Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do người chưa thành niên gây ra theo pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1002.71 KB, 79 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NINH THÚY NGỌC

TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
NGOÀI HỢP ĐỒNG DO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
GÂY RA THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60380103

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. TRẦN THỊ HUỆ

HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu do tôi thực hiện. Các số liệu, ví
dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo chính xác và trung thực. Các kết luận nghiên
cứu được trình bày trong luận văn chưa từng được công bố ở các nghiên cứu khác.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Ninh Thúy Ngọc




MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
Chương1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT
HẠI DO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN GÂY THIỆT HẠI .................................... 5
1.1. Khái niệm, đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành
niên gây thiệt hại ..........................................................................................................5
1.1.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây
thiệt hại ...................................................................................................................5
1.1.2. Đặc điểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây
thiệt hại ...................................................................................................................9
1.2. Ý nghĩa quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người
chưa thành niên gây ra ..............................................................................................11
1.3. Lược sử quy định của pháp luật Việt Nam về năng lực chịu trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra ....................................................13
1.3.1. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra theo quy
định của Luật Hồng Đức ........................................................................................13
1.3.2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra theo quy
định của Luật Gia Long ..........................................................................................14
1.3.3. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra theo quy
định của quy định của các Bộ Dân luật. .................................................................14
1.3.4. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra theo quy
định của pháp luật Việt Nam hiện đại ....................................................................15
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO NGƯỜI CHƯA THÀNH
NIÊN GÂY THIỆT HẠI ............................................................................................. 18
2.1. Căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây

ra

........................................................................................................................18

2.1.1. Có thiệt hại xảy ra ........................................................................................19
2.1.2 Có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại .........................................................20


2.1.3 Phải có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi trái pháp
luật

.................................................................................................................23

2.1.4 Người gây thiệt hại có lỗi .............................................................................25
2.2. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người chưa thành niên .....26
2.2.1 Người chưa thành niên dưới 15 tuổi gây thiệt hại.........................................26
2.2.2 Người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi gây thiệt hại .......32
2.2.3 Trường hợp người chưa thành niên có người giám hộ, gây thiệt hại .................34
2.3. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại, xác định thiệt hại và mức bồi thường thiệt hại ............ 36
2.3.1 Nguyên tắc bồi thường thiệt hại ....................................................................36
2.3.2 Xác định thiệt hại ..........................................................................................40
2.3.3 Mức bồi thường thiệt hại ...............................................................................46
2.4. Những trường hợp loại trừ, giảm trách nhiệm bồi thường thiệt hại..................48
2.4.1 Trường hợp loại trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại ..................................49
2.4.2 Trường hợp giảm trách nhiệm bồi thường thiệt hại .....................................52
Chương 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM BỒ THƯỜNG THỆT HẠI DO NGƯỜI CHƯA
THÀNH NIÊN GÂY THIỆT ...................................................................................... 54
3.1. Những thuận lợi để hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
người chưa thành niên gây ra ....................................................................................54

3.2. Những khó khăn đối với việc hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do người chưa thành niên gây ra .................................................................55
3.3. Một số án điển hình về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành
niên gây ra ..................................................................................................................58
3.4. Định hướng và giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra ....................................................63
3.4.1 Định hướng hoàn thiện quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do người chưa thành niên gây ra .............................................................63
3.4.2 Một số giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra .................................................65
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................... 74


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây, tình hình người chưa thành niên phạm tội, vi phạm
pháp luật dẫn đến gây hậu quả nghiêm trọng cho người bị hại, cho chính gia đình và xã
hội ngày càng nhiều. Theo thống kê của Tòa án nhân dân Tối cao trong công trình
nghiên cứu “Đề án thành lập tòa gia đình và người chưa thành niên” năm 2012, tình
trạng người chưa thành niên, vi phạm pháp luật, gây thiệt hại xảy ra tương đối nhiều
và có diễn biến phức tạp. “Theo số liệu thống kê của Tòa án nhân dân Tối cao thì năm
2007, tòa án đã xét xử 5.466 bị cáo/3845 vụ, năm 2008 là 4.581 bị cáo/3.216 vụ, năm
2009 là 3.710 bị cáo/2.722 vụ, năm 2010 xét xử 3.418 bị cáo/2.582 vụ, năm 2011 xét
xử 3.243 bị cáo/2.355 vụ, năm 2012 xét xử 6.180 bị cáo/4.557 vụ [2]. Các tội phạm
chủ yếu mà người chưa thành niên thực hiện là trộm cắp tài sản, gây rối trật tự công
cộng, đánh bạc, cướp giật, cưỡng đoạt tài sản, cố ý gây thương tích, hiếp dâm; cũng có
không ít những trường hợp phạm các tội đặc biệt nghiêm trọng như cướp tài sản, tàng

trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy, giết người”. Trước tình hình vi phạm
pháp luật của người chưa thành niên như vậy, một vấn đề được đặt ra là bên cạnh việc
người chưa thành niên có thể phải chịu truy cứu trách nhiệm hình sự thì về mặt dân sự,
các trường hợp người chưa thành niên gây thiệt hại sẽ được giải quyết như thế nào?
Chủ thể nào sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường? Chính những boăn khoăn này đã
khơi dậy cho tác giả sự hứng thú để tìm hiểu những thắc mắc đó. Tham khảo các công
trình nghiên cứu, thì hoặc các tác giả lại có hướng nghiên cứu chung về chế định trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, hoặc đối với các công trình nghiên cứu
phạm vi hẹp hơn khoanh vùng xung quanh vấn đề bồi thường thiệt hại của người chưa
thành niên mới chỉ dừng lại ở nghiên cứu một khía cạnh nhỏ của vấn đề, hoặc nếu
nghiên cứu tổng thể về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây
thiệt hại thì mới chỉ dừng lại ở khái quát các quy định của pháp luật. Các công trình
nghiên cứu chưa cho câu trả lời thỏa mãn các thắc mắc, các vấn đề mà bản thân tác giả
quan tâm. Để giải đáp được những thắc mắc, tác giả phải đi từ gốc là nghiên cứu các
quy định của pháp luật, thực tế áp dụng các quy định ấy để tự tìm câu trả lời cho bản
thân trước tình hình đáng báo động của xã hội về suy nghĩ, xử xự của một lớp thế hệ
trẻ chưa thành niên đối với những người xung quanh và xã hội.


2

Chính vì vậy tác giả đã quyết định lựa chọn đề tài “Trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng do người chưa thành niên gây ra theo pháp luật Việt
Nam” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Dưới góc độ khoa học pháp lý, đã có rất nhiều những công trình nghiên cứu về
các vấn đề, nội dung thuộc lĩnh vực trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
Xuất phát từ nhu cầu công việc, sự quan tâm hứng thú của bản thân đối với một nội
dung nhất định trong chế định,… mà các nhà nghiên đã chọn cho mình những đề tài
nghiên cứu khác nhau.

