệ, nên các điều khoản bổ sung về tính bí mật có thể được các
bên lập (dưới dạng điều khoản hợp đồng) hoặc các trọng tài viên (dưới dạng
9


một mệnh lệnh thủ tục) hoặc trong các văn bản xác định thẩm quyền. Khi nội
dung tranh chấp và danh tính các bên được giữ kín, điều này sẽ đáp ứng nhu
cầu tin cậy, mang ý nghĩa lớn trong điều kiện cạnh tranh. Đối với Tòa án, các
phiên xét xử tại tịa cũng như các phán quyết là cơng khai. Bởi việc xét xử của

Tòa án một mặt thể hiện tính dân chủ, nhằm tạo điều kiện cho việc kiểm tra,
giám sát các hoạt động của Tòa án, của các chủ thể tiến hành tham gia tố tụng,
qua đó phát hiện thiếu sót hoặc sai lầm trong tiến trình giải quyết vụ án.
Thứ năm, tính trung lập: mặc dù trọng tài là phương thức giải quyết tranh
chấp thường được khuyến khích sử dụng, song việc lựa chọn tồ án có thể
vẫn có giá trị tùy theo từng trường hợp cụ thể. Tuy nhiên, trong nhiều trường
hợp, các bên tham gia tranh chấp đến từ các nước khác nhau và họ miễn
cưỡng phải đưa vụ việc ra trước một toà án quốc gia bởi sự lo sợ có cơ sở về
một định kiến hoặc cảm tình dân tộc của các quan toà. Các bên thường cảm
thấy thiếu tự tin khi phải đối mặt với những thủ tục tư pháp nghiêm khắc,
cứng nhắc và các thẩm phán - những người có thể sẽ có những định kiến khi
đưa ra phán quyết. Và như thế, sẽ chỉ làm lợi cho một bên là những người có
cùng quốc tịch với thẩm phán. Trong bối cảnh đó, trọng tài có thể làm cho các
bên (những người khác nhau về quốc tịch) tránh được việc phải giải quyết
tranh chấp tại toà án bằng một thoả thuận họng tài. Và bằng cách đó tránh
được những định kiến hay sự thiên vị của một thẩm phán. Phương pháp trọng
tài sẽ giúp cho các bên tranh chấp tự do và bình đẳng để lựa chọn địa điểm xét
xử trọng tài (tại một nước trung lập chẳng hạn), ngôn ngữ sử dụng trong quá
trình trọng tài, các quy tắc tố tụng, quốc tịch của các trọng tài viên và người
đại diện, về điếm này, rõ ràng trọng tài chiếm ưu thế hơn so với toà án.
2. Hạn chế.

Mặc dù trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp rất được ưa chuộng
hiện nay song trên thực tế, có nhiều quốc gia không ủng hộ biện pháp này.

10


Thứ nhất, là họ không muốn sử dụng công cụ pháp lý để giải quyết tranh
chấp bởi vì các biện pháp ngoại giao sẽ đảm bảo cho việc giải quyết tranh

chấp được quyết định bởi các bên.
Thứ hai, là vấn đề thực thi phán quyết của trọng tài còn chưa có sự đảm bảo
chắc chắn. Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài tuy có giá trị pháp lý ràng
buộc phán quyết của trọng tài được thừa nhận rộng rãi nhưng khơng có một
cơ chế nào để buộc các bên thực hiện phán quyết trên nên việc thực thi phán
quyết, hay hiệu lực của phán quyết trọng tài còn phụ thuộc vào ý thức, thiện
chí và hành vi của các bên trong tranh chấp.
Thứ ba, mặc dù, phán quyết của Trọng tài là chung thẩm, bắt buộc thi hành
với các bên tranh chấp. Tuy nhiên, phán quyết của Trọng tài có thể được xem
xét lại khi có những tình tiết, điều kiện mới làm ảnh hưởng đến nội dung của
phán quyết mà trước đó Tịa trọng tài chưa biết đến. Mặt khác, phán quyết
Trọng tài sẽ bị coi là vô hiệu nếu điều ước quốc tế hoặc điều khoản về Trọng
tài mà các bên ký kết vô hiệu hoặc Trọng tài giải quyết vượt quá thẩm quyền
được các bên thỏa thuận hoặc thành viên hội đồng Trọng tài bị mua chuộc
hoặc trong quá trình giải quyết vụ việc, Trọng tài đã vi phạm thủ tục tố tụng.
Thứ tư, so với Tòa án công lý quốc tế. Trọng tài quốc tế không tạo ra một
thực tiễn xét xử ổn định như Tòa án cơng lý quốc tế vì nó chỉ được thành lập
ra hoặc thừa nhận để giải quyết các vụ việc cụ thể theo sự thỏa thuận của các
bên tranh chấp. Trọng tài quốc tế khơng có chức năng đưa ra kết luận tư vấn
pháp lý và chi phí Trọng tài do các bên tranh chấp gánh chịu.
Thứ năm, phương pháp này do trọng tài giải quyết cả các tranh chấp về
chính trị nên thường kết quả khơng được triệt để, các thành viên trong hội
đồng trọng tài do các bên tranh chấp lựa chọn nên dễ có nguy cơ bị mua
chuộc. Cơ chế thực thi tuân thủ phán quyết của Trọng tài cũng khơng mạnh,
tất cả hồn tồn phụ thuộc vào sựu tận tâm, thiện chí của các bên tranh chấp.
Bởi lẽ, trọng tài quốc tế không phải là cơ quan tư pháp của Liên hợp quốc nên
Hội đồng bảo an Liên hợp quốc sẽ không thể bảo đảm việc thực thi các phán
11



