Tải bản đầy đủ (.docx) (105 trang)

Pháp luật Việt Nam về hành nghề luật sư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (426.93 KB, 105 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Sự vận động, phát triển của xã hội văn minh, tiến bộ đang ngày càng
khẳng định và đề cao vao trò, vị trí của nghề luật sư với sứ mệnh bảo vệ công lý,
đảm bảo công bằng xã hội ở Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung.
Có thể nói, đây là thời điểm mà xã hội Việt Nam đã dần nhìn nhận sát gần
hơn đối với vai trị của nghề luật sư theo đúng chỗ đứng mà nghề này xứng đáng
có được. Người dân ngày càng tìm đến luật sư như một nhu cầu thiết thân, số
lượng luật sư, tổ chức hành nghề luật sư ngày một phát triển, nền tư pháp nước
nhà đã tạo điều kiện nhiều hơn để luật sư thể hiện tầm quan trọng của mình.
Phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng, bảo đảm về chất lượng, vững
vàng về bản lĩnh chính trị, trong sáng về đạo đức nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu
cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế là một trong những chủ trương lớn của
Đảng và Nhà nước ta. Trong những năm qua, tổ chức và hoạt động luật sư ở
nước ta đã được Đảng và Nhà nước quan tâm xây dựng, lãnh đạo, chỉ đạo và tạo
điều kiện hoạt động và đã đạt được nhiều kết quả quan trọng.
Trước yêu cầu đẩy mạnh cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI,
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020 và yêu cầu chủ động hội nhập quốc tế theo tinh thần
Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 05/02/2007 của Ban Chấp hành Trung ương
khoá X về một số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế phát triển nhanh và
bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức thương mại thế giới, đồng
thời để thực hiện Chỉ thị số 33-CT/TW ngày 30/03/2009 của Ban Bí thư về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động luật sư, Thủ tướng
Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1072/QĐ-TTg phê duyệt “Chiến lược
phát triển nghề luật sư đến năm 2020” với những chủ trương, chính sách lớn,
các giải pháp cụ thể, có trọng tâm, trọng điểm định hướng và hỗ trợ cho việc
1



phát triển nghề luật sư ở Việt Nam giai đoạn 2011 đến 2020, tạo nền tảng vững
chắc cho sự phát triển ở giai đoạn tiếp theo.
Cùng với đó là quá trình hồn thiện hệ thống pháp luật về nghề luật sư
nhằm thể chế chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước làm hành lang pháp
lý phát triển đội ngũ luật sư, nghề luật sư ở Việt Nam phục vụ tốt hơn yêu cầu
của công cuộc cải cách tư pháp, phát triển kinh tế - xã hội, cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước trong q trình hội nhập quốc tế. Trong đó nhiệm vụ
trọng tâm và trước mắt là sửa đổi, bổ sung kịp thời các văn bản pháp luật còn
khiếm khuyết theo hướng nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ luật
sư; tăng cường tính chuyên nghiệp trong hoạt động hành nghề của luật sư và các
tổ chức HNLS; tăng cường vai trò đào tạo, bồi dưỡng của tổ chức xã hội - nghề
nghiệp của luật sư. Tăng cường vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp
luật sư trong công tác quản lý luật sư và HNLS, đảm bảo tuân thủ pháp luật,
tuân theo quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư. Tăng cường giao lưu,
hợp tác quốc tế, trao đổi kinh nghiệm về tổ chức, hoạt động và HNLS theo
hướng tiếp thu, học hỏi có chọn lọc để phát triển phù hợp với các điều kiện hiện
nay ở Việt Nam. Tuy nhiên, trước yêu cầu ngày càng cao của xã hội, để nghề
luật sư ở Việt Nam phát triển ngang tầm với nghề luật sư trên thế giới, việc hoàn
thiện hệ thống pháp luật về nghề luật sư trở nên đặc biệt quan trọng, cấp thiết và
thực tế là không hề dễ dàng.
Xuất phát từ tầm quan trọng đó và u cầu bức thiết của xã hội, tơi chọn đề
tài “Pháp luật về HNLS ở Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chính vì vai trị quan trọng của luật sư trong xã hội và sự phát triển khá
nhanh của nghề luật sư nên đã có nhiều tổ chức và cá nhân nghiên cứu về vấn đề
này. Có thể kể ra một số đề tài đã được nghiên cứu như:
1) Luận án Tiến sĩ “Cơ sở lý luận của việc hoàn thiện pháp luật về luật sư
ở Việt nam hiện nay” của Luật sư Phan Trung Hoài
2) Đề tài “Bàn về khái niệm và đặc điểm nghề luật sư” do Luật sư Phan
Trung Hoài – ĐLS Thành phố Hồ Chí Minh – thực hiện;

