Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Phân tích ưu điểm, hạn chế của biện pháp giải quyết tranh chấp quốc tế thông qua Trọng tài quốc tế so với các biện pháp giải quyết tranh chấp quốc tế khác. Đánh giá khả năng áp dụng biện pháp này để giải quyết tranh chấp quốc tế mà Việt Nam là một bên.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (261.32 KB, 14 trang )

BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÀI TIỂU LUẬN
HẾT HỌC PHẦN
MƠN:

Cơng Pháp Quốc Tế
ĐỀ BÀI 6
Phân tích ưu điểm, hạn chế của biện pháp giải quyết tranh chấp quốc tế thông
qua Trọng tài quốc tế so với các biện pháp giải quyết tranh chấp quốc tế khác.
Đánh giá khả năng áp dụng biện pháp này để giải quyết tranh chấp quốc tế mà
Việt Nam là một bên.

Họ và tên

:

Mã số sinh viên

:

Nhóm

:

Lớp

:
Hà Nội, 2021



Mục lục
Lời mở đầu......................................................................................................................................................1
1. Khái niệm....................................................................................................................................................2
1.1. Tranh chấp quốc tế và những biện pháp hịa bình giải quyết tranh chấp quốc tế..........................2
1.2. Phương thức giải quyết tranh chấp quốc tế hiện nay.........................................................................2
2. Khả năng áp dụng biện pháp này để giải quyết tranh chấp quốc tế mà Việt Nam là một bên........6
Kết luận............................................................................................................................................................9
Danh mục tài liệu tham khảo......................................................................................................................10


Lời mở đầu
Hiện nay trong xu thế tồn cầu hóa, tạo điều kiện để các quốc gia hợp tác
cùng phát triển trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, nhưng
tiềm ẩn sâu trong các mối quan hệ quốc tế ấy lại là những nguy cơ làm nảy sinh
nhiều mâu thuẫn và bất đồng trên tất cả các lĩnh vực trong quá trình chủ thể luật
quốc tế đang thiết lập các mối quan hệ hợp tác quốc tế. Vì thế, u cầu mang tính
tất yếu để tránh tối đa những xung đột 4 mang tính chất vũ trang là sử dụng các
biện pháp hịa bình để giải quyết, trong đó, biện pháp đàm phán trực tiếp sẽ góp
phần đặc biệt quan trọng. Hiến chương Liên hợp quốc đã liệt kê rất nhiều những
biện pháp hòa bình để tạo cơ hội cho chủ thể liên quan sự tự lưa chọn trong giải
quyết tranh chấp quốc tế. Tuy vậy, việc áp dụng các biện pháp hịa bình để giải
quyết các tranh chấp quốc tế trong thực tiễn lại không hề đơn giản. Tranh chấp
quốc tế là vấn đề phức tạp, do đó, các biện pháp giải quyết tranh chấp quốc tế cần
phải được xem xét, nghiên cứu, đánh giá thường xuyên để từ đó khắc phục những
nhược điểm phát huy ưu điểm của từng biện pháp, bảo đảm sự phù hợp đối với
thực tiễn các tranh chấp đang diễn ra. Chính việc thỏa thuận lựa chọn các phương
thức thích hợp để giải quyết vấn đề tranh chấp là một trong những cơ sở xác định
thẩm quyền giải quyết tranh chấp. Biện pháp giải quyết tranh chấp quốc tế thông
qua trọng tài quốc tế là việc sử dụng các cơ quan tài phán quốc tế trên cơ sở sự

thỏa thuận hoặc thừa nhận của các bên tranh chấp bằng các phương pháp, thủ tục
tư pháp. Căn cứ vào sự hình thành, cơ cấu tổ chức, hoạt động, phương thức giải
quyết tranh chấp, giá trị hiệu lực của phán quyết cũng như cơ chế đảm bảo thi hành
phán quyết để chia cơ quan tài phán quốc tế thành hai loại là Tòa án quốc tế và
trọng tài quốc tế.

