Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

TIỂU LUẬN trình bày hoàn cảnh lịch sử ,chủ trương chiến lược mới của đảng và quá trình đảng lãnh đạo tổng khởi nghĩa giành chính quyền giai đoạn 1939 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.28 KB, 19 trang )

Câu hỏi: Trình bày hồn cảnh lịch sử ,chủ trương chiến lược mới của Đảng và quá trình Đảng lãnh đạo
tổng khởi nghĩa giành chính quyền giai đoạn 1939-1945?

Bối cảnh lịch sử
1. Hoàn cảnh quốc tế:
Từ giữa những năm 30 của thế kỉ XX, các thế lực phát xít đã bành trướng ở nhiều quốc gia.
Chúng câu kết với nhau, tiến hành chạy đua vũ trang, chuẩn bị gây chiến tranh thế giới. Ngày 25 – 11 –
1936, Đức và Nhật Bản kí kết “Hiệp ước chống Quốc tế Cộng sản”. Một năm sau, ngày 6 – 11 – 1937,
Italia tuyên bố tham gia Hiệp ước này. Trục Beclin – Rơma – Tơk hình thành. Liên minh phát xít đã mở
rộng từ Châu Âu sang Châu Á.Trong thời gian này, các cuộc chiến tranh xâm lược cục bộ đã được phát
động ở một vài khu vực. Tháng 7 – 1937, Nhật Bản mở cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn trên tồn
lãnh thổ Trung Quốc. do chính sách chống Nhật Bản tiêu cực của tập đoàn cầm quyền Tưởng Giới
Thạch, quân Nhật trong một thời gian ngắn đã được nhiều thành phố, trung tâm công nghiệp và các vị trí
đầu mối giao thơng quan trọng của Trung Quốc.
Tháng 7 – 1938, quân Nhật mở nhiều cuộc tấn công vào vùng hồ Khát-xan thuộc lãnh thổ Liên
Xơ để thăm dị. Trong khi đó, ở châu Âu, Anh và Pháp thực hiện chính sách nhượng bộ Phát xít Đức.
Ngày 29 – 8 – 1938, chính phủ hai nước này kí với Đức một hiệp ước tại Muyních (Đức), chấp nhận cho
Đức chiếm đóng Tiệp Khắc [1] với hy vọng hướng mũi tiến cơng của Đức về phía Đơng, đáng Liên
Xơ. Tháng 2 – 1939, Nhật chiếm đảo Hải Nam, phong tỏa hoàn toàn lục địa Trung Quốc. Tháng 3 – 1939,
quân Nhật tấn công vào khu vực sông Khan Khin Gôn của Mơng Cổ, khiêu khích Liên Xơ. Hồng qn
Liên Xơ phối hợp với qn Mơng Cổ tiêu diệt tồn bộ tập đoàn quân số 6 của Nhật Bản.
Ngày 23 – 8 – 1939, Liên Xơ kí với Đức hiệp ước khơng xâm phạm, để tránh rơi vào tình thế bị
tấn cơng từ hai phía Đơng và Tây, đồng thời để tranh thủ thời gian tăng cường lực lượng quốc phòng và
triệt để lợi dụng mâu thuẩn giữa hai khối đế quốc và Phát xít.
Từ 1-9-1939 đến 2-9-1945, Chiến tranh thế giới thứ hai khốc liệt diễn ra. Cuộc chiến gồm nhiều
mặt trận: mặt trận Tây Âu; mặt trận Xô - Đức; mặt trận Bắc Phi; mặt trận châu Á - Thái Bình Dương và
mặt trận trong lịng địch (của nhân dân các nước bị phát xít chiếm đóng). Trong đó, ngồi mặt trận chủ
yếu, quyết định đối với toàn bộ tiến trình của Chiến tranh thế giới thứ hai là mặt trận Xô-Đức, tác động
đến số phận của Việt Nam, là mặt trận Tây Âu (cụ thể là Pháp) và trực tiếp nhất là mặt trận châu Á-Thái
Bình Dương. Cũng trong Chiến tranh thế giới thứ hai, năm 1943, QTCS-tổ chức lãnh đạo phong trào vô
sản quốc tế đã tự giải tán, gây ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động của các ĐCS trên thế giới.


 Nước Pháp tại mặt trận Tây Âu: Ngày 10-5-1940, quân Đức tràn vào Pháp, Bỉ, Hà Lan và Lúcxăm-bua. Chỉ trong thời gian ngắn, Đức vượt qua phòng tuyến của Pháp và đầu tháng 6 đến thủ đơ Pari.
Ngày 10-6, Chính phủ Pháp bỏ Pari chạy về Tua. Nội bộ Chính phủ Pháp mâu thuẫn, trong đó đa số
thành viên Chính phủ chấp nhận đầu hàng. Ngày 17-6, Pê tanh (Pétain) lên cầm đầu chính phủ đầu hàng
phát xít Đức, Ý. Nền Cộng hịa Pháp bị thủ tiêu, thay thế bằng chế độ độc tài quân sự. Ngày 27-10-1940,
Đờ Gơn (DeGaulle) thành lập “Chính phủ Pháp tự do”, muốn dựa vào lực lượng Anh, Mỹ để giải phóng
đất nước. Mỹ và Anh vẫn chưa tham gia chiến tranh, mà theo dõi tình hình các mặt trận. Khi thấy thất bại