2


3) Đề tài cấp bộ “Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện pháp luật
về tổ chức luật sư và HNLS trong điều kiện mới ở Việt Nam”, Chủ nhiệm đề tài:
Nguyễn Văn Thảo – Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp;
4) Đề tài “Vai trò của luật sư trong quá trình giải quyết khiếu nại hành
chính hiện nay”, Chủ nhiệm đề tài: Thạc sỹ Nguyễn Sỹ Giao – Viện Khoa học
thanh tra;
5) Chuyên đề “Pháp luật về luật sư nước ngoài và tổ chức luật sư nước
ngoài tại Việt Nam - thực trạng và kiến nghị” do Viện nghiên cứu lập pháp thuộc
Ủy ban thường vụ Quốc Hội thực hiện;
6) Đề tài khoa học cấp cơ sở “Giải pháp đào tạo luật sư phục vụ hội nhập
kinh tế quốc tế” do Học viện Tư pháp tiến hành.
Ngồi ra cịn có nhiều bài viết đăng trên các báo và tạp chí, như:
- Bài viết “Vai trị của Luật sư trong tố tụng hành chính” của luật sư
Nguyễn Thành Vĩnh
- Bài viết “Chiến lược phát triển nghề luật sư cịn thiếu sót” của luật sư
Ngơ Ngọc Trai
- Bài viết “Xóa bỏ rào cản với nghề Luật sư” của Vạn Bảo
- Bài viết “Chuyện về chiếc thẻ luật sư” của Luật sư Phan Trung Hoài
Tuy nhiên các đề tài, chuyên đề và bài viết nêu trên mới chỉ cụ thể hóa
một khía cạnh về HNLS ở Việt Nam. Chưa có đề tài nào khái quát chung
được vấn đề “Pháp luật về HNLS ở Việt Nam”.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu tổng quát: Mục tiêu tổng quát của luận văn là làm rõ được
các quy chế về nghề luật sư và HNLS, hệ thống được các quy định pháp luật về
HNLS ở Việt Nam, chỉ ra những điểm bất cập đồng thời đề xuất hướng hoàn
thiện pháp luật.
3.2. Mục tiêu cụ thể: Để đạt được mục đích cuối cùng của luận văn, cần

phải hoàn thành các mục tiêu cụ thể sau:
- Khái quát một cách có hệ thống các vấn đề lý luận về luật sư và HNLS ;
- Nắm bắt được thực trạng pháp luật về vấn đề này;
3


- Thông qua thực tiễn áp dụng pháp luật để thấy được những bất cập của
pháp luật;
- Đề ra hướng hồn thiện pháp luật.
4. Tính mới và những đóng góp của đề tài
4.1. Tính mới của đề tài : Vấn đề HNLS đang nhận được rất sự quan tâm
của nhiều tổ chức, cá nhân trong xã hội hiện nay. Chính vì thế đã có khá nhiều
đề tài khoa học và các bài viết về vấn đề này. Tuy nhiên các cơng trình nghiên
cứu đó chỉ đề cập đến một lĩnh vực, một khía cạnh của vấn đề HNLS. Chưa có
một cơng trình nào khái qt được vấn đề pháp lý của các lĩnh vực, các khía
cạnh nêu trên. Đề tài “Pháp luật về HNLS ở Việt Nam” nghiên cứu một cách
tồn diện, có tính hệ thống về luật sư và HNLS, các quy định pháp luật liên quan
đến mọi khía cạnh của HNLS ở Việt Nam. Đề tài có tính mới, và tính khái quát
cao hơn các đề tài đã được thực hiện.
4.2 Những đóng góp của đề tài: Đề tài giúp người nghiên cứu và những
người đọc có được sự hiểu biết bao quát về HNLS ở Việt Nam cùng với những
quy định của pháp luật về vấn đề này. Bên cạnh đó, đề tài cịn mang đến cái nhìn
thực tế trong thực trạng HNLS ở Việt Nam và thực tiễn áp dụng pháp luật trong
lĩnh vực này. Từ kết quả nghiên cứu vận dụng đưa ra kiến nghị xây dựng pháp
luật nhằm điều chỉnh một cách toàn diện những quan hệ của nghề luật sư hướng
tới phục vụ tốt nhu cầu trợ giúp pháp lý của các cá nhân, tổ chức trong quá trình
hội nhập khu vực và quốc tế.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Hiện nay, pháp luật Việt Nam về HNLS đang tồn tại một số khái niệm
chưa được làm rõ hoàn toàn như: Khái niệm HNLS, khái niệm cung cấp DVPL.

Vì vậy khái niệm HNLS theo pháp luật Việt Nam hiện nay thường được bao
trùm trong khái niệm cung cấp DVPL. Trên cơ sở phân biệt các khái niệm đã nêu
và cố gắng làm rõ khái niệm về cung cấp DVPL, Luận văn tập trung giải quyết vấn
đề pháp lý của giao dịch cung cấp DVPL. Đây là hoạt động thương mại của tổ
chức HNLS, thuộc phạm vi nghiên cứu trong mã nghành luật kinh tế. Việc Luận
4


