Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Tieu luan cao học phong trào cộng sản và công nhân các nước đông âu từ năm 1991 đến nay thực trạng và triển vọng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.8 KB, 28 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

2
NỘI DUNG
Chương 1

THỰC TRẠNG PHONG TRÀO CỘNG SẢN VÀ CÔNG NHÂN
Ở CÁC NƯỚC ĐÔNG ÂU TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2011
1.1. Những nét chung về phong trào cộng sản và công nhân ở các nước Đông

3

Âu sau sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu
1.2. Sự vận động của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế ở các nước

3

Đông Âu
1.3. Nhận xét, đánh giá về phong trào cộng sản và công nhân ở các nước Đông

7

Âu từ năm 1991 đến năm 2011

11
Chương 2

TRIỂN VỌNG CỦA PHONG TRÀO CÔNG NHÂN CÁC NƯỚC
ĐÔNG ÂU ĐẾN NĂM 2020 VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ RÚT RA XÂY DỰNG


GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Cơ sở dự báo về triển vọng phong trào công nhân ở các nước Đông Âu đến

13

năm 2020
2.2. Triển vọng của phong trào cộng sản và công nhân các nước Đông Âu đến

13

năm 2020
2.3. Một số vấn đề rút ra xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay

19
22

KẾT LUẬN

26

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

28

MỞ ĐẦU

1


Trong thời đại ngày nay, khoa học và công nghệ trở thành động lực

mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, làm cho lực lượng
sản xuất biến đổi một cách căn bản cả về bề rộng lẫn chiều sâu trên phạm vi
thế giới. Cách mạng khoa học và công nghệ tạo ra nhiều biến đổi sâu sắc
trong đời sống xã hội, đặc biệt là trong phương thức sản xuất của các nước
tư bản phát triển. Dưới tác động của cách mạng khoa học và công nghệ và xu
thế tồn cầu hóa, giai cấp cơng nhân trên thế giới nói chung và ở các nước
nước tư bản phát triển nói riêng có những biến động mạnh cả về số lượng và
chất lượng cũng như cơ cấu ngành, nghề, lĩnh vực hoạt động. Điều đó tác
động trực tiếp đến phong trào công nhân ở từng nước, từng khu vực và trên
phạm vi toàn thế giới; đồng thời đặt ra nhiều vấn đề mới phức tạp trong
phương thức lãnh đạo, tập hợp lực lượng của các đảng cộng sản, công nhân
quốc tế, nhất là ở các nước tư bản phát triển.
Không thể phủ nhận một sự thật là các nước tư bản phát triển chính là
cái nơi mà giai cấp công nhân đã ra đời và phát triển. Phong trào cơng nhân
và cơng đồn ở các nước này có truyền thống lâu đời nhất, tích lũy được
nhiều kinh nghiệm thực tế phong phú trong đấu tranh để tồn tại, phát triển và
hướng tới một xã hội tương lai tốt đẹp – xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Những vấn đề trên đã cho thấy, việc nghiên cứu một cách sâu sắc, tồn
diện về phong trào cộng sản và cơng nhân ở các nước Đông Âu thời kỳ sau
sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đơng Âu có ý nghĩa
cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn đối với nước ta. Vì vậy, tôi đã chọn vấn
đề “Phong trào cộng sản và công nhân các nước Đông Âu từ năm 1991
đến nay - Thực trạng và triển vọng” làm bài tiểu luận kết thúc môn học
Lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.

NỘI DUNG

2



Chương 1: THỰC TRẠNG PHONG TRÀO CỘNG SẢN VÀ
CÔNG NHÂN Ở CÁC NƯỚC ĐÔNG ÂU TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM
2011
1.1. Những nét chung về phong trào cộng sản và công nhân ở các
nước Đông Âu sau sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và
Đông Âu
Sau sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu,
một thời kỳ mới của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã đến với
nhiều thử thách, khó khăn và thời cơ thuận lợi mới.
Tình hình, xu hướng và quá trình phát triển của phong trào cộng sản
quốc tế của các Đảng Cộng sản sau năm 1991 đến nay rất đa dạng, phức tạp,
đan xen giữa những hiện tượng tiêu cực và tích cực, khơng đồng đều cả về
thời gian, quy mơ và mức độ.
Phong trào cộng sản và cánh tả ở Liên Xô cũ và Đông Âu bước đầu
phục hồi
Những biến động trong thời kì 1989-1991 ở Liên Xơ và Đơng đã
giáng một đòn nặng nề và làm tổn thất lớn đến phong trào xã hội chủ nghĩa
và phong trào cộng sản quốc tế: các Đảng Cộng sản cầm quyền ở các nước
Đơng Âu cũ hồn tồn mất hết quyền lực. Đảng Cộng sản các nước cộng hịa
thuộc Liên Xơ cũ phần nhiều bị cấm, có đảng bị tuyên bố là phi pháp, có
đảng bị đình chỉ hoạt động, có đảng trong nội bộ lại bất đồng nhau, phe phái
nổi lên, số lượng đảng viên giảm mạnh, phiếu bầu giảm hẳn; có đảng chỉ tồn
tại trên danh nghĩa… Có thể nói rằng, toàn bộ phong trào cộng sản ở khu
vực này đã rơi xuống vực sâu kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai trở lại
đây. Mấy năm gần đây, những người cộng sản kiên trì đấu tranh làm cho
phong trào cộng sản bắt đầu bước vào thời kì phục hồi.
Phong trào cộng sản cánh tả ở Liên Xô cũ
Ở khu vực Liên Xô cũ, mặc dù chủ nghĩa xã hội đã bị thất bại, song lí
tưởng cộng sản, lí tưởng xã hội chủ nghĩa vẫn chưa bị phai mờ, mà đang dần


3


dần được phục hồi trên mảnh đất này. Điều đó được biểu hiện ở những điểm
sau đây:
Thứ nhất, các Đảng Cộng sản đã khôi phục được địa vị hợp pháp và
giành được những thành tích rất lớn trong đấu tranh nghị viện, như những
đảng viên Đảng Cộng sản Nga với khí phách dũng cảm đã khởi tố “lệnh cấm
Đảng Cộng sản” của Tổng thống, làm cho Đảng Cộng sản Liên bang Nga bị
đình chỉ hoạt động nửa năm, lại khơi phục được địa vị hợp pháp vào tháng 21993. Tháng 8-1991, tại Bêlarút, Đảng của những người cộng sản Bêlarút
được thành lập. Đảng thành lập Mặt trận cánh tả và Đồn thanh niên cộng
sản Đảng đấu tranh địi bãi bỏ lệnh cấm Đảng Cộng sản và buộc Quốc hội
nước này phải bỏ lệnh này vào giữa năm 1993. Tại Ucraina, đến tháng l01993, những người cộng sản đã đấu tranh đạt được việc xóa bỏ lệnh cấm
hoạt động của Đảng Cộng sản. Sau đó là Đảng Cộng sản Mơnđơva cũng khơi
phục lại vị trí hợp pháp. Các Đảng đó đã tổng kết những nguyên nhân và bài
học về việc Liên Xơ bị tan rã, căn cứ vào tình hình của nước mình đã đề ra
những nguyên tắc và mục tiêu của mình, định ra cương lĩnh mới, bầu người
lãnh đạo mới và tích cực tham gia các hoạt động chính trị. Trong thời gian
không dài sau khi khôi phục lại được địa vị hợp pháp, Đảng Cộng sản Liên
bang Nga đã được xác lập và phát triển về tổ chức. Hiện nay đã có hơn 60
vạn đảng viên, hơn 2 vạn tổ chức cơ sở, trở thành chính đảng lớn ở Nga, ảnh
hưởng của nó ngày càng tăng. Trong cuộc bầu cử nghị viện Nga vào tháng l1993, với tỉ lệ 12,35% số phiếu được bầu, Đảng đã giành được 65 ghế trong
Đuma quốc gia và lại nổi lên trên diễn đàn chính trị. Đảng Cộng sản Ucraina
với 14 vạn đảng viên, sau khi khơi phục lại được vị trí hợp pháp (l0-1993),
Đảng đã giành được 86 ghế (trong tống số 338 ghế nghị sĩ) trong cuộc bầu
cử vào nghị viện mới của Ucraina vào tháng 3-l994, trở thành đảng đoàn
nghị sĩ lớn nhất trong nghị viện. Đảng đã cùng với Đảng Xã hội và Đảng
Nông dân lập thành Mặt trận thống nhất cánh tả, phản đối chính phủ cải cách
kinh tế cấp tiến. Những người đồng minh cánh tả trong nghị viện đã cản trở


