Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

Luan van chinh thuc TRÁCH NHIỆM bồi THƯỜNG THIỆT hại DO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN gây RA THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (416.48 KB, 99 trang )

NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN............................................................3
MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 4
Chương I: Cơ sở lý luận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên
gây ra............................................................................................................................. 9
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
người chưa thành niên gây ra.........................................................................................9
1.1.1. Khái niệm người chưa thành niên, trẻ em............................................................9
1.1.2. Khái niệm về trách nhiệm bồi thường thiệt hại..................................................12
1.2. Mục tiêu điều chỉnh pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa
thành niên gây ra..........................................................................................................27
1.3. Nội dung và năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người chưa thành
niên.............................................................................................................................. 29
1.4. Khái quát về chế định bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra ở Việt
Nam.............................................................................................................................31
1.4.1. Trách nhiệm BTTH do người chưa thành niên gây ra theo Luật Hồng Đức.......32
1.4.2. Trách nhiệm BTTH do người chưa thành niên gây ra theo Luật Gia Long........32
1.4.3. Trách nhiệm BTTH do người chưa thành niên gây ra theo quy định của các Bộ
Dân luật....................................................................................................................... 33
1.4.4. Trách nhiệm BTTH do người chưa thành niên gây ra theo quy định của Pháp
luật Việt Nam hiện đại.................................................................................................34
Chương II: Pháp luật hiện hành của Việt Nam về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
người chưa thành niên gây ra.......................................................................................38
2.1. Quy định về căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa
thành niên gây ra..........................................................................................................38
2.1.1. Có thiệt hại xảy ra:.............................................................................................38
2.1.2. Có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại................................................................42
2.1.3. Có mối quan hệ nhân quả:..................................................................................45
2.1.4. Có lỗi:................................................................................................................48
2.2. Năng lực bồi thường thiệt hại của người chưa thành niên....................................51
2.2.1. Người chưa thành niên dưới mười lăm (15) tuổi gây thiệt hại...........................51
2.2.2. Người từ đủ mười lăm tuổi (15) đến chưa đủ mười tám (18) tuổi gây thiệt hại. 52


2.2.3. Người chưa thành niên có người giám hộ gây thiệt hại......................................52
2.2.4. Bồi thường thiệt hại do người dưới mười lăm tuổi gây ra trong thời gian trường
học, bệnh viện, tổ chức khác trực tiếp quản lý.............................................................52
2.3. Quy định về nguyên tắc bồi thường thiệt hại, xác định thiệt hại và mức bồi
thường thiệt hại............................................................................................................53
2.3.1. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại trong pháp luật Việt Nam................................53
2.3.2. Xác định thiệt hại...............................................................................................57


2.3.3. Quy định về mức bồi thường.............................................................................63
2.4. Quy định về những trường hợp được miễn hoặc giảm trách nhiệm bồi thường.. .68
2.4.1. Trường hợp được miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại...................................69
2.4.2. Trường hợp được giảm trách nhiệm bồi thường thiệt hại...................................71
2.5. Quy định về trách nhiệm của cha, mẹ, người quản lý hoặc người giám hộ hợp
pháp của người chưa thành niên gây ra thiệt hại..........................................................72
Chương III: Thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam về vấn đề
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra..............................77
3.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa
thành niên gây ra ở Việt Nam.......................................................................................77
3.1.1. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người dưới 15 tuổi..................................78
3.1.2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi......83
3.1.3. Một số thiếu sót trong quá trinh áp dụng các quy định của pháp luật khi giải
quyết việc bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra.................................89
3.2. Phương hướng và một số giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra.......................................91
3.2.1. Nên đánh giá lại quan điểm về khái niệm “lỗi” trong dân sự.............................91
3.2.2. Cần xây dựng cơ sở pháp lý cho khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho
người chưa thành niên gây ra để làm căn cứ cho việc nghiên cứu và áp dụng luật......92
3.2.3. Xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản của người chưa thành niên
dưới 15 tuổi gây thiệt hại.............................................................................................93

3.2.4. Thống nhất và quy định cụ thể hơn trong quy định xác định trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của người chưa thành niên.................................................................94
3.2.5. Thành lập Tòa án cho người chưa thành niên.....................................................94
III. KẾT LUẬN............................................................................................................ 95
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................................98


NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

Ký hiệu các chữ viết tắt
- BLDS
- BLTTDS
- BTTH
- TANDTC
- DLBK
- DLTK

Chữ viết đầy đủ
Bộ Luật Dân sự
Bộ Luật Tố tụng dân sự
Bồi thường thiệt hại
Tòa án nhân dân tối cao
Bộ Dân luật Bắc Kỳ
Hoàng Việt Trung Kỳ Hộ luật

3


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài.

Chế định bồi thường ngoài hợp đồng là một trong những chế định xuất hiện
sớm trong pháp luật dân sự. Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được hiểu là trách
nhiệm dân sự do gây thiệt hại mà trước đó giữa bên bị thiệt hại và bên gây thiệt hại
không có sự thoả thuận hoặc có sự thoả thuận nhưng sự thoả thuận đó khơng liên quan
đến hậu quả thiệt hại. Việc gây thiệt cho người khác và phải bồi thường thiệt hại là
điều mang tính tất yếu trong xã hội, trong số đó có cả người chưa thành niên gây ra
thiệt hại cho người khác. Tại Nhật, số vụ yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại do hành vi
sai trái (bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (BTTHNHĐ)) chiếm 61% trong tổng số
vụ việc tranh chấp dân sự. Con số này nói lên mức độ quan trọng của quyền yêu cầu
bồi thường thiệt hại do hành vi sai trái trong đời sống dân sự.
Đối với người chưa thành niên,với quan điểm nhất quán trong việc bảo vệ đối
tượng này, Nhà nước đã thúc đẩy việc hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo vệ quyền của
người chưa thành niên, bên cạnh đó Nhà nước cũng xác định rõ ràng trách nhiệm của
họ khi tham gia vào các quan hệ pháp luật cụ thể, trong đó đã dành sự quan tâm đặc
biệt cho đối tượng là những trường hợp người chưa thành niên gây ra thiệt hại cho
người khác. Điều này càng thể hiện mối quan tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước đối
với người chưa thành niên. Chính vì thế, trong các quy định của pháp luật về bồi
thường thiệt hại của Nhà nước đối với người chưa thành niên là nhằm giúp đỡ, giáo
dục để người chưa thành niên nhận ra sai lầm từ đó sửa chữa những sai lầm của mình,
tạo điều kiện để các em có khả năng tái hòa nhập cuộc sống. Đồng thời, cũng nhằm
xác định trách nhiệm của cha mẹ, người quản ý trong việc giáo dục chăm sóc con em
mình.
Xác định người chưa thành niên là người chưa phát triển hoàn thiện về tâm và
sinh lí, thiếu bản lĩnh, kinh nghiệm sống, dễ bị lôi kéo, kích động, dụ dỗ vào nhiều
hoạt động, chưa tự chủ trong mọi tình huống. Do vậy, pháp luật dân sự Việt Nam đã có
những quy định riêng để nhằm xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người
chưa thành niên gây ra một cách khách quan nhất, phù hợp nhất.
Trên thế giới, các quốc gia đều coi trong việc bảo vệ người chưa thành niên
cũng như bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp khác của các chủ thể khi bị người chưa
thành niên xâm hại.