2.1. Các bài tạp chí
- Phùng Trung Tập, “Lỗi và trách nhiệm ngoài hợp đồng. Tác giả bàn về các
hình thức lỗi ý nghĩa của việc xác định lỗi trong trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng”.
- Nguyễn Thanh Bình, “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng vài nét
về thực tiễn xét xử và hướng hoàn thiện”, Tạp chí Kiểm sát, số 5/2003, trang 14,15,16.
- Trần Thị Huệ, “Cần sửa đổi, bổ sung chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng”,Tạp chí Luật học/Số đặc san về sửa đổi, bổ sung Bộ luật dân sự/2003, trang 1217.
- Nguyễn Đức Mai, “Người giám hộ và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
người chưa thành niên gây ra”, Tạp chí Tòa án nhân dân tối cao, số 1/1998, trang 2223.
2.2. Luấn án tiến sĩ, luận văn cao học
- Lê Thị Mai Anh - Luận văn cao học - Những vấn đề cơ bản của trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng”.
- Phạm Kim Anh – Luận văn cao học- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng.
- Nguyễn Minh Thư, “Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng của cá nhân”, Luận văn thạc sĩ luật học năm 2010.
- Vũ Ngọc Chuẩn, “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên
gây ra theo pháp luật Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ luật học năm 2011. Công trình
nghiên cứu của tác giả Vũ Ngọc Chuẩn đã đưa ra được khái niệm người chưa thành
niên, trình bày các quy định của pháp luật hiện hành về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do người chưa thành niên gây ra, một số vướng mắc trong quá trình áp dụng và các
định hướng hoàn thiện như: đánh giá lại quan điểm “lỗi” trong dân sự; đề xuất xây
dựng cơ sở pháp lý cho khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa


3

thành niên gây ra để làm căn cứ cho việc nghiên cứu và áp dụng luật; đề xuất xác định
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản của người chưa thành niên dưới 15 tuổi gây
thiệt hại; và thành lập tòa án cho người chưa thành niên. Đồng thời tại thời điểm

nghiên cứu, Bộ luật dân sự năm 2005 vẫn đang được áp dụng và chưa có sự sửa đổi,
chính vì vậy mà khi nghiên cứu lẽ dĩ nhiên công trình chưa so sánh và tham khảo với
Dự thảo Bộ luật dân sự sửa đổi.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Luận văn sẽ chỉ nghiên cứu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa
thành niên gây ra trong phạm vi các quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng của Bộ luật dân sự hiện hành và các văn bản hướng dẫn thi hành.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Các phương pháp cụ thể được thực hiện để nghiên cứu đề tài bao gồm: phương
pháp phân tích, phương pháp chứng minh, phương pháp so sánh. Từ những quy định
chung và quy định riêng qua phân tích để đi đến những lập luận cho từng trường hợp,
trong quá trình phân tích có so sánh các quy định của pháp luật hiện hành với các quy
định đã tồn tại trong hệ thống pháp luật trước đây để đưa ra các đánh giá và nhận xét.
Trong khi nghiên cứu, tìm hiểu và tiến hành luận văn, sẽ cố gắng về mặt quy
định pháp luật sẽ liện hệ, tham khảo với Dự thảo bộ luật dân sự sửa đổi và tham khảo
một số vụ việc bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây thiệt hại trên thực tế.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích:
- Làm rõ cơ sở lý luận về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành
niên gây ra. Trên cơ sở đó, luận văn nghiên cứu và phát hiện những quy định bất cập, thiếu
khuyết, chưa cụ thể. Một mặt góp phần hoàn chỉnh lý luận khoa học đối với quy định của
pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra, từ lý luận
khoa học hoàn chỉnh sẽ giúp cho việc thi hành và áp dụng luật đạt hiệu quả.
- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra ở tại Việt Nam dưới hai
góc độ là điều chỉnh pháp luật và áp dụng pháp luật.
Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên đây thì đề tài phải thực hiện được các nhiệm vụ:
Làm rõ khái niệm, đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng do người chưa thành niên gây thiệt hại. Đồng thời phân tích các quy định của

pháp luật Việt Nam hiện hành về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành


4

niên gây ra dưới một số khía cạnh cụ thể. Từ đó, đánh giá thực trạng áp dụng quy định
của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra, tìm
ra những tồn tại vướng mắc và đề xuất các giải pháp khắc phục.
6. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn được chia làm 3 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Khái quát chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa
thành niên gây thiệt hại.
Chương 2: Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do người chưa thành niên gây thiệt hại.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng và định hướng hoàn thiện pháp luật về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây thiệt hại.


5

Chương1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT
HẠI DO NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN GÂY THIỆT HẠI
1.1.

Khái niệm, đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa
thành niên gây thiệt hại

1.1.1. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây
thiệt hại

Để hiểu rõ thế nào là trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên
gây thiệt hại, cần phải hiểu được các khái niệm người chưa thành niên, bồi thường
thiệt hại và trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Từ đó mới có thể đưa ra được cách hiểu
đúng đắn về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây thiệt hại.
1.1.1.1. Khái niệm người chưa thành niên
“Sinh, lão, bệnh, tử” là quy luật của tự nhiên mà con người phải tuân theo.
Cuộc đời của mỗi người đều trải qua các giai đoạn được sinh ra, trưởng thành, già nua
và chết đi. Tương ứng với mỗi giai đoạn phát triển của một người sẽ có những thuật
ngữ khác nhau để chỉ từng giai đoạn đó. Thuật ngữ người chưa thành niên là để chỉ
con người ở một giai đoạn nhất định.
Xét về mặt khoa học y học, khái niệm người chưa thành niên để chỉ nhóm đối
tượng chưa phát triển hoàn toàn về thể chất cũng như tâm sinh lý. Trong nhóm đối
tượng này có thể chia nhỏ ra thành nhiều nhóm đối tượng có đặc điểm về thể chất gần
giống nhau hơn: trẻ em và vị thành niên. Trẻ em để chỉ nhóm những đối tượng chưa
phát triển nhất về thể chất và tâm sinh lý. Trẻ em mới đang trong giai đoạn phát triển
về thể chất như thay đổi rõ nét về chiều cao, cân nặng, các hệ cơ quan trong cơ thể dần
hoàn thiện và hoạt động tốt hơn. Về tâm sinh lý, trẻ em đang trong giai đoạn học hỏi
hình thành và định hình tính cách. Quá trình phát triển của trẻ em trải qua các thời kỳ:
sơ sinh, bú mẹ, trước khi đi học, đi học và tuổi dậy thì. Ở mỗi thời kỳ, trẻ em có đặc
điểm về thể chất cũng như tâm sinh lý đặc trưng khác nhau.
Sau giai đoạn được gọi là trẻ em, con người trải qua giai đoạn vị thành niên.
“Vị thành niên” là khái niệm xuất hiện nhiều trong đời sống hàng ngày của xã hội Việt
Nam. Xét về mặt từ ngữ, “vị thành niên” là từ hán việt được ghép bởi hai tổ hợp từ là
“vị” và “thành niên”. Âm Hán Việt “vị” có nghĩa là thiếu, là chưa đầy đủ. Do đó, dịch
từ âm Hán Việt ra thì “vị thành niên” cũng có nghĩa là chưa thành niên. Tuy nhiên
trong đời sống hàng ngày, vị thành niên thường được dùng để chỉ nhóm người đã phát
triển gần hoàn thiện về thể chất và tâm lý. Ở nhóm đối tượng này, về mặt thể chất có