của Đức đã rõ ràng, Mỹ - Anh mới mở Mặt trận thứ hai, đổ bộ lên miền Bắc Pháp vào ngày 6-6-1944.
Ngày 25-8-1944, quân Đồng minh tiến vào Pari. Chính phủ lâm thời của nước Cộng hịa Pháp, do Đờ
Gôn đứng đầu, được thành lập ở Pari. Nước Pháp được giải phóng khỏi ách phát xít Đức. 
 Mặt trận Xơ-Đức: Ngày 22-06-1941, Liên Xơ chính thức bước vào cuộc chiến. Phát xít Đức mở
cuộc tấn cơng trên khắp biên giới phía Tây của Liên Xơ, dù tháng 8-1939, hai nước đã ký Hiệp ước
không xâm lược Xô-Đức.  Tháng 10-1941, Đức tập trung lực lượng mở cuộc tấn công vào Mátxcơva.
Sáng 7-11-1941, kỷ niệm lần thứ 24 ngày Cách mạng Tháng Mười, một cuộc duyệt binh đặc biệt diễn ra,
trong đó các đơn vị duyệt binh sẵn sàng vũ khí và đạn dược, diễu qua Hồng trường và tiến thẳng ra mặt
trận. Trong đó, có một trung đồn quốc tế thuộc sư đoàn cơ động đặc nhiệm của Hồng quân (gọi tắt tiếng
Nga là OMSBON) gồm hơn 2.000 người cộng sản của Bungary, Séc, Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Pháp... Trận
Stalingrad diễn ra cuối năm 1942 mở đầu cho những thất bại của phát xít Đức. Ngày 16-4-1945, Liên Xơ
tấn cơng Béclin, và chiếm toàn thành phố ngày 2-5. Ngày 9-5-1945, lễ ký kết văn kiện đầu hàng không
điều kiện của phát xít Đức được tiến hành, kết thúc cuộc chiến tranh ở châu Âu.
Mặt trận châu Á - Thái Bình Dương:  Ở châu Á, Nhật Bản sớm có dã tâm bành trướng. Tháng 91931, Nhật xâm lược miền Đông Bắc Trung Hoa, rồi dần mở rộng khu vực chiếm đóng. Tháng 11-1937,
Đức, Ý và Nhật ký Hiệp ước chống QTCS. Ngày 23-9-1940, với sự giúp đỡ của Đức, Nhật đã ký với
Chính phủ Pháp hiệp định để Nhật đưa quân đội vào Đơng Dương. Ngày 27-9-1940, ba nước phát xít lại
ký hiệp ước đồng minh quân sự và chính trị ở Béclin. Hiệp ước này nhằm chống Liên Xô, và cả Anh, Mỹ.
Hiệp ước đề ra việc phân chia thế giới: Đức, Ý ở châu Âu; Nhật ở Viễn Đông.   Ngày 7-12-1941, máy bay
Nhật oanh tạc dữ dội các tàu chiến và sân bay Mỹ ở cảng Trân Châu (Hawaii), gây tổn thất nặng cho Mỹ.
Ngày 8-12-1941, Mỹ và Anh tuyên chiến với Nhật Bản. Từ cuối năm 1941 đến tháng 5-1942 là giai đoạn
Nhật Bản thắng lớn. Anh - Mỹ bị đánh bật ra khỏi Thái Bình Dương, mất hết các thuộc địa Đông Nam Á
và Nam Thái Bình Dương. Ngày 7-12-1941, qn Nhật từ Đơng Dương kéo vào Thái Lan. Ngày 31-121941, quân Nhật tấn công Inđônêxia. Ngày 15-2-1942, Xingapo thất thủ. Đầu tháng 5-1942, quân Nhật

chiếm được tồn bộ lãnh thổ Philíppin. Đầu năm 1943, Mỹ chuyển sang phản cơng trên tồn chiến
trường, chiếm lại các quần đảo và đảo ở Thái Bình Dương.  Ngày 6-8 và ngày 9-8-1945, Mỹ ném hai quả
bom nguyên tử xuống Hirosima và Nagasaki, hủy diệt 2 thành phố này. Ngày 8-8-1945, Liên Xô tuyên
chiến với Nhật. Ngày 9-8-1945, Hồng quân Liên Xơ chính thức mở cuộc tấn cơng vào đạo quân Quan
Đông của Nhật và chỉ trong một tuần đã đánh bại đạo quân này. Ngày 15-8-1945, Nhật hoàng tuyên bố
đầu hàng các nước Đồng minh. Ngày 2-9-1945, Nhật chính thức ký văn kiện đầu hàng, Chiến tranh thế
giới thứ hai kết thúc.
Quốc tế Cộng sản tự giải tán Trong năm 1943, Quốc tế Cộng sản - tổ chức cách mạng quốc tế
lớn chỉ đạo phong trào cộng sản và cơng nhân quốc tế cũng như phong trào giải phóng dân tộc thuộc địa
- tự giải thể. Nguyên nhân là do Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra và lan rộng đã cản trở hoạt động của
Quốc tế Cộng sản. Sự khó khăn trong duy trì liên lạc với nhau cũng như đa dạng trong tình hình mỗi
nước khiến việc lãnh đạo phong trào cộng sản quốc tế từ một trung tâm duy nhất khơng cịn thích hợp
nữa. Thêm nữa, các thế lực tư bản quốc tế coi sự tồn tại của QTCS như cái cớ để trì hỗn việc triển khai


mặt trận đồng minh chống phát xít. Do nhu cầu cấp thiết phải “củng cố hơn nữa mặt trận thống nhất của
các nước”, ngày 15-51943, Ban Chấp hành QTCS đã ra quyết định giải tán QTCS.  Ngày 8-6-1943, Hội
nghị cuối cùng của Ban Chấp hành QTCS ra nghị quyết, từ 10-6-1943, tất cả hoạt động của QTCS kết
thúc. QTCS tự giải thể, ngồi ngun nhân trực tiếp là tình hình chiến tranh, cịn có căn ngun sâu xa là
tổ chức này đã hồn thành vai trị lịch sử của mình. Những sự kiện trọng đại của thế giới này có ảnh
hưởng lớn đến tình hình cách mạng ở Việt Nam.
 2. Hoàn cảnh trong nước:
Do tham dự vào Chiến tranh thế giới thứ hai, chính quyền Pháp thực thi chính sách thời chiến
một cách thô bạo ở Đông Dương. Là thuộc địa đem lại lợi ích kinh tế hàng đầu cho Pháp, trong chiến
tranh, Đông Dương càng bị thực dân Pháp bóc lột ghê gớm. Chúng thực hiện chính sách kinh tế thời
chiến, tức là chính sách “kinh tế chỉ huy” nhằm huy động tối đa sức người, sức của phục vụ chiến tranh.
Chính quyền thực dân vơ vét vàng bạc, phát hành thêm tiền giấy, ấn định giá cả, tăng thuế cũ, thêm thuế
mới, phát hành công trái, sa thải viên chức, giảm tiền lương, tăng giờ làm, bắt lính... Đã có 8 vạn lính Việt
Nam bị đưa sang Pháp. Những quyền tự do, dân chủ đã giành được trong thời kỳ 1936-1939 bị thủ tiêu.
Toàn quyền Pháp ra nghị định cấm tuyên truyền cộng sản, đóng cửa các tờ báo và nhà sản xuất, cấm