4


Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra là một nội
dung trong chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Việc xác định trách nhiệm
bồi thường của người chưa thành niên là vấn đề hết sức phức tạp bởi họ được coi là
những chủ thể chưa có đủ năng lực hành vi dân sự, và do vậy bắ t họ phải chịu một
mức bồi thường thiệt hại cụ thể lại là điều cịn khó khăn hơn, khi mà truyền thống và
thói quen ở Việt Nam, những người chưa thành niên hầu hết là không có tài sản riêng
để tự chịu trách nhiệm do hành vi của mình.
Thực tế, đây là vấn đề tương đối khó khăn, chưa có hướng dẫn cụ thể nên các
cơ quan bảo vệ pháp luật gặp nhiều khó khăn khi tổ chức thực hiện. Quá trình tổ chức
thực hiện, các cơ quan cịn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc vì quy định cịn có nhiều
cách hiểu khác nhau nên việc áp dụng chưa thống nhất, gây bức xúc cho đương sự.
Trong thời gian vừa qua, những người làm công tác thực tiễn thường xuyên trao đổi
các tình huống cụ thể khó xử trên các diễn đàn tạp chí. Tuy nhiên, cho đến thời điểm
này vẫn chưa có một cơng trình khoa học nào nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp dụng
và đưa ra phương hướng hoàn thiện pháp luật về vấn đề bồi thường thiệt hại do người
chưa thành niên gây ra.
Tác giả viết luận văn này với mong muốn nghiên cứu, tìm hiểu một cách khoa
học, có hệ thống giúp các nhà nghiên cứu, áp dụng pháp luật có một cách nhìn tồn
diện về vấn đề này khi giải quyết các vụ án cụ thể góp phần mang đến sự công bằng
cho các đương sự trong các vụ án.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài có liên quan.
Vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung và trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do người chưa thành niên gây ra luôn được quan tâm nhằm bảo vệ quyền lợi
ích hợp pháp cho người bị xâm hại. Nhưng điều khó khăn là việc xác định trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra như thế nào khi mà đối tượng này
bị coi là có năng lực hành vi dân sự không đầy đủ;

Trên thực tế, pháp luật nói chung và pháp luật dân sự Việt Nam nói riêng đã có
những quy định về việc quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành
niên gây ra nhưng vẫn còn một số vướng mắc.
Mặt khác, xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên
gây ra tuy không phải là vấn đề quá mới mẻ nhưng là vấn đề khó khăn, phức tạp, …

5


nên những bài viết xuất hiện trên các tạp chí chỉ dừng lại ở một mức độ nhất định và
có thể nói là cịn khá khiêm tốn. Chưa có một cơng trình nào mang tính khái qt.
Dưới góc độ khoa học pháp lý, chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đã
được nhiều nhà khoa học pháp lý trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu ở các cấp
độ khác nhau.
Ở Việt Nam, đến nay đã có luận án Thạc sĩ luật học của Phạm Kim Anh về đề
tài "Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng"; Luận án của Lê Mai Anh về đề
tài "Những vấn đề cơ bản về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong
Bộ luật dân sự"; Luận án Thạc sĩ luật học của Trần Thị Thu Hiền về đề tài "Những
nguyên tắc bồi thường thiệt hại trong luật dân sự Việt Nam"; Luận án Thạc sĩ luật học
của Lê Kim Loan về đề tài "Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo Bộ
luật dân sự Việt Nam", một số bài viết của Nguyễn Đức Giao, về trách nhiệm BTTH
ngoài hợp đồng, Thạc sĩ Nguyễn Đức Mai về "Người giám hộ và trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra” đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân,
Tạp chí Dân chủ và pháp luật cũng như các giáo trình Luật dân sự đề cập vấn đề này.
Bài viết của Thạc sỹ Mai Thanh Hiếu về “Xác định trách nhiệm bồi thường của cha,
mẹ bị cáo đối với thiệt hại do bị cáo thực hiện hành vi phạm tội là người chưa thành
niên gây ra và tư cách tố tụng của họ”. Và đặc biệt là cuốn sách chuyên khảo: Bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng về tài sản, sức khoẻ và tính mạng của Tiến sĩ Phùng
Trung Tập - Nhà xuất bản Hà Nội 2009... Tuy nhiên, các cơng trình nghiên cứu này
mới dừng lại ở mức độ chung nhất hoặc chỉ đề cập ở phạm vi hẹp trong nội dung

nghiên cứu về các vấn đề khác nhau, mà chưa có tác giả nào nghiên cứu đầy đủ có hệ
thống trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng để trên cơ sở đó nghiên cứu
một trường hợp cụ thể của loại trách nhiệm này – Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
người chưa thành niên gây ra.
3. Mục đích, nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu.
Theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2005, trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do người chưa thành niên gây ra là loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp
đồng hay cịn gọi là trách nhiệm bồi thường thiệt hại do có hành vi trái pháp luật. Tuy
nhiên, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, tác giả khơng nghiên cứu tồn bộ
những vấn đề thuộc chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng mà chỉ tập trung
nghiên cứu vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra

6


cho người khác mà thôi. Đồng thời, trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và xem xét
thực tiễn áp dụng pháp luật của một số bản án trong ngành Toà án trên lĩnh vực này,
tác giả mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị, giải pháp hoàn thiện pháp luật.
Để đạt được các mục đích trong phạm vi nghiên cứu trên đây, đề tài tập trung
vào một số nội dung sau:
Thứ nhất: Nghiên cứu làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm chung về người chưa
thành niên. Đồng thời phân tích bản chất pháp lý và những căn cứ phát sinh trách
nhiệm bồi thường.
Thứ hai: Nghiên cứu, xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa
thành niên gây ra dưới một số khía cạnh cụ thể.
Thứ ba: Đánh giá thực trạng xét xử của ngành Toà án trong việc áp dụng pháp
luật khi giải quyết trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra.
Qua đó tìm ra những điểm vướng mắc, tồn tại và đề xuất các giải pháp khắc phục.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài.
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,

tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Kết hợp giữa quan điểm của Chủ
nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử. Quá trình nghiên cứu đề tài tác
giả đã sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp phân tích, tổng hợp,
phương pháp so sánh, phương pháp chứng minh.
5. Những điểm mới và ý nghĩa của luận văn.
Đây có thể được coi là cơng trình nghiên cứu tương đối khoa học kể từ khi vấn
đề bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra được quy định trong Bộ luật
dân sự. Việc nghiên cứu được tiến hành một cách có hệ thống những vấn đề lý luận cơ
bản về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra. Trên cơ sở lý
luận khoa học, đề tài đi sâu vào nghiên cứu một số trường hợp cụ thể có thể vận dụng
trong thực tiễn giải quyết các tình huống tương tự.
Điểm mới của luận văn còn được thể hiện ở chỗ tác giả không chỉ dừng lại
nghiên cứu các quy phạm pháp luật trong lĩnh vực này mà còn tiến hành xem xét công
tác áp dụng pháp luật qua một số bản án của các cơ quan bảo vệ pháp luật trong thời
gian qua, đồng thời đề xuất một số biện pháp hoàn thiện pháp luật để giải quyết những
vướng mắc trong thực tiễn áp dụng.

7


Thực hiện luận văn giúp người viết hiểu biết sâu sắc hơn về vấn đề trách nhiệm
bồi thường bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra trong luật dân sự đang
được các cơ quan áp dụng pháp luật quan tâm. Đồng thời tác giả có kiến thức bổ trợ
cho hoạt động nghề nghiệp của mình.
Luận văn mang đến cho người đọc có thêm những hiểu biết về trách nhiệm bồi
thường bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra trong pháp luật Việt Nam.
6. Kết cấu của luận văn.
Luận văn được xây dựng với kết cấu bao gồm: Phần mở đầu, 3 chương và kết
luận sau khi nghiên cứu đề tài, cụ thể:
Phần mở đầu: Tác giả nêu lý do lựa chọn đề tài, nhiệm vụ, mục đích, nội dung,

tình hình nghiên cứu đề tài, cơ sở lý luận và phương pháp luận cũng như những điểm
mới của đề tài.
Chương I. Cơ sở lý luận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa
thành niên gây ra.
Chương II. Pháp luật hiện hành của Việt Nam về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do người chưa thành niên gây ra.
Chương III. Thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam về vấn
đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra.
Kết luận.