4


kế hoạch tư hữu hóa của nhà nước và trong hàng loạt hoạt động chính trị đã
tỏ rõ sức mạnh của mình.
Thứ hai, sau khi Đảng Cộng sản Liên Xơ (cũ) bị cấm và bị tịch thu tài
sản (vào 8-1991), có một số chính đảng và tổ chức mới lấy chủ nghĩa xã hội
làm phương hướng xuất hiện và phát triển. Tại Acmênia, Đại hội bất thường
(8-1991) đã tuyên bố giải tán Đảng Cộng sản. Song, một số đảng viên, đứng
đầu là Bí thư thành ủy Êrêvan -Bađalian đã phục hồi Đảng Cộng sản
Acmênia. Đảng Cộng sản phục hồi là một trong 4 đảng lớn của đất nước.
Trong Đại hội lần thứ 3l (8-1994), Đảng Cộng sản Acmênia đã thông qua
Cương lĩnh và Điều lệ, nêu rõ mục tiêu là củng cố nền kinh tế xã hội chủ
nghĩa, thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần, khơi phục chính quyền Xô
viết, phục hồi Liên bang Xô viết trên cơ sở mới.
Ở Adécbaigian, Đảng Cộng sản tuyên bố tự giải tán vào tháng 8-1991.
Một số đảng viên cũ lập ra Đảng Xã hội chủ nghĩa và một số lực lượng khác
khôi phục lại Đảng Cộng sản, khôi phục lại con đường xã hội chủ nghĩa và
Liên bang Xô viết trên cơ sở mới. Đảng Cộng sản mới khơi phục có 60.000
đảng viên.
Tại Grudia, phong trào cộng sản bị chia rẽ thành nhiều đảng .Vùng
Ápkhadia có Đảng Cộng sản riêng, tuyên bố đi theo con đường xã hội chủ
nghĩa. Ở Grudia còn xuất hiện các đảng XHCN, Liên đoàn cộng sản. Gần
đây các tổ chức cộng sản và xã hội chủ nghĩa hợp thành Đảng Cộng sản
thống nhất Grudia. Đảng này có 132.000 đảng viên, hoạt động ở 77 (trong số
86) khu vực của đất nước.
Ở vùng Ban Tích, phong trào cộng sản gặp nhiều khó khăn. Từ đầu
1990, ở các nước này có hai Đảng Cộng sản: một theo lập trường của Đảng
Cộng sản Liên Xô và một theo lập trường dân tộc chủ nghĩa. Các đảng theo
lập trường của Đảng Cộng sản Liên Xơ bị cấm hoạt động, cịn những đảng

theo lập trường dân tộc chủ nghĩa thì chuyển thành Đảng Xã hội – dân chủ.
Tại Bêlarút, Đảng Cộng sản Bêlarút đã chủ trương đưa đất nước theo
con đường xã hội chủ nghĩa, phục hồi liên bang trên cơ sở mới.
5


Thứ ba, các Đảng Cộng sản hay các tổ chức cộng sản ở Nga và trên
mảnh đất Liên Xô trước đây đều có nguyện vọng là hướng tới liên hiệp.
Ngay từ tháng 8-1993, theo đề xướng của Đảng Công nhân cộng sản Nga tại
Masalva đã tổ chức hội nghị các chính đảng và tổ chức có khuynh hướng
cộng sản ở các khu vực thuộc Liên bang Nga, nhưng chưa thu được kết quả
như dự kiến. Tháng 1-1994, 5 tổ chức Đảng Cộng sản ở Nga đã tổ chức
thành Liên minh cộng sản Nga. Tháng 5-1994, ở ngoại ô Matxcơva đã tiến
hành cuộc gặp mặt không công khai của đại biểu các Đảng Cộng sản ở các
nước được thành lập trên lãnh thổ Liên Xô trước đây thông qua nghị quyết
tăng cường sự nhất trí của những người cộng sản. Nguyện vọng và tiến trình
hợp nhất này sẽ có lợi cho sự lớn mạnh của lực lượng Đảng Cộng sản ở khu
vực Liên Xô cũ, giúp cho phong trào chủ nghĩa xã hội ở châu Âu thoát khỏi
thoái trào.
Phong trào cộng sản và cánh tả ở Đông Âu
Từ cuối 1989, các Đảng Cộng sản cầm quyền ở các nước XHCN Đông
Âu đều thay đổi ban lãnh đạo, chiến lược, sách lược hoạt động; thay đổi cả
đường lối, cương lĩnh và điều lệ. Một số đảng tuyên bố tự giải tán (ở Ba Lan,
Anbani, Rumani), một số đảng thay đổi tên gọi (ở Bungari, Hunggari, Đông
Đức, Nam Tư). Duy nhất ở Tiệp Khắc, trong thời gian bầu sau khi mất chính
quyền, Đảng Cộng sản Tiệp Khắc vẫn giữ nguyên tên gọi. Sau những biến
đổi này, nhất là sau khi mất chính quyền, số lượng đảng viên còn đứng trên
lập trường cộng sản trước đây cịn lại khơng nhiều. Những người cộng sản
này khơng đồng ý với bất kì thay đổi nào và giữ nguyên các lập trường, quan
điểm cũ, tự tuyên bố tái lập lại các Đảng Cộng sản.

Như vậy, sau khi các Đảng Cộng sản trước đây ''thay tên đổi cờ '', ở
các nước Đông Âu xuất hiện một số Đảng Cộng sản và tổ chức lấy chủ
nghĩa xã hội làm phương hướng tiến lên, như Liên đoàn những người Cộng
sản Ba Lan với tên gọi ''vô sản'', Đảng Công nhân xã hội chủ nghĩa
Hunggari. Đảng Cộng sản mới ở Nam Tư ... Những chính đảng và tổ chức
này với lực lượng nhỏ bé và phát triển rất chậm chạp, tác dụng trong xã hội
6


cịn hạn chế, hoặc khơng có ảnh hưởng gì. Nhiệm vụ đặt ra cho các chính
đảng đó là làm thế nào vừa để kiên trì chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa xã hội lại
vừa tự phát triển nhanh chóng.
1.2. Sự vận động của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế ở
các nước Đông Âu
1.2.1. Sự điều chỉnh mục tiêu, nội dung, hình thức tập hợp lực lượng,
phương pháp đấu tranh của phong trào công nhân ở các nước Đông Âu
Về phương thức phối hợp hoạt động và tập hợp lực lượng giữa
các Đảng cộng sản – công nhân các nước Đông Âu và các lực lượng cánh
tả, tiến bộ thời kỳ từ 1991 đến nay, có thể thấy một số điểm chủ yếu sau:
Thứ nhất: Các Đảng cộng sản – công nhân đều quan tâm tăng cường
đối ngoại đảng, điều chỉnh về chiến lược và sách lược nhằm mở rộng quan
hệ song phương, cũng như đa phương, trong đó đặt ra việc tăng cường với
các đảng cánh tả.
Ở các nước SNG và Đông Âu, các đảng cộng sản – cơng nhân có
khuynh hướng mềm dẻo hơn về sách lược, bắt tay hợp tác với các đảng cánh
tả trong nước trước những sinh hoạt chính trị quan trọng như bầu cử quốc
hội, bầu cử tổng thống...
Thứ hai: Quá trình tập hợp lực lượng trong phong trào cộng sản công
nhân ở các nước Đông Âu những năm qua đã và đang sử dụng có hiệu quả
phương thức kết hợp đa phương với song phương nhằm tạo lập sự phối hợp

