TÂM LÝ HỌC CHỦ NGHĨA HÀNH VI
Chủ nghĩa hành vi nảy sinh ở Mỹ và được coi là sự phản ứng chống lại
chủ nghĩa cấu trúc của V.Vunt, chủ nghĩa chức năng của E.Títtrenơ ở Mỹ.
G.Oátsơn (1878 - 1958) là người sáng lập ra trường phái này. Bài báo
với tên gọi Tâm lý học từ góc nhìn của nhà Tâm lý học hành vi vào năm 1913
được coi là sự cơng khai cơng bố khai sinh dịng Tâm lý học này.
Tâm lý học hành vi phê phán tâm lý học chủ quan ở chỗ họ (những
người theo Tâm lý học chủ quan) đã coi ý thức với cấu trúc thống nhất của nó
đều là đơn vị, những cảm giác giản đơn, còn các hiện tượng Tâm lý nhận
thức khác đều là những biểu hiện không xác định. Đối tượng nghiên cứu của
chủ nghĩa hành vi là nghiên cứu hành vi của người bằng các phương pháp
khách quan. Tâm lý học hành vi sẽ là phòng thực nghiệm của xã hội - như
Oátsơn tuyên bố.
Cơ sở triết học của chủ nghĩa hành vi là sự chắp nối giữa chủ nghĩa
thực chứng với chủ nghĩa thực dụng. Oátsơn gọi việc nghiên cứu tâm lý động
vật là trường phái Tâm lý học khách quan và tất cả các nghiên cứu trước đó
được ơng coi là phản ứng với chủ nghĩa hình thái nhân chủng học chứ không
phải là nghiên cứu tâm lý như một khoa học về ý thức. Ảnh hưởng của Tâm lý
học hành vi là các quan điểm khoa học của Páplốp và Béccherép.
Hành vi của con người theo chủ nghĩa hành vi - tất cả các cử chỉ và lời
nói đã hình thành trong cuộc sống hay bẩm sinh và là những gì con người đã
làm từ lúc sinh ra cho đến chết. Hành vi là tất cả các phản ứng (R) và sự đáp
ứng các kích thích bên ngồi (S), gián tiếp qua đó cá thể được thích nghi.
Đấy là những thay đổi của cơ trơn và cơ vân, cũng như những thay đổi của
các tuyến khi đáp ứng với kích thích. Có thể nói, khái niệm hành vi được hiểu
rất rộng, bao gồm tất cả các phản ứng (trong đó có cả sự tiết ra của các tuyến
và các phản ứng của mạch máu). Đồng thời, định nghĩa cũng cho thấy nó rất
bị thu hẹp vì hành vi chỉ hạn chế bởi những gì có thể quan sát được bên
ngoài. Từ sự phát triển trên cho thấy những cơ chế sinh lý và các quá trình
tâm lý đều bị gạt ra ngoài tầm nghiên cứu của Tâm lý học hành vi. Kết quả là
hành vi được hiểu một cách máy móc vì nó chỉ được quan tâm đến những
biểu hiện bên ngồi mà thơi.
Có hai vấn đề (nhiệm vụ) đặt ra cho Tâm lý học hành vi, đó là tích lũy
những quan sát hành vi của con người để làm sao trong mỗi trường hợp cụ
thể, khi tiếp nhận một kích thích cụ thể (hay chính xác hơn là hồn cảnh) nhà
hành vi có thể nói trước được rằng, phản ứng gì sẽ xuất hiện và nếu như
phản ứng đã xuất hiện, thì tiên lượng được tình huống nào đã dẫn đến những
phản ứng như vậy. Mọi phản ứng - hành vi được Oátsơn phân loại theo hai
tiêu chí: đó là phản ứng tiếp thu hay di truyền; phản ứng bên trong (kín) hay
phản ứng bên ngoài. Kết quả là trong hành vi được chia ra thành các phản
ứng:
- Bên ngồi hay tiếp thu nhìn thấy được (Ví dụ: chơi quần vợt, mở cửa,
v.v...).