8


II. NỘI DUNG
Chương I: Cơ sở lý luận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành
niên gây ra
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của chế định trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do người chưa thành niên gây ra
1.1.1. Khái niệm người chưa thành niên, trẻ em.
“Người chưa thành niên” là khái niệm không xa lạ đối với các nhà luật học trên
thế giới cũng như ở Việt Nam. Tuy nhiên, sự khác nhau giữa ngôn ngữ đời thường và
ngôn ngữ luật học đôi khi lại đem lại khó khăn cho nhiều người khi tìm hiểu. Trong
đời thường chúng ta gọi là “vị thành niên”, còn luật học gọi là “chưa thành niên”.
Thực tế cả hai cách gọi đều là một, nó chỉ khác nhau ở biểu đạt cách nói, cách viết mà
thơi.
Có thể nói rằng, hầu hết người chưa thành niên là những người chưa hồn tồn
phát triển đầy đủ về nhân cách, chưa có đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ của một công
dân. Pháp luật ở mỗi quốc gia quy định độ tuổi cụ thể của người chưa thành niên.
Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em được Đại hội đồng Liên hợp quốc
thơng qua ngày 20/11/1989 có ghi: “Trong phạm vi Cơng ước này, trẻ em có nghĩa là

người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng đối với trẻ em có quy định tuổi
thành niên sớm hơn”.
“Nữ thập tam, nam thập lục”, là cái tuổi mà ông cha ta chỉ những người có thể
nói là có đầy đủ khả năng để được phép lấy vợ, lấy chồng, được tự quyết định các
cơng việc của mình, và trở thành “người lớn”. Một cách nhìn về độ tuổi được coi là
trưởng thành phù hợp với truyền thống dân tộc.
Nhưng trong xã hội hiện đại, cái tuổi 13, 16 ấy có vẻ khơng cịn phù hợp nữa,
chỉ trong chừng mực nào đấy cái tuổi này còn một chút ý nghĩa, bởi lẽ, các điều kiện
về kinh tế - xã hội, sức khỏe tâm sinh lý ... và nhiều điều kiện khác đã khác xưa rất
nhiều.
Những người vào độ tuổi ấy được gọi là người chưa thành niên. Người chưa
thành niên được chia thành nhiều độ tuổi khác nhau, trong đó người chưa đủ 6 tuổi
hồn tồn khơng có năng lực hành vi dân sự, người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có
năng lực hành vi hạn chế. Phân theo đối tượng, người chưa thành niên bao gồm toàn
bộ trẻ em và một phần là thanh niên.

9


Người chưa thành niên chưa phát triển đầy đủ về mặt cơ thể sinh học, còn nhiều
hạn chế cả về thể chất cũng như tinh thần và rất dễ bị tổn thương. Vì vậy họ được pháp
luật đặc biệt quan tâm bảo vệ. Có rất nhiều quy định riêng biệt đối với người chưa
thành niên như: Việc xử phạt nhẹ đáng kể đối với người chưa thành niên phạm tội và
ngược lại xử phạt rất nặng đối với hành vi xâm phạm đến người chưa thành niên, như
hiếp dâm, mua bán, cưỡng bức, hành hạ người chưa thành niên,… Đặc biệt, một người
chưa đủ 18 tuổi, thì dù có phạm tội lỗi tày đình đến đâu đi chăng nữa, cũng khơng bao
giờ phải chịu mức hình phạt tử hình.
Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005, người chưa thành niên (hay còn
gọi là vị thành niên), là người chưa đủ 18 tuổi. Người chưa thành niên khơng có đủ
năng lực hành vi dân sự, tức là chưa được phép tự mình xác lập và thực hiện các giao

dịch dân sự như đối với người thành niên.
Pháp luật có nhiều quy định hạn chế hành vi của người chưa thành niên. Việc
xác lập, thực hiện giao dịch dân sự của họ phải được người đại diện theo pháp luật
đồng ý, trừ trường hợp đặc biệt như giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hằng
ngày phù hợp với lứa tuổi hoặc có tài sản riêng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hoặc pháp
luật có quy định được phép.
Ở độ tuổi này, trong các lĩnh vực đời sống xã hội khác nhau, người chưa thành
niên tham gia các hoạt động cụ thể và nhiều khi là chủ thể của các quan hệ pháp lí,
như trong lĩnh vực hành chính, dân sự và hình sự.
Dưới góc độ pháp lí, tâm lí và y học, thì người chưa thành niên là người chưa
phát triển đầy đủ về thể chất, tâm sinh lí, chưa có khả năng nhận thức đầy đủ tính nguy
hiểm, tính cần thiết cho xã hội của các hành vi do mình thực hiện.
Tuổi đủ năng lực hành vi dân sự, hay tuổi để trở thành người lớn có ý nghĩa
pháp lý và thực tế vô cùng quan trọng. Chưa đủ 18 tuổi, tức là chưa được tự mình
quyết định hầu hết những công việc trong cuộc sống, như chưa được thành lập và quản
lý doanh nghiệp, chưa được thuê lao động, chưa nhận thẻ cử tri để đi bầu cử, chưa
được lái xe mô tô từ 50 cm3 trở lên,…
Thậm chí đối với một số cơng việc cịn yêu cầu phải qua ngưỡng tuổi thành
niên một thời gian nhất định mới được làm. Ví dụ như nam giới phải đủ 20 tuổi trở lên
mới được phép hiến tình trùng (theo Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và
hiến, lấy xác năm 2006). Hay người đủ 21 tuổi trở lên mới được ứng cử đại biểu quốc

10


hội và đại biểu HĐND các cấp (Luật Bầu cử Đại biểu Quốc hội năm 1997 và Luật Bầu
cử đại biểu HĐND năm 2003), mới được lái xe ô tải, máy kéo trên 3,5 tấn (Luật Giao
thông đường bộ năm 2008).
Tóm lại, khái niệm người chưa thành niên được xây dựng dựa trên sự phát triển
về mặt thể chất và tinh thần của con người và được cụ thể hoá bằng giới hạn độ tuổi

trong các văn bản pháp luật của từng quốc gia. Theo đó, người ta quy định những
quyền và nghĩa vụ cụ thể của người chưa thành niên.
Như vậy, quan điểm cơ bản của chúng ta là: Người chưa thành niên là người
dưới 18 tuổi, chưa phát triển hoàn thiện về thể chất và tinh thần, chưa có đầy đủ các
quyền và nghĩa vụ pháp lý như người đã thành niên.
Khái niệm người chưa thành niên khác với khái niệm trẻ em. Trong cuộc sống,
người ta vẫn thường hiểu cái tuổi để coi là trẻ em có vẻ mang một chút trừu tượng nào
đó và khơng thống nhất. Có lúc nào đấy, dưới 12 tuổi được coi là trẻ em, nhưng có lúc
lại là dưới 13, 14, thậm chí cịn hơn nữa.
Về mặt khoa học thì trẻ em là “giai đoạn phát triển của đời người từ lúc sơ sinh
cho đến tuổi trưởng thành. Có đặc điểm nổi bật là sự tăng trưởng và phát triển liên tục
về thể chất và tâm thần. Quá trình phát triển của TE trải qua các thời kì: sơ sinh, bú mẹ,
trước khi đi học, đi học và tuổi dậy thì. Ở mỗi thời kì, có những đặc điểm sinh học khác
nhau nên việc ni dưỡng, giáo dục, chăm sóc sức khoẻ cũng khác nhau, phù hợp với
những đặc điểm của mỗi thời kì”[1]. Và để hiểu thống nhất như thế nào là trẻ em,
chúng ta đành căn cứ vào các quy định trong hệ thống pháp luật hiện hành của nhà
nước để định hình một cách rõ rệt, chứ bản thân khoa học pháp lý của Việt Nam cũng
chưa có định nghĩa như thế nào là trẻ em cả.
Trong hệ thống pháp luật hiện hành của nước ta, có rất nhiều đạo luật đề cập tới
trẻ em nhằm để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp cũng như sự ưu đãi nhất định cho
các em trong một số lĩnh vực. Tuy nhiên, cũng chính trong các đạo luật này, độ tuổi
của trẻ em lại đang có sự vênh nhau khá nhiều. Thậm chí cùng một tuổi nhưng ở luật
này là trẻ em, ở luật khác đã thành người lớn...
Theo Nghị định thư của Liên hiệp quốc về phòng ngừa, trấn áp và trừng trị
buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em đã được Đại hội đồng Liên hợp quốc
thơng qua, có hiệu lực từ ngày 25/12/2003 thì trẻ em là người dưới 18 tuổi. Tương tự,
các công ước, văn kiện quốc tế liên quan đến việc bảo vệ quyền con người, quyền của