hoạt động đa dạng theo từng vấn đề, từng lĩnh vực. Trong đó, các diễn đàn
đa phương ở mọi quy mơ, cấp độ ngày càng có xu hướng mở rộng, đóng góp
quan trọng vào việc tăng cường sức mạnh chung cho phong trào.
Thứ ba: Phương thức hiệp thương, đối thoại thẳng thắn, dân chủ trong
quá trình xác định nội dung, tìm kiếm hình thức tập hợp lực lượng của phong
trào cộng sản công nhân ở các nước Đông Âu trở thành vấn đề mang tính
nguyên tắc chung được các đảng cộng sản – công nhân thừa nhận và vận
dụng. Rút bài học từ quá khứ, mọi phương thức áp đặt trong phối hợp hoạt
động, tập hợp lực lượng được hạn chế và loại bỏ. Các đảng tham gia tập hợp
lực lượng trên cơ sở độc lập tự chủ, tự nguyện, tôn trọng lẫn nhau, không
7


can thiệp vào nội bộ của nhau, bình đẳng khơng để xảy ra tình trạng có
“đảng lãnh đạo”, “đảng trung tâm” và “đảng bị lãnh đạo”.
Thứ tư: Trong quá trình tập hợp lực lượng, các đảng cộng sản – công
nhân ở các nước Đông Âu những năm qua đã bước đầu sử dụng ngày càng
nhiều hình thức mới trên cơ sở tận dụng được những tiến bộ của cuộc cách
mạng khoa học - công nghệ, cũng như một số thiết chế dân chủ tư sản nhằm
tăng cường hiệu quả phối hợp và tập hợp lực lượng. Trong đó đáng chú ý là
việc thông qua mạng Internet để trao đổi thông tin, phối hợp hành động. Các
đảng cộng sản – công nhân lập những Website riêng và giới thiệu cho các
đảng cộng sản và cánh tả khác cùng truy cập, để nắm tình hình hoạt động
chung của phong trào, hoặc cũng có thể đưa tin, trao đổi ý kiến, tài liệu về
những vấn đề cùng quan tâm.
Về lực lượng đấu tranh: Khơng chỉ có giai cấp cơng nhân như trước
đây, mà cịn có sự tham gia của phần lớn thanh niên và tầng lớp trung lưu
của xã hội. Ở các lực lượng này, họ tự xây dựng tiêu chí, tơn chỉ, mục đích,
thậm chí là cả chi phí tài chính cho đấu tranh.
Về quy mô đấu tranh: Các phong trào ở lực lượng này khá rộng, nó

khơng bị bó hẹp mà có thể diễn ra trong phạm vi một quốc gia, một khu vực,
thậm chí quy mơ có thể phát triển trên toàn thế giới.
Về mục tiêu đấu tranh: Mục tiêu đấu tranh cũng hết sức đa dạng,
mục tiêu này không chỉ gói gọn trong vấn đề đấu tranh chống chiến tranh
xâm lược, bảo vệ hịa bình, địi tăng lương, cải thiện đời sống... mà còn đấu
tranh chống mặt trái của vấn đề tồn cầu hóa, chống chủ nghĩa tự do mới,
đòi dân sinh, dân chủ, phát triển, tiến bộ xã hội, cơng bằng, bình đẳng giới,
bảo vệ mơi trường, bảo vệ người nhập cư...
1.2.2. Một số cuộc đấu tranh tiêu biểu của công nhân và lao động ở
các nước Đông Âu
Một là, Phong trào phối hợp đấu tranh chống áp bức, bóc lột tư bản
chủ nghĩa, chống chính sách tự do kinh tế mới của chủ nghĩa đế quốc.
Đây là một phong trào quan trọng trong phối hợp hành động, tập hợp
lực lượng giữa các đảng cộng sản – công nhân và các lực lượng cánh tả
trong từng nước cũng như trên phạm vi toàn thế giới. Trên thực tế, các đảng
8


cộng sản – công nhân ở các nước Đông Âu và lực lượng cánh tả đã phối hợp
cùng nhau tổ chức những cuộc biểu tình, tuần hành lớn ở nhiều nơi trên thế
giới mỗi khi có các cuộc họp cấp cao của Diễn đàn Đavớt, WB, IMF, WTO...
Tại đó, các chính sách kinh tế tự do mới, các hình thức áp bức bóc lột tinh vi
nhưng nặng nề người lao động bị lên án, vạch trần.
Một trong những biểu hiện sinh động trong nỗ lực đoàn kết và tập hợp
lực lượng của các đảng cộng sản – công nhân và cánh tả ở các nước tư bản
phát triển và các nước Đơng Âu là sự tham gia tích cực Đại hội quần chúng
phản đối thất nghiệp tổ chức ở Pari (15/5/1996). Những nội dung chủ yếu
của cuộc mít tinh bao gồm: tố cáo mạnh mẽ nạn thất nghiệp, những chính
sách tự do mới của Hiệp ước Mastrich; khẳng định sự cần thiết phải đoàn kết
giữa các đảng và các lực lượng cánh tả tiến bộ,…

Hai là, Phong trào phối hợp đấu tranh chống chiến tranh, chống
cường quyền đế quốc bảo vệ hồ bình thế giới.
Những cuộc biểu dương lực lượng, mít tinh, biểu tình của giai cấp
cơng nhân, nhân dân lao động đã được tổ chức ở cấp độ khu vực và châu lục
phản đối chiến tranh Côxôvô chống Nam tư, chiến tranh Apganistan, Irăc.
Sự phối hợp hoạt động giữa các đảng cộng sản – công nhân Đông Âu
với phong trào hồ bình thế giới những năm qua tiếp tục được đẩy mạnh, đặc
biệt phong trào chống chiến tranh xâm lược của NATO ở Nam Tư (1999) và
của Mỹ-Anh ở Irắc (2003) trở thành một phong trào rộng lớn và mạnh mẽ
nhất kể từ sau chiến tranh xâm lược của Mỹ tại Việt Nam. Phong trào qun
góp kinh phí cho những ai tình nguyện đến những điểm nóng, nơi các lực
lượng đế quốc đang tiến hành chiến tranh xâm lược, như Ápganixtan, Irắc
ngăn chặn hành động quân sự của các lực lượng đế quốc, v.v...
Ba là, Phong trào phối hợp đấu tranh chống các khuynh hướng chính
trị cực đoan, cực hữu, chống kỳ thị, phân biệt chủng tộc.
Trước nguy cơ trỗi dậy của những thế lực cực hữu phát xít ở một loạt
các nước Đông Âu, các đảng cộng sản – công nhân và cánh tả ở đây là
những người đi đầu, tích cực đấu tranh phản đối, ngăn chặn khơng để cho
chính quyền rơi vào tay các thế lực cực hữu ấy.
Để bày tỏ thái độ phản đối quyết định của Hội đồng Nghị viện thuộc
Hội đồng châu Âu (PACE) đưa ra “Nghị quyết về sự cần thiết phải lên án
9