1


Nội dung
1. Khái niệm.
1.1. Tranh chấp quốc tế và những biện pháp hịa bình giải quyết tranh chấp
quốc tế.
Tranh chấp quốc tế là hồn cảnh thực tế mà trong đó các chủ thể tham gia có
những quan điểm trái ngược nhau hoặc mâu thuẫn nhau và có những yêu cầu đòi
hỏi trái ngược nhau. Chủ thể của tranh chấp quốc tế trước hết phải là chủ thể của
luật quốc tế, đó là quốc gia, các tổ chức quốc tế liên quốc gia, các dân tộc đang đấu
tranh giành độc lập. Trước kia để giải quyết các tranh chấp quốc tế các chủ thể
thường sử dụng chiến tranh để phân định thắng thua. Tuy nhiên khi Liên hợp quốc
ra đời cùng với những nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế đó thì các biện pháp hịa
bình giải quyết tranh chấp quốc tế được ưu tiên và đảm bảo thực hiện. Ngun tắc
hịa bình giải quyết tranh chấp quốc tế là một nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế
hiện đại. Hiến chương Liên hợp quốc đã liệt kê nhiều những biện pháp hịa bình để
giải quyết tranh chấp quốc tế để tạo cơ hội cho chủ thể có thể lựa chọn những biện
pháp phù hợp nhất, tối ưu nhất làm sao cho tranh chấp được giải quyết một cách
triệt để và khơng gây ảnh hưởng đến hịa bình an ninh.
1.2. Phương thức giải quyết tranh chấp quốc tế hiện nay.
Hiến chương Liên hợp quốc đã quy định rất nhiều biện pháp hịa bình, tạo ra
điều kiện cho các chủ thể luật quốc tế lựa chọn trong giải quyết tranh chấp quốc tế.
Xuất phát từ những đặc trưng cơ bản của Luật quốc tế: Chủ thể, đối tượng điều

chỉnh… vì thế mà thẩm quyền giải quyết tranh chấp trong luật quốc tế cũng có
những đặc điểm rất khác biệt so với luật quốc gia. Thẩm quyền giải quyết tranh
chấp quốc tế là do các chủ thể luật quốc tế quyết địnhThực tiễn giải quyết tranh

2


chấp quốc tế từ trước tới nay thường vẫn áp dụng các phương thức giải quyết tranh
chấp cơ bản sau:
+ Giải quyết trực tiếp tranh chấp
+ Giải quyết tranh chấp thông qua bên thứ ba;
+ Giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ các tổ chức quốc tế và các hiệp định
khu vực.
+ Giải quyết tranh chấp thông qua các cơ quan tài phán quốc tế.
1.3. Biện pháp giải quyết tranh chấp quốc tế thông qua trọng tài quốc tế
Tài phán quốc tế là cách thức hịa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng
các phương thức, thủ tục tư pháp do các quốc gia tự lựa chọn. Còn cơ quan tài
phán quốc tế là những cơ quan hình thành trên cơ sở sự thỏa thuận hoặc thừa nhận
của các chủ thể của Luật quốc tế nhằm giải quyết các tranh chấp nảy sinh giữa các
chủ thể này. Như vậy có thể hiểu phương thức giải quyết tranh chấp thơng qua cơ
quan tài phán là phương thức mà các chủ thể của tranh chấp quốc tế lựa chọn (hoặc
thành lập) một cơ quan tài phán để giải quyết tranh chấp giữa các bên bằng các
phương thức, thủ tục nhất định.
Cơ sở pháp lí để áp dụng phương thức này nói riêng và các phương thức hịa
bình giải quyết các tranh chấp quốc tế nói chung là 7 nguyên tắc trong hệ thống các
nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc cũng qui định
“Tất cả các Thành viên giải quyết các tranh chấp quốc tế của họ bằng biện pháp
hịa bình, theo cách khơng làm nguy hại đến hịa bình và an ninh quốc tế, và công
lý” tại khoản 3 điều 2.
Sử dụng phương thức này các chủ thể của tranh chấp quốc tế phải lựa chọn một