11



phụ nữ và trẻ em mà Việt Nam đã tham gia ký kết và là thành viên như: Công ước về
xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ, Công ước về quyền trẻ em,
Nghị định thư không bắt buộc bổ sung cho Công ước về quyền trẻ em về buôn bán trẻ
em, mại dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em, các thỏa thuận, ghi nhớ với
một số nước có chung đường biên giới với nước ta về hợp tác chống buôn bán phụ nữ,
trẻ em, và hiện Việt Nam đang nghiên cứu các điều kiện để phê chuẩn Công ước về
chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và các Nghị định thư bổ sung về chống
buôn bán phụ nữ, trẻ em và chống đưa người di cư trái phép… đều có quy định tương
tự. Trong khi đó, định nghĩa trẻ em của pháp luật Việt Nam coi trẻ em là người dưới 16
tuổi. Như vậy là sự không tương thích đã thể hiện rõ ràng.
Nhưng có thể ngầm hiểu rằng, khái niệm người chưa thành niên bao gồm cả trẻ
em, nhưng khái niệm trẻ em thì bao gồm cả người chưa thành niên nhưng không phải
là tất cả.
Tựu trung lại, dựa trên các quản điểm phổ biến ở Việt Nam cũng như trên thế
giới, khái niệm về người chưa thành niên có thể được đúc kết như sau: Người (nam và
nữ) chưa đủ (tròn) mười tám (18) tuổi là người chưa thành niên.
1.1.2. Khái niệm về trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
1.1.2.1. Khái quát về quá trình phát triển của trách nhiệm bồi thường thiệt hại
(BTTH ).
Trước khi được hiểu là một loại trách nhiệm pháp lý chịu sự điều chỉnh của
Luật tư như hiện nay thì trách nhiệm BTTH đã trải qua một quá trình phát triển với
nhiều giai đoạn thể hiện bản chất khác biệt. Có thể khái quát các giai đoạn phát triển
cơ bản của trách nhiệm BTTH như sau[2]:
Giai đoạn thứ nhất: Trong thời kỳ cổ đại, khi chính quyền trong xã hội còn
chưa được tổ chức một cách vững chãi, các cá nhân, mỗi khi bị xâm phạm vào quyền
lợi được tự ý trả thù để trừng phạt đối phương, hoặc bắt đối phương làm nô lệ, hay lấy
tài sản của họ. Chế độ này còn được gọi là chế độ tư nhân phục thù.
Trong giai đoạn thứ hai, người gây ra sự tổn hại có thể nộp một số tiền chuộc
hay thục kim cho nạn nhân để tránh trả thù. Chế độ này còn được gọi là chế độ thục

kim. Chế độ thục kim đã trải qua hai giai đoạn phát triển:
1) Khi chưa có sự can thiệp của pháp luật, các bên tự thoả thuận với nhau về
tiền chuộc, đó là chuộc lỗi tự nguyện;

12


2) Nhờ sự can thiệp của chính quyền, các bên tranh chấp bắt buộc phải giải
quyết tranh chấp bằng cách trả cho nhau số tiền chuộc lỗi theo ngạch giá do pháp luật
quy định, đó là chế độ thục kim bắt buộc. Tiền thục kim này có thể coi như vừa là một
hình phạt, vừa có tính chất bồi thường thiệt hại. Vào thời kỳ Luật 12 bảng, Cổ luật La
Mã mới bắt đầu chuyển từ chế độ tự ý thục kim sang bắt buộc thục kim.
Giai đoạn thứ ba, chứng kiến sự phân biệt hai trách nhiệm hình sự và dân sự .
Chính quyền, trước hết, can thiệp để trừng phạt những tội phạm chỉ liên quan đến trật
tự xã hội, không liên hệ đến cá nhân. Sự can thiệp này rất cần thiết, vì nếu khơng có sự
thanh trừng của xã hội, những vụ phạm pháp này không được chú ý tới vì khơng làm
hại trực tiếp đến quyền lợi của tư nhân. Sự can thiệp của chính quyền dần dần được
nới rộng đến sự phạm pháp liên quan đến quyền lợi của các cá nhân như các vụ ẩu đả,
trộm cắp. Về phương diện hình sự, cá nhân mất hết quyền phục thù và chỉ còn quyền
xin bồi thường tổn hại của mình về dân sự.
Tuy trong một số trường hợp, Luật La Mã đã tiến tới sự phân biệt hai trách
nhiệm hình sự và dân sự, nhưng nhà làm luật chưa quy định được hẳn một nguyên tắc
trách nhiệm tổng quát, bắt buộc người gây ra sự tổn thất phải bồi thường thiệt hại bất
luận trường hợp nào.
Ở Việt Nam, cổ luật cũng không tách biệt trách nhiệm BTTH là một loại trách
nhiệm thuộc luật tư và cũng chỉ giải quyết các vấn đề thuộc trật tự cơng. Vì vậy, các
điều luật trong bộ luật cổ như bộ Quốc triều Hình luật của nhà Lê hay Hoàng Việt Luật
lệ của Gia Long đều quy định các điều khoản trách nhiệm về luật hình, ví dụ: Điều 582
Quốc triều hình luật đã quy định “Súc vật và chó có tính hay húc, đá và cắn người mà
làm hiệu buộc trịng khơng đúng phép – (đúng phép vật nào hay húc người thì phải cắt

hai sừng, đá người thì phải buộc hai chân, cắn người thì phải cắt hai tai)- hay có chó
hóa dại mà khơng giết thì đều phải phạt 60 trượng. Nếu vì thế mà làm cho người chết
hay bị thương thì xử theo tội lầm lỡ. Nếu cố ý thả rong làm cho người chết hay bị
thương thì xử nhẹ hơn tội tội đánh người bị thương hay đánh chết người một bậc.
Người được thuê đến để chữa bệnh cho súc vật, hay là vô cớ trêu ghẹo những vật kia,
mà bị thương hay chết, thì người chủ khơng phải tội”[3]
Tuy nhiên, trong một vài trường hợp đặc biệt, cổ luật Việt Nam cũng quy định
sự bồi thường. Đối với trường hợp đánh người bị thương, điều 468 Quốc triều hình
luật đã quy định sự nuôi bảo cô. Thí dụ: đánh bị thương bằng chân tay thì phải ni 10