hội họp và tụ tập đơng người. Ngày 4-1-1940, Tồn quyền Đơng Dương Catơru (George Catroux) tun
bố: “Chúng ta đánh tồn diện và mau chóng vào các tổ chức cộng sản; trong cuộc đấu tranh này, phải
tiêu diệt cộng sản thì Đơng Dương mới được yên ổn và trung thành với nước Pháp. Chúng ta khơng có
quyền khơng thắng. Tình thế chiến tranh bắt buộc chúng ta hành động không chút thương tiếc”.
Đồng thời, Đông Dương cũng là mục tiêu quan trọng của Nhật Bản trong chiến lược bành
trướng. Đơng Dương có vị trí thuận lợi, phù hợp làm bàn đạp mở rộng xâm lược các nước: từ Bắc Kỳ có
thể tấn cơng vào miền Nam Trung Quốc; từ Nam Kỳ có thể sang các nước Thái Lan, Miến Điện, Ấn Độ
và vùng hải đảo Đơng Nam Á, thậm chí mở rộng tầm kiểm sốt tới các đảo phía Nam Thái Bình Dương
(Ơxtrâylia, Niu Di-lân...). Đây còn là nguồn dự trữ chiến lược quan trọng về lương thực, thực phẩm, năng
lượng và các tài nguyên khác phục vụ chiến tranh: các vựa lúa ở đồng bằng sông Cửu Long và sông
Hồng, mỏ than ở Bắc Kỳ, rừng cao su ở Nam Kỳ và Campuchia cùng các loại khống sản trải rộng trên
cả bán đảo có khả năng đáp ứng nhu cầu của quân đội Nhật.
Ngày 2 – 8 – 1940, Nhật Bản trao cho toàn quyền Đơcu một bức công hàm với nội dung: Pháp phải cho
Nhật tự do chuyển quân trên lãnh thổ Đông Dương để đánh Trung Hoa Quốc dân Đảng; được sử dụng
một số sân bay và bảo vệ những vị trí này ; Pháp phải giúp đỡ việc vận tải vũ khí và đạn dược cho qn
đội Nhật. Ngồi ra Nhật Bản đòi được hưởng những điều kiện về thương mại bình đẳng với Pháp ở
Đơng Dương. Nếu bị từ chối, Bộ ngoại giao Nhật Bản sẽ tiến vào Đông Dương.
Ngày 19 – 9 – 1940, Bộ ngoại giao Nhật bản thông báo cho đại sứ Pháp ở Tôkiô rằng, ngày 22 – 9, quân
đội Nhật sẽ vào Đông Dương dù có đạt được hiệp ước quân sự với Đơcu hay không.
Ngày 22 – 9, đại diện Pháp và Nhật đã kí kết một Hiệp ước, trong đó quy định :
    1. Quân đội Nhật được quyền sử dụng 3 sân bay lớn ở Bắc Kỳ (các sân bay Gia Lâm, Hải Phòng, Phủ
Lạng Thương). 2. Bộ tư lệnh Nhật có quyền đóng 6000 qn ở Bắc sơng Hồng. 3. Quân đội Nhật được


quyền đi qua Bắc Kì để lên đánh quân Tưởng Giới Thạch ở Vân Nam. Tổng số quân Nhật đồn trú trên
đất Đông Dương không lúc nào được quá 25.000 người. 4. Sư đoàn quân Nhật ở Quảng Tây được
quyền đi qua đồng bằng Bắc Kì để đi ra biển.
Mặc dù chính quyền thực dân Pháp ở Đơng Dương chấp nhận những đòi hỏi của Nhật, vào lúc 22 giờ
cùng ngày, Sư đoàn 5 Ngự lâm quân của Nhật do tướng Nakamura chỉ huy vượt biên giới Trung - Việt
tấn công các vị trí quân Pháp ở Đồng Đăng và Lạng Sơn. Các vị trí quân Pháp ở Na Sầm, Đồng Đăng,

Điểm He, Lộc Bình bị tiêu diệt. Ngày 24 – 9 quân Nhật tiến tới thị xã Lạng Sơn. Quân Pháp bỏ chạy về
Đồng Mỏ, và ngày 25 – 9, kéo cờ trắng xin hàng.
Ngày 25 – 9 – 1940, ở một hướng khác, qn đồn viễn chinh Đơng Dương thuộc Pháp của Nhật do
tướng Nishimura Takuma chỉ huy đổ bộ vào Đồ Sơn. Ngày hôm sau, 26 – 9, qn Nhật tiến vào chiếm
đóng Hải Phịng khơng tốn một viên đạn.
Mặc dù quân Nhật đã làm chủ Bắc Đông Dương nhưng chúng vẫn chưa thỏa mãn. Ngày 14 – 7 – 1941,
Nhật Bản đưa yêu sách cho Pháp đòi đưa quân vào Nam Đông Dương và được sử dụng ác sân bay, hải
cảng ở khu vực này. Phía pháp đã chấp thuận.
Ngày 25 – 7 – 1941, một hạm đội Nhật gồm 4 chiến hạm, 12 tuần dương hạm thả neo ở Ô Cấp (Vũng
Tàu).
Ngày 27 – 7 – 1941, tại Visi nước Pháp, đại diện của Nhật và Pháp kí hiệp ước phịng thủ chung Đơng
Dương, với những điều khoản :
1. Pháp và Nhật cùng hợp tác quân sự trong việc phịng thủ chung Đơng Dương.
2. Chính phủ Pháp đồng ý cho chính phủ Nhật những tiện nghi sau đây:
     a. Gửi qua nam Đông Dương một số lượng bộ binh, hải quân, và không Nhật cần thiết.  b. Sử dụng
như căn cứ không quân 8 điểm như: Siemreap, Phnom-Pênh, Tourane (Đà Nẵng), Nha Trang, Biên Hòa,
Sài Gịn, Sóc Trăng và Kompong Trach và căn cứ hải quân: Sài Gòn và Cam Ranh.  c. Các đơn vị Nhật
được tồn quyền thực tập và điều động khơng bị hạn chế bởi hiệp ước Nashihara – Martin (23 – 9 –
1940).  d. Chính phủ Pháp đồng ý cung cấp cho quân đội Nhật số tiền 23 triệu đồng trong tài khoản 1941,
tức là 4,5 triệu đồng một tháng. Số tiền này sẽ được bồi hoàn, hoặc bằng “yên”, hoặc bằng mỹ kim hay
vàng.
Ngày 28 – 7 – 1941, quân Nhật đổ bộ lên đất Sài Gòn. Đến cuối năm 1941 đã có 125.000 qn Nhật
đóng trên đất Đơng Dương và thực chất đã làm chủ Đông Dương, tuy trên danh nghĩa Đơng Dương vẫn
là thuộc địa của Pháp
Chính sách thống trị của phát xít Nhật ở Đơng Dương.  Đơng Dương đã bị biến thành căn cứ quân sự
của Nhật để đánh chiếm tồn Đơng Nam Á.
Về kinh tế, Nhật vẫn để hệ thống kinh tế của pháp ở Đông Dương tiếp tục hoạt động, nhưng nắm
quyền điều khiển nó. Với Hiệp định Tơkiơ ngày 6 – 5 – 1941, phía Pháp thừa nhận địa vị đặc biệt ưu đãi
của Nhật trong các quan hệ kinh tế ở Đông Dương, thực chất là Nhật độc chiếm Đông Dương.