6


thể coi là gần hoàn thiện giống người trưởng thành, nhưng về mặt tâm sinh lý thì lại
đang ở giai đoạn không ổn định, suy nghĩ và hành vi dễ lệch lạc so với chuẩn mực
chung của xã hội; bởi người vị thành niên đang có xu hướng muốn chứng tỏ bản thân,
khẳng định cái “tôi”, trong khi lại chưa có đủ sự chín chắn để suy nghĩ và kiểm soát
hành vi của bản thân. Do vậy, người vị thành niên dễ vi phạm pháp luật hay gây thiệt
hại cho người khác thậm chí cho chính bản thân mình không phải là điều khó lý giải.
Dưới góc độ pháp lý, người chưa thành niên sẽ chưa có năng lực pháp luật đầy
đủ. Người chưa thành niên sẽ chưa có một số quyền nhất định của công dân như quyền
được bầu cử, quyền ứng cử, hay cũng chưa được tự mình tham gia vào một số giao
dịch dân sự nhất định theo quy định của từng quốc gia. Trong pháp lý đã xây dựng các
khái niệm nói trên dựa trên đặc điểm sự phát triển về thể chất và tâm thần của con
người ở mỗi giai đoạn nhất định và được cụ thể hóa bằng giới hạn độ tuổi trong các
văn bản của từng quốc gia cũng như trong các văn bản quốc tế.
Theo quy định tại Điều 1 Công ước Quốc tế về quyền trẻ em được Đại hội đồng
Liên Hợp quốc thông qua ngày 20/11/1989 có ghi: “Trong phạm vi Công ước này, trẻ
em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp pháp luật áp dụng đối với trẻ em có
quy định tuổi thành niên sớm hơn”. Trong một số văn bản, khái niệm trẻ em được gọi
là người chưa thành niên. Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về việc áp
dụng pháp luật đối với người chưa thành niên (còn gọi là Quy tắc Bắc Kinh), được Đại
hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 29/11/1985 nêu rõ: “Người chưa thành niên là
trẻ em hay người ít tuổi tùy theo từng hệ thống pháp luật có thể bị xét xử vì phạm pháp
theo một phương thức khác với việc xét xử người lớn” (Quy tắc số 2.2 mục a). Quy tắc
tối thiểu phố biến của Liên Hợp Quốc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước quyền
tự do, thông qua ngày 14/12/1990 nêu cụ thể: “Người chưa thành niên là người dưới
18 tuổi. Giới hạn tuổi dưới mức này cần phải được pháp luật xác định và không được
tước quyền tự do của người chưa thành niên” (Quy tắc 2.1 mục a). Như vậy theo các
văn bản quốc tế thì kể cả khái niệm trẻ em và khái niệm người chưa thành niên đều
giới hạn là dưới 18 tuổi, tuy nhiên chắc chắn một điều là trẻ em cũng được coi là
người chưa thành niên.

Ở một số Quốc Gia trên thế giới, độ tuổi làm mốc xác định một người được coi
là thành niên hay chưa cũng khác nhau. Phần lớn các quốc gia lấy mốc 18 tuổi để xác
định một người được coi là đã thành niên. Cũng có một số Quốc gia căn cứ vào tình
hình kinh tế- xã hội, môi trường sống của quốc gia mình, sự phát triển thực tế của dân
số mà có quy định về độ tuổi thành niên khác. Chẳng hạn ở Nhật Bản, theo Luật về


7

người chưa thành niên số 168 ngày 15/07/1948 và đã được sửa đổi qua các năm 1949,
1950, 1951, 1951, 1952, 1953, 1954, 1985, 1987, 1997, 1999 và năm 2000 thì người
chưa thành niên là người chưa đủ 20 tuổi. Hay một số Quốc gia như Cuba và Scotland
lại quy định tuổi thành niên là 16 tuổi. Ở Hàn Quốc và hai tiểu bang của Hoa Kỳ là
Alabama và Nebraska lại quy định tuổi thành niên là 19 tuổi [9].
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, tại Điều 18 của Bộ luật dân sự năm
2005 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Khóa XI, kỳ họp thứ
7 thông qua ngày 14 tháng 06 năm 2005 (Bộ luật dân sự năm 2005) quy định: “Người
từ đủ mười tám tuổi trở lên là người thành niên. Người chưa đủ mười tám tuổi là
người chưa thành niên”. Cũng theo quy định của pháp luật, người chưa thành niên sẽ
không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, chưa được tự mình xác lập các giao dịch dân
sự như đối với người đã thành niên, ngoài ra người chưa thành niên cũng bị hạn chế
một số quyền công dân như chưa được bầu cử cũng như chưa được ứng cử vào Quốc
hội và Hội đồng nhân dân.
Bên cạnh đó, Điều 1 Luật Bảo vệ, chăn sóc và giáo dục trẻ em số
25/2004/QH11 được Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua
ngày 15/06/2004 quy định: “Trẻ em quy định trong luật này là công dân Việt Nam
dưới 16 tuổi”. Vậy, theo quy định của pháp luật Việt Nam, người chưa thành niên là
người dưới 18 tuổi, trẻ em thuộc nhóm người chưa thành niên và dưới 16 tuổi.
Tóm lại, quan điểm cơ bản của chúng ta sẽ là: Người chưa thành niên là người
dưới 18 tuổi, chưa phát triển hoàn thiện về thể chất và tinh thần, chưa có đầy đủ các

quyền và nghĩa vụ pháp lý như người đã thành niên.
1.1.1.2. Khái niệm bồi thường thiệt hại và trách nhiệm bồi thường thiệt hại
Về khái niệm bồi thường thiệt hại: Theo từ điển Bách khoa Việt Nam, “thiệt
hại” là những hậu quả bất lợi ngoài ý muốn về tài sản hoặc phi tài sản do một sự kiện
hoặc một hành vi nào đó gây ra, những chi phí phải bỏ ra để ngăn chặn, hạn chế, khắc
phục thiệt hại, hư hỏng, mất mát về tài sản, thu nhập thực tế bị giảm sút hoặc bị mất.
Gồm có: thiệt hại về thể chất (sự mất mát sức khỏe, sắc đẹp, thể hình của nạn nhân do
người khác gây ra), thiệt hại về tinh thần (sự tổn thất về tinh thần do danh dự, nhân
phẩm, uy tín bị xâm phạm nhưng không dẫn đến thiệt hại về tài sản hoặc sự suy sụp về
tâm lý, tình cảm), thiệt hại về vật chất (sự mất mát hư hỏng hoặc bị hủy hoại về tài sản
do bị lấy cắp, bị phá hỏng hoặc bị phá hủy không còn khôi phục được [23].
Còn “bồi thường” được hiểu là sự bù đắp những thiệt hại về vật chất, tinh thần
do mình gây ra cho người khác do không thực hiện, thực hiện chậm, thực hiện không


8

đầy đủ một nghĩa vụ dân sự hay do vi phạm pháp luật [24]. Lắp ghép hai khái niệm
vừa nêu, có thể hiểu bồi thường thiệt hại là sự bù đắp những tổn thất về sức khỏe, tổn
thất về tinh thần do danh dự, nhân phẩm uy tín bị xâm hại, sự suy sụp tâm lý tình cảm,
sự mất mát hư hỏng về tài sản do việc chậm thực hiện nghĩa vụ, thực hiện không đúng,
không thực hiện nghĩa vụ hay do hành vi trái pháp luật gây ra.
Về khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại: khi quy định về trách nhiệm bồi
thường thệt hại trong hệ thống pháp luật của quốc gia mình, các quốc gia đều hướng
tới mục đích bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của chủ thể bị vi phạm từ hành vi vi
phạm của chủ thể gây thiệt hại. Tùy theo điều kiện kinh tế xã hội cụ thể của từng quốc
gia mà các quốc gia sẽ có những quy định riêng về trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Có thể lấy một vài ví dụ về quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của một số quốc
gia trên thế giới như:
Điều 1382 Bộ luật dân sự Pháp quy định: “Bất cứ hành vi nào của một người

gây thiệt hại cho người khác thì người đã gây thiệt hại do lỗi của mình phải bồi
thường thiệt hại”. Điều 1383 Bộ luật dân sự Pháp cũng quy định: “Mỗi người phải
chịu trách nhiệm về thiệt hại do mình gây ra, không những do hành vi mà còn do sự
cẩu thả hoặc không thận trọng” [5].
Điều 416 Bộ luật dân sự Nhật Bản thì lại có quy định: “Yêu cầu bồi thường
thiệt hại sẽ có giá trị đối với việc không thực hiện trái vụ. Trái chủ có quyền được bồi
thường cả những thiệt hại xảy ra trong những tình huống đặc biệt, nếu các bên biết
trước hoặc phải biết trước những tình huống đó” [4].
Bộ luật dân sự và thương mại Thái Lan lại có quy định tại Điều 420 như sau:
“Một người cố tình hay vô tình làm tổn thương một cách trái pháp luật đến đời sống
thân thể, sức khỏe, tự do, tài sản hoặc bất kỳ quyền nào của người khác thì bị coi là
phạm một hành vi sai trái và có nghĩa vụ bồi thường tổn thương đó” [6].
Tại Việt Nam, trong Bộ luật dân sự năm 2005, trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng được quy định tại chương XXI của Bộ luật. Điều 604 của Bộ luật dân
sự năm 2005 khẳng định: “Người nào do lỗi cố ý hoặc vô ý xâm phạm đến tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá
nhân, xâm phạm đến danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc các chủ thể khác mà
gây thiệt hại thì phải bồi thường”[17].
Từ các quy định của một số quốc gia trên thế giới đều được hiểu là một người
khi gây thiệt hại cho người khác thì giữa người gây thiệt hại và người bị thiệt hại phát
sinh quan hệ pháp luật mà người gây thiệt hại phải bồi thường cho người bị thiệt hại