13


ngày, bằng vật khác thì phải ni 20 ngày, bằng thứ có mũi nhọn hay bằng nước sơi,
lửa, thì phải ni 40 ngày, đánh gãy xương thì phải ni 80 ngày…. Nhưng ngoài
những trường hợp đặc biệt, Cổ luật Việt Nam khơng phân biệt rõ rệt hai trách nhiệm
hình sự và dân sự và cũng không nêu lên một nguyên tắc tổng quát nào về trách nhiệm
dân sự.
Ở giai đoạn hiện nay, trách nhiệm BTTH được quy định và điều chỉnh bởi Luật
tư và các nguyên tắc tổng quát về trách nhiệm này đã được đặt ra ở tất cả các nước. Ở
Việt Nam, BTTH hiện nay được hiểu là một loại trách nhiệm Dân sự theo đó người có
hành vi gây ra thiệt hại cho người khác phải bồi thường những tổn thất mà mình gây
ra.
1.1.2.2. Khái niệm bồi thường thiệt hại và trách nhiệm bồi thường thiệt hại
Về mặt lý luận, khi nghiên cứu về trách nhiệm BTTH thì tìm hiểu về khái niệm
và những đặc điểm nổi bật của trách nhiệm BTTH là một việc làm cần thiết phải được
coi trọng.
* Khái niệm.
“Trách nhiệm pháp lý” là hệ thống những qui định của nhà nước về các biện
pháp cưỡng chế được áp dụng đối với chủ thể vi phạm pháp luật thơng qua cơ quan

nhà nước có thẩm quyền, trong đó, chủ thể vi phạm pháp luật phải gánh chịu những
hậu quả bất lợi được qui định ở chế tài của các qui phạm pháp luật.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một chế định quan trọng của pháp luật Dân
sự các nước nói chung và của Việt Nam nói riêng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính
đáng cho những người bị thiệt hại từ hành vi vi phạm nghĩa vụ của chủ thể khác. Ở các
nước khác nhau thì vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại được qui định khác nhau
về hình thức bồi thường và cách xác định thiệt hại. Tuy nhiên, tất cả đều hướng tới một
nguyên tắc thống nhất: “Người gây thiệt hại phải bồi thường thiệt hại”.
Điều 1382 Bộ luật Dân sự Pháp qui định: “Bất cứ hành vi nào của một người
gây thiệt hại cho người khác thì người đã gây thiệt hại do lỗi của mình phải bồi
thường thiệt hại”. Điều 1383 Bộ luật Dân sự Pháp cũng quy định: “Mỗi người phải
chịu trách nhiệm về thiệt hại do mình gây ra, khơng những do hành vi mà cịn do sự
cẩu thả hoặc khơng thận trọng.”
Điều 420 Bộ luật Dân sự Thái Lan qui định: “Một người cố tình hay vơ tình
làm tổn thương một cách trái pháp luật đến đời sống thân thể, sức khoẻ, tự do, tài sản

14


hoặc bất cứ quyền nào của người khác thì bị coi là phạm một hành vi sai trái và có
nghĩa vụ bồi thường tổn thương đó.”
Điều 416 Bộ luật Dân sự Nhật Bản quy định:“Yêu cầu bồi thường thiệt hại sẽ
có giá trị đới với việc bồi thường các thiệt hại mà bình thường sẽ xảy ra do việc khơng
thực hiện trái vụ. Trái chủ có quyền được bồi thường cả những thiệt hại xảy ra trong
những tình h́ng đặc biệt, nếu các bên biết trước hoặc phải biết trước những tình
h́ng đó”.
Trong Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005, vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng được qui định thành một chương riêng (chương XXI). Theo Điều
604: “người nào do lỗi cố ý hoặc vô ý xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự,
nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm

đến danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc các chủ thể khác mà gây thiệt hại thì
phải bồi thường”.
Như vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quan niệm pháp lý của Việt
Nam và hầu hết các nước trên thế giới đều được hiểu là hình thức trách nhiệm dân sự
mang tính tài sản áp dụng đối với chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại
nhằm bù đắp những tổn thất về vật chất và tinh thần cho bên bị thiệt hại.
Như vậy, bồi thường thiệt hại là một biện pháp dân sự quan trọng và hữu hiệu
được áp dụng để xử lý các hành vi xâm phạm và trách nhiệm bồi thường thiệt hại được
hiểu là hình thức trách nhiệm dân sự mang tính tài sản áp dụng đối với chủ thể có hành
vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại nhằm bù đắp những tổn thất về vật chất và tinh thần
cho bên bị thiệt hại.
* Đặc điểm pháp lý của trách nhiệm bồi thường thiệt hại
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một loại trách nhiệm dân sự nên cũng mang
đầy đủ những đặc điểm của trách nhiệm dân sự nói chung. Tuy nhiên, theo qui định
của pháp luật, nó có những đặc điểm pháp lý riêng biệt:
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một loại trách nhiệm dân sự.
Bồi thường thiệt hại là một biện pháp dân sự nhằm khơi phục lại tình trạng ban
đầu của chủ thể bị thiệt hại. Do vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại mang đầy đủ đặc
điểm và tính chất của một trách nhiệm dân sự.
Cơ sở phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại là sự vi phạm nghĩa vụ (nghĩa
vụ theo hợp đồng hoặc nghĩa vụ luật định).

15


Sự vi phạm nghĩa vụ được biểu hiện thông qua sự không thực hiện, thực hiện
không đúng, không đầy đủ hoặc chậm thực hiện nghĩa vụ. Cơ sở phát sinh trách
nhiệm BTTH chỉ đặt ra khi thoả mãn các điều kiện nhất định đó là:
- Có thiệt hại xảy ra;
- Có hành vi gây thiệt hại là hành vi trái luật;

- Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại với thiệt hại xảy ra; và
- Có lỗi của người gây thiệt hại (không phải là điều kiện bắt buộc).
Đây là những điều kiện chung nhất để xác định trách nhiệm của một người phải
bồi thường những thiệt hại do mình gây ra. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc
biệt trách nhiệm BTTH có thể phát sinh khi khơng có đủ các điều kiện trên điển hình
là các trường hợp bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể do luật định hoặc do các bên tự thoả
thuận áp dụng.
Xuất phát từ nguyên tắc của quan hệ dân sự là “tự do, tự nguyện cam kết thoả
thuận” trong khuôn khổ pháp luật, quan hệ dân sự được xây dựng và duy trì bởi ý chí
của các chủ thể tham gia. Bởi vậy, các bên khơng những có thể tự thoả thuận để xác
lập quyền và nghĩa vụ thông qua những cam kết mà cịn có thể thoả thuận về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại và tự áp dụng khi có hành vi vi phạm nghĩa vụ đã được
định trước, ngoài các trường hợp pháp luật quy định.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được thực hiện bởi người gây thiệt hại
nhưng cũng có thể được thực hiện bởi người khác.
Mục đích chính của trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quan điểm pháp lý
của Việt Nam không phải là biện pháp trừng phạt mà chủ yếu nhằm khắc phục hậu quả
thực tế - (Ở một số nước đặc biệt là các nước theo hệ thống luật Common law, quan
niệm pháp lý về trách nhiệm bồi thường thiệt hại khơng đơn thuần mang tính khắc
phục thiệt hại mà cịn mang tính trừng phạt). Do vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại
chú trọng nhiều tới khả năng khắc phục hậu quả. Về bản chất pháp lý, nghĩa vụ bồi
thường trong dân sự là một “khoản nợ” mà người gây thiệt hại phải trả cho người bị
thiệt hại vì những gì anh ta đã làm như là một hậu quả. Giống các món nợ khác, nó có
thể được thanh tốn bởi bên thứ ba mà không bắt buộc phải là người mang nghĩa vụ
như: cha mẹ bồi thường thay cho con chưa thành niên, con khơng có năng lực hành vi
hay chủ sử dụng lao động bồi thường thay cho người làm công…