Nhật Bản yêu cầu chính quyền thực dân Pháp để 50% giá trị nhập khẩu và 15% giá trị xuất khẩu của
Đông Dương cho các công ty thương mại cho Nhật. Ngồi ra, nhật cịn mua của Đơng Dương mănggan,
apatit, crôm, thiết, càphê,…với giá rẻ so với thị trường thế giới.
Một số công ty của Nhật cũng đầu tư vào những ngành cần cho những ngành quân sự như khai khống.
Năm 1941, tư bản Nhật ở Đơng Dương chiếm gần 50% tổng số vốn đầu tư của các công ty nước ngoài.
Tư bản Nhật đặt vốn khai thác quặng mănggan và sắt ở Thái Nguyên, phốt phát ở Lào Cai và quặng
Crơm ở Thanh Hóa.
Nhật bắt chính quyền thực dân Pháp hàng năm nộp cho chúng một khoản tiền khá lớn. Năm 1940, nộp 6
triệu đồng, năm 1941 – 58 triệu đồng, năm 1942 – 86 triệu đồng, năm 1943 – 117 triệu đồng, năm 1945 –
90 triệu đồng. Trong 4 năm 6 tháng, chính quyền thực dân Pháp phải nộp một khoản tiền là 723.786
nghìn đồng
Về quân sự, Hiệp định ngày 29 – 7 – 1941 với danh nghĩa phịng thủ chung Đơng Dương, qn
Nhật được tự do di chuyển trên khắp lãnh thổ Đông Dương không hạn chế số lượng,… Hiệp định quân
sự ngày 8 – 12 – 1941 nêu rõ chính quyền thực dân Pháp phải cung cấp các phương tiện chiến tranh,
thiết lập các căn cứ quân sự, cung cấp vật chất cho quân đội Nhật. Chính quyền thực dân Pháp phải cam
kết đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân Đông Dương, đảm bảo an ninh hậu phương cho quân
Nhật.
Trong chiến tranh, việc giao thơng vận tải có một vai trị quan trọng. Qn đội Nhật ở Đông Dương buộc
Pháp phải để chúng sử dụng mọi phương tiện giao thơng. Chúng kiểm sốt hệ thống đường sắt, các tàu
biển chở hàng có trọng tải 200.000 tấn đậu ở các cảng Đơng Dương.
Qn Nhật cịn cướp ruộng đất của nông dân để xây dựng trại lính, bắt nơng dân nhổ lúa, ngơ để trồng
đay, thầu dầu để phục vụ cho nhu cầu chiến tranh.
Về chính trị và tư tưởng, sau khi chiếm đóng Đơng Dương, bọn qn phiệt Nhật khơng lật đổ
chính quyền thực dân Pháp ở Đơng Dương mà sử dụng nó như một cơng cụ với ba mục đích: Thứ nhất,
để đàn áp phong trào cách mạng Đông Dương, giữ yên hậu phương cho quân đội Nhật; thứ hai, để vơ
vét, bóc lột sức người, sức của ở Đông Dương để phục vụ cho cuộc chiến tranh của Nhật; thứ ba, để
che dấu bộ mặt xâm lược của mình, đóng vai “người giải phóng” nhân dân Châu Á. Chính sách đó khác
với chính sách bọn Nhật thi hành ở các nước Đông Nam Á vì lợi dụng được tình hình Chính phủ Pháp đã
đầu hàng Đức.

Chính sách của quân phiệt Nhật đối với thực dân Pháp ở Đơng Dương là chính sách hai mặt. Trong khi
“cộng tác” với Pháp, Nhật Bản ra sức tuyên truyền tư tưởng Đại Đông Á, như mở các phịng thơng tin,
xuất bản tạp chí Tân Á bằng tiếng Việt, mở các cuộc triển lãm bằng tranh ảnh,… Đồng thời Nhật cũng
chú trọng xây dựng cơ sở xã hội cho mình.
Từ năm 1942, Nhật đã hồi phục các tổ chức thân Nhật ở Việt Nam bị Pháp đàn áp trong những
năm 1940 – 1941, như Phục Quốc, Cao Đài, Hịa Hảo,…giúp đỡ các nhóm Đại Việt dân chính, Đại Việt
quốc xã, Đảng Việt nam ái quốc,…dựa vào nhóm này Nhật hy vọng lúc cần thiết sẽ lật đổ chính quyền
thực dân Pháp. Với cuộc đảo chính ngày 9 – 3 – 1945, bọn thân Nhật càng hy vọng vào lời hứa hẹn Nhật


sẽ trao trả độc lập cho Việt Nam. Hàng loạt đảng phái thân Nhật xuất hiện. Chỉ riêng Bắc Kì đã có hơn 30
tổ chức thân Nhật .
Bọn thực dân Pháp ở Đông Dương một mặt cam chịu khuất phục quân Nhật, phải thực hiện các
yêu sách của Nhật, mặt khác ngấm ngầm chuẩn bị lực kượng chờ cơ hội lật lại. Chính sách của Pháp là
tranh thủ giới thượng lưu Đơng Dương và khuyến khích các nhóm hội thân Pháp hoạt động.
Dưới hai tầng áp bức của Nhật và Pháp, nhân dân Việt Nam càng bị bóc lột nặng nề hơn. Gánh
nặng lương thực, tiền bạc Nhật bắt Pháp nộp lại đổ lên đầu nhân dân. Mức nộp này mỗi năm một tăng:
năm 1941 là 558.000 tấn gạo, 58 triệu đồng; năm 1942 là 973.000 tấn gạo, 85 triệu đồng; năm 1943 là
1.023.470 tấn gạo, 117 triệu đồng; năm 1944 là 363 triệu đồng .Quân Nhật cướp ruộng đất xây dựng trại
lính, bắt nơng dân nhổ lúa trồng đay phục vụ nhu cầu chiến tranh. Tình trạng bóc lột nặng nề và kéo dài
khiến xảy ra nạn đói đầu năm 1945, làm cho gần 2 triệu người chết đói ở miền Bắc.  
Chính sách của Pháp nhằm tranh thủ giới thượng lưu ở Đông Dương, cho họ tham gia những chức vụ
quản lí và thừa hành, ràng buộc họ trung thànhvới nước Pháp. Được dịp, các nhóm thân Pháp cũng hoạt
động. Nhóm bảo hồng Phạm Quỳnh, Ngơ Đình Khơi hơ hào trở lại hiệp ước 1884, yêu cầu Pháp tăng
quyền cho vua quản quan bản xứ để chống lại bọn thân Nhật. Nhóm Nguyễn Phan Long, Bùi Quang
Chiêu, ra sức tuyên truyền khẩu hiệu “cách mạng quốc gia”, “Pháp - Việt phục hưng” của chính phủ phản
động Pêtanh.
Nhận biết rõ ràng hoạt động của Pháp nhưng vẫn làm ngơ vì chưa đến lúc cần thiết phải hành động. Đến
3 – 1945, quân Nhật lâm vào tình trạng nguy ngập ở chiến trường Thái Bình Dương, Nhật làm đảo chính
Pháp ở Đông dương để loại trừ mối hiểm họa. Từ ngày 9 – 3 – 1945, quân đội Nhật độc chiếm Đơng

Dương.
Chính sách thống trị và bóc lột của Pháp - Nhật khiến cho tình cảnh và đời sống các giai cấp, tầng lớp xã
hội ở Đông Dương thay đổi sâu sắc.:
  Giai cấp công nhân bị tước đoạt một số quyền nhân sinh, dân chủ đạt được trong thời kì Mặt trận dân
chủ 1936 – 1939. Theo nghị định của Tồn quyền Đơng Dương ngày 10 – 4 – 1939, giờ làm việc của
công nhân tăng từ 60 lên 78 giờ mỗi tuần. Tiền lương bị giảm. Một số công nhân bị sa thải hoặc thất
nghiệp, một số bị động viên đi lính phục vụ cho chiến tranh.
  Giai cấp nông dân bị sưu cao, thuế nặng. Ruộng đất của họ bị tước đoạt, tài sản bị vơ vét để phục vụ
cho chiến tranh. Họ còn phải đi phu làm ủa Mặt trận Việt Minh cũng đến được số bộ phận đảng viên cịn lại ở Nam Kì. Vì vậy, ở một
số nơi thuộc ngoại thành Sài Gòn, vùng Bà Điểm, Hc Mơn (Gia Định), Đức Hồ (Chợ Lớn), Lái Thiêu
(Thủ Dầu Một) đã xuất hiện cơ sở của Việt Minh.