9

(gọi là trách nhiệm bồi thường thiệt hại), các quy định kể trên đều hướng tới nguyên
tắc: Người gây thiệt hại phải bồi thường thiệt hại.
Như vậy, theo quan niệm pháp lý của hầu hết các quốc gia trên thế giới nói
chung và của Việt Nam nói riêng, trách nhiệm bồi thường thiệt hại là trách nhiệm dân
sự mang tính tài sản áp dụng cho người gây thiệt hại khi người đó có hành vi vi phạm

pháp luật gây thiệt hại cho người khác và phải bù đắp những tổn thất về vật chất và
tinh thần cho người bị thiệt hại.
1.1.1.3. Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây
thiệt hại
Qua những phân tích ở trên, có thể hiểu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
người chưa thành niên gây ra là trách nhiệm dân sự áp dụng cho những người dưới 18
tuổi chưa phát triển hoàn thiện về thể chất và tinh thần, chưa có đầy đủ các quyền và
nghĩa vụ pháp lý như người đã thành niên, có hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại
cho người khác và tùy từng trường hợp hoàn cảnh cụ thể người chưa thành niên hoặc
người đại diện, người giám hộ, tổ chức hoặc cá nhân đang trực tiếp quản lý người chưa
thành niên phải bù đắp những tổn thất về vật chất và tinh thần cho người bị thiệt hại.
1.1.2. Đặc điểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây
thiệt hại
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây thiệt hại cũng
thuộc nhóm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, do vậy, sẽ có các đặc
điểm cơ bản của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng như sau:
Thứ nhất, về cơ sở phát sinh trách nhiệm: trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
người chưa thành niên gây thiệt hại là một loại trách nhiệm dân sự phát sinh trên cơ sở
quy định của pháp luật.
Thứ hai, về điều kiện phát sinh trách nhiệm: trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng nói chung và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành
niên gây thiệt hại sẽ chỉ phát sinh khi có đầy đủ các điều kiện nhất định. Các điều kiện
đó bao gồm: Có thiệt hại xảy ra, có hành vi trái pháp luật, có mối quan hệ nhân quả
giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra, có lỗi. Các điều kiện vừa kể trên đã được
quy định cụ thể trong văn bản pháp luật và là căn cứ để xác định có trách nhiệm bồi
thường thiệt hại hay không.
Thứ ba, về hậu quả pháp lý: cũng như trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây thiệt hại sẽ
đem đến hậu quả bất lợi về tài sản cho người gây thiệt hại. Trong trường hợp người



10

chưa thành niên gây thiệt hại, hậu quả bất lợi về tài sản đấy sẽ do người chưa thành
niên gánh chịu nếu người chưa thành niên có tài sản riêng và từ đủ mười lăm tuổi,
hoặc cha mẹ của người chưa thành niên phải chịu hậu quả bất lợi về tài sản trong
trường hợp con chưa thành niên dưới mười lăm tuổi, trong một số trường hợp cụ thể
khác, tùy thuộc theo từng điều kiện hoàn cảnh nhất định, chủ thể chịu hậu quả bất lợi
về tài sản khi người chưa thành niên gây thiệt hại có thể không phải là bản thân người
chưa thành niên hay cha mẹ người chưa thành niên mà lại là người đang có trách
nhiệm quản lý, giám hộ,… người chưa thành niên đó.
Sở dĩ nói trách nhiệm bồi thường thiệt hại luôn đem đến một hậu quả bất lợi về
tài sản cho người gây thiệt hại (nói chung) bởi lẽ, khi một người gây ra tổn thất cho
người khác thì tổn thất đó phải tính toán được bằng tiền hoặc phải được pháp luật quy
định là một đại lượng vật chất nhất định để làm căn cứ thực hiện được việc bồi thường,
nếu thiệt hại không thể xác định hay quy định thành một đại lượng vật chất nhất định
thì việc bồi thường không thể thực hiện được. Bên cạnh đó, mặc dù những thiệt hại có
thể về tinh thần, không thể tính toán quy đổi thành tiền được nhưng cũng sẽ được pháp
luật quy định một mức xác định để bảo đảm cả những tổn thất về tinh thần mà người
bị thiệt hại đã phải gánh chịu sẽ được bù đắp.
Thứ tư, về mức bồi thường: về nguyên tắc khi người nào đó gây thiệt hại thì sẽ
phải bồi thường toàn bộ thiệt hại xảy ra. Mức bồi thường thiệt hại chỉ có thể được
giảm trong một số trường hợp đặc biệt đã được pháp luật quy định. Một trong số
những trường hợp đó là người gây thiệt hại có lỗi vô ý và thiệt hại xảy ra quá lớn so
với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của người có trách nhiệm bồi thường.
Bên cạnh các đặc điểm chung nhất của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra còn có đặc
điểm riêng thể hiện ở đặc điểm thứ năm về chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường.
Thứ năm, về chủ thể chịu trách nhiệm: về nguyên tắc chung, trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng sẽ được áp dụng cho chủ thể có hành vi gây thiệt hại.

Tuy nhiên, trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra,
ngoài việc tuân thủ theo nguyên tắc chung: người chưa thành niên sẽ phải chịu trách
nhiệm bồi thường trong trường hợp từ đủ mười lăm tuổi và có tài sản riêng, thì phạm
vi chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường cũng được mở rộng hơn. Trong những trường
hợp nhất định, trách nhiệm bồi thường thiệt hại còn áp dụng đối với cha mẹ của người
chưa thành niên, người giám hộ của người chưa thành niên, trường học trực tiếp quản
lý người chưa thành niên.


11

1.2.

Ý nghĩa quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người
chưa thành niên gây ra
Mỗi một người dân luôn được nhà nước tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi

ích hợp pháp. Khi một cá nhân hay tổ chức gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, tài
sản hay xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân, xâm phạm đến tài sản,
danh dự uy tín của tổ chức thì về nguyên tắc người gây thiệt hại phải bồi thường. Quy
định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây thiệt hại có
những ý nghĩa quan trọng nhất định trong việc đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của
cá nhân, tổ chức trong xã hội.
Thứ nhất, quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành
nên gây thiệt hại là cơ sở pháp lý cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết khi
có tranh chấp giữa người bị thiệt hại và người gây thiệt hại là người chưa thành niên.
Trong xã hội ngày càng phát triển, mọi tình huống luôn có thể xảy ra. Theo quy định
của pháp luật và thực tế cuộc sống, những người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự
hoàn toàn có khả năng nhận thức, có suy nghĩ thấu đáo và làm chủ hành vi của bản
thân mình, theo lẽ đương nhiên khi gây thiệt hại, họ sẽ có trách nhiệm bồi thường thiệt