16



Trách nhiệm BTTH luôn mang đến một hậu quả bất lợi về tài sản cho người gây
thiệt hại. Bởi lẽ, khi một người gây ra tổn thất cho người khác thì tổn thất đó phải tính
tốn được bằng tiền hoặc phải được pháp luật quy định là một đại lượng vật chất nhất
định nếu không sẽ không thể thực hiện được việc bồi thường. Do đó, những thiệt hại
về tinh thần mặc dù khơng thể tính tốn được nhưng cũng sẽ được xác định theo quy
định của pháp luật để bù đắp lại tổn thất cho người bị thiệt hại. Và cũng chính vì vậy,
thực hiện trách nhiệm bồi thường sẽ giúp khôi phục lại thiệt hại cho người bị thiệt hại.
Ngồi người trực tiếp có hành vi gây thiệt hại thì trách nhiệm BTTH cịn được
áp dụng cả đối với những chủ thể khác đó là cha, mẹ của người chưa thành niên, người
giám hộ của người được giám hộ, pháp nhân đối với người của pháp nhân gây ra thiệt
hại, trường học, bệnh viện trong trường hợp người chưa thành niên, người mất năng
lực hành vi dân sự gây thiệt hại hoặc tổ chức khác như cơ sở dạy nghề…
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là trách nhiệm tài sản.
Tính tài sản của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trước hết được
thể hiện ở việc các thiệt hại xảy ra dù là vật chất hay tinh thần đều được xác định dưới
hình thức là tài sản. Vì vậy, người gây thiệt hại luôn phải bồi thường bằng tài sản để bù
đắp và khôi phục những thiệt hại xảy ra từ hành vi của mình.
* Phân loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại
Căn cứ vào nguồn gốc phát sinh, trách nhiệm bồi thường thiệt hại được phân
thành trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng và trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng.
Đây là cách phân loại cơ bản nhất bởi lẽ xác định cơ sở giải quyết bồi thường
theo hợp đồng và ngoài hợp đồng sẽ rất khác nhau. Chính vì vậy, xác định được rõ hai
loại trách nhiệm này sẽ giúp cho việc áp dụng pháp luật dân sự một cách đúng đắn.
* Trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng là loại trách nhiệm dân sự mà
theo đó người có hành vi vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng gây ra thiệt hại cho người
khác thì phải chịu trách nhiệm bồi thường những tổn thất mà mình gây ra.
* Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được hiểu là một loại trách
nhiệm dân sự mà khi người nào có hành vi vi phạm nghĩa vụ do pháp luật quy định

ngoài hợp đồng xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thì phải bồi
thường thiệt hại do mình gây ra.

17


Nếu trách nhiệm BTTH theo hợp đồng bao giờ cũng được phát sinh trên cơ sở
một hợp đồng có trước thì trách nhiệm BTTH ngồi hợp đồng là một loại trách nhiệm
pháp lý do pháp luật quy định đối với người có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến
quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Hiện nay, pháp luật Việt Nam quy định chủ
yếu về trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng đối với hành vi xâm phạm đến tính mạng,
sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản của các cá nhân và tổ chức khác.
Căn cứ vào lợi ích bị bị xâm phạm và những thiệt hại xảy ra mà trách nhiệm
BTTH được phân thành trách nhiệm BTTH về vật chất và trách nhiệm bù đắp tổn thất
về tinh thần.
Trách nhiệm BTTH về vật chất là trách nhiệm bồi thường tổn thất vật chất thực
tế được tính thành tiền do bên vi phạm gây ra, bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí hợp
lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc giảm sút.
Trách nhiệm BTTH về tinh thần được hiểu là người gây thiệt hại cho người
khác do xâm phạm đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người đó
thì ngồi việc chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính cơng khai cịn phải bồi
thường một khoản tiền để bù đắp những tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại
như sự buồn rầu, lòng đau thương…
Việc phân biệt hai loại trách nhiệm này có ý nghĩa trong việc xác định nghĩa vụ
chứng minh và mức bồi thường: Về nguyên tắc, người bị thiệt hại phải có nghĩa vụ
chứng minh thiệt hại xảy ra và mức bồi thường sẽ bằng mức thiệt hại. Tuy nhiên,
nguyên tắc này chỉ có thể áp dụng đối với trường hợp đó là trách nhiệm BTTH về vật
chất còn trong trường hợp BTTH về tinh thần thì rõ ràng những tổn thất về tinh thần là
những tổn thất khơng thể nhìn thấy, khơng thể tính tốn và khơng thể chứng minh
được. Chính vì vậy, trong trường hợp này pháp luật cần quy định một mức nhất định

để cơ quan Nhà nước có thẩm quyền áp dụng trong trường hợp một người có hành vi
xâm phạm đến các quyền nhân thân của người khác.
Căn cứ vào nguyên nhân gây ra thiệt hại, trách nhiệm BTTH được phân chia
thành trách nhiệm BTTH do hành vi của con người gây ra và trách nhiệm BTTH do
tài sản gây ra.
Trách nhiệm BTTH do hành vi của con người gây ra được hiểu là trách nhiệm
bồi thường thiệt hại phát sinh khi thiệt hại xảy ra là kết quả tất yếu của hành vi của con
người gây ra. Trường hợp này người gây thiệt hại đã thực hiện hành vi dưới dạng hành

18


động hoặc khơng hành động và hành vi đó chính là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt
hại.
Trách nhiệm BTTH do tài sản gây ra là trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát
sinh khi tài sản là nguyên nhân gây ra thiệt hại như hoạt động của nguồn nguy hiểm
cao độ gây thiệt hại, cây cối đổ gẫy gây ra thiệt hại, nhà cơng trình xây dựng bị sụt, đổ
gây thiệt hại, gia súc gây thiệt hại…
Việc phân loại hai loại trách nhiệm này có ý nghĩa trong việc xác định căn cứ
làm phát sinh trách nhiệm BTTH : Đối với trường hợp BTTH do hành vi gây ra thì
một điều kiện không thể thiếu là hành vi gây thiệt hại phải là hành vi trái pháp luật.
Trong khi đó, BTTH do tài sản gây ra vì khơng có hành vi nên điều kiện này không thể
được xem xét đến.
Căn cứ vào mối liên hệ giữa quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, trách nhiệm
BTTH được phân loại thành trách nhiệm liên đới và trách nhiệm riêng rẽ.
BTTH liên đới được hiểu là trách nhiệm nhiều người mà theo đó thì mỗi người
trong số những người có trách nhiệm phải chịu trách nhiệm đối với toàn bộ thiệt hại và
mỗi người trong số những người có quyền đều có quyền yêu cầu người gây thiệt hại
phải bồi thường toàn bộ cho mình.
BTTH riêng rẽ là trách nhiệm nhiều người mà theo đó thì mỗi người có trách

nhiệm chỉ phải chịu trách nhiệm đối với phần thiệt hại do mình gây ra và mỗi người
trong số những người có quyền cũng chỉ có quyền yêu cầu người gây thiệt hại bồi
thường những tổn thất mà mình phải gánh chịu.
Việc phân loại này có ý nghĩa trong việc xác định cách thức thực hiện nghĩa vụ,
căn cứ phát sinh, chấm dứt nghĩa vụ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên.
Căn cứ vào yếu tố lỗi và mức độ lỗi của cả người gây thiệt hại và người bị thiệt
hại, trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được phân thành trách nhiệm hỗn hợp và
trách nhiệm độc lập.
Trách nhiệm hỗn hợp là trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà trong đó cả người
gây thiệt hại và người bị thiệt hại đều có lỗi.
Trách nhiệm độc lập là trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà người bị thiệt hại là
người hồn tồn khơng có lỗi.
Việc phân biệt hai loại trách nhiệm này sẽ có ý nghĩa trong việc xác định trách
nhiệm bồi thường và mức thiệt.