quốc tế đối với tội lỗi của chủ nghĩa cộng sản”, các đảng cộng sản – công
nhân Đông Âu và các Đảng cộng sản trên khắp thế giới đã tiến hành nhiều
hoạt động phản đối quyết liệt. Cùng với sự phối hợp hoạt động của các đảng
tham gia cuộc gặp Aten năm 2005, vào tháng 3/2006 theo sáng kiến của
Đảng cộng sản Bồ Đào Nha, đại biểu của 23 đảng cộng sản – công nhân từ
khắp các nước châu Âu đã tổ chức hội nghị, cùng nhau bàn bạc, thống nhất

quan điểm, đưa ra nhận định đánh giá thống nhất về tính chất nguy hiểm của
“Nghị quyết” do PACE thơng qua. Đồng thời, Hội nghị xác định những
phương hướng hành động, đấu tranh chung trong thời gian sắp tới để phản
bác, vơ hiệu hố hiệu lực của nghị quyết chống cộng đó. Hội nghị nêu rõ,
các đảng cộng sản – cơng nhân ở mỗi nước châu Âu có trách nhiệm làm cho
dư luận nước mình thấy rõ tính chất phản động, phản dân chủ, nguy cơ trỗi
dậy của chủ nghĩa phát xít từ “ Nghị quyết” của PACE. Hội nghị cũng tiến
hành thảo luận dự thảo “Bị vong lục về tội ác của chủ nghĩa tư bản” do Đảng
cộng sản Liên bang Nga soạn thảo và đề ra nhiệm vụ cho các đảng là nhanh
chóng triển khai một chiến dịch lấy chữ ký rộng rãi ủng hộ dự thảo đó từ tất
cả các tầng lớp nhân dân, các lực lượng tiến bộ ở nước mình.
Bốn là, Phong trào phối hợp hoạt động bảo vệ môi trường sống giữa
các Đảng cộng sản – công nhân ở các nước Đông Âu, cánh tả với các Đảng
Xanh.
Xuất phát từ mục tiêu bảo vệ môi trường, sinh thái mà các Đảng Xanh
đã thu hút và tập hợp được khá đông đảo các tầng lớp dân cư tham gia vào
những hoạt động của mình. Những hình thức hoạt động chính của Đảng Xanh
là: Mít tinh, biểu tình, tập hợp chữ ký, nêu kiến nghị với chính phủ về những
vấn đề mơi trường. Thành lập các đoàn xe, các đội tàu đến các khu vực thử hạt
nhân, vùng giới tuyến để ngăn chặn các cuộc thử hạt nhân và xung đột trên thế
giới. Lập những hồ sơ, trang Website về sự vi phạm môi trường của các chính
phủ để tập hợp thơng tin, thức tỉnh quần chúng đấu tranh. Đấu tranh nghị
trường, tham gia trong liên minh cầm quyền để đấu tranh với những chính sách
gây nguy hại cho mơi trường của chính phủ.
Năm là, Phối hợp giữa các đảng cộng sản – công nhân ở các nước
Đông Âu và phong trào chống mặt trái của tồn cầu hóa.
10


Các cuộc mít tinh, biểu dương lực lượng phản đối tác động tiêu cực

của tồn cầu hóa đối với cuộc sống của các tầng lớp nhân dân lao động, đối
với sự phát triển kinh tế, duy trì ổn định chính trị xã hội của các nước nghèo,
kém phát triển và sự phát triển bền vững của cả cộng đồng nhân loại, luôn
được các đảng cộng sản – công nhân ở các nước Đông Âu và cánh tả ủng hộ,
tham gia ở các mức độ khác nhau.
Có thể thấy, trong những năm qua, các đảng cộng sản – công nhân ở
các nước Đơng Âu đã có sự phối hợp hoạt động khá tích cực với các đảng
cánh tả, các phong trào tiến bộ xã hội trên nhiều lĩnh vực. Sự hợp tác và
những nỗ lực phối hợp hành động như vậy đã và đang đem lại những thành
quả đáng kể và rất ấn tượng. Các hình thức phối hợp hoạt động đó là rất
phong phú đa dạng về nội dung, do đó tập hợp ngày càng được đơng đảo các
lực lượng chính trị, xã hội tham gia.
1.3. Nhận xét, đánh giá về phong trào cộng sản và công nhân ở các
nước Đơng Âu từ năm 1991 đến năm 2011
Từ những tình hình nêu trên, có thể rút ra mấy nhận xét sơ bộ như sau
về thực trạng và triển vọng của phong trào cộng sản công nhân các nước
Đông Âu trong những thập kỉ đầu thế kỉ XXI:
- Một là, phong trào cộng sản công nhân ở các nước Đông Âu quốc
vẫn chưa ra khỏi khủng hoảng, nhưng đã vượt qua được thời kì khó khăn
nhất sau khi Liên Xơ tan rã, hiện đang hồi phục và có những bước phát triển
mới.
- Hai là, quá trình tự đổi mới của các đảng, đổi mới các mối quan hệ
đoàn kết, hữu nghị và tăng cường sự hợp tác, phối hợp hành động giữa các
đảng trên trường quốc tế là những xu hướng vận động chủ yếu của phong
trào cộng sản công nhân quốc tế trong thời gian tới.
- Ba là, sự vận động tới đây của phong trào sẽ còn quanh co và khơng
đồng đều; về tổng thể sẽ có những bước tiến mới trong khi vẫn có thể xảy ra
những bước lùi bộ phận. Một số đảng cộng sản và công nhân có thể sẽ giành
được thắng lợi trong bầu cử và lên cầm quyền ở một số nước như đã từng
xảy ra ở Nêpan hoặc Mônđôva. Nhưng, với so sánh lực lượng ở mỗi nước và

11


trên trường quốc tế trong thập niên tới, những thắng lợi đó (nếu có) mới là
thắng lợi trong bầu cử, chưa thể làm thay đổi chế độ chính trị - xã hội với
việc giành chính quyền về tay nhân dân lao động để xây dựng chủ nghĩa xã
hội.
- Bốn là, quá trình tự đổi mới của các đảng cộng sản diến ra khá tồn
diện, trong đó các đảng sẽ coi trọng hơn đổi mới về lý luận, đường lối chính
trị và tổ chức, đồng thời đổi mới các mối quan hệ đoàn kết, hữu nghị giữa
các đảng nhằm tăng cường sự hợp tác, phối hợp cả song phương và đa
phương.
- Năm là, các đảng đều nhấn mạnh yêu cầu cấp bách trong việc mở
rộng ảnh hưởng của mình trong giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân
lao động khác, các tổ chức thanh niên, cơng đồn… chủ động củng cố sơ sở
giai cấp – xã hội, nâng cao vai trị trong đời sống chính trị - xã hội.
- Sáu là, triển vọng chung của phong trào cộng sản quốc tế sẽ tùy
thuộc chủ yếu vào khả năng tự đổi mới của các đảng cộng sản và công nhân,
vào sự hợp tác và phối hợp hành động giữa các đảng ở các khu vực và trên
thế giới, vào sự phát triển của chủ nghĩa xã hội hiện thực, vào việc chủ nghĩa
xã hội thể hiện những ưu việt của mình cũng như khả năng sử dụng các
thành tựu văn minh nhân loại trong cuộc đấu tranh vì hịa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Chương 2: TRIỂN VỌNG CỦA PHONG TRÀO CÔNG NHÂN
CÁC NƯỚC ĐÔNG ÂU ĐẾN NĂM 2020 VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ RÚT
RA XÂY DỰNG GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Cơ sở dự báo về triển vọng phong trào công nhân ở các nước
Đông Âu đến năm 2020
12