hại cho người bị thiệt hại theo đúng quy định của pháp luật. Nhưng bên cạnh đó, có
không ít những trường hợp người chưa thành niên đã gây thiệt hại. Xét ở góc độ quy
định của pháp luật thì người chưa thành niên chưa có năng lực hành vi dân sự đầy đủ
nên chưa thể tham gia vào một số quan hệ pháp luật dân sự nhất định cũng như chịu
trách nhiệm về hành vi của chính mình. Xét ở góc độ khoa học xã hội, thể chất và tâm
sinh lý của người chưa thành niên chưa phát triển toàn diện, họ chưa thể suy nghĩ chín
chắn, ý thức được hậu quả có thể xảy ra bởi những hành vi của mình. Nhưng không có
nghĩa những hành vi vi phạm pháp luật, gây thiệt hại của người chưa thành niên có thể
đương nhiên xảy ra mà không phải gánh chịu hậu quả pháp lý nào cũng như không có
một chủ thể nào phải chịu trách nhiệm pháp lý. Tuy nhiên hướng giải quyết cho những
trường hợp này sẽ thế nào? Để giải quyết vấn đề này, chế định bồi thường thiệt hại do
người chưa thành niên gây ra đã có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo cơ sở pháp lý để
cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể giải quyết được các vụ việc người chưa thành
niên gây thiệt hại hoặc các bên chủ thể có liên quan căn cứ quy định của pháp luật mà
tự thỏa thuận đưa ra phương hướng giải quyết tranh chấp hợp lý.
Thứ hai, vì chưa hoàn toàn ý thức được hết hậu quả hành vi của mình gây ra mà
trong những trường hợp người chưa thành niên gây thiệt hại có khi hậu quả xảy ra vô
cùng to lớn, thậm chí hậu quả còn nặng nề hơn cả trường hợp người đã thành niên gây


12

thiệt hại. Những thiệt hại xảy ra đã để lại hậu quả đau lòng cho nạn nhân và có khi còn
cho cả gia đình của nạn nhân, nhà nước và xã hội. Việc bồi thường toàn bộ những thiệt
hại vật chất đã xảy ra và bù đắp phần nào những tổn thất về tinh thần cho người bị
thiệt hại, gia đình người thiệt hại ngay cả trong trường hợp người chưa thành niên gây
ra là hoàn toàn cần thiết. Vì vậy, quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
người chưa thành niên gây thiệt hại sẽ đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của
người bị thiệt hại ngay cả trong trường hợp người gây thiệt hại chưa đủ năng lực hành
vi dân sự cũng như không có khả năng bồi thường.

Thứ ba, khi thiệt hại xảy ra, người gây thiệt hại trên tinh thần tuân thủ quy định
của pháp luật sẽ tự giác bồi thường cho người bị thiệt hại trên cơ sở tự thỏa thuận giữa
hai bên. Trong trường hợp người gây thiệt hại hay người có trách nhiệm bồi thường
thiệt hại không thực hiện việc bồi thường thì bằng các thủ tục theo quy định của pháp
luật, trên cơ sở có yêu cầu của người bị thiệt hại, cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ
yêu cầu người gây thiệt hại hoặc người có trách nhiệm phải thực hiện nghĩa vụ cho
người bị thiệt hại. Từ những quy định của pháp luật và những vụ việc bồi thường thệt
hại được xét xử thực tế của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, bản thân người gây thiệt
hại, những người có quyền lợi ích liên quan, và những người được nghe được tiếp xúc,
được tuyên truyền sẽ tiếp cận, hiểu quy định của pháp luật, lấy thực tiễn áp dụng pháp
luật để làm bài học kinh nghiệm cho bản thân, cho gia đình, bạn bè của họ, con cái của
họ. Do vậy, có thể nói quy định về bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây
ra góp phần giáo dục mọi người có ý thức tuân thủ pháp luật đặc biệt là người chưa
thành niên.
Thứ tư, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây thiệt hại
giúp nâng cao nhận thức pháp luật của cha mẹ, gia đình, nhà trường về trách nhiệm
giáo dục, quản lý người chưa thành niên. Từ quy định của pháp luật, cha mẹ sẽ ý thức
được các hậu quả pháp lý mà con họ phải gánh chịu khi gây ra thiệt hại cho người
khác cũng như hậu quả pháp lý mà bản thân họ phải gánh chịu bởi từ xưa tới nay “con
dại cái mang”. Cho nên, cha mẹ sẽ luôn ý thức bổn phận và trách nhiệm của bản thân
là giáo dục con cái, định hình con phát triển lành mạnh cả về sinh lý, thể chất lẫn nhân
cách. Cha mẹ sẽ định hướng phát triển cho con, hướng cho con cái có lối suy nghĩ tích
cực, đúng đắn, từ suy nghĩ chuẩn mực đến hành động đúng mực. Bên cạnh việc định
hướng hình thành nhân cách tốt cho con, cha mẹ cũng sẽ nâng cao ý thức quản lý
chăm lo con cái để con không gây những hậu quả đáng tiếc xảy ra, giảm thiểu được
những thiệt hại không đáng có cho người khác, gia đình và xã hội.


13


1.3.

Lược sử quy định của pháp luật Việt Nam về năng lực chịu trách nhiệm bồi

thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra
Không phải ngay từ khi mới hình thành, quy định về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do người chưa thành niên gây thiệt hại đã phát triển mà theo tiến trình của lịch
sử, nó cũng trải qua các giai đoạn manh nha xuất hiện, hình thành, cũng có khi tạm
thời bị lãng quên rồi lại phát triển.
1.3.1. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra theo quy
định của Luật Hồng Đức
Luật Hồng Đức hay còn gọi là Quốc Triều hình luật được coi là đỉnh cao của
pháp luật với những giá trị đặc sắc gắn với thời đại Lê sơ ở thế kỷ XV - thời kỳ huy
hoàng của chế độ phong kiến Việt Nam. Sở dĩ được đánh giá là đỉnh cao pháp luật thời
kỳ phong kiến bởi theo các nhà sử học và luật học trong và ngoài nước thì Quốc triều
hình luật đã có những thành tựu phát triển rực rỡ không những vượt xa so với các triều
đại trước đó như Lý, Trần mà còn so với cả bộ luật được biên soạn vào đầu thế kỉ XIX
- Hoàng Việt luật lệ do vua Gia Long ban hành năm 1812, dù cùng chịu ảnh hưởng
lớn của pháp luật phong kiến Trung Quốc nhưng lại mang đậm bản sắc văn hóa Việt
Nam [15].
Dưới góc độ của khoa học luật chuyên ngành hiện đại, Quốc Triều hình luật
được đánh giá như là một bộ luật tổng hợp, tiêu biểu cho hệ thống pháp luật thời nhà
Lê bao gồm các quy định của nhiều ngành luật: Luật hành chính, Luật hình sự và tố
tụng hình sự, Luật dân sự, Luật hôn nhân và gia đình, Luật đất đai.
Tìm hiểu sâu hơn vào lĩnh vực dân sự trong Quốc triều hình luật, luật đã cơ bản
quy định về chế định sở hữu, trách nhiệm dân sự, khế ước và sở hữu [15]. Về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại, Quốc triều hình luật thường quy định gắn liền với trách
nhiệm hình sự. Ngoài việc áp dụng các hình phạt cụ thể tùy từng trường hợp, người
gây thiệt hại còn phải bồi thường thiệt hại cho người bị xâm phạm. Đặc biệt, trong bộ
luật có quy định về trách nhiệm của cha mẹ khi con gây thiệt hại. Điều 457 Quốc triều

hình luật quy định nếu các con còn ở nhà với cha mẹ mà đi ăn trộm thì cha bị xử tội
biếm, ăn cướp thì cha bị xử tội đồ; nặng thì bị xử tăng thêm tội, và đều phải bồi
thường thay con những tang vật ăn trộm, ăn cướp. Nếu con đã ở riêng, thì cha bị xử tội
phạt hay biếm, cha đã báo quan thì không phải tội, nhưng nếu cha đã báo quan rồi mà
còn để con ở nhà thì cũng bị xử như là chưa báo.
Trong Quốc triều hình luật đã ràng buộc trách nhiệm của cha mẹ với con cái
trong trường hợp con gây thiệt hai, vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, Quốc triều hình luật