cơ quan tài phán, (có thể là tịa án quốc tế hoặc trọng tài quốc tế) số lượng thẩm
phán hoặc số lượng trọng tài, luật pháp được áp dụng tùy thuộc vào các điều ước
3


quốc tế mà các bên đã kí kết hoặc thiết chế của cơ quan tài phán đó.Nếu các bên
đồng ý lựa chọn một tịa án quốc tế thì phải chịu những cơ chế xét xử của Tòa án,
còn nếu như lựa chọn tịa trọng tài thì các bên sẽ phải thỏa thuận, thỏa thuận này
phải được xác định rõ ràng trong một điều ước hoặc cũng có thể là một điều khoản,
trong điều ước này không chỉ thể hiện việc nhất trí đưa vụ việc ra tịa trọng tài mà
cịn qui định về thẩm quyền, thủ tục xét xử, nguồn luật áp dụng, nghĩa vị mà các
bên phải tuân thủ.
Thành phần của cơ quan tài phán quốc tế cũng được thỏa thuận, tuy nhiên cũng
tùy từng cơ quan tài phán mà thành phần đó cần có những yêu cầu bắt buộc nào.
Thẩm quyền của các cơ quan tài phán là do các bên trong tranh chấp quốc tế tự
thỏa thuận, nhưng một khi thẩm quyền này đã được viện dẫn thì nó là độc lập. Cơ
quan tài phán sẽ tiến hành các thủ tục cho hoạt động xét xử mà khơng phụ thuộc
vào ý chí của các bên tranh chấp cũng như dư luận thế giới, chỉ cần tuân theo
những nguyên tắc chung của luật quốc tế, các tập quán quốc tế, những cơng ước
mà các bên đã kí kết, và đặc biệt là văn bản đã thỏa thuận của hai quốc gia.
Thủ tục tố tụng: các tòa án quốc tế đều được tiến hành theo thủ tục bổ trợ và thủ
tục nội dung, trong thủ tục nội dung có thủ tục viết và nói; thủ tục tố tụng tại tòa
trọng tài cũng do các bên thỏa thuận nhưng nếu như khơng thỏa thuận được thì có
thể dựa vào thủ tục tố tụng được qui định trong công ước Lahaye về giải quyết hịa
bình tranh chấp quốc tế hoặc có thể trong Qui chế mẫu về thủ tục trọng tài.
Nguồn luật áp dụng chủ yếu là các nguyên tắc và qui phạm pháp luật quốc tế,
các tập quán quốc tế hoặc cũng có thể là pháp luật quốc gia nếu điều ước quốc tế
về trọng tài mà các bên kí kết có qui định về khả năng viện dẫn luật quốc gia. Giá
trị pháp lí của các phán quyết của cơ quan rất lớn, có giá trị chung thẩm và bắt
buộc chung. Có nghĩa là các phán quyết của cơ quan tài phán đã đưa ra thì các chủ

thể của tranh chấp phải thực hiện một cách tự giác nghiêm túc và khơng có quyền
u cầu xét xử lại, tuy nhiên đối với tịa trọng tài thì có thể xem xét lại nếu như có
4