2.1.1. Cơ sở lý luận
Trong bối cảnh của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện nay,
thế giới đã có nhiều thay đổi, vì vậy cũng có nhiều cách nhận thức và giải
thích khác nhau về khái niệm giai cấp công nhân. Đây thuộc về nguyên lý
gốc, nền tảng của lý luậnchủ nghĩa xã hội khoa học, luôn là vấn đề nhạy cảm
và là tiêu điểm phân ranh giới giữa người mác xít, cách mạng với kẻ cơ hội,
phản động, phi mác xít. Song, để có một cái nhìn khách quan và khoa học,
để tiến tới một nhận thức thống nhất về khái niệm giai cấp công nhân và sứ
mệnh lịch sử của nó tất yếu phải trở về thế giới quan, phương pháp luận biện
chứng, duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Khái niệm giai cấp công nhân được các nhà kinh điển đặt ra trong
hoàn cảnh lịch sử của thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, trên cơ sở hai tiêu chí
để phân định giai cấp công nhân với các giai tầng xã hội.
Thứ nhất, về phương thức lao động, phương thức sản xuất: Giai cấp
công nhân là những người (tập đoàn người) lao động trực tiếp hay gián tiếp
vận hành các công cụ sản xuất có tính chất cơng nghiệp ngày càng hiện đại
và xã hội hố, quốc tế hố cao. Đây là tiêu chí cơ bản phân biệt người công
nhân hiện đại với người công nhân trong công trường thủ công thời tiền tư
bản.
Thứ hai, về vị trí trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa: Giai cấp
công nhân là giai cấp những người làm th, do khơng có tư liệu sản xuất
phải bán sức lao động làm thuê cho nhà tư bản và bị nhà tư bản bóc lột giá trị
thặng dư. Chính vì lẽ này mà C.Mác và Ph.Ăngghen đã gọi giai cấp công
nhân là giai cấp vô sản, và cũng chính điều này khiến cho giai cấp cơng nhân
trở thành giai cấp đối kháng với giai cấp tư sản.
Phát triển học thuyết của Mác và Ăngghen trong thời đại mới - thời
đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản, đặc biệt là trong chủ nghĩa xã
hội hiện thực sau Cách mạng Tháng Mười Nga, Lênin đã bổ sung thêm

những thuộc tính mới của giai cấp cơng nhân. Theo Lênin, sự phân chia giai
cấp trong xã hội phải dựa vào địa vị và sự khác nhau của các tập đoàn người
13


trong quan hệ đối với chế độ sở hữu tư liệu sản xuất, trong quan hệ đối với
quản lý sản xuất và trong quan hệ phân phối sản phẩm. Trên cơ sở quan niệm
đó, Lênin cho rằng: Sau khi cách mạng vô sản thành công, giai cấp công
nhân đã trở thành giai cấp cầm quyền. Địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp
cơng nhân đã hồn tồn thay đổi, từ thân phận nô lệ làm thuê trở thành giai
cấp thống trị về chính trị, thơng qua đảng tiền phong của mình lãnh đạo tồn
xã hội cải tạo xã hội cũ xây dựng xã hội mới. Theo Lênin, giai cấp cơng
nhân khơng cịn là giai cấp vơ sản theo đúng nghĩa đen của nó, và Lênin
cũng thống nhất với Mác - Ăngghen là: xu hướng phát triển của giai cấp
cơng nhân là đi tới chỗ tự thủ tiêu mình với tư cách là một giai cấp.
Chúng ta cần thống nhất rằng: những nội dung cơ bản về giai cấp công
nhân mà các nhà kinh điển đã nêu ở trên có cùng một bản chất, có hình thức
diễn đạt chặt chẽ của một khái niệm khoa học. Tuy nhiên, hiện nay thực tiễn
đã đổi thay, để hiểu đúng quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về giai cấp
công nhân, địi hỏi chúng ta cần có thái độ khách quan và phương pháp khoa
học để tiếp cận khái niệm này.
Thời đại mới, với sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa
học và công nghệ hiện đại đã vượt qua những hạn chế về mặt lịch sử của thời
kỳ các nhà kinh điển đề cập. Những hệ quả xã hội to lớn do cuộc cách mạng
đem lại đã làm biến đổi mau lẹ cơ cấu giai cấp xã hội, nhất là đối với giai cấp
cơng nhân. Vì vậy, đòi hỏi chúng ta phải đổi mới tư duy trong cách nhìn nhận
đánh giá về giai cấp cơng nhân.
Hiện nay, ở các nước tư bản chủ nghĩa cũng như ở các nước đang
phát triển, khơng cịn giai cấp vơ sản như quan niệm thời kỳ thế kỷ XIX nữa,
cả về tài sản, mức sống, điều kiện sống, trình độ học vấn và trình độ văn hố

nói chung. Cùng với sự phát triển của khoa học - công nghệ, giai cấp cơng
nhân có xu hướng "trí thức hố" và xu hướng tiếp thu số lượng ngày càng
lớn vào hàng ngũ của mình bộ phận trí thức cơng nhân. Trong nền sản xuất
tư bản chủ nghĩa hiện đại ngày nay đã có những thay đổi đáng kể: khơng cịn
tồn tại giai cấp vơ sản như trước đây, mà chỉ có giai cấp công nhân hiện đại,
14


lao động ngày càng được trí tuệ hố cao và ngày càng gần với đặc trưng lao
động của trí thức. Tuy nhiên, trình độ tri thức của cơng nhân ngày càng cao
không hề làm thay đổi bản chất của giai cấp công nhân trong xã hội tư bản
với tư cách là giai cấp làm thuê cho giai cấp tư sản trong hoạt động sản xuất
công nghiệp. Sự thật là, trong xã hội tư bản, một bộ phận công nhân đã có cổ
phần, cổ phiếu, song tỷ trọng cổ phần của công nhân so với giai cấp tư sản
vẫn là không đáng kể. Xét trong nền kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa, ngân
hàng tài chính, tiền tệ... mới là tư liệu sản xuất chủ yếu, thì tất cả lại thuộc về
giai cấp tư sản và giai cấp tư sản vẫn khống chế tồn bộ. Cũng có một số
cơng nhân, trên thực tế đã trở thành ông chủ thuê mướn nhân công, thành
chủ nhà máy với vốn hàng trăm triệu đô la, lúc này họ đã trở thành các nhà
tư sản, chứ khơng cịn là cơng nhân nữa. Do đó, không thể cho rằng giai cấp
công nhân đã trở thành "giai cấp hữu sản" như giai cấp tư sản.
Còn ở các nước xã hội chủ nghĩa hiện nay, khi giai cấp công nhân đã
trở thành giai cấp cầm quyền và là chủ sở hữu đích thực các tư liệu sản xuất
cơ bản của xã hội, thì khái niệm giai cấp vơ sản theo đúng nghĩa đen của từ
cũng hồn tồn khơng cịn chính xác. Tuy nhiên, giai cấp cơng nhân ở các
nước này vẫn là bộ phận của giai cấp vơ sản tồn thế giới. Nó xố bỏ tình
trạng vơ sản, nô lệ trước đây và trở thành giai cấp có địa vị làm chủ để tiến
tới thực hiện sự thủ tiêu nhà nước, thủ tiêu chính mình với tư cách là một
giai cấp. Đây là xu thế khơng gì cưỡng nổi. Ở các nước xã hội chủ nghĩa,
giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động là người chủ đích thực

những tư liệu sản xuất chủ yếu. Nhưng cũng khơng vì thế mà quan niệm
rằng, giai cấp cơng nhân đã trở thành "giai cấp hữu sản". Bởi trong chủ
nghĩa xã hội, tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội là của toàn dân mà người
đại diện là nhà nước chứ không phải của riêng giai cấp công nhân.
Bản thân giai cấp công nhân hiện đại trong các nước hiện nay đã có
trình độ học vấn, khoa học cơng nghệ, trình độ tay nghề và trình độ chính trị
- xã hội ngày càng cao, khác xa với tình hình giai cấp cơng nhân trước đây.
Đội ngũ cơng nhân cao cấp, hay những công nghệ viên bậc cao ngày càng
15