quyết của Trọng tài quốc tế, đặc biệt là các phán quyết của các Trọng tài AdHoc.
III.

Đánh giá khả năng áp dụng biện pháp này để giải quyết tranh
chấp quốc tế mà Việt Nam là một bên.

Cùng với sự phát triển và hội nhập kinh tế nước ngồi, khơng chỉ các quốc
gia trên Thế giới mà Việt Nam không tranh khỏi những xung đột, tranh chấp
xảy ra trên phạm vi quốc tế. Có thể thấy, u chuộng hịa bình là một trong
những truyền thống nổi bật, là nét đẹp văn hóa tiêu biểu của dân tộc Việt
Nam. Trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam
phải tiến hành nhiều cuộc kháng chiến chống lại các thế lực ngoại xâm để
giành và bảo vệ độc lập, tự do cho Tổ quốc. Trong những năm gần đây, Việt
Nam xảy ra một số tranh chấp với các quốc gia láng giềng như, tranh chấp
Biển Đông giữa Việt Nam và Trung Quốc, tranh chấp biên giới đất liền và
biển giữa Việt Nam và Campuchia, Indonesia.
Hiện nay, cơ chế này chưa được thực thi nhiều đối với các tranh chấp quốc
tế mà Việt Nam là một bên. Phần đa, Việt Nam giải quyết các tranh chấp quốc
tế bằng biện pháp hịa bình hoặc đàm phán. Ví dụ như vụ tranh chấp Biển
Đông giữa Việt Nam và Trung Quốc. Chủ trương của Việt Nam giải quyết các
tranh chấp ở Biển Đơng thơng qua biện pháp hồ bình trên tinh thần hiểu biết
và tôn trọng lẫn nhau, tuân thủ luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Liên Hợp
quốc về Luật Biển năm 1982. Việc bảo đảm hịa bình, ổn định, an ninh và an
tồn hàng hải ở Biển Đơng là mối quan tâm chung của các nước trong và
ngoài khu vực, Việt Nam hoan nghênh nỗ lực và đóng góp của tất cả các nước
trong và ngoài khu vực vào việc duy trì hịa bình, ổn định ở Biển Đơng. Trên
tinh thần đó, Việt Nam hoan nghênh và đánh giá cao việc cộng đồng quốc tế
có những đóng góp xây dựng nhằm bảo vệ an ninh, an toàn hàng hải và duy
trì hịa bình, ổn định ở khu vực Biển Đông; phản đối sử dụng vũ lực hoặc đe
dọa sử dụng vũ lực, ủng hộ các bên liên quan giải quyết tranh chấp bằng biện