những tình tiết mới hoặc phát hiện ra có dấu hiệu mua chuộc trọng tài, tòa trọng tài
vượt quá thẩm quyền mà các bên trao cho, tịa có hành vi vi phạm nghiêm trọng
các qui định về thủ tục tố tụng, hoặc điều ước quốc tế về trọng tài mà các bên đã kí
kết đã bị vơ hiệu.
Từ nội dung trên ta có thể đánh giá về phương thức giải quyết tranh chấp thông
qua cơ quan tài phán như sau: Quy trình thành lập, thẩm quyền, thủ tục xét xử
được qui định một cách cụ thể rõ ràng minh bạch cho nên tránh được sự nhầm lẫn
về các nội dung đó khi tiến hành xét xử.
Theo một nguyên tắc chung là thẩm quyền không đương nhiên nhưng thẩm
quyền của cơ quan tài phán quốc tế là độc lập khi đã được viện dẫn. Giá trị pháp lí
của các phán quyết có hiệu lực tối cao (đối với các phán quyết của Tịa án cơng lí
quốc tế ICJ) và có hiệu lực tương đối cao ( đối với các phán quyết của các tòa án
khác và các tòa trọng tài) do về nguyên tắc đó là chung thẩm có giá trị bắt buộc đối
với các bên tranh chấp. So với phương thức thơng qua bên thứ ba thì ở khía cạnh
này phương thức thông qua cơ quan tài phán thể hiện sự vượt trội hơn hẳn, các
hoạt động trung gian hòa giải chỉ dừng lại ở việc khuyến khích đưa ra ý kiến để các
bên có thể lựa chọn mà khơng có yêu cầu bắt buộc dẫn đến việc thi hành không
đảm bảo.
Nếu như các cơ quan tài phán quốc tế có thể xét xử đối với cả các chủ thể không
phải là thành viên của một điều ước quốc tế có liên quan tới cơ quan tài phán đó
trong phương thức thơng qua cơ quan tài phán thì trái lại ở phương thức giải quyết
tranh chấp trong khuôn khổ các tổ chức quốc tế thì lại thu hẹp đối tượng, hạn chế
chỉ trong phạm vi các quốc gia thành viên của tổ chức đó. Sự thỏa thuận trong
phương thức này cũng được đề cao, hầu hết trong các bước của quá trình thành lập
cơ quan tài phán, qui định về thẩm quyền thủ tục đều phải có sự nhất trí của hai

bên, từ đó thấy được tính chất cơng bằng bình đẳng trong quan hệ quốc tế.

5


Tuy nhiên bên canh những ưu điểm vượt trội đó thì phương thức này cũng có
một số những hạn chế. Vì thủ tục rất nhiều cho nên tốn thời gian tốn nhiều kinh phí
cho sự hoạt động của cơ quan tài phán, về điểm này thì phương thức thơng qua cơ
quan tài phán không tốt bằng phương thức giải quyết trực tiếp, khơng có sự nhanh
gọn, tiện lợi. Kết quả tranh chấp phụ thuộc hoàn toàn vào phán quyết của cơ quan
tài phán, khơng thể là ý chí chủ quan của các bên tranh chấp, hơn thế nữa việc xét
xử cơng khai của tịa án quốc tế cũng khiến cho đơi khi gây khó khăn cho những
tranh chấp cần được giữ kín, bí mật.
Bên cạnh đó mặc dù cơ chế tự thỏa thuận giữa các bên về việc lựa chọn cơ quan
tài phán phát huy được tính chất cơng bằng tuy nhiên đây cũng chính là một hạn
chế khi trên thực tế vì một bên khơng chấp nhận đưa vụ việc ra cơ quan tài phán
giải quyết mà các tranh chấp vẫn diễn ra một cách dai dẳng gây phiền phức cho
bên còn lại và là nguy cơ tiềm ẩn sự xung đột giữa các chủ thể tranh chấp quốc tế.
Ví dụ: Cụ thể nhất là việc tranh chấp 2 quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, Việt
Nam đã yêu cầu Trung Quốc đưa vụ việc ra Tòa án luật biển quốc tế nhưng Trung
quốc