14

đã dùng tiêu chí con cái có ở chung với cha mẹ hay không để xác định mức độ trách
nhiệm của cha mẹ cũng như của con cái mà không căn cứ con đã thành niên hay chưa
thành niên. Nhưng có thể thấy, quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của con
cái đã dần hình thành, quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người chưa
thành niên đã có dấu hiệu manh nha xuất hiện dù chưa được quy định rõ ràng chính
thức, nhưng đây cũng là cơ sở để quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của
người chưa thành niên hình thành và phát triển về sau này.
1.3.2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra theo quy
định của Luật Gia Long
Sau khi nhà Nguyễn được thành lập, Vua Gia Long cũng lo biên soạn luật lệ.
Vua Gia Long đã sai Tiền quân Bắc Thành Tổng trấn Nguyễn Văn Thành biên soạn bộ
Hoàng Việt Luật lệ (hay còn gọi là luật Gia Long) dưới sự chỉ đạo trực tiếp của vua.
Bộ luật được xây dựng thành 398 Điều, chia thành 22 quyển và sắp xếp theo 6 lĩnh
vực tương ứng với nhiệm vụ của 6 bộ trong triều đình, gồm các nội dung chính như
sau: Lại luật (quy định về tổ chức nhà nước và hệ thống quan lại), Hình luật (quy định
về các tội danh và hình phạt), Hộ luật (quy định về quản lý dân cư và đất đai), Lễ luật
(quy định về ngoại giao và nghi lễ cung đình), Binh luật (quy định về tổ chức quân đội
và quốc phòng), Công luật (quy định về xây dựng, bảo vệ đê điều, lăng tẩm) [12].
Trong đó, Hộ luật gồm ba quyển: quyển 6, quyển 7 và quyển 8. Quyển 6 quy định về

luật dân, việc dân, ruộng và nhà ở; quyển 7 quy định luật dân về cưới gả và quyển 8
quy định luật dân về thương khố, nộp thuế, cho vay, tiền bạc, chợ, cửa hàng [16]. Tìm
hiểu các quy định của hộ luật không thấy có quy định về bồi thường thiệt hại tài sản
của nhân dân, mà chỉ quy định các vấn đề chung nhất trong đời sống của nhân dân.
Chính vì vậy mà trong giai đoạn lưu hành và áp dụng Luật Gia Long, các quy
định về bồi thường thiệt hại của người chưa thành niên đã không có điều kiện để hình
thành và phát triển thêm một bậc mới so với thời kỳ của Luật Hồng Đức.
1.3.3. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra theo quy
định của các Bộ Dân luật.
Năm 1858 thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta và năm 1884 Pháp đã đặt
ách thống trị trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Sau khi thống trị nước ta, thực dân pháp đã
ban hành ra các bộ luật dựa trên bộ luật Napoleon nhưng có điều chỉnh cho phù hợp
với điều kiện kinh tế- xã hội và chính trị ở Việt Nam. Tại miền Bắc, Bộ dân luật Bắc
Kỳ được ban hành vào ngày 01/04/1931 và Bộ Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật (Dân luật
Trung kỳ) được ban hành áp dụng cho miền Trung vào ngày 31/10/1936.


15

Do được xây dựng dựa trên nền tảng là bộ luật Napoleon của Pháp nên về kỹ
thuật lập pháp các bộ dân luật đã có những điểm tiến bộ nhất định. Cả hai bộ dân luật
đều có quy định về chế định bồi thường thiệt hại, rõ ràng thành hai phần về trách
nhiệm dân sự theo hợp đồng và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Đối
với trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Bộ dân luật đã có những quy
định cụ thể về nguyên tắc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Điều 711 Dân
luật Bắc Kỳ và Điều 763 Dân luật Trung Kỳ quy định: “Người ta phải chịu trách
nhiệm không những tổn hại tự mình làm ra mà cả về sự tổn hại do những người mà
mình phải bảo lãnh hay những vật mà mình phải trông coi nữa…” [10]. Phần quy định
này cho thấy không những một người gây thiệt hại thì phải tự bồi thường, họ nếu là
người giám hộ (bảo lĩnh) còn có trách nhiệm bồi thường thay cho người được giám hộ

nếu người được giám hộ gây thiệt hại, bởi lẽ họ đã không thực hiện tốt nghĩa vụ giám
hộ của mình để người được giám hộ gây thiệt hại.
Quy định này của pháp luật đã tạo căn cứ để xác định trách nhiệm bồi thường
thiệt hại khi xảy ra trường hợp người chưa thành niên gây thiệt hại, bởi người chưa
thành niên trong những trường hợp nhất định thuộc nhóm đối tượng cần được giám hộ,
bảo lãnh trong quan hệ pháp luật dân sự.
1.3.4. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra theo quy
định của pháp luật Việt Nam hiện đại
Sau khi Bộ dân luật Bắc kỳ không còn được áp dụng ở miền Bắc nước ta, Tòa
án nhân dân tối cao có văn bản hướng dẫn xét xử về bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng, cụ thể là Thông tư số 173-UBTP ngày 23/03/1972 của Tòa án nhân dân tối cao
hướng dẫn xét xử về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (Thông tư số 173/UBTP).
Thông tư đã có hướng dẫn chi tiết hơn về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường
thiệt hại tại Mục A Phần II. Thông tư cũng có quy định về trường hợp trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của người vị thành niên tại điểm a tiểu mục 2 Mục B Phần II của
Thông tư. Theo đó, “Người vị thành niên không hiểu được ý nghĩa hành vi dân sự của
mình nên họ không có năng lực hành vi dân sự, do đó không phải chịu trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do họ gây ra. Vì vậy, cha me (hay người giám hộ) là những người có
nghĩa vụ nuôi nấng, giáo dục con cái (Điều 17 của Luật hôn nhân và gia đình) phải
chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do con cái còn vị thành niên gây ra.
Tuy nhiên, trong thời gian một tổ chức trách nhiệm quản lý người vị thành niên,
rõ ràng là có lỗi đối với thiệt hại xảy ra, thì tổ chức đó phải chịu trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do người vị thành niên gây nên (ví dụ: theo chủ trương của nhà


16

trường phổ thông, giáo viên dẫn học sinh đi dỡ trường cũ lấy gạch về xây thêm lớp,
giáo viên đặt kế hoạch dỡ tường không cẩn thận, học sinh dỡ đổ tường làm cho hai em
chết, một em bị thương).