19


Căn cứ vào chủ thể chịu trách nhiệm, trách nhiệm BTTH được phân loại thành
trách nhiệm BTTH của cá nhân, trách nhiệm BTTH của pháp nhân, các tổ chức khác
và trách nhiệm bồi thường Nhà nước.
Trách nhiệm BTTH của cá nhân được hiểu là trách nhiệm dân sự mà theo đó thì
trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về cá nhân người gây thiệt hại hoặc đại diện
theo pháp luật của người đó như cha mẹ, người giám hộ.
Trách nhiệm BTTH pháp nhân và các tổ chức khác được hiểu là trách nhiệm
dân sự phát sinh cho pháp nhân hoặc các tổ chức khác trong trường hợp người của
pháp nhân và các tổ chức gây thiệt hại trong khi thực hiện nhiệm vụ pháp nhân hoặc tổ
chức giao cho.
Trách nhiệm bồi thường Nhà nước được hiểu là khi cán bộ, công chức gây thiệt
hại thuộc phạm vi bồi thường Nhà nước thì Nhà nước phải bồi thường thiệt hại cho

người bị thiệt hại chứ không phải chính cán bộ công chức hay cơ quan quản lý cán bộ
công chức phải bồi thường.
Việc phân loại này có ý nghĩa trong việc xác định chủ thể phải bồi thường và
việc xác định nghĩa vụ hồn
Như vậy, có thể hiểu trách nhiệm BTTH là một loại trách nhiệm Dân sự mà
theo đó thì khi một người vi phạm nghĩa vụ pháp lý của mình gây tổn hại cho người
khác phải bồi thường những tổn thất mà mình gây ra.
1.1.2.3. Năng lực chủ thể và năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của
người chưa thành niên.
* Năng lực chủ thể của người chưa thành niên.
Năng lực chịu trách nhiệm dân sự nói chung và năng lực chịu trách nhiệm bồi
thường thiệt hại nói riêng là một bộ phận cấu thành nên năng lực chủ thể trong quan hệ
pháp luật dân sự.
Trong quan hệ pháp luật dân sự, mỗi cá nhân phải có năng lực chủ thể, được
cấu thành bởi hai bộ phận là năng lực pháp luật và năng lực hành vi. Dĩ nhiên khơng
phải mọi cá nhân đều có thể đạt được đủ cả hai yếu tố cấu thành này, đặc biệt là năng
lực hành vi.
Năng lực pháp luật là khả năng có quyền hoặc có nghĩa vụ pháp lý mà nhà
nước quy định cho các cá nhân nhất định.Còn năng lực pháp luật dân sự của cá nhân
là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và có nghĩa vụ dân sự.

20


Mọi cá nhân khi sinh ra đều có năng lực pháp luật, điều dó có nghĩa rằng mọi
người đều bình đẳng với nhau và có khả năng mang quyền và gánh chịu nghĩa vụ như
nhau do luật định.
Năng lực dân sự của cá nhân được Nhà nước ghi nhận trong các văn bản pháp
luật mà nội dung của nó phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội.... Mặc
dù được ghi nhận như là một bộ phận khơng thể thiếu được của cá nhân nhưng nó

khơng phải do tạo hóa ban cho mà do Nhà nước ấn định như vậy, do vậy ở những nước
khác nhau thì năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khác nhau. Thậm chí trong
cùng một quốc gia, ở những thời điểm lịch sử khác nhau năng lực dân sự của cá nhân
cũng được quy định khác nhau.
Bên cạnh đó, năng lực pháp luật dân sự của mọi cá nhân là bình đẳng với nhau,
năng lực pháp luật dân sự của mọi cá nhân không đồng nghĩa với quyền dân sự. Năng
lực pháp luật chỉ là tiền đề để cho các cá nhân có quyền, chứ nó khơng phải là quyền
mà chỉ dừng lại ở khả năng mà thôi.
Mặt khác, năng lực pháp luật dân sự của cá nhân do nhà nước quy định cho các
cá nhân nhưng không phải là cá nhân có thể tự hạn chế được năng lực dân sự của mình
hay của người khác. Việc hạn chế năng lực đó chỉ thuộc về nhà nước trong những
trường hợp luật định.
Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là những khả năng của cá nhân bằng
hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự.
Tư cách chủ thể của cá nhân chỉ đầy đủ, hồn thiện, độc lập khi họ có đủ năng
lực hành vi dân sự. Nếu năng lực pháp luật dân sự là tiền đề, là quyền dân sự khách
quan của chủ thể, thì năng lực hành vi là khả năng hành động của chính chủ thể (xử sự
chủ động) tạo ra quyền và nghĩa vụ pháp lý, quan trọng hơn là tự chịu trách nhiệm về
những hành vi của mình. Cùng với năng lực pháp luật dân sự của cá nhân, năng lực
hành vi dân sự là thuộc tính của cá nhân tạo ra tư cách chủ thể của cá nhân trong các
quan hệ dân sự.
Nếu năng lực pháp luật dân sự của mọi cá nhân là giống nhau thì năng lực hành
vi dân sự của cá nhân lại không như vậy. Mỗi cá nhân khác nhau có sự nhận thức về
hành vi và hậu quả của hành vi đó khác nhau, điều đó phụ thuộc vào yếu tố ý chí và lý
trí của cá nhân đó, phụ thuộc vào độ tuổi và khả năng sức khỏe tâm sinh lý của các cá
nhân, và người chưa thành niên thì năng lực hành vi dân sự khác với người thành niên.

21



- Năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Người thành niên là người đủ 18 tuổi trở lên
có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Những người này có đầy đủ tư cách chủ thể, tồn
quyền tham gia vào các quan hệ dân sự với tư cách là chủ thể độc lập và tự chịu trách
nhiệm về những hành vi do họ thực hiện.
- Năng lực hành vi dân sự một phần (khơng đầy đủ). Người có năng lực hành vi
dân sự không đầy đủ là người chỉ có thể xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ và trách
nhiệm trong một giới hạn nhất định do pháp luật dân sự quy định.
Các cá nhân từ đủ 6 tuổi đến dưới 18 tuổi là những người có năng lực hàng vi
dân sự khơng đầy đủ. Họ có thể bằng hành vi của mình tạo ra quyền và phải chịu nghĩa
vụ khi tham gia các giao dịch để thoả mãn những nhu cầu thiết yếu hàng ngày, phù
hợp với lứa tuổi. Trong các giao dịch đó họ khơng cần phải có sự đồng ý của người đại
diện.
Người từ đủ 15 đến dưới 18 tuổi có thể tự mình xác lập, thực hiện những giao
dịch trong phạm vi tài sản riêng của mình và khơng cần sự đồng ý của người đại diện,
trừ những trường hợp pháp luật có yêu cầu.
- Khơng có năng lực hành vi. Người chưa đủ 6 tuổi khơng có năng lực hành vi
dân sự. Mọi giao dịch của cá nhân ở độ tuổi này đều do người đại diện của họ thực
hiện, bởi họ chưa đủ ý chí và lý trí để hiểu được hành vi và hậu quả từ những hành vi
đó.
* Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người chưa thành
niên.
Như đã phân tích ở trên, người chưa thành niên là người chưa có đủ năng lực
nhận thức cho mọi hành vi của mình. Người (nam và nữ) chưa đủ (trịn) mười tám (18)
tuổi là người chưa thành niên. Những người này được coi là chưa đủ năng lực hành vi
dân sự. Sở dĩ pháp luật không công nhận năng lực hành vi đầy đủ cho những người
này là bởi vì họ còn trẻ, thiếu kinh nghiệm sống, thiếu kinh nghiệm về sự vật, con
người. Pháp luật có nhiều quy định hạn chế hành vi của người chưa thành niên. Việc
xác lập, thực hiện giao dịch dân sự của họ phải được người đại diện theo pháp luật
đồng ý, trừ trường hợp đặc biệt như giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hằng
ngày phù hợp với lứa tuổi hoặc có tài sản riêng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hoặc pháp

luật có quy định được phép.