đã

khơng

chấp nhận, vì thế cho đến nay vẫn chưa có một quyết định cụ thể nào gây hoang
mang dư luận và quan hệ ngoại giao của hai nươc cũng trở nên căng thẳng. Chính

thế có nên hay chăng việc qui định rộng hơn thẩm quyền của các cơ quan tài phán

trong một chừng mực giới hạn nào đó để vừa có thể đảm bảo quyền lợi ích của các
bên tranh chấp vừa không xâm phạm tới chủ quyền của mỗi chủ thể.
2. Khả năng áp dụng biện pháp này để giải quyết tranh chấp quốc tế mà Việt
Nam là một bên.
Công ước Singapore hỗ trợ cho kết quả hòa giải các tranh chấp thương mại quốc
tế . Khi tham gia vào Cơng ước, kết quả hịa giải thành do hòa giải viên đưa ra ở
6


một quốc gia sẽ được công nhận và thi hành ở một quốc gia thành viên khác. Điều
đó sẽ thúc đẩy cho việc sử dụng hiệu quả của các phương thức giải quyết tranh
tranh chấp, mở rộng, tăng cường cơ hội hợp tác thương mại giữa các quốc gia trên
thế giới. Q trình đàm phán, thảo luận về Cơng ước có sự tham gia của 85 quốc
gia thành viên của Liên Hợp quốc và 35 tổ chức phi chính phủ, trong đó có nhiều
quốc gia là đối tác thương mại lớn của Việt Nam như Hoa Kỳ, Vương quốc Anh,
Trung Quốc, Singapore. Ngày 7/8/2019, tại Singapore 46 nước đã ký kết Công
ước, Việt Nam tuy chưa ký kết nhưng vẫn tham gia các phiên họp đàm phán Công
ước với tư cách là quan sát viên. Xét về mặt lợi ích, việc tham gia Công ước trong
bối cảnh những tranh chấp xuyên quốc gia ngày càng diễn ra phổ biến sẽ là cơ chế
hiệu quả để giải quyết những tranh chấp này.
Khi tham gia Cơng ước, kết quả hịa giải thành giữa một bên là doanh nghiệp
Việt Nam và một bên là doanh nghiệp nước ngoài nếu được thực hiện bởi các hòa
giải viên, trung tâm hòa giải thương mại của Việt Nam sẽ được công nhận và thi
hành ở các quốc gia thành viên. Ngồi ra, những kết quả hịa giải thành ở nước
ngồi cũng sẽ được cơng nhận và thi hành ở Việt Nam, như vậy sẽ làm tăng hiệu
quả, tăng độ tin cậy với các quốc gia cũng như các nhà đầu tư nước ngoài khi hợp
tác với Việt Nam. Hơn thế nữa, nếu tham gia Công ước, chúng ta sẽ từng bước đưa
pháp luật Việt Nam tiệm cận với pháp luật quốc tế, cải thiện môi trường đầu tư
kinh doanh tại Việt Nam.
Về phạm vi áp dụng, khoản 2 Điều 1 Công ước Singapore quy định:“ Công ước

này không áp dụng với các thỏa thuận giải quyết tranh chấp: a. Là kết quả giải
quyết tranh chấp phát sinh từ các giao dịch mà một trong các bên tham gia vì mục
đích cá nhân, gia đình hoặc hộ gia đình; b.Liên quan đến pháp luật gia đình, thừa
kế

hoặc

lao

động”.

Trong khi đó, Điều 2 Nghị định 22/2017/NĐ-CP ngày 24/2/2017 của Chính phủ
7


quy định về hòa giải thương mại quy định phạm vi giải quyết tranh chấp bằng hòa
giải thương mại như sau: “1. Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động
thương mại; 2. Tranh chấp giữa các bên trong đó có ít nhất một bên có hoạt động
thương mại; 3. Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải
quyết bằng hòa giải thương mại.” Như vậy, phạm vi điều chỉnh của pháp luật Việt
Nam rộng hơn so với Công ước, Công ước không áp dụng đối với tranh chấp mà
một bên tham gia khơng có hoạt động thương mại.
Về thủ tục công nhận thỏa thuận giải quyết tranh chấp, Điều 3 Công ước quy
định: “Mỗi bên tham gia Công ước phải thi hành thỏa thuận giải quyết tranh chấp
theo các quy tắc về thủ tục của mình và với các điều được quy định tại Công ước
này”. Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 đã dành hẳn Chương XXXIII để quy định về
thủ tục công nhận kết quả hịa giải thành ngồi Tịa án. Như vậy, Công ước không
đưa ra quy định cụ thể về thủ tục công nhận thỏa thuận giải quyết tranh chấp nên
những kết quả hòa giải thương mại trong trường hợp thỏa thuận giải quyết tranh
chấp do hòa giải viên thương mại, tổ chức hòa giải thương mại, tổ chức hòa giải