Riêng người vị thành niên nào vào khoảng 16 tuổi, đã có sức lao động sản xuất,
có công việc làm, phần nào đã hiểu được ý nghĩa hành vi dân sự của mình, tuy chưa
hiểu biết đầy đủ, nên họ đã có một phần năng lực hành vi dân sự. Do đó phải chịu
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do họ gây ra bằng thu nhập hay tài sản của họ. Nếu
họ bồi thường không đủ thì cha mẹ (hay người giám hộ) phải bù phần còn thiếu”.
Ở giai đoạn này, pháp luật đã bắt đầu có những quy định cụ thể hơn về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại của người chưa thành niên. Tuy nhiên, pháp luật mới chỉ
dừng lại quy định trách nhiệm của một nhóm đối tượng hẹp hơn thuộc nhóm người
chưa thành niên- đó là người vị thành niên. Mặc dù vậy, quy định của pháp luật cũng
cho thấy nhà nước đã có những quan tâm cụ thể và có quy định pháp luật riêng để điều
chỉnh nhóm đối tượng đặc biệt này.
Theo tiến trình thời gian, pháp luật Việt Nam cũng dần hoàn thiện và có
những quy định cụ thể hơn về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành
niên gây thiệt hại. Ngày 20/01/1988 Hội đồng thẩm phán đã ra Nghị quyết số 01/NQHĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình, trong đó có
quy định về trách nhiệm bồi thường thệt hại do người chưa thành niên gây ra. Trên
tinh thần áp dụng luật Hôn nhân và gia đình, căn cứ vào trách nhiệm, vai trò của cha
mẹ đối với con cái mà đặc biệt là đối với con chưa thành niên, Điểm b Mục 4 của Nghị
quyết quy định: “ b. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của
con chưa thành niên gây ra (Điều 25).
Xuất phát từ yêu cầu là phải bảo đảm quyền lợi của người bị thiệt hại và trách nhiệm
của cha mẹ là phải giáo dục, quản lý con chưa thành niên, nên trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do hành vi trái pháp luật của con chưa thành niên gây ra như sau:
- Về nguyên tắc, cha mẹ chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp
luật của con dưới 16 tuổi gây ra. Tuy nhiên, nếu con có tài sản riêng mà cha mẹ không
có khả năng bồi thường đầy đủ hoặc không có khả năng bồi thường thì lấy tài sản của
con để bồi thường cho đủ.
- Con chưa thành niên từ 16 đến 18 tuổi mà có tài sản riêng thì phải bồi thường thiệt
hại do hành vi trái pháp luật của mình gây ra bằng tài sản riêng. Nếu tài sản riêng
của con không đủ để bồi thường hoặc không có tài sản riêng thì cha mẹ phải bồi
thường cho đủ…



17

Người chưa thành niên dưới 16 tuổi gây thiệt hại cho người khác thì cha mẹ là bị đơn,
nhưng Toà án có thể hỏi người chưa thành niên để điều tra.
Người chưa thành niên từ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi chịu trách nhiệm bồi thường bằng
tài sản riêng của mình thì họ là bị đơn, nhưng cha mẹ phải được tham gia tố tụng với
tư cách là đại diện hợp pháp của bị đơn. Nếu tài sản của con không đủ để bồi thường
thì cha mẹ là đồng bị đơn, nếu con không có tài sản thì cha mẹ là bị đơn”.
Kế thừa tư tưởng của các văn bản pháp luật trước đó, trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do người chưa thành niên gây ra đã chính thức được quy định trong Bộ luật
dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự năm 2005 chứ không chỉ dừng lại là quy định
trong Thông tư và Nghị quyết như trước đây. Quy định về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do người chưa thành niên gây ra gồm các điều luật sau đây:
Trong Bộ luật dân sự năm 1995, Điều 611 quy định về năng lực chịu trách
nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân, Điều 625. Bồi thường thiệt hại do người dưới
mười lăm tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự gây ra trong thời gian trường học,
bệnh viện, các tổ chức khác trực tiếp quản lý.
Bộ luật dân sự năm 2005 đã quy định Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của cá nhân tại Điều 606, Điều 621 quy định: Bồi thường thệt hại do người
dưới mười lăm tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự gây ra trong thời gian trường
học, bệnh viện, tổ chức khác trực tiếp quản lý. Theo đó, về nguyên tắc, khi một người
gây thiệt hại cho người khác thì phải bồi thường thiệt hại cho người đó. Tuy nhiên, khi
người chưa thành niên gây thiệt hại, tùy từng trường hợp cụ thể mà trách nhiệm bồi
thường thiệt hại sẽ thuộc một trong các trường hợp dưới đây.
Nếu người chưa thành niên dưới mười năm tuổi gây thiệt hại thì cha mẹ phải
bồi thường, nếu tài sản của cha mẹ không đủ để bồi thường thì lấy tài sản của con chưa
thành niên để bồi thường phần còn thiếu trong trường hợp con có tài sản riêng.
Nếu người chưa thành niên từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi gây

thiệt hại mà có tài sản riêng thì dùng tài sản riêng đó để bồi thường, nếu tài sản riêng
không đủ để thực hiện nghĩa vụ thì cha mẹ phải bồi thường phần còn thiếu.
Nếu người chưa thành niên có người giám hộ thì người giám hộ dùng tài sản
của người chưa thành niên để bồi thường, nếu không có tài sản hoặc tài sản không đủ
để bồi thường thì người giám hộ phải lấy tài sản của mình để bồi thường trừ trường
hợp chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ.
Nếu người chưa thành niên gây thiệt hại trong thời gian học ở trường học, thì
trường học phải bồi thường trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.


18

Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ
TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO NGƯỜI CHƯA THÀNH
NIÊN GÂY THIỆT HẠI
2.1.

Căn cứ xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên
gây ra
Mục đích của việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là

để chủ thể đã gây ra thiệt hại phải chịu những hậu quả bất lợi về tài sản, đồng thời bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại. Chính vì lẽ đó mà Điều 604 Bộ
luật dân sự năm 2005 đã khẳng định: “Người nào do lỗi cố ý hoặc vô ý xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp của cá
nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây
thiệt hại thì phải bồi thường”.
Để đảm bảo sự công bằng, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đều được bảo
vệ, trách nhiệm bồi thường thiệt hại không thể xác định một cách tùy tiện, vô căn cứ.
Theo quy định tại Mục 1 Phần I Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng

Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy
định của Bộ luật dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng (Nghị quyết
số 03/2006/NQ-HĐTP) thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng sẽ được
xác định dựa trên những căn cứ: có thiệt hại xảy ra; có hành vi trái pháp luật; có mối
quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra; có yếu tố lỗi của
người gây thiệt hại.
Cũng nằm trong phạm vi trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng,
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra cũng sẽ được xác
định dựa trên các căn cứ:
(1) Có thiệt hại xảy ra;
(2) Có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại;
(3) Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật gây thiệt hại và thiệt
hại xảy ra;
(4) Người gây thiệt hại có lỗi.
Cũng giống như trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, “lỗi” sẽ là
yếu tố quan trọng để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, nếu yếu tố
“lỗi” được khái quát trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là lỗi của
người gây thiệt hại thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây


19

ra là một trường hợp cụ thể đặc biệt. Yếu tố “lỗi” trong trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do người chưa thành niên gây ra có thể là lỗi của chính người chưa thành niên gây
thiệt hại, hoặc lỗi của cha mẹ, người giám hộ hay người quản lý người chưa thành niên
tại một thời điểm nhất định cũng sẽ là căn cứ để xem xét, xác định trách nhiệm bồi
thường thệt hại trong trường hợp người chưa thành niên gây thiệt hại. Vấn đề này sẽ
được đề cập chi tiết trong phần nội dung cụ thể tiếp theo.
2.1.1. Có thiệt hại xảy ra
Thiệt hại được coi là căn cứ quan trọng đầu tiên cần xét tới để xác định trách