Một số nơi ở Nam Kì do chưa nhận được chủ trương thành lập Mặt trận Việt Minh, cán bộ Đảng
và quần chúng yêu nước đã lập ra tổ chức quần chúng với các hình thức, như “Nhóm cơng nhân nịng
cốt”, “Hội đá banh”, “Hội đổi cơng”, “Hội tương tế”. Những tổ chức này đã góp phần vào việc bảo vệ cán
bộ, đảng viên, giữ vững tinh thần cho quần chúng trong hoàn cảnh bị khủng bố trắng.
Sau khi đã tập hợp được đông đảo quần chúng vào mặt trận Việt Minh, hướng tiếp theo của
Đảng là đưa quần chúng đấu tranh với các hình thức thích hợp. Thông qua mặt trận Việt Minh, các cấp
ủy đảng địa phương đã lãnh đạo nhiều cuộc đấu tranh của nhân dân, trên khắp các địa bàn và ngay cả
trung tâm kinh tế chính trị của địch. Đó là các cuộc đấu tranh của công nhân bến tàu Sài Gòn, công nhân
Hòn Gai, nông dân Thái Bình, công nhân nhà máy xe lửa Gia Lâm… nổi bật nhất trong thời kỳ này là
phong trào phá kho thóc để cứu đói cho nhân dân. Các cuộc đấu tranh tạo nên khí thế cách mạng mạnh
mẽ, thí thế của ngày khởi nghĩa sắp đến gần. 
Từ năm 1943 đến 1945, phong trào cách mạng phát triển ngày càng mạnh và đều khắp. Ở Bắc
Kỳ, hầu hết các đảng bộ địa phương đã lãnh đạo xây dựng được các tổ chức cứu quốc ở hầu khắp các
vùng ở nông thôn và đô thị. Tại Hà Nội, tổ chức Việt Minh được thành lập trong nhiều nhà máy, trường
học, đường phố. Nhiều cuộc bãi cơng địi tăng lương của công nhân đã nổ ra ở Hà Nội, Hải Phịng, ng
Bí, Nam Định... Phong trào đấu tranh chống nhổ lúa trồng đay, nhổ ngô trồng thầu dầu, chống bắt phu,
bắt lính, chống thu thóc tạ... lơi cuốn nơng dân tham gia ngày càng đông đảo. Phong trào Việt Minh ở các

tỉnh miền Trung cũng trên đà phát triển mạnh trong nông dân, công nhân, dân nghèo thành thị...
Ở Nam Kỳ, phong trào cách mạng phục hồi, hệ thống tổ chức đảng được xây dựng lại ở nhiều
địa phương. Tổ chức Việt Minh đã có cơ sở ở Sài Gịn, Gia Định, Tây Ninh. Hàng chục cuộc đấu tranh
của công nhân đã nổ ra tại Sài Gòn.
Phong trào thanh niên, học sinh, trí thức ở thành phố bắt đầu phát triển khiến cho bọn đế quốc phátxít
Pháp-Nhật lo sợ. Bên cạnh thủ đoạn bạo lực đàn áp, chúng tích cực dùng nhiều thủ đoạn chính trị, văn
hóa rất xảo quyệt để ngăn chặn phong trào thanh niên, trí thức. Phátxít Nhật ra sức tuyên truyền thuyết
"Đại Đông Á", thuyết "Khu vực thịnh vượng chung". Chúng mở trường dạy tiếng Nhật, tổ chức triển lãm,
chiếu phim, phát hành báo chí gây tâm lý sợ Nhật và phục Nhật.
Đảng đã đẩy mạnh hoạt động chống lại những nọc độc văn hóa tư tưởng phản động của PhápNhật và tay sai, tuyên truyền đường lối cứu nước của Đảng, cổ vũ quần chúng lên trận tuyến cách mạng.
Báo chí cách mạng là một vũ khí sắc bén trong cơng tác này. Đảng và Việt Minh cho xuất bản các
báo: Giải phóng, Cờ giải phóng, Chặt xiềng, Cứu quốc, Việt Nam độc lập, Bãi Sậy, Đuổi giặc nước, Tiền
phong, Kèn gọi lính, Qn giải phóng, Kháng địch, Độc lập, v.v.. Trong các nhà tù các chiến sĩ cách
mạng cũng cho ra báo Suối reo (Sơn La), Bình Minh (Hịa Bình), Thơng reo (Chợ Chu), Dịng sơng
Cơng (Bá Vân)...
Trên văn đàn cơng khai lúc đó xuất hiện xu hướng cải lương, bi quan, yếm thế. Một số tác phẩm tiến bộ,
thể hiện tinh thần yêu nước, nhưng chưa có phương hướng đấu tranh rõ rệt. Đảng chủ trương phái cán
bộ hoạt động trong lĩnh vực văn hóa để gây một phong trào văn hóa tiến bộ, sử dụng các hình thức cơng
khai hoặc nửa công khai để tập hợp các nhà hoạt động văn hóa, văn nghệ...


Năm 1943, Đảng đưa ra bản Đề cương văn hóa Việt Nam. Bản đề cương khẳng định văn hóa là một
trong ba mặt trận cách mạng do Đảng lãnh đạo. Nhiệm vụ của các nhà văn hóa yêu nước và cách mạng
là phải chống lại văn hóa nơ dịch, ngu dân của bọn phátxít và tay sai, tiến tới xây dựng trong tương lai
một nền văn hóa mới theo ba nguyên tắc: dân tộc, khoa học và đại chúng.
Cuối năm 1944, Hội Văn hóa cứu quốc Việt Nam ra đời, thu hút trí thức và các nhà hoạt động văn hóa
vào trận tuyến đấu tranh vì một nền văn hóa mới, vì sự nghiệp chống Pháp-Nhật, giành độc lập, tự do.
Đảng vận động và giúp đỡ một số sinh viên, trí thức yêu nước và tiến bộ thành lập Đảng Dân chủ Việt
Nam (tháng 6-1944), một chính đảng của tư sản dân tộc và trí thức yêu nước, tiến bộ. Đảng này tham gia
Mặt trận Việt Minh và tích cực hoạt động, góp phần mở rộng thêm khối đại đồn kết dân tộc, làm thất bại