- Bên trong và tiếp thu nhưng ở dạng dấu kín (như tư duy mà chủ nghĩa
hành vi gọi đó là ngơn ngữ bên ngồi).
- Bên ngồi và nhìn thấy được và di truyền (vỗ tay, hắt hơi, cũng như
các phản ứng khi sợ hãi, trong tình yêu...), nghĩa là những bản năng và cảm
xúc nhưng được trải nghiệm hoàn toàn khách quan theo thuật ngữ kích thích
- phản ứng.
- Bên trong dấu kín và di truyền: là phản ứng của các tuyến nội tiết, sự
thay đổi của tuần hoàn đã được nghiên cứu ở sinh lý học. Tiếp theo, Oátsơn
còn đưa ra sự phân biệt giữa phản ứng bản năng và cảm xúc. Nếu như sự
thích nghi được gọi ra bởi các kích thích có đặc điểm nội tâm, liên quan đến
cơ thể của chủ thể thì được gọi là phản ứng cảm xúc (ví dụ như đỏ mặt), cịn
nếu kích thích dẫn đến sự thích nghi của cơ thể thì được gọi là bản năng,
chẳng hạn như đưa tay ra với bắt.
Ngoài ra, khi quan sát trẻ sơ sinh, Oátsơn cịn khẳng định rằng, số
phản ứng phức tạp khơng được dạy dỗ khi mới sinh hoặc sau đó đều khơng
nhiều và khơng có khả năng đảm bảo cho sự thích nghi của hành vi với mơi
trường. Các nhà hành vi cũng khơng tìm ra được cơ sở chứng tỏ liệu có sự di
truyền của các hình thức hành vi như bò, leo trèo... hay những năng lực di
truyền như năng lực âm nhạc, năng lực cảm thụ nghệ thuật... hay không?
Thực tế, hành vi là kết quả của việc học tập, giáo dục. Điều này được thể hiện
qua lời tuyên bố của Oatsơn: hãy đưa cho ông mười hai đứa trẻ khỏe mạnh
và ông sẽ đào tạo được chúng thành những con người như mong muốn: bác
sĩ, nhà doanh nghiệp... thậm chí kẻ ăn mày, thằng ăn cắp... mà không phụ
thuộc vào tài năng, khuynh hướng, năng lực cũng như nghề nghiệp và sắc
tộc của tổ tiên của những đứa trẻ. Chính vì thế, kỹ năng và việc học tập đã trở
thành những vấn đề quan tâm của chủ nghĩa hành vi. Ngôn ngữ và tư duy các dạng của kỹ năng. Kỹ năng - đó là những hành động tiếp thu được hay
học được của cá thể. Cơ sở của kỹ năng là những cử động giản đơn hay còn
gọi là bẩm sinh. Mỗi một yếu tố mới học được trong kỹ năng là sự liên kết hay
đan lại với nhau của các cử động rời rạc dưới hình thức để có thể tiến hành
một hoạt động mới. tsơn đã mơ tả q trình hình thành kỹ năng, và xây
dựng đồ thị của việc học (trên cơ sở ví dụ về việc học bắn cung). Lúc đầu chỉ
là những cử động ngẫu nhiên, có tính thử nghiệm nên rất nhiều lỗi và chỉ sau
đó thì mới có những cử động đạt yêu cầu (trúng đích). Độ chính xác lúc đầu
cịn ở mức thấp. Việc hồn thiện diễn ra rất nhanh sau 60 lần bắn cung đầu
tiên và sau đó thì lại chậm dần. Cũng có giai đoạn khơng quan sát thấy sự
hoàn thiện; trên đồ thị những phần đó có biểu hiện là đường thẳng song song
với trục hoành. Và đồ thị được kết thúc bởi giới hạn sinh lý đặc trưng của mỗi
cá thể. Những hành động bắn trúng đích được kết nối với những biến đổi lớn
trong cơ thể, chứng tỏ chúng được đảm bảo về mặt sinh lý, nhờ đó có xu
hướng được củng cố vững vàng.