đông đảo và họ cùng trực tiếp sản xuất công nghiệp với các loại cơng nhân
khác, thậm chí họ cịn chiếm đa số ở các nước có ngành sản xuất cơng
nghiệp tự động hố "tin học hố" cao. Nhưng như thế khơng có nghĩa là giai
cấp cơng nhân "đã mất đi" hay chuyển hố thành tầng lớp trí thức như các
học giả tư sản rêu rao. Bởi lẽ, những công nhân cao cấp này vẫn thường
xuyên trực tiếp lao động công nghiệp chứ không phải chủ yếu là nghiên cứu
lý thuyết, lý luận như những người trí thức. Sự chuyển biến về chất có tính
tích cực và cách mạng này cần được nhận thức đầy đủ và đề cập trong khái
niệm giai cấp cơng nhân hiện đại.
Trong cuốn giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học do Hội đồng Trung
ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia đã đưa ra định nghĩa: "Giai cấp
cơng nhân là một tập đồn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với
q trình phát triển của nền cơng nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của
lực lượng sản xuất cơ bản tiên tiến, trực tiếp hoặc tham gia vào quá trình
sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ quan hệ xã
hội; là lực lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội. Ở các nước tư bản, giai cấp công nhân là những người
khơng có hoặc về cơ bản khơng có tư liệu sản xuất, phải làm thuê cho giai
cấp tư sản và bị giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư; ở các nước xã hội

chủ nghĩa chủ yếu và cùng nhau hợp tác lao động vì lợi ích chung của tồn
xã hội, trong đó có lợi ích chính đáng của bản thân họ"1.
2.1.2. Cơ sở thực tiễn
Bối cảnh tác động đến phong trào cộng sản và công nhân quốc tế hiện
nay
Thứ nhất, Tính hai mặt của tồn cầu hóa
Tồn cầu hóa (globalization) là một khái niệm mới xuất hiện vào
những năm 70 của thế kỷ XX, nhằm nói đến q trình khơng ngừng gia tăng
các mối quan hệ, hợp tác, liên kết xuyên quốc gia, khu vực và quốc tế. Điều
này đã được Mác diễn đạt trong “Tuyên ngơn của Đảng Cộng sản” viết năm
1

Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2002.

16


1848 và một số tác phẩm khác thông qua các thuật ngữ như "sự phụ thuộc
phổ biến của các dân tộc", "tính chất thế giới", "thị trường thế giới", "tự do
mậu dịch"…
Cũng như các q trình lịch sử khác, tồn cầu hóa mang tính hai mặt
rõ nét. Mặt tích cực, nó tạo cơ hội tiến tới một “thế giới phẳng”, cơng bằng
và nhân bản hơn, xóa mờ đi các đường biên giới ngăn cách giữa người với
người, cả về vật chất lẫn tinh thần. Ngược lại, về mặt tiêu cực (mặt trái), nó
có thể dẫn đến “tồn cầu hóa tư bản chủ nghĩa”, sự bất bình đẳng càng bị
khoét sâu hơn nữa, hoặc bị lợi dụng và thao túng bởi thế lực của “kẻ mạnh”
và chủ nghĩa bá quyền, v.v...
Tất cả đều tác động sâu sắc đến đời sống mọi mặt của nhân loại, trong
đó có phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, đặc biệt là trong việc tập
hợp lực lượng đứng lên đấu tranh chống mặt trái của tồn cầu hóa (vốn do

chủ nghĩa tư bản thao túng).
Thứ hai, Sự lan truyền bão táp của cuộc cách mạng khoa học – công
nghệ đương đại
Cuộc cách mạng khoa học – công nghệ đương đại đã phát triển như vũ
bão kể từ giữa thế kỷ XX đến nay, mang tính tích hợp rất cao và thể hiện chủ
yếu trên các lĩnh vực: Công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ
vật liệu mới, công nghệ năng lượng mới, cơng nghệ tự động hóa, cơng nghệ
hải dương học, cơng nghệ vũ trụ, cơng nghệ siêu vi mơ (nanotechnology)…
Nó đang từng năm, từng tháng, từng ngày làm thay đổi đời sống con
người, làm biến đổi lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, làm thay đổi
phương thức sống và phương thức tư duy. Trong đó, có sự chuyển biến to
lớn bên trong cơ cấu giai cấp công nhân, với những người lao động trình độ
cao ngày càng gia tăng nhanh chóng trên tất cả các lĩnh vực, đồng thời làm
thay đổi tận gốc rễ nền kinh tế - xã hội, chuyển từ “văn minh công nghiệp”
lên “văn minh hậu cơng nghiệp” hay “văn minh trí tuệ”, hình thành nên một
đội ngũ công nhân được đào tạo cơ bản và có trình độ học vấn cao (“cơng
nhân cổ cồn”, “cơng nhân cổ trắng”…). Nghĩa là, nó đã làm biến đổi cả về
17


lượng lẫn về chất trong đội ngũ giai cấp công nhân nói riêng và người lao
động nói chung, ảnh hưởng không nhỏ tới phong trào cộng sản và công nhân
quốc tế.
Thư ba, Sự phát triển của kinh tế tri thức
Kinh tế tri thức (knowledge economy) là nền kinh tế lấy tri thức và
sáng tạo kỹ thuật mới làm cơ sở, lấy toàn cầu làm thị trường. Tri thức trở
thành một bộ phận quan trọng và quyết định trong thành phần của tư liệu sản
xuất. Cùng với q trình tồn cầu hóa và cách mạng khoa học – cơng nghệ
đương đại, kinh tế tri thức đang đóng vai trị quyết định trong việc tạo dựng
diện mạo mới của nền văn minh nhân loại kể từ cuối thế kỷ XX trở đi, với

việc làm thay đổi chiều hướng và mơ hình tăng trưởng kinh tế, làm biến
dạng quan hệ sở hữu, thay đổi giá trị và chuẩn mực xã hội, thay đổi đường
lối và chiến lược phát triển của các quốc gia trên thế giới.
Trong nền kinh tế tri thức, những người lao động có trình độ cao
chiếm áp đảo tổng lao động toàn xã hội. Họ tập trung trong các ngành dịch
vụ và công nghệ cao thay cho các ngành nghề truyền thống. Họ cũng đi “làm
thuê” nhưng đã khác về chất so với những người “làm thuê” trước đây, vì họ
dùng tri thức là chủ yếu chứ không phải dùng cơ bắp là chủ yếu. Sản phẩm
do họ làm ra được kết tinh bởi tri thức tổng hợp cao hơn nhiều lần so với
nguyên vật liệu và sức lực cơ bắp cộng lại. Họ là những “cơng nhân trí thức”
(cổ cồn, cổ trắng), có thu nhập cao. Nghành nghề và lĩnh vực hoạt động,
cùng vị trí và vai trị của họ trong xã hội cũng thay đổi theo chiều hướng tích
cực hơn, khơng chỉ được các tầng lớp giai cấp khác mà ngay cả giai cấp tư
sản thống trị cũng phải tơn trọng và lắng nghe tiếng nói của họ, quan tâm
hợp tác và chia sẻ lợi ích với họ…
Chính vì thế, giai cấp cơng nhân truyền thống ở những nước phát triển
cao ngày càng giảm mạnh về số lượng, trong khi nội dung và hình thức đấu
tranh của “cơng nhân trí thức” lại mềm dẻo và linh hoạt hơn, thậm chí một
bộ phận đi đến thỏa hiệp và đồng lợi ích với giới chủ.
Thứ tư, Sự điều chỉnh, cải cách của chủ nghĩa tư bản toàn cầu
18