nhiệm bồi thường thiệt hại có phát sinh hay không. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại
sẽ chỉ phát sinh trên cơ sở đã có thiệt hại xảy ra.
Trước đây, trong pháp luật dân sự của nước ta, cụ thể tại Thông tư số 173/UBTP
có hướng dẫn thế nào được coi là thiệt hại làm căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại. Theo đó, tại tiểu mục 1 Mục A Phần II của Thông tư đã quy định
thiệt hại được hiểu “Đó là thiệt hại về vật chất, biểu hiện cụ thể là thiệt hại về tài sản,
hoặc là những chi phí và những thu nhập bị giảm sút hay bị mất do có sự thiệt hại về
tính mạng, sức khoẻ đưa đến. Thiệt hại ấy phải thực sự đã xảy ra và có thể tính toán
được.
Tuy nhiên, đối với loại thiệt hại như: hoa màu sắp được thu hoạch một cách
tương đối chắc chắn mà bị làm hư hỏng, hay súc vật sắp đến ngày đẻ mà bị làm chết,
thì có thể xem xét thiệt hại một cách thích đáng”.
Tuy nhiên, trong xã hội ngày càng phát triển như hiện nay, không những giá trị
về vật chất được coi trọng mà những giá trị về tinh thần của con người cũng ngày càng
được xem trọng và lưu ý bảo vệ hơn. Trên tinh thần tiếp thu các quy định của văn bản
pháp luật cũ quy định thiệt hại bao gồm thiệt hại về vật chất, văn bản pháp luật hiện
hành đã mở rộng thêm phạm vi thiệt hại làm căn cứ để phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại bao gồm cả thiệt hại về tinh thần. Cụ thể tại tiểu mục 1.1 mục 1 Phần I
của Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP quy định: “Thiệt hại bao gồm thiệt hại về vật
chất và thiệt hại do tổn thất về tinh thần.
a) Thiệt hại về vật chất bao gồm: thiệt hại do tài sản bị xâm phạm quy
định tại Điều 608 BLDS; thiệt hại do sức khoẻ bị xâm phạm quy định tại khoản 1 Điều
609 BLDS; thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm quy định tại khoản 1 Điều 610 BLDS;
thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm quy định tại khoản 1 Điều 611
BLDS.


20

b) Thiệt hại do tổn thất về tinh thần của cá nhân được hiểu là do sức khoẻ, danh

dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm mà người bị thiệt hại hoặc do tính mạng bị xâm
phạm mà người thân thích gần gũi nhất của nạn nhân phải chịu đau thương, buồn
phiền, mất mát về tình cảm, bị giảm sút hoặc mất uy tín, bị bạn bè xa lánh do bị hiểu
nhầm... và cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà họ phải chịu.
Thiệt hại do tổn thất về tinh thần của pháp nhân và các chủ thể khác không
phải là pháp nhân (gọi chung là tổ chức) được hiểu là do danh dự, uy tín bị xâm phạm,
tổ chức đó bị giảm sút hoặc mất đi sự tín nhiệm, lòng tin... vì bị hiểu nhầm và cần
phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà tổ chức phải chịu”.
Từ quy định của pháp luật cho thấy, pháp luật dân sự đã mở rộng phạm vi được
coi là thiệt hại. Thiệt hại không những có thiệt hại về vật chất mà còn gồm cả thiệt hại
về tinh thần. Hơn nữa, thiệt hại tinh thần được xác định không những gồm thiệt hại
tinh thần của cá nhân mà còn cả thiệt hại tinh thần của tổ chức, pháp nhân. Như vậy,
pháp luật đã quan tâm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân mà cả quyền và
lợi ích hợp pháp của tổ chức, pháp nhân. Quy định bồi thường thiệt hại trong trường
hợp tổn thất tinh thần của pháp nhân còn góp phần nâng cao uy tín, trách nhiệm của tổ
chức, pháp nhân trong hoạt động của mình.
2.1.2

Có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại
Để đánh giá một hành vi có được coi là trái pháp luật hay không, không thể

nhìn qua "lăng kính" chủ quan đánh giá của bất kỳ cá nhân nào mà phải căn cứ vào
quy định của pháp luật, pháp luật có quy định hành vi đó là được thực hiện hay không,
quy định thực hiện như thế nào và nếu không thực hiện hoặc thực hiện như nào thì sẽ
bị coi là đã thực hiện không phù hợp với quy định của pháp luật.
Một hành vi có thể theo đánh giá của nhiều người dưới góc độ xã hội, đạo đức
thì đã bị lên án nhưng hành vi đấy nếu không được quy định trong luật là không được
thực hiện, cấm thực hiện thì cũng không thể coi là trái pháp luật. Từ trước cho tới nay,
pháp luật nước ta cũng đã có những quy định giải thích hành vi như thế nào được coi
là trái pháp luật. Trước đây, ở thời kỳ nước ta vừa mới giành độc lập, miền Bắc đang

trong giai đoạn kiến thiết và chi viện cho miền nam trong cuộc cuộc đấu tranh thống
nhất đất nước, đã có Thông tư số 173/UBTP tại tiểu mục 2 mục A phần II quy định về
hành vi trái pháp luật, theo đó, “Hành vi trái pháp luật có thể là một việc phạm pháp
về hình sự, một vi phạm pháp luật về dân sự, một vi phạm đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước, hoặc một vi phạm quy tắc sinh hoạt xã hội”. Có thể thấy: quy định
về hành vi được coi là trái pháp luật thiên về dạng liệt kê, mặc dù nằm trong văn bản


21

pháp luật dân sự nhưng những phạm pháp về hình sự, hành chính cũng được liệt kê
trong quy định này. Sở dĩ như vậy bởi đây là giai đoạn đất nước vẫn đang tập trung
vào thống nhất và xây dựng đất nước, người dân theo nếp sống của các quy tắc chung
trong xã hội và trong sự định hướng từ các chính sách của Đảng và Nhà nước.
Trong pháp luật dân sự hiện hành, hành vi trái pháp luật đã được quy định lại,
thay thế cho các văn bản pháp luật điều chỉnh cùng vấn đề trước đây. Cụ thể, tại tiểu
mục 1.2 mục 1 phần I của Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP quy định: “Hành vi trái
pháp luật là những xử sự cụ thể của con người được thể hiện thông qua hành động
hoặc không hành động trái với các quy định của pháp luật”. So với quy định trước đây
của Thông tư số 173/UBTP ngày 23/03/1972, quy định của pháp luật hiện hành đã
ngắn gọn hơn, giải thích mang tính chất khái quát hơn là liệt kê.
Từ quy định cho thấy “hành vi trái pháp luật” sẽ có hai đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, hành vi trái pháp luật phải do con người thực hiện, không thể được
thực hiện bởi một chủ thể không phải là con người. Bởi pháp luật được hình thành, xây
dựng trong xã hội loài người và áp dụng cho con người.
Khi lặp luận như vậy, không ít người sẽ phản bác rằng: như vậy trong trường hợp
tổ chức, pháp nhân có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho chủ thể khác thì không
phải bồi thường vì tổ chức, pháp nhân không phải là con người nên không thỏa mãn
điều kiện hành vi trái pháp luật được quy định tại tiểu mục 1.2 mục 1 Phần 1 của Nghị
quyết số 03/2006/NQ-HĐTP nói trên, vì vậy không đủ căn cứ phát sinh trách nhiệm

bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Đối với lập luận này, tác giả cho rằng quy định
hành vi do con người thực hiện không nên hiểu bó hẹp chỉ có thể máy móc con người
đại diện cho chính mình thực hiện hành vi. Tổ chức, pháp nhân được cấu thàn từ các
cá nhân, những con người cụ thể cùng làm việc, hoạt động nhất định theo một quy tắc
hoạt động chung. Mọi hoạt động của tổ chức, pháp nhân đều chỉ có thể thực hiện thông
qua hành vi của từng cá nhân cụ thể. Trong trường hợp tổ chức, pháp nhân có hành vi
trái pháp luật gây thiệt hại cho các chủ thể khác thì hành vi đó của tổ chức, pháp nhân
vẫn phải thông qua hành vi của cá nhân cụ thể trong tổ chức đấy. Chính vì vậy, hành
vi vi phạm pháp luật của tổ chức, pháp nhân gây thiệt hại cho chủ thể khác sẽ vẫn
thuộc hành vi vi phạm pháp luật theo quy định của Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP,
vì vậy vẫn được coi là căn cứ để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của tổ chức,
phát nhân có phát sinh hay không.
Có ý kiến khác lại cho rằng, trong trường hợp súc vật, vật nuôi gây thiệt hại thì
chủ của súc vật, vật nuôi đó không phải bồi thường vì không có hành vi trái pháp luật


×