Kỹ xảo được giữ gìn trong trí nhớ. Ngược lại, với tâm thế từ chối việc
nghiên cứu của các cơ chế hành vi không quan sát được, Oátsơn đưa ra giả
thuyết về cái được gọi là nguyên tắc chế định. Khi gọi tất cả các phản ứng
bẩm sinh là phản xạ không diều kiện và các phản ứng tiếp thu được - phản xạ
có điều kiện, Oátsơn khẳng định rằng, điều kiện quan trọng nhất của sự hình
thành mối quan hệ giữa chúng là tính đồng thời trong tác động của các kích
thích có và khơng điều kiện, vì thế những kích thích ban đầu khơng gây ra
phản ứng thì giờ đây lại gọi được ra các phản xạ. Ông cũng giả định rằng,
mối liên hệ là kết quả chuyển giao hưng phấn vào các trạm trung tâm để lan
truyền đến các điểm mạnh hơn, nghĩa là kích thích khơng điều kiện. Tuy vậy,
các nhà hành vi lại khơng nghiên cứu các q trình ở trung ương mà chỉ giới
hạn trong việc quan sát về quan hệ giữa phản ứng với các kích thích mới.
Rõ ràng là quá trình hình thành kỹ năng và học tập được đề cập trong
chủ nghĩa hành vi rất máy móc. Kỹ xảo được hình thành theo con đường thử
- lỗi và là q trình khơng điều khiển được. Mặc dù vậy quan điểm của
Oátsơn đã đặt nền tảng cho một học thuyết khoa học của quá trình hình
thành các kỹ xảo vận động và học tập nói chung.
Vào giữa những năm 20 của thế kỷ XX, chủ nghĩa hành vi được phát
triển rộng ở Mỹ. Cùng thời này, các nhà nghiên cứu ngày càng thấy rõ hơn
rằng việc loại bỏ ý thức cũng không dẫn đến việc tiếp cận phù hợp trong
nghiên cứu hành vi. Thực tế cho thấy nếu như loại bỏ các thành phần động
cơ - cảm xúc của hành vi sẽ khơng lý giải được việc tích hợp các phản ứng
riêng lẻ trong các cử chỉ hay hoạt động dạng như “con người đang xây nhà,
đang bơi hay đang viết thư". Hệ quả của phép siêu hình trong tiếp cận hành vi
của con người trong chủ nghĩa hành vi là một tồn tại minh chứng tính tích cực
có ý thức của con người bị loại bỏ. Ngoài ra, những biến đổi về chất trong
hành vi ở con người cũng không được xem xét, những số liệu thu được khi
nghiên cứu trên động vật được đem ra để kết luận về con người, bởi lẽ theo
quan điểm của Oátsơn con người là một cơ thể động vật. Con người là động
vật, động vật có hành vi bằng từ ngữ.
Sự đánh đồng cái tâm lý với việc hiểu nó trong tự quan sát ở Tâm lý
học ý thức là cơ sở không rõ ràng của chủ nghĩa hành vi. Theo đánh giá của
Vưgốtxki và Rubinstêin: Việc loại trừ ý thức, cái tâm lý, thay vì để cải tổ lại
quan điểm tự quan sát của ý thức là bản chất của chủ nghĩa hành vi. Tuy vậy,
cũng cần ghi nhận sự đóng góp của dịng Tâm lý học này ở chỗ việc chuyển
sang nghiên cứu hành vi là ý muốn tiếp cận nghiên cứu các hiện tượng tâm lý
một cách khách quan. Từ đó, nhiệm vụ được đặt ra là nghiên cứu việc điều
khiển hành vi của con người, hướng các nghiên cứu khoa học vào các quan
hệ với yêu cầu của thực tiễn đặt ra. Song, do cách tiếp cận máy móc trong
nghiên cứu con người như là một cơ thể để phản ứng với việc hiện thực hóa
nhiệm vụ trên nên trong chủ nghĩa hành vi đã bộc lộ xu hướng không nhân
văn khi nhận định về con người: Sự điều khiển đồng nghĩa với việc thực thi
thao tác bởi nhân cách.