âm mưu chia rẽ và lôi kéo tư sản dân tộc và trí thức của phátxít Nhật và tay sai.
Đảng cũng tăng cường công tác vận động binh lính người Việt, lính Pháp và lê dương. Từ Trung
ương đến các địa phương đều có tổ chức ban binh vận. Đảng đã cử người liên lạc với những người
thuộc phái tả của Đảng Xã hội Pháp trong quân đội lê dương, trong công chức Pháp ở Việt Nam và cả
những người Pháp thuộc phái Đờ Gôn ở Đơng Dương để thực hiện một liên minh chống phátxít. Song
do bản chất thực dân ngoan cố và sợ Nhật của những người theo phái Đờ Gôn nên chủ trương liên minh
đó của Đảng khơng có kết quả.
2. Q trình chuẩn bị về lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng.
Cùng với việc xây dựng lực lượng chính trị, Trung ương Đảng và Nguyễn Ái Quốc quan tâm xây dựng
lực lượng vũ trang cách mạng.
 Ngay từ Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (11 – 1940), Đảng ta chủ trương
phát triển Đội du kích Bắc Sơn làm vốn quân sự lâu dài của Đảng. Thực hiện chủ trương của Hội nghị
lần thứ 7 Ban chấp hành Trung Ương Đảng, Hoàng Văn Thụ đã tổ chức một cuộc họp với Ban chỉ huy
Đội du kích Bắc Sơn thành Cứu quốc quân, làm lực lượng nòng cốt xây dựng căn cứ địa Bắc Sơn – Vũ
Nhai.
Đội cứu quốc quân vừa tích cực chiến đấu, mở rộng địa bàn hoạt động,vừa phát triển lực lượng,
chuẩn bị cho ngày lễ thành lập chính thức Cứu quốc quân.
Ngày 1 – 5 – 1941, một cuộc mít tinh lớn được tổ chức trọng thể tại Khuổi Nọi (xã Vũ Lễ, châu Bắc Sơn)
kỉ niệm ngày Quốc tế lao động, đồng thời làm lễ ra mắt “Đệ nhất trung đội du kích Bắc Sơn”.Tham gia mít
tinh có đơng đảo quần chúng cách mạng thuộc nhiều dân tộc.
Sau hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung Ương Đảng, “Đệ nhất Trung đội đội du kích Bắc
Sơn” đổi tên thành “Trung đội cứu quốc quân I”.
Trung đội cứu quốc quân I lúc đầu có 32 cán bộ, chiến sĩ, gồm con em các dân tộc Tày, Nùng, Dao,
Kinh. Đây là đơn vị vũ trang chính quy đầu tiên của Đảng, ra đời trong phong trào quần chúng. Ngay sau
khi thành lập, Trung đội Cứu quốc quân I vừa tổ chức huấn luyện, vừa tham gia những hoạt động quân
sự nhằm chống khủng bố, bảo vệ dân, bảo vệ căn cứ Cách mạng.
Giữa năm 1941, thực dân Pháp huy động một lực lượng gồm 4.000 quân mở cuộc càn quét
vùng Bắc Sơn – Vũ Nhai với âm mưu tiêu diệt Cứu quốc quân, phá phong trào cách mạng. Trung đội



Cứu quốc quân I bám đất, bám dân, kiên trì chiến đấu. Sau 8 tháng chiến đấu gian khổ (từ tháng 71941đến tháng 2-1942), một bộ phận Cứu quốc quân vượt vòng vây địch, rút lên biên giới Việt-Trung.
Trên đường rút, Cứu quốc quân bị địch phục kích đã bị tổn thất lớn. Bộ phận Cứu quốc quân còn lại hoạt
động phân tán trong dân, gây dựng cơ sở chính trị, phát triển lực lượng.
Ngày 15 – 9 – 1941, Trung đội Cứu quốc quân II được thành lập tại rừng Khuôn Máy (xã Tràng
Xá, châu Vũ Nhai). Trung đội cứu quốc quân II lúc đầu có 47 chiến sĩ chia thành 5 tiểu đội. Sau khi thành
lập, Ban chỉ huy Cứu quốc quân II đã phân công các đơn vị đến các địa phương đẩy mạnh cuộc đấu
tranh chống địch khủng bố. Mục tiêu chiến đấu của Cứu quốc quân lúc này là tiêu diệt những tên mật
thám đầu sỏ, phá các cuộc hành quân càng quét của địch. Địa bàn hoạt động của Cứu quốc quân ở Thái
Nguyên, Tuyên Quang, Lạng Sơn.
Cuối tháng 10 – 1941, thực hiện chỉ thị Trung ương về việc kiện toàn lực lượng chiến đấu lâu
dài, Cứu quốc quân rút vào rừng sâu để chấn chỉnh đội ngũ.Lúc này tồn độicó khoảng 60 người, phiên
chế thành 7 tiểu đội. Sau đó, tồn Đội bước vào học tập đường lối, chính sách của Đảng, Chương trình
và Điều lệ Việt Minh, cách tổ chức các Hội Cứu Quốc, học chiến thuật du kích, các động tác quân sự cơ
bản, học 10 điều kỉ luật và 5 lời thề của Đội. Cứu quốc quân ra tờ báo Bắc Sơn, in bằng chữ Quốc ngữ,
chữ Hán, chữ Pháp để giáo dục trong nội bộ và làm tài liệu tuyên truyền trong quần chúng.
Ở Nam Kì, sau cuộc khởi nghĩa 23 – 11 – 1940, những Đảng viên còn lại lãnh đạo các đội ngũ quân tiếp
tục hoạt động diệt ác, trừ gian, tuyên truyền Cách mạng.
Tại vùng Đồng Tháp Mười, các đội nghĩa quân của các tỉnh Gia Định, Chợ Lớn, Tân An rút vào Mương
Xanh, Kinh Bo Bo, hoạt động trong một khu vực rộng lớn nằm giữa hai sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ
Tây.
Ở vùng hạ lưu sông Vàm Cỏ Tây, lực lượng du kích Mĩ Tho với hơn 100 đội viên vẫn hoạt động ở Phú
Mĩ, Tân Hồ Thành, Tân Thạch Mĩ…Du kích đã diệt nhiều tên tay sai, chỉ điểm cho giặc.
Đến giữa năm 1942, địch tập trung càn quét, hoạt động của du kích đã tạm dừng.
Tại vùng Lạc An (Tân Uyên, Biên Hoà), một đội vũ trang đã rút vào rừng thực hiện chiến tranh du kích.
Những hoạt động của các đội du kích trên tiêu biểu cho tinh thần anh dũng, bất khuất của các Đảng viên
và nhân dân Nam Kì.Trong lời kêu gọi đồng bào, các Đảng phái cách mạng và các dân tộc bị áp bức
Đông Dương, Trung Ương Đảng đã viết “Những đội du kích Nam Kì rút vào rừng sâu,sau cuộc khởi
nghĩa cuối năm ngối cũng vẫn chiến đấu không ngớt”.Thông báo “Cuộc chiến tranh Thái Bình Dương và
trách nhiệm cần kíp của Đảng”, ngày 21-12-1941, Trung ương kêu gọi: Đối với những bộ đội du kích Bắc
Sơn, Nam Kì […], các đảng bộ cần phải xem xét những điều kiện có thể mở rộng những bộ đội ấy, gây