thương mại nước ngồi tại Việt Nam được cơng nhận theo các quy định tại Chương
XXXIII Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
Đối với những thỏa thuận giải quyết tranh chấp được hòa giải viên thương mại,
tổ chức hòa giải thương mại ngồi lãnh thổ Việt Nam thực hiện thì để được thi
hành tại Việt Nam cần phải thông qua thủ tục công nhận và cho thi hành. Tuy
nhiên, thỏa thuận này lại không thuộc loại được xem xét công nhận và cho thi hành
tại Việt Nam theo quy định tại Phần thứ bảy Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. Như vậy,
trong trường hợp này pháp luật Việt Nam chưa có quy định về việc cơng nhận và
cho thi hành thỏa thuận giải quyết tranh chấp thuộc phạm vi điều chỉnh của Công
ước.

8


Về điều kiện có hiệu lực của kết quả hịa giải thành. Điểm b khoản 1 Điều 4
Công ước quy định thỏa thuận giải quyết tranh chấp phải có “Chữ ký của hòa giải
viên trong thỏa thuận giải quyết tranh chấp”.Tuy nhiên, tại điểm b khoản 1 Điều 4
Công ước cũng quy định “Trong trường hợp khơng có chứng cứ quy định tại điểm
i, ii, hoặc iii, bất kỳ chứng cứ nào khác có thể được cơ quan có thẩm quyền chấp
nhận.” Trong khi đó, khoản 3 Điều 15 Nghị định 22/NĐ-CP lại quy định: “Văn bản
về kết quả hòa giải thành có chữ ký của các bên và hịa giải viên thương mại”. Như
vậy, theo quy định của pháp luật Việt Nam, văn bản kết quả hòa giải thành bắt buộc
phải có chữ ký của hai bên và hịa giải viên.
Về điều kiện cơng nhận hịa giải thành ngồi Tịa án. Điều 5 Cơng ước quy định
về các căn cứ từ chối trợ giúp với rất nhiều các điều kiện như một bên tham gia
thỏa thuận giải quyết tranh chấp khơng có năng lực ký kết thỏa thuận đó; thỏa
thuận giải quyết tranh chấp được viện dẫn vô hiệu, không khả thi hoặc không thể
thực hiện được theo pháp luật mà các bên bị ràng buộc một cách hợp lệ hoặc nếu
khơng có bất kỳ viện dẫn nào đến pháp luật đó, theo pháp luật được cơ quan có
thẩm quyền của bên tham gia Cơng ước nơi cần có biện pháp trợ giúp theo Điều 5

cho là có thể áp dụng …”. Đối chiếu với quy định của pháp luật Việt Nam, chúng
ta không quy định điều luật riêng về căn cứ từ chối cơng nhận kết quả hịa giải
thành ngồi Tịa án. Tuy nhiên, tại Điều 417 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 có quy
định về điều kiện cơng nhận hịa giải thành ngồi Tịa án do hòa giải viên thương
mại, tổ chức hòa giải thương mại, tổ chức hịa giải thương mại nước ngồi tại Việt
Nam thực hiện và quy định các trường hợp Thẩm phán có quyền từ chối khơng
cơng nhận kết quả hịa giải thành tại khoản 6 Điều 419 Bộ luật Tố tụng dân sự
2015.
Sự khơng tương thích giữa pháp luật Việt Nam và Cơng ước cịn thể hiện ở chỗ
có những vấn đề được quy định trong Công ước nhưng lại chưa được quy định ở
9