Vào năm 1913, trong thực nghiệm về các phản ứng tức thời của Hantơ
cho thấy, con vật không chỉ phản ứng trực tiếp với các kích thích mà cịn đề
xuất việc cải biến thông tin trong cơ thể. Thực sự một vấn đề mới được đặt ra
là sự cố gắng vượt qua cách tiếp cận hành vi đã bị đơn giản hóa theo sơ đồ S
- R và việc tính đến các q trình bên trong, được triển khai do ảnh hưởng
của kích thích và ảnh hưởng lên phản ứng, là những phương án khác nhau
của chủ nghĩa hành vi mới.
E.Tơnmen (1886 - 1959) là người đặt nền móng cho chủ nghĩa hành vi
mới. Trong tác phẩm Hành vi có mục đích ở con vật và con người (1932) ông
đã chỉ ra rằng, các quan sát thực nghiệm về hành vi của con vật không tương
đồng với các kiểu về hành vi của Oátsơn (mà ông gọi là học thuyết phân tử
về hành vi) theo sơ đồ S - R.
Theo Tônmen, hành vi là một động tác trọn vẹn có một loạt các thuộc
tính: tính hướng tới mục đích, tính dễ hiểu, tính linh hoạt, tính so sánh (biểu
hiện ở sự sẵn sàng lựa chọn phương tiện giải quyết mục đích bằng con
đường ngắn nhất). Việc tìm ra trong hành vi tính mục đích phản ánh quan
niệm của Tơnmen trong quan hệ với các xu hướng khác trong tâm lý học:
cơng nhận tính dung hợp của hành vi chủ nghĩa với tâm lý học Ghestan và
tâm lý học chiều sâu. Nhận thức được tính phức tạp của quyết định luận trong
hành vi, Tônmen chia ra ba dạng quyết định luận của nó, gồm:
- Các biến số độc lập (nguyên nhân khởi phát của hành vi).
- Các trạng thái sinh lý, khởi phát của cơ thể, các năng lực (hay thuộc
tính lồi của cơ thể).
- Các biến số cùng tham dự bên trong, hay mục đích và các q trình
nhận thức.
Tơnmen đã lấy các biến số cùng tham dự bên trong làm đối tượng
nghiên cứu thực nghiệm. Các khái niệm như: học tiềm tàng, thử lỗi, giả thiết...
đã đưa vào cái gọi chung là “bản đồ nhận thức". Bản đồ nhận thức - là một
cấu trúc hình thành trong não động vật, là kết quả của việc cải biến thông tin
đi vào do tác động từ bên ngồi. Đó là cấu trúc phân loại tín hiệu về quan hệ
phức tạp giữa kích thích và mục đích để xác định hành vi của con vật trong
hồn cảnh giải quyết nhiệm vụ thực tế. Tổ hợp các bản đồ như vậy cho phép
định hướng phù hợp với tình huống, với các nhiệm vụ của cuộc sống đặt ra,
thậm chí đối với cả cuốc sống của con người.. Trong thực tế, kết quả của việc
tính đến những khâu trung gian của hành vi mới cho phép xem xét được các
đặc điểm tâm lý. Những kết luận thu được từ động vật, đã được Tônmen triển
khai nghiên cứu ở người - một sự chia sẻ quan điểm sinh học hóa con người
của Oátsơn
K.Han (1884 - 1952) là người đưa ra thuyết giả thiết - diễn dịch của
hành vi do ảnh hưởng các tư tưởng của Páplốp, Tócđai và G.Oátsơn. Thực
nghiệm tiến hành chủ yếu là nghiên cứu việc học ở động vật. Thuyết của Han
khơng trù tính yếu tố ý thức, song khác với Oátsơn, thay vì sơ đồ kích thích phản ứng. Han đề cập cơng thức mà vào năm 1929 Vútvuốc đã đưa ra: kích
thích - cơ thể - phản ứng. Cơ thể ở đây là một số q trình diễn ra bên trong,
khơng nhìn thấy được. Nhưng những q trình này có thể mơ tả khách quan
tựa như kích thích và phản ứng, vì nó là kết quả của việc học tập trước đó
(hay cịn gọi là kỹ năng). Hành vi được bắt đầu bằng sự kích thích từ mơi