thêm những bộ đội mới để mở rộng du kích chiến tranh. Đồng thời phải gia tăng việc cổ động ủng hộ các
bộ đội du kích về mọi phương diện.
Về phía trung tâm Cao Bằng, phong trào Việt Minh phát triển mạnh mẽ. Khu căn cứ được mở
rộng sang các tỉnh Hà Giang, Bắc Cạn, Lạng Sơn. Các đoàn xung phong Nam tiến hoạt động mạnh, phát
triển cơ sở chính trị quần chúng trong các dân tộc thiểu số, đánh thông đường liên lạc bằng một hành


lang chính trị nối liền hai khu căn cứ Cao Bằng và Bắc Sơn-Võ Nhai (cuối năm 1943), chuẩn bị cho sự ra
đời khu giải phóng Việt Bắc về sau.
Đồng thời với việc xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang. Trung ương Đảng và
Nguyễn Ái Quốc còn đẩy mạnh xây dựng căn cứ địa. Sau Hội nghị lần thứ 7 của Ban chấp hành Trung
ương, nhiều cán bộ được cử đến tăng cường cho Bắc Sơn. Khi các Trung Đội cứu quốc quân ra đời, khu
căn cứ Bắc Sơn – Vũ Nhai được củng cố và mở rộng. Từ tháng 4-1941, một vùng núi hiểm trở, rộng lớn
thuộc các xã Vũ Lễ, Vũ Lăng, Ngư Viên (châu Bắc Sơn), Lán Thượng, Tràng Xá (châu Vũ Nhai) được
nối liền với nhau, trở thành khu trung tâm của căn cứ Bắc Sơn – Vũ Nhai, trong đó vùng Khuổi Nọi (thuộc
xã Vũ Lễ) là trung tâm chính.
Vùng Khuồi Nọi được cứu quốc quân cùng lực lượng tự vệ tổ chức canh phòng, bảo vệ chặt chẽ. Trên
các ngả đường vào khu vực này đều được canh gác.Ở khu trung tâm căn cứ địa, phong trào quần chúng
diễn ra công khai. Trật tự trị an các làng bản được bảo đảm. Mọi tầng lớp nhân dân các dân tộc ở đây
đều hăng hái ủng hộ cách mạng. Các lớp huấn luyện qn sự, chính trị của Xứ uỷ Bắc Kì được tổ chức
ở Khuổi Nọi đã đào tạo nhiều cán bộ cho căn cứ Bắc Sơn – Vũ Nhai và cho cá tỉnh Lạng Sơn, Thái
Nguyên, Bắc Giang. Một trong những công việc quan trọng trong khu căn cứ địa là xây dựng các đoàn
thể Cứu quốc trong Mặt trận Việt Minh và phong trào quần chúng, đồng thời xây dựng lực lượng vũ trang
cách mạng.
Tháng 10-1941, đội du kích tập trung đầu tiên của Cao Bằng được thành lập gồm 13 người.
Nhiệm vụ của đội là bảo vệ cơ quan Đảng, bảo vệ cán bộ, xây dựng cơ sở cho lực lượng tự vệ, thực
hiện công tác đặc biệt, giao thông liên lạc. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Trung ương và Nguyễn Ái Quốc,
căn cứ địa Cao Bằng đã hình thành và từng bước phát triển vững chắc, trở thành một trung tâm lãnh đạo
phong trào cách mạng của cả nước.
Một công tác quan trọng nữa của Trung ương Đảng thực hiện trong thời gian này là xây dựng

các khu an toàn ở Hà Nội – cơ quan đầu não của địch. Từ đầu năm 1942, ban thường vụ Trung ương
lập các khu an tồn ở Đơng Anh, Yên Lãng (Phúc Yên), Từ Sơn, Gia Lâm (Bắc ninh), Hồi Đức (Hà
Đơng). Các khu an tồn này cách Hà Nội từ 10 đến 20km, sau đó Trung ương cịn xây dựng các khu an
tồn dự bị ở Hiệp Hịa (Bắc Giang), Phổ Yên, Phú Bình (Thái Nguyên). Cơ quan đầu não của Đảng
chuyển về xuôi. Ban thường vụ Trung ương bám sát Hà Nội theo dõi phong trào chung và chỉ đạo tồn
Đảng.
Sang năm 1943, tình hình thế giới có những chuyển biến lớn. Hồng qn Liên Xơ chiến thắngở
Xtalingrat, đánh dấu bước ngoặt căn bản của cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của Liên Xô. Mùa hè năm
1945, quân đội Xô Viết đập tan cuộc phản công của Hitle vịng cung ở ccxơ. Chiến thắng của Hồng
qn Liên Xơ cổ vũ manh mẽ phong trào giải phóng ở các nước thuộc địa và phụ thuộc.
Đầu năm 1943, cách mạng Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển mới. Những thay đổi của tình hình
thế giới và trong nước địi hỏi Đảng ta phải có chủ trương đẩy mạnh hơn nữa công tác chuẩn bị cho cuộc
khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.


Từ ngày 25 đến 28-2-1943, Ban thường vụ Trung ương họp ở Võng La (Đông Anh, Phúc Yên) bàn việc
mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất và xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang. Về cuộc chiến tranh thế
giới, Hội nghị nhận định: “Năm 1943 này là năm phe dân chủ sẽ đánh phe phát xít một cách quyết liệt
hơn để sửa soạn điều kiện cho bước thắng lợi cuối cùng. Dưới sức thúc đẩy mạnh mẽ của nhân dân,
Anh – Mỹ sẽ phải đánh vào Âu lục, mặt trận thứ hai sẽ phải mở. Đó là lúc Liên Xô tổng phản công đuỏi
hẳn quân Trục ra khỏi nước, phe dân chủ sẽ thừa thắng phản công Trục bên Viễn Đơng.
Chiến tranh cịn kéo dài. Nhưng những thắng lợi của Liên Xơ, sự tan rã của phát xít quốc tế và sự cùng
khổ của nhân dân các nước phát xít sẽ thúc đẩy cho cách mạng các nước bùng nổ trong nhiều nước”.
Về đặc điểm của phong trào cách mạng Đông Dương, Hội nghị nhận định:
     1. Ở Đơng Dương, Đảng cộng sản, chính đảng cách mạng của thợ thuyền, là Đảng duy nhất lãnh đạo
phong trào cách mạng. song những cuộc đấu tranh của thợ thuyền lại không được mạnh mẽ và rộng rãi
xứng đáng với vai trị lãnh đạo ấy.
     2. Với Đơng Dương hiện nay thiếu một phong trào cách mạng quốc gia tư sản và phong trào thanh
niên học sinh. Do đó, cuộc vận động cách mạng ở Đông Dương vẫn hẹp hịi, có tính cách cơng nơng hơn
là tính cách tồn dân tộc.