pháp luật Việt Nam, ví dụ như quy định tại Điều 6 Công ước về đơn hoặc yêu cầu
song song: “Nếu đơn hoặc yêu cầu liên quan đến thỏa thuận giải quyết tranh chấp
đã được đưa ra Tòa án, Hội đồng trọng tài hoặc bất kỳ cơ quan có thẩm quyền nào
khác có thể ảnh hưởng đến biện pháp trợ giúp được yêu cầu theo Điều 4, cơ quan
có thẩm quyền của bên tham gia Cơng ước nơi cần có sự trợ giúp có thể, nếu xét
thấy phù hợp, hỗn việc ra quyết định và cũng có thể, theo yêu cầu của một bên,
yêu

cầu

bên

kia

đưa

ra


biện

pháp

bảo

đảm

phù

hợp”.

Việt Nam tham gia Công ước Singapore về hịa giải là hồn tồn phù hợp với
chủ chương, chính sách của Đảng và Nhà nước về khuyến khích giải quyết tranh
chấp thương mại thơng qua thương lượng, hịa giải. Để gia nhập Công ước ước này
Việt Nam cần hoàn thiện hệ thống pháp luật để thu hẹp những khoảng cách, sự
khác biêt giữa quy định của Công ước Singapore và quy định của pháp luật Việt
Nam như quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Thương mại, Luật Trọng tài
thương mại và Nghị định 22/2017/NĐ-CP của Chính phủ cũng như dự thảo Luật
Hịa giải, đối thoại tại Tòa án.

10


Kết luận
Từ trước đến nay, tranh chấp quốc tế luôn được xác định là một trong những
vấn đề thời sự rất được nhiều quốc gia cũng như toàn thể nhân loại quan tâm. Vì
thế. Việc thiết lập và duy trì hệ thống các cơ quan chuyên môn về vấn đề giải quyết
tranh chấp là một nhu cầu quan trọng được đặt ra trong đời sống quố tế hiện nay.

Ta có thể nhận thấy các tranh chấp quốc tế ngày càng được giải quyết theo nhiều
cách thức và biện pháp khác nhau, và cũng đạt được nhiều thành tựu lớn. Điển
hình cho 1 trong các phương thức giải quyết đó là q trình thơng qua vai trị của
các cơ quan tài phán quốc tế.iệc sử dụng phương thức giải quyết tranh chấp thông
qua các cơ quan tài phán đã đảm bảo cho các nguyên tắc của luật quốc tế được thi
hành, bảo vệ lợi ích hợp pháp của các chủ thể của luật quốc tế. Việc sử dụng
phương thức thông qua cơ quan tài phán không chỉ yêu cầu thái độ tôn trọng chủ
quyền của nhau giữa các chủ thể mà cịn thể hiện sự tơn trọng cơng lí lẽ phải trên
thế giới. Thực tiễn áp dụng phương thức giải quyết tranh chấp thông qua cơ quan
tài phán đã cho thấy những ưu điểm vượt trội của phương thức này, thẩm quyền
của các cơ quan tài phán là độc lập cùng với các phán quyết có giá trị pháp lí cao,
bảo đảm sự thực hiện các phán quyết khác.

11


Danh mục tài liệu tham khảo
1. Luật quốc tế. Trường đại học Luật Hà Nội. Nxb Công an nhân dân, 2007.
2. Hiến chương Liên hợp quốc 1945.
3. Công ước của Liên hợp quốc năm 1982 về luật biển.
4. Lê Mai Anh & Trần Văn Thắng, Luật quốc tế - Lý luận và thực tiễn, Nxb. Giáo dục,
Hà Nội, 2001.
5. Nguyễn Hồng Thao, Tồ án cơng lí quốc tế, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2000.
6. Lê Mai Anh, Luật biển quốc tế hiện đại, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2005.

12




×