trường bên ngồi hay từ trạng thái nhu cầu và kết thúc bằng phản ứng. Khi
sử dụng sự phân tích Tốn học và Lơgíc học, Han đã cố gắng tìm ra mối quan
hệ giữa các biến số, kích thích và hành vi. Han cịn đề xướng các quy luật
của hành vi - đó là các định đề lý thuyết thiết lập nên mối quan hệ giữa các
biến số cơ bản quyết định hành vi. Quyết định luận chủ yếu của hành vi là
nhu cầu. Nhu cầu thúc đẩy nảy sinh tính tích cực của cơ thể và hành vi của
nó. Cường độ của phản ứng phụ thuộc vào cường độ nhu cầu. Nhu cầu quyết
định sự khác nhau trong đặc điểm của hành vi biểu hiện ở sự đáp ứng khác
nhau với những nhu cầu khác nhau. Điều kiện quan trọng để thành lập mối
quan hệ mới là sự hịa trộn của kích thích, phản ứng và củng cố làm giảm sút
nhu cầu. Như vậy, Han đã tiếp nhận quy luật hiệu quả của Tócđai. Cường độ
của các mối liên hệ phụ thuộc vào số lượng củng cố và quãng thời gian củng
cố... Han đánh giá cao vai trị của củng cố trong q trình hình thành những
liên hệ mới. Ông đã xử lý rất tỉ mỉ kết quả thực nghiệm để tìm ra sự phụ thuộc
của phản ứng với đặc điểm các kích thích bằng các cơng thức tốn học, cũng
như sự phụ thuộc vào thời gian phát ra kích thích... Các yếu tố của quá trình
học tập được bổ sung thêm một số nguyên tắc. Sự kiện quan sát được về
hành vi khác nhau của con vật ở những đoạn đường khác nhau trong mê lộ
khi hình thành kỹ năng (tốc độ chạy vịng đến ngõ cụt ở thời điểm đầu và cuối
mê lộ không giống nhau, số lỗi ở những đoạn xa mục tiêu nhiều hơn so với ở
cuối mê lộ, tốc độ di chuyển trong mê lộ thực nghiệm nhắc lại thì lớn hơn ở
cuối so với đầu đường) được coi là gradient mục đích. Như vậy, các hiện
tượng cho thấy bản chất trọn vẹn của hành vi. Trong quá trình luyện tập, con
vật ngày càng ít chạy vào các ngõ cụt hoặc có những cử động chậm dần khi
tiến gần tới đó. Giống như trong q trình hình thành phản xạ có điều kiện,
cũng có thời điểm khi thấy biểu hiện về sự nguy hiểm, ở con vật thường xuất
hiện phản ứng tự vệ, nghĩa là hành vi có lợi, hành động trên cơ sở của tín
hiệu về sự nguy hiểm.
Các thực nghiệm sử dụng tốn học để mơ tả hành vi trong hệ thống
của Han đã gây ảnh hưởng lớn đến việc soạn ra học thuyết về sự học dưới
góc độ tốn học sau này.
Một cách nhìn khác về hành vi bao gồm các cơ chế trung gian trong
cấu trúc hành vi là thuyết hành vi chủ nghĩa chủ quan của D.Milơ, Iu.Galantơ,
K.Pribram. Do ảnh hưởng của sự phát triển vi tính, tương tự với các chương
trình được cài đặt trong máy, các tác giả của thuyết hành vi chủ nghĩa chủ
quan cho rằng, bên trong cơ thể là các cơ chế, các quá trình gián tiếp giữa
phản ứng với kích thích. Họ cho rằng, hình ảnh và kế hoạch là hai yếu tố liên
kết kích thích với phản ứng. Hình ảnh là tri giác được tích lũy, được tổ chức
trong cơ thể về bản thân, về thế giới mà cơ thể đang tồn tại trong đó. Hình
ảnh là một dạng biểu tượng mà các tác giả của học thuyết về nhận thức hay
đề cập đến. Cịn kế hoạch là q trình được xây dựng kiểu thứ bậc của cơ
thể, có khả năng kiểm tra trật tự các thao tác diễn ra. Hình ảnh mang tính chất
của thơng tin, cịn kế hoạch lại đề cập đến khía cạnh algorit của tổ chức hành
vi. Hành vi là xê-ri các cử động, còn con người là một máy vi tính phức tạp.