    3. Phong trào quần chúng đấu tranh hàng ngày tuy khơng bao gồm những hình thức biểu tình thị uy,
tổng bãi cơng…nhưng trái lại có nhiều cuộc tranh đấu vũ trang có tính cách du kích và khởi nghĩa. Nhân
dân Đông Dương cực khổ dưới hai tầng áp bức, lai được tình hình thế giới kích thích, nên phong trào
cách mnạg Đơng Dương có thể bổng chốc tiến lên bằng những bước nhảy cao.[7;290]
Vì vậy, Đảng phải xúc tiến hơn nữa công việc khởi nghĩa theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8
Ban chấp hành Trung ương, coi việc “chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của Đảng ta và dân ta
trong giai đoạn hiện tại”.
Hội nghị vạch ra một kế hoạch cụ thể về cơng việc chuẩn bị tồn diện cho cuộc khởi nghĩa vũ trang, như
tổ chức huần luyện các đội tự vệ, các tiểu tổ du kích, phổ biến kinh nghiệm về khởi nghĩa và chiến tranh
du kích qua sách báo và các lớp huấn luyện.
Nghị quyết cũng nêu rõ phải đưa quần chúng ra đấu tranh chống Nhật – Pháp áp bức, bốc lột, tăng thuế,
phá hoại hoa màu…Qua đó, rèn luỵện tập dượt họ.
Nghị quyết Hội nghị nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng lực lượng cách mạng ở thành thị, vận
động công nhân tham gia khởi nghĩa.
Thực hiện nghị quyết Hội nghị, trong các năm 1943 – 1944, ở Bắc Kì các đồn thể Việt Minh được xây
dựng và củng cố cả ở nông thôn và thành thị. Ở Hà Nội, tồ chức Việt Minh được thành lập trong nhiều
nhà máy, trường học, khu phố, nhu nhà máy xe lửa Gia Lâm, nhà máy sửa chữa ơ tơ Avia, xưởng đóng
tàu, trường Bưởi, trường Gia Long, trường kĩ nghệ thực hành…nhiều cuộc bãi cơng địi tăng lương của
công nhân nổ ra ở Hà Nội, Hải Phịng, ng bí, nam định, việt trì…
Nơng dân các tỉnh đồng bằng Bắc Kì đấu tranh chống nhổ lúa trồng đay, nhổ ngơ trồng thầu dầu, chồng
cướp thóc, cướp đất…Tổ chức Việt Minh đã phát triển ở hầu khắp các huyện.


Ở Bắc Sơn – Vũ Nhai, cứu quốc quân hoạt động mạnh mẽ gây cơ sở chính trị, mở rộng khu căn cứ ra
nhiều huyện thuộc các tỉnh Thái Nguyên, tuyên quang, vĩnh yên, phú thọ, bắc ninh, Bắc Giang…Trong
quá trình đó, lực lượng cứu quốc qn phát triển thêm một trung đội nữa – Trung đội cứu quốc quân III.
Ngày 25 – 2 – 1944, lễ thành lập trung đội cứu quốc quân III được tổ chức trọng thể tại khu rừng Khuổi
Kịch (Sơn Dương, Tuyên Quang). Trung đội có 30 cán bộ, chiến sĩ.
Ở Cao Bằng, khắp nơi trong tỉnh sôi nổi chuẩn bị khởi nghĩa, thành lập thêm các đội tự vệ vũ
trang, đội du kích, mở liên tiếp các lớp huấn luyện quân sự, chính trị…Khu căn cứ được mở rộng ra các

tỉnh Hà Giang, Bắc Cạn, Lạng Sơn.
Năm 1943, Ban Việt Minh liên tỉnh Cao – Bắc – Lạng cử ra 19 đội xung phong “Nam tiến” gặp đội “Bắc
tiến” của cứu quốc quân ở chợ Đồn (Bắc cạn). hai trung tâm căn cứ địa Bắc Sơn – Vũ Nhai đã được nối
liền với nhau bằng một hành lang chính trị, những căn cứ liên đoàn.
Để đẩy mạnh hơn nữa việc kởi nghĩa, ngày 7 – 5 – 1944, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị “Sửa soạn khởi
nghĩa”.
Ngày 10 – 8 – 1944, kêu gọi tồn dân “sắm vũ khí, đuổi thù chung”.
Đáp lại kêu gọi của Đảng và Việt Minh, nhân dân khắp nơi góp tiền mua vũ khí, ra sức huấn luyện quân
sự, củng cố và phát triển đội tự vệ.
Tháng 10 – 1944, thực dân Pháp mở cuộc càn quét lớn vào vùng Vũ Nhai (Thái Nguyên). Cấp ủy Đảng
địa phương phát động quần chúng khởi nghĩa. Cuộc khởi nghĩa nổ ra khi chưa có thời cơ, làm cho lực
lượng cách mạng bộc lộ sớm, bị cô lập và tổn thất lớn. thường vụ Trung ương Đảng đã nghiêm khắc phê
bình lãnh đạo Đảng bộ địa phương và kịp thời chỉ thị chuyển hướng hoạt động để bảo toàn lực lượng.
Cũng trong thời gian này, liên tỉnh ủy Cao – Bắc – Lạng chủ trương phát động chiến tranh du kích trong
phạm vi 3 tỉnh. Khi công việc chuẩn bị nổi dậy hồn thành, Hồ Chí Minh từ trung quốc trở lại Cao Bằng,
đã quyết định hỗn, vì kế hoạch đó “mới chỉ căn cứ vào tình hình địa phương mà chưa căn cứ vào tình
hình cụ thể trong cả nước, mới chỉ thấy bộ phận mà chưa thấy toàn cục".
Hồ Chí Minh đã nhận định: “bây giờ thời kì cách mạng hịa bình đã qua, nhưng thời kì tồn dân khởi
nghĩa chưa tới. nếu bây giờ chúng ta vẫn chỉ hoạt động bằng hình thức chính trị khơng đủ để đấy mạnh
phong trào đi tới. nhưng phát động vũ trang khởi nghĩa ngay thì quân địch sẽ tập trung đối phó. Cuộc đấu
tranh bây giờ pahỉ từ hình thức chính trị tiến lên hình thức quân sự. phải tìm ra một hình thức thích hợp
thì mới có thế đấy manh phong trào tiến lên.
Người và Trung ương Đảng ra “Chỉ thị thành lập đội Việt Nam tuyên truyền Giải Phóng qn”. Nó là đội
qn tun truyền, nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự. Đội có nhiệm vụ vũ trang tuyên truyền, vận động
nhân dân nổi dậy, gây dựng cơ sở chính trị và quân sự cho cuộc khởi nghĩa sắp tới.
Thực hiện chỉ thị này, ngày 22 – 12 1944, Võ Nguyên Giáp đứng ra thành lập đội Việt Nam tuyên truyền
giải phóng quân trong khu rừng Sau Cạo nằm giữa hai tổng Trần Hưng Đạo và Hoàng Hoa Thám (thuộc
châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng) Sau ngày thành lập, Đội xuất quân giành được chiến thắng đầu tiên,
tiêu diệt gọn hai đồn Phay Khắt và Nà Ngần (Cao Bằng) trong hai ngày 25 và 26 – 12 – 1944.





×