22


Tuổi đủ năng lực hành vi dân sự, hay tuổi để trở thành người lớn có ý nghĩa
pháp lý và thực tế vô cùng quan trọng. Chưa đủ 18 tuổi, tức là chưa được tự mình
quyết định hầu hết những công việc trong cuộc sống, như chưa được thành lập và quản
lý doanh nghiệp, chưa được thuê lao động, chưa nhận thẻ cử tri để đi bầu cử, chưa
được lái xe mô tô từ 50 cm3 trở lên,…
Thậm chí đối với một số cơng việc cịn u cầu phải qua ngưỡng tuổi thành
niên một thời gian nhất định mới được làm. Ví dụ như nam giới phải đủ 20 tuổi trở lên
mới được phép hiến tình trùng (theo Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và
hiến, lấy xác năm 2006). Hay người đủ 21 tuổi trở lên mới được ứng cử đại biểu quốc
hội và đại biểu HĐND các cấp (Luật Bầu cử Đại biểu Quốc hội năm 1997 và Luật Bầu
cử đại biểu HĐND năm 2003), mới được lái xe ô tải, máy kéo trên 3,5 tấn (Luật Giao
thông đường bộ năm 2008)….
Tuy nhiên, việc không công nhận năng lực hành vi đầy đủ ở tuổi chưa thành
niên là điều hết sức bình thường và mang tính tạm thời: khi trịn (đủ) 18 tuổi thì năng
lực hành vi đầy đủ sẽ được công nhận cho những đối tượng này (nếu như không rơi
vào các trường hợp mất năng lực ở tuổi thành niên do luật định).Trong thời gian ở tuổi
chưa thành niên thì cha, mẹ, người quản lý hợp pháp hoặc người giám hộ của người
chưa thành niên sẽ nhân danh người đó thực hiện những quyền lợi đi kèm với năng lực
hành vi, và lẽ tất nhiên sẽ gánh chịu một số trách nhiệm nhất định về một việc nào đó
theo yêu cầu của luật do người chưa thành niên mà họ quản lý gây ra.
Nhưng điều quan trọng phải đặt ra ở đây là lý do nào để yêu cầu cha, mẹ, người
quản lý, hoặc người giám hộ của người chư thành niên phải chịu trách nhiệm bồi
thường cho những thiệt hại mà con cái, người được họ quản lý, giám hộ gây ra.
Với lý lẽ tự nhiên, điều này có thể lý giải ở khía cạnh, sự thiếu chăm sóc, giáo
dục, quản lý của cha mẹ, người quản lý, người giám hộ là một phần nguyên nhân của

những hành vi sai trái của người chưa thành niên, thế nên họ phải gánh chịu cho hậu
quả đó.
Cái lý lẽ “Con cái hư, cha mẹ phải chịu” là như vậy.
Vì vậy khi xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người chưa thành niên
hầu hết chúng ta đều nhất quán ở quan điểm: cha, mẹ, người giám hộ hợp pháp là
người chủ yếu chịu trách nhiệm bồi thường thay cho họ theo những yêu cầu của luật.

23


Trong luật tục của đồng bào dân tộc Êđê và trong phong tục của nhiều đồng bào
dân tộc khác cũng đều thể hiện sự thống nhất như vậy.
Đối với pháp luật hiện hiện hành, thì quan điểm của các nhà lập pháp đã được
thể hiện rõ trong các quy định nằm trong các văn bản pháp luật, tiêu biểu nhất chính là
trong Bộ luật Dân sự 1995 và Bộ luật Dân sự 2005.
* Phân biệt năng lực trách nhiệm của cá nhân trong quan hệ dân sự, hành
chính và hình sự
- Năng lực trách nhiệm dân sự.
Trong pháp luật dân sự, thì năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của
cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự. Như đã
phân tích, độ tuổi xác định bắt đầu có năng lực hành vi dân sự là rất sớm: từ đủ 6 tuổi.
Đối với người chưa thành niên từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi khi xác lập,
thực hiện giao dịch dân sự, phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao
dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày, phù hợp với lứa tuổi hoặc pháp luật
có quy định khác.
Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có tài sản riêng bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ thì, có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự mà không cần có sự
đồng ý của người đại diện theo pháp luật, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Trong giao dịch dân sự, sở dĩ người đủ 15 tuổi trở lên được quyền xác lập, định
đoạt quyền, nghĩa vụ dân sự liên quan đến tài sản của mình, là bởi lẽ, theo quy định

của pháp luật lao động, họ là chủ thể của một số hoạt động lao động được phép cụ thể,
họ có thu nhập và có tài sản riêng, được tự mình sử dụng, chi tiêu vì lợi ích, nhu cầu
hợp lí của mình.
Riêng đối với việc lập di chúc phân định tài sản của mình, thì người từ đủ 15
tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 18 tuổi phải được sự đồng ý của người đại diện theo pháp
luật. Đồng ý ở trường hợp này, là đồng ý được lập di chúc, chứ không phải đồng ý về
nội dung di chúc, phân chia, định đoạt tài sản của mình trước khi chết.
- Năng lực trách nhiệm hành chính.
Năng lực chủ thể của trách nhiệm hành chính của cá nhân được xác định theo
hai điều kiện:
+ Có năng lực trách nhiệm hành chính;
+ Đạt độ tuổi nhất định.

24


Thông thường, người chưa thành niên trong lĩnh vực xử lí vi phạm hành chính,
có độ tuổi từ đủ 14 tuổi trở lên, vi phạm hành chính, thì phải chịu trách nhiệm hành
chính với lỗi cố ý. Những cá nhân chưa thành niên này được coi là có năng lực trách
nhiệm hành chính chưa đầy đủ. Người từ đủ 16 tuổi trở lên được gọi là những người
có năng lực trách nhiệm hành chính đầy đủ.
- Năng lực trách nhiệm hình sự.
Cũng giống như những loại quan hệ pháp luật khác, việc xác định năng lực chịu
trách nhiệm hình sự cũng dựa vào một trong các yếu tố, đó là độ tuổi.
Trong lĩnh vực pháp luật hình sự, thì người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách
nhiệm hình sự về mọi tội phạm; người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi
phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiệm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc
biệt nghiệm trọng. Hơn nữa, pháp luật hình sự nhìn nhận về năng lực chịu trách nhiệm
hình sự dưới góc độ là trẻ em chứ khơng phải là người chưa thành niên như trong pháp
luật dân sự.

Sở dĩ, độ tuổi xác định năng lực trách nhiệm dân sự sớm hơn rất nhiều so với
năng lực hành chính và hình sự của cá nhân, bởi lẽ các hành vi dân sự thường để đáp
ứng nhu cầu hàng ngày của các nhân, các quan hệ xã hội không mang tính đặc biệt như
lính vực hành chính hay hình sự. Hơn nữa, độ tuổi xác định năng lực hành chính và
hình sự muộn hơn bởi lẽ tính chất quan trọng của quan hệ mà cá nhân tham gia vào,
khả năng nhận thức của cá nhân ở vào thời điểm đó được đánh giá là tồn diện và chín
chắn hơn về hành vi và hậu quả do hành vi của mình gây ra, và họ hồn tồn có khả
năng chịu trách nhiệm về hành vi của mình.
1.1.2.4. Ý nghĩa của chế định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa
thành niên gây ra.
Theo quy định chung của pháp luật thì cơng dân và pháp nhân có quyền được
bảo vệ tài sản, các lợi ích hợp pháp… Tại Điều 1, Sắc lệnh 97/SL ngày 22.5.1950 đã
ghi nhận: “Những quyền dân sự đều được luật bảo vệ khi người ta hành sử nó đúng
với quyền lợi của nhân dân”. Trong Hiến Pháp 1992 cũng đã ghi nhận, Nhà nước bảo
hộ mọi quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Như vậy, khi tài sản, tính mạng, sức khoẻ, danh dự nhân phẩm, uy tín của cá
nhân, tổ chức bị xâm hại, Nhà nước sẽ áp dụng những biện pháp cưỡng chế nhất định
đối với người có hành vi xâm hại trái pháp luật nhằm mục đích khắc phục những hậu

25


×