Chiến lược của kế hoạch được xây dựng trên các lần thử nghiệm, tiến hành
trong các điều kiện đã định sẵn. Thử nghiệm (test) là cơ sở của q trình
hành vi trọn vẹn; trên cơ sở đó, các pha thao tác diễn ra chính xác. Như vậy,
trong khái niệm hành vi bao hàm cả tư tưởng về liên hệ ngược. Mỗi thao tác
được diễn ra sau khi đã thử nghiệm. Đơn vị hành vi được mô tả theo sơ đồ T
- O - T - E (test - operalion - test - exit). Sơ đồ nêu trên khẳng định rằng, mỗi
một thao tác của cơ thể diễn ra thường xuyên được điều chỉnh bởi kết quả
của các lần thử khác nhau.
Như vậy, quan điểm của thuyết hành vi chủ nghĩa chủ quan phản ánh
xu thế chung trong phát triển chủ nghĩa hành vi. Các tác giả theo chủ nghĩa
này vẫn luôn khẳng định rằng, những hiện tượng khơng nhìn thấy được là
những biến số trung gian, khơng nên hiểu như các khái niệm của tâm lý học
nội quan. Sự so sánh cơ thể tương tự với bộ máy của bộ vi tính chưa thể thỏa
mãn được vì trong máy, hình ảnh và kế hoạch là các tổ chức vật chất, hoạt
động của nó diễn ra hồn tồn tự động, trong khi đó cái tâm lý xuất hiện như
là điều kiện cần thiết thực để thi hành động của chủ thể, trong các điều kiện
mới. Tác giả của quan điểm này đã dự báo rằng, sự giải thích như trên có thể
có giá trị như các giả thiết máy móc ngu xuẩn, tuy nhiên nó phản ánh đầy đủ
và chính xác hành vi của con người. Nhìn chung, chủ nghĩa hành vi chủ quan
khi nói về hành vi vẫn bị đóng khung trong phương pháp luận hành vi máy
móc, chưa thốt ra được để đi đến việc giải thích hành vi của con người trong
thực tế cuộc sống.
B.Skinnơ là người phát triển chủ nghĩa hành vi theo hướng riêng với
thuyết hành vi tạo tác. Trên cơ sở thừa nhận và phân tích hai thành phần
trong sơ đồ S - R của Oátsơn, đối tượng nghiên cứu của hành vi con người
được ơng cho là khía cạnh hành động của nó. Dựa vào nghiên cứu thực
nghiệm cũng như phân tích lý thuyết hành vi động vật Skinnơ đã đưa ra ba
dạng của hành vi: hành vi phản xạ có điều kiện, hành vi phản xạ không điều
kiện và hành vi tạo tác. Chính hành vi cuối cùng là dạng tạo ra cái đặc thù
trong học thuyết của ông. Các dạng hành vi có điều kiện và khơng điều kiện
do các kích thích (S) gây ra gọi là phản ứng kiểu S. Chúng chỉ là một phần
xác định trong cấu thành của hành vi và chỉ dựa vào phản ứng S thơi thì
khơng có sự thích nghi với cuộc sống thực tế. Thực chất, q trình thích nghi
được cấu trúc trên cơ sở các thử nghiệm tích cực - do các tác động của con
vật lên môi trường xung quanh mà một cách ngẫu nhiên có thể dẫn đến kết
quả dương tính. Những phản ứng sinh ra khơng phải do kích thích mà do cơ
thể tự tạo ra gọi là tạo tác. Đây là phản ứng dạng R. Những phản ứng này
chiếm ưu thế trong hành vi thích nghi của con vật.