pháp hịa bình trên cơ sở pháp luật và thực tiễn quốc tế, trong đó có Công ước
12


LHQ về Luật Biển năm 1982, tôn trọng quyền của các quốc gia ven biển đối
với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các quốc gia ven biển với luật
pháp quốc tế. Tuy nhiên, biện pháp này vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế nhất
định khi Trung Quốc không hề từ bỏ ý định xâm chiếm Biển Đông của Việt
Nam. Đối với các vấn đề liên quan đến hai nước Việt Nam – Trung Quốc thì
giải quyết song phương, vấn đề nào liên quan đến các nước khác, liên quan
đến tự do hàng hải thì cần có sự bàn bạc của các bên liên quan. Nếu trong
tranh chấp này, Việt Nam sử dụng biện pháp Trọng tài quốc tế thì sẽ như thế
nào? Với những ưu thế của mình, Trọng tài quốc tế sẽ đem đến một cơ chế
giải quyết với thủ tục nhanh gọn, linh hoạt trong q trình giải quyết. Đây là
một tranh chấp có tính chun mơn cao, Việt Nam có thể lựa chọn trọng tài
viên có trình độ chun mơn đúng với lĩnh vực tranh chấp. Tuy nhiên nếu áp
dụng biện pháp này khả năng thực thi phán quyết sẽ không cao với một nước
có giã tâm lớn như Trung Quốc sẽ khơng chịu từ bỏ ý định xâm chiếm với
mục đích đẩy mạnh kinh tế của nước nhà. Bởi lẽ, Trọng tài quốc tế không
phải là cơ quan tư pháp của Liên hợp quốc nên Hội đồng bảo an Liên hợp
quốc sẽ không thể bảo đảm việc thực thi các phán quyết của Trọng tài quốc tế.
Vấn đề đặt ra ở đây nếu Việt Nam kiện Trung Quốc sẽ gây ảnh hưởng như thế
nào đến tình hình kinh tế, chính trị, an ninh quốc gia? Trước vấn đề tranh
chấp trên Biển Ðông hiện nay, có quan điểm cho rằng Việt Nam cần phải kiện
Trung Quốc ra toà trọng tài quốc tế và phải đánh Trung Quốc. Thực ra, hiện
nay Việt Nam chưa kiện, chứ không phải không kiện. Bởi, Việt Nam chủ
trương đấu tranh bằng phương pháp hồ bình theo từng cấp độ, theo diễn biến
của tình hình và trên cơ sở phương châm 16 chữ (láng giềng hữu nghị, hợp tác
toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai) và 4 tốt (láng giềng tốt, bạn bè
tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt) trong quan hệ với Trung Quốc. Mặt khác, Việt

Nam ln tích cực đấu tranh cả trên thực địa và ngoại giao. Khi cần thiết,
chuẩn bị đầy đủ các yếu tố ta sẽ kiện, mà đã kiện là phải thắng. Hơn bất kỳ
một dân tộc nào, dân tộc ta thấu hiểu được sự mất mát đau thương của chiến
13


tranh. Trong điều kiện hiện nay, nếu chiến tranh xảy ra sẽ là vô cùng nguy hại,
sẽ là thiệt hại vô cùng lớn cả về con người và cơ sở vật chất, cả về kinh tế,
chính trị, văn hố xã hội, ngoại giao; đặc biệt là khơng cịn mơi trường hồ
bình, ổn định để phát triển đất nước... Vì vậy, tranh chấp này đề ra cho Việt
Nam một vấn đề cần áp dụng một biện pháp giải quyết tranh chấp tối ưu nhất
nhằm mục đích giải quyết triệt để tranh chấp này.

KẾT LUẬN
Giải quyết tranh chấp quốc tế bằng biện pháp Trọng tài quốc tế là một
trong những biện pháp giải quyết tranh chấp được Luật quốc tế ghi nhận trong
nhiều văn kiện và được nhiều chủ thể chọn áp dụng trong việc giải quyết
tranh chấp mang tính quốc tế. Mặc dù chiếm nhiều ưu điểm nhưng biện pháp
này không tránh khỏi việc tồn tại một số hạn chế, vì thế mà các bên trong
tranh chấp nên cân nhắc cẩn thận về bản chất vụ việc để lựa chọn một hình
thức trọng tài phù hợp. Tuy nhiên, thực tế nhận thấy thì trọng tài quy chế là
hình thức đáng cân nhắc hơn bởi vì thơng thường một khi các bên đã có tranh
chấp và muốn khởi kiện ra một cơ quan để giải quyết tranh chấp thì tức là
giữa các bên đã khơng cịn tiếng nói chung hoặc một bên vi phạm nghĩa vụ và
lẩn tránh nghĩa vụ do đó nếu lựa chọn hình thức Trọng tài vụ việc là rất khó
để thực hiện được và đi đến kết quả tốt nhất.

14



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật Quốc tế, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB – CAND, năm
2020.
2. Thực trạng sử dụng trọng tài ở Việt Nam. Một số giải pháp nâng cao tính

hấp dẫn của trọng tài. Luật sư Nguyễn Mạnh Dũng và Nguyễn Thị Thu
Trang.
3. Luận văn thạc sĩ Luật học, Áp dụng Điều 33 trong Hiến chương của Liên

Hợp Quốc nhằm giải quyết hòa bình tranh chấp Quốc Tế. Tác giả Vũ Thị
Minh Thúy. Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
4. Tạp chí Khoa học, Tranh chấp Biển Đông và các phương thức giải quyết hịa

bình tranh chấp quốc tế trong Luật Quốc tế hiện đại. Tác giả Nguyễn Bá
Diễn. Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
5. />
15



×