Trước sự tàn phá và khủng hoảng kinh niên của nền kinh tế thị trường
tự do tư bản chủ nghĩa, trong quá trình vận động lịch sử của mình, về mặt
chủ quan, chủ nghĩa tư bản tất yếu có sự điều chỉnh để tồn tại và phát triển.
Đặc biệt, về mặt khách quan, đứng trước sự tồn tại song song mang tính chất
phản chiếu của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội hiện thực, trong bối cảnh
tồn cầu hóa và cách mạng khoa học – nghệ đương đại diễn ra mạnh mẽ,
buộc chủ nghĩa tư bản phải có những điều chỉnh thích hợp, nhằm hạn chế sự

đổ vỡ và cáo chung theo quy luật xã hội mà nó khơng thể tránh khỏi sớm hay
muộn.
Trong q trình điều chỉnh đó, nó đã củng cố được tính hợp lý mới của
tồn tại, đồng thời tìm thấy và bắt tay với “đồng minh” của mình là những
người thỏa hiệp mang tư tưởng địi dân chủ và tiến bộ xã hội (vốn có nguồn
gốc từ phong trào cộng sản và công nhân) ở ngay trong lòng chủ nghĩa tư
bản.
2.2. Triển vọng của phong trào cộng sản và công nhân các nước
Đôang Âu đến năm 2020
Trong điều kiện cách mạng khao học và công nghệ hiện đại, tồn cầu
hóa và kinh tế tri thức hiện nay, mặc dù đội ngũ giai cấp công nhân ở các
nước Đơng Âu nói riêng và các nước tư bản phát triển nói chung rất đa dngj
về nghề nghiệp, nhưng xét về địa vị kinh tế - xã hội của họ trong phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa thì họ vẫn là những người lao động làm thuê
bị cột chặt vào tư bản và họ chỉ được thuê khi có thể làm gia tăng khối lượng
giá trị thặng dư cho giai cấp tư sản. Thực tế của sản xuất hiện đại đã chỉ ra
năng xuất lao động tăng lên không ngừng nhờ phát triển khoa học – công
nghệ là hiện tượng mang tính quy luật của sản xuất tư bản chủ nghĩa. Năng
suất lao động tăng là nguồn gốc để tạo nên sự giàu có, cũng là cơ sở kinh tế
để chủ nghĩa tư bản làm dịu đi những mâu thuẫn xã hội, nhưng ở khía cạnh
khác, nó đang làm sâu rộng thêm khoảng cách giàu nghèo. Trình độ bóc lột
giá trị thặng dư khơng ngừng được nâng cao. Theo Tổ chức lao động quốc tế
(ILO), tỷ suất bóc lột giá trị thặng dư (m’) đã tăng, tính tỷ suất trung bình từ
19


m’ = 20 (đầu thế kỷ XIX), hiện nay đã lên thành m’ = 300; thậm chí, cá biệt,
có những công ty như Microsoft, m’ = 5000. Giai cấp công nhân vẫn bị bóc
lột, bị bần cùng hóa cả tuyệt đối lẫn tương đối. Về cơ bản, giai cấp công
nhân; mâu thuẫn giữa tư bản và lao động, sự phân biệt giàu nghèo và tình

trạng bất cơng xã hội vẫn tăng lên.
Với sự phát triển của khoa học – công nghệ, vị trí, vai trị của giai cấp
cơng nhân vẫn hết sức quan trọng. Giai cấp cơng nhân vẫn có sức mạnh tiềm
năng mà không một giai cấp nào trong lịch sử có được để thực hiện sứ mệnh
lớn lao là giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội.
Sản xuất hiện đại đang tạo ra một thế hệ mới những người sẽ đảm
nhận sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp cơng nhân hiện đại – cơng nhân
trí thức.
Dự báo trong những thập niên tiếp theo của thế kỷ XXI, cách mạng
khoa học cơng nghệ cịn tiếp tục phát triển mạnh mẽ. sự phát triển của các
công nghệ mới sẽ làm cho thế giới biến đổi nhanh chóng tạo ra năng suất lao
động rất cao, lực lượng sản xuất phát triển mạnh không ngừng kéo theo quan
hệ sản xuất cũng thay đổi theo hướng quốc tế hóa ngày càng tăng để phù hợp
với xu hướng quốc tế hóa, tồn cầu hóa về lực lượng sản xuất và tư liệu sản
xuất. Mỗi khi lực lượng sản xuất phát triển lên một trình độ mới thì nó địi
hỏi quan hệ sản xuất phải thay đổi cho phù hợp, đi đôi với những thay đổi
trong đời sống tinh thần, chính trị của tồn xã hội, hình thái kinh tế xã hội
chuyển lên một bước cao hơn. Lịch sử phát triển xã hội loài người đã trải
qua nhiều bước ngoặt, chuyển tiếp từ hình thái kinh tế xã hội thấp lên hình
thái xã hội cao hơn, bắt nguồn từ sự phát triển nhảy vọt của lực lượng xản
xuất, dẫn tới cách mạng xã hội với những biến đổi to lớn về chính trị, xã hội,
thiết chế… Cuộc cách mạng đó là một tất yếu, vì dù thế nào đi chăng nữa,
việc chuyển sang phương thức sản xuất cơng nghiệp mới – máy tính hóa, đã
đánh dấu một giai đoạn mới trong sự khủng hoảng chung của chủ nghĩa tư
bản; và chỉ bằng cách tạo ra cái nền tảng của chủ nghĩa xã hội mới có thể
giải quyết được sự khủng hoảng ấy.
20


Tuy nhiên, trong hai thập kỷ tới, nếu nhìn nhận một cách thực tế, thì ở

các nước Đơng Âu và các nước tư bản phát triển, con đường giành chính
quyền bằng cách mạng bạo lực là chưa hiện thực, mà con đường đấu tranh
nghị trường, bằng các biện pháp dân chủ là một hình thức đấu tranh có nhiều
khả năng thực hiện trong bối cảnh hiện nay. Do đó, mục tiêu khách quan
hàng đầu của giai cấp công nhân là phải đấu tranh đòi quyền dân sinh, mở
rộng dân chủ, cải thiện điều kiện lao động, tăng cơ hội tham gia vào các
công việc quản lý, điều hành sản xuất và xã hội cho giai cấp công nhân và
người lao động… Đồng thời, tăng cường đấu tranh nghị trường trên cơ sở
vận động quần chúng bỏ phiếu cho đại biểu công nhân và các lực lượng dân
chủ khác trong các cuộc bầu cử ở những nước tư bản phát triển.
Có thể nói, xu hướng đấu tranh hịa bình, tăng cường uy tín trong nhân
dân, thơng qua các cuộc bầu cử để đưa các đại biểu công nhân, lao động, các
lực lượng xã hội tiến bộ vào nghị viện và từ diễn đàn mang tính pháp lý này
sẽ đấu tranh giành dân chủ sẽ trở thành phương hướng đấu tranh vừa mang
tính cấp bách vừa có tính chiến lược lâu dài của giai cấp công nhân trong hai
thập niên đầu của thế kỷ XXI. Triển vọng của xu hướng này tất yếu sẽ tạo ra
được một so sánh lực lượng mới thơng qua một q trình để tạo ra tình thế
cách mạng: tập hợp lực lượng quần chúng, xác lập quyền lãnh đạo của chính
đảng vơ sản. Từ đó, phong trào đấu tranh của quần chúng ngày càng có hiệu
quả, đẩy nhanh q trình phân hóa trong nội bộ giai cấp tư sản ngày càng
bộc lộ tính chất phản động, phản dân chủ và do đó trận địa cách mạng sẽ
được củng cố.
Xu hướng vận động của phong trào cộng sản và công nhân ở các nước
Đông Âu và các nước tư bản phát triển tiến đến cách mạng xã hội chủ nghĩa
là không thể đảo ngược và chắc chắn sẽ phong phú, phức tạp hơn những
chặng đường lịch sử mà phong trào đã đi qua trong thế kỷ XX.
2.3. Một số vấn đề rút ra xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam
hiện nay