Theo Skinnơ, việc hình thành các phản ứng được lý giải bởi sự ước
chế và ông phân biệt hai loại phản ứng S và R như là cơ chế lý giải sự nảy
sinh và tăng cường phản ứng của hai dạng này. Việc phân biệt các dạng ước
chế và các dạng hành vi tương ứng đã dẫn đến việc mâu thuẫn giữa hành vi
theo phản xạ có điều kiện và hành vi tạo tác. Hành vi tạo tác được xem là loại
hành vi tích cực. Tuy nhiên, thực tế, tính tích cực được thể hiện trong hệ
thống các thử nghiệm mù quáng lộn xộn ngẫu nhiên; mà một số trong đó lại
nhận được kết quả dương tính và được củng cố. Suy ra, cơ thể ln ln
nằm trong vịng của các kích thích củng cố và chỉ có thế. Trong thực tế, q
trình thích nghi của con vật với mơi trường xung quanh là một q trình tích
cực, trên cơ sở định hướng với các khách thể bên ngoài và với các thuộc tính
của chúng, sự tương ứng với những định hướng nêu trên giúp cho hành động
được thực hiện. Thực tế tính tích cực ở con vật không phải là mù quáng như
Skinnơ đã mô tả.
Trên cơ sở phân tích hành vi, Skinnơ đưa ra thuyết về việc học tập.
Phương tiện chủ yếu để hình thành hành vi là sự củng cố. Mục đích của việc
học ở động vật có tên gọi là “sự dẫn đến các phản ứng cần thiết theo thứ tự".
Skinnơ chuyển trực tiếp các số liệu thu được trên động vật lên nghiên
cứu hành vi con người. Điều này dần dẫn đến việc sinh vật hóa con người
một cách cực đoan. Việc học tập chương trình hóa là một phương án do
Skinnơ đề ra. Tương ứng với yêu cầu, nhiệm vụ, tài liệu học tập được chia
thành các phần (các bước) nhỏ, mỗi phần học sinh đều được lĩnh hội thuần
thục, mỗi bước đều được củng cố. Để đạt được mục đích đề ra, người ta còn
sử dụng cả các phương tiện kỹ thuật. Q trình học tập được cá thể hóa. Hạn
chế trong dạy học chương trình hóa của Skinnơ là coi việc học tập là tập hợp
các cử động hành vi bên ngoài và việc củng cố những hành vi đúng, trong khi
đó lại khơng tổ chức việc học tập nhận thức của học sinh, do vậy việc học bị
mất đi tính đặc thù của một q trình có ý thức. Là một nhà hành vi chủ nghĩa,
Skinnơ cũng loại trừ yếu tố ý thức, thế giới nội tâm con người, khỏi hành vi và
hành vi hóa cái tâm lý. Các q trình tâm lý được mơ tả bằng các từ phản
ứng, củng cố, còn con người là các tồn tại phản ứng. Việc giải quyết các vấn
đề xã hội là cơ sở để Skinnơ xây, dựng lên công nghệ hành vi. Ông thừa
nhận sự tồn tại của việc kiểm tra lẫn nhau giữa người này với người khác. Do
tính chủ định, ý muốn, sự tự ý thức của người không được chú ý đến nên
phương tiện điều khiển hành vi không phải là ý thức con người mà là sự kiểm
soát của chế độ củng cố.
Như vậy, con người được hiểu như là một cái máy tự động. Cùng với
các phương pháp và phương tiện đã được soạn thảo trong tâm lý học, khoa
học về hành vi của Skinnơ đã được sử dụng để giải quyết vấn đề chính trị
của xã hội Mỹ. Nó đã trang bị cho các nhà chính trị tư sản ở các nước những
kiến thức kiểm tra hành vi con người với mục đích mơđun hóa.
Nhìn chung chủ nghĩa hành vi đã có đóng góp thực nghiệm trong
nghiên cứu hành vi, mở ra hướng nghiên cứu khách quan.