21



Việc tìm ra những nét chung từ quá trình phát triển của giai cấp cơng
nhân trên thế giới trong đó có giai cấp cơng nhân ở các nước Đơng Âu có ý
nghĩa quan trọng đối với giai cấp cơng nhân nước ta. Trên cơ sở đó, có thể
đưa ra những đánh giá, những dự báo về sự phát triển của giai cấp công nhân
nước ta trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, chỉ
ra những vấn đề cần quan tâm trong việc hoạch định đường lối, chính sách
nhằm xây dựng giai cấp cơng nhân trong tình hình mới.
Thứ nhất, sự phát triển của giai cấp công nhân và phong trào trào
cộng sản công nhân quốc tế ở mức độ cao đã bác bỏ quan điểm “giai cấp
công nhân đang bị mất đi” và khẳng định sự tiếp tục tồn tại của giai cấp công
nhân như là một lực lượng chủ yếu trong nền sản xuất và một lực lượng
chính trị cơ bản của xã hội hiện đại. Sự phát triển về số lượng và chất lượng
lên một trình độ mới của giai cấp cơng nhân là hoàn toàn phù hợp với xu
hướng chủ đạo trong lịch sử phát triển của giai cấp công nhân thế giới. Do
đó, sự phát triển của giai cấp cơng nhân Việt Nam là phù hợp với trào lưu
chung của giai cấp công nhân thế giới.
Thứ hai, những biến đổi về cơ cấu, chất lượng và nhiều vấn đề khác
khiến chúng ta cần thay đổi quan niệm về giai cấp công nhân hiện đại. Trong
điều kiện cách mạng khoa học và công nghệ ngày nay chúng ta không thể
coi công nhân chỉ là những người lao động cơ bắp và không thể coi giai cấp
công nhân chỉ gồm những người lao động cơ bắp thuần túy. Trình độ học
vấn, trình độ nghề nghiệp chuyên môn của giai cấp công nhân trên thế giới
hiện nay nhất là các nước phát triển, các nước đã đi vào nền kinh tế tri thức,
là rất cao, thậm chí ở một số ngành nghề, một số lĩnh vực còn chiếm tỷ lệ
khá lớn. Thống nhất nhận thức rằng, hiện nay giai cấp công nhân ở nước ta
có thể làm việc trong sản xuất cơng nghiệp, dịch vụ, khoa học – kỹ thuật và
ở mọi thành phần kinh tế. Nhưng định hướng xã hội chủ nghĩa là phải đặc
biệt chú trọng và yêu cầu cao đối với đội ngũ công nhân doanh nghiệp nhà

nước để thực sự đóng vai trị chủ đạo trong sản xuất kinh tế cũng như hoạt
động chính trị - xã hội.
22


Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa X (tháng 1-2008) “Về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam
thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” đã ghi nhận:
“giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát
triển, bao gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm cơng hưởng
lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc
sản xuất kinh doanh và dịch vụ cơng nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và
dịch vụ có tính chất cơng nghiệp”1.
Việc Đảng ta chính thức thừa nhận trong giai cấp cơng nhân có những
người lao động trí óc không những đã xóa đi quan niệm đã từng tồn tại ở xã
hội là lao động trí óc khơng thể coi là công nhân, đều bị xếp vào hàng tiểu tư
sản mà còn đề cao chất lượng mới của giai cấp công nhân nước ta hiện nay,
thừa nhận sự tăng lên của nhân tố trí thức trong lao động phổ thơng. Điều
này hồn tồn phù hợp với quan niệm của Mác và Ăngghen về “giai cấp vơ
sản trí óc”, “công nhân thương nghiệp”, “giai cấp đông đảo những người
giám đốc công nghiệp và thương nghiệp”2.
Thứ ba, trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế, nhiều
vấn đề phải được làm sáng tỏ như: sự trí thức hóa giai cấp cơng nhân, về
việc cơng nhân tham gia sở hữu doanh nghiệp, về mối quan hệ giữa giai cấp
công nhân với các giai cấp khác trong xã hội, về sự phân tầng mối quan hệ
trong nội bộ giai cấp công nhân, về các tổ chức chính tri – xã hội trong các
doanh nghiệp, quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động, về
mối quan hệ giữa giai cấp công nhân Việt Nam và giai cấp cơng nhân các
nước trong điều kiện tồn cầu hóa…

Thứ tư, tăng cường củng cố, xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam
phù hợp với xu thế phát triển chung của giai cấp cơng nhân thế giới nói

1

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội. 2008, tr. 23.
2
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1995, t. 25, tr. 595.

23


chung và giai cấp cơng nhân Việt Nam nói riêng, đáp ứng nhu cầu phát triển
đất nước.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa X “Về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” đã xác định rõ mục tiêu,
nhiệm vụ và giải pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước:
- Kiên định quan điểm giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách
mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam, là giai cấp đại
diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, giai cấp tiên phong trong sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh phải gắn kết hữu cơ với xây
dựng, phát huy sức mạnh của liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- Chiến lược xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh phải gắn kết chặt
chẽ với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế.

- Có kế hoạch, cơ chế, giải pháp chuyển đổi cơ cấu kinh tế hợp lý theo
hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa; trước mắt là hướng mạnh về phục vụ
nông nghiệp, nông dân, nơng thơn. Từng bước chuyển giao có hiệu quả tốt
những thành quả khoa học – công nghệ tiên tiến của khu vực và thế giới.
Trên cơ sở đó mà đào tạo, đào tạo lại một cách cân đối đội ngũ công nhân kỹ
thuật đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Xây dựng giai cấp cơng nhân lớn mạnh là trách nhiệm của cả hệ
thống chính trị của toàn xã hội và sự nỗ lực vươn lên của bản thân mỗi người
cơng nhân, cơng đồn có vai trò quan trọng trực tiếp trong chăm lo xây dựng
giai cấp công nhân. Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh phải gắn liền với
xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, xây

24


dựng tổ chức cơng đồn, Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và các tổ
chức chính trị - xã hội khác trong giai cấp công nhân vững mạnh1.

KẾT LUẬN
Xuất phát từ sự vận động của phong trào công nhân ở các nước Đông
Âu từ năm 1991 đến nay đã khẳng định, giai cấp công nhân vẫn luôn là lực
lượng tiên tiến nhất của xã hội, không chỉ trong thời kỳ đại công nghiệp mà
cả ở thời đại khoa học – công nghệ ngày nay. Những thay đổi trong cơ cấu
của giai cấp công nhân (ngành nghề mới, tri thức cao, mức sống tăng…)
1

Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp Hành Trung ương Đảng khóa
X, Sđd.

25



×