văn đôi chỗ đề cập đến vấn đề quy chế hành nghề, quy tắc nghề nghiệp chỉ với mục
đích đơn thuần là làm rõ thêm thực trạng về pháp luật luật sư ở Việt Nam.
6. Nội dung và phương pháp nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các nội dung sau: Những vấn đề lý luận về HNLS;
Thực trạng pháp luật về HNLS ở Việt Nam; Định hướng và các giải pháp hoàn
thiện pháp luật HNLS ở Việt Nam. Các phương pháp nghiên cứu của Luận văn
được xây dựng trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
chủ nghĩa duy vật lịch sử, và đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt.
Các phương pháp mà luận văn sử dụng bao gồm: phương pháp phân tích
quy phạm, phân tích vụ việc, và phân tích lịch sử; phương pháp tổng hợp, thông
kê, tập hợp các thông tin, số liệu và vụ việc; phương pháp điển hình hố, mơ
hình hóa các quan hệ xã hội; phương pháp hệ thống hóa các quy phạm pháp luật;
phương pháp so sánh pháp luật; và phương pháp đánh giá thực trạng pháp luật.
Với phương pháp phân tích quy phạm, luận văn đã phân tích các quy
định của pháp luật hiện hành về HNLS, qua đó chỉ ra các khiếm khuyết, bất
cập. Khi phân tích vụ việc, luận văn đã chỉ ra khiếm khuyết trong thực tiễn
áp dụng pháp luật. Phương pháp tổng hợp được sử dụng kết hợp với phương
pháp phân tích. Cụ thể, từ những kết quả nghiên cứu bằng phân tích, Luận văn
sử dụng phương pháp tổng hợp kết hợp chúng lại với nhau để có được sự nhận
thức về vấn đề nghiên cứu một cách đầy đủ, hoàn chỉnh. Kết quả tổng hợp được
thể hiện chủ yếu bằng các kết luận, kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
Phương pháp so sánh được sử dụng khi so sánh với pháp luật nước ngoài

để chỉ ra ưu nhược điểm, sự tiến bộ hay lạc hậu… hoặc so sánh giữa pháp luật
hiện hành với các văn bản đã hết hiệu lực.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần đặt vấn đề, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Các vấn đề lý luận của pháp luật về
HNLS. Chương 2: Thực trạng pháp luật về HNLS ở Việt Nam. Chương 3: Định
hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về HNLS ở Việt Nam.
5


Chương 1
CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ HNLS
1.1. Khái niệm, đặc điểm của nghề luật sư
1.1.1. Khái niệm nghề luật sư
Sơ lược về sự hình thành và phát triển của nghề luật trên thế giới và ở Việt
Nam có thể thấy nghề luật sư đã xuất hiện trong đời sống xã hội từ rất sớm, nó
bắt đầu hình thành từ thời Hi Lạp cổ đại (khoảng 3500 - 3000 năm TCN) và bắt
đầu phát triển vào thời Trung đại (khoảng từ thế kỷ thứ 5 đến thế kỷ thứ 15 sau
CN). Ở thời Hy Lạp cổ đại, nghề luật sư chỉ mới được manh nha hình thành, các
bị cáo phải tự bào chữa cho mình dựa trên gợi ý từ bàn diễn văn của người biện
sư nào đó (biện sư là người được coi như làm cơng việc viết hộ văn bản cho
người khác). Tại Roma, dù đã có nhiều người chuyên viết bài bào chữa nổi tiếng
như Tillius Ciceron (-106 trc JC – 46 sau JC, ông có thể được coi như ông tổ của
nghề luật sư).
Thời kỳ Trung đại là thời kỳ đặt nền móng cho nghề luật sư. Duới triều
đại của Hoàng đế Justin đề nhất, các nguyên tắc của một ĐLS được hình thành.
Việc soạn thảo và hoàn thiện những bộ quy tắc đạo đức trải dài hàng thế kỷ và
thường được viết bởi các luật sư gạo cội của Đoàn. Thời kỳ này, muốn HNLS,
cá nhân người đó phải có trình độ hiểu biết nhất định và phải được Nhà nước
công nhận. Từ đó mới hình thành nên thuật ngữ “luật sư”, theo tiếng pháp gọi là

“Maitre” và tạm dịch là “bậc thầy”, đồng thời cũng hình thành nên các chế độ về
thù lao. Sau đó, qua q trình hoạt động có sự phân loại theo các đặc thù: luật sư
tư vấn, luật sư tranh tụng, luật sư tập sự.
Thời kỳ Phục Hưng cho tới thế kỷ thứ 18, những nguyên tắc nghề luật sư
cơ bản vẫn được duy trì và phát triển. Các tổ chức luật sư tác khỏi các tổ chức
thẩm phán, đồng thời các quy tắc đạo đức nghề nghiệp được luật hóa thơng qua
các sắc lệnh. Các luật sư bắt đầu tham gia vào việc soạn thảo các bộ luật và các
quy tắc ứng xử khác nhau. Tuy nhiên, giai đoạn này, trong lĩnh vực hình sự, bị

6


cáo vẫn phải tự bào chữa và họ thường xuyên bị đánh đập, tra tấn. Vai trò của
luật sư chưa được coi trọng, hạn chế ở mức tư vấn ban đầu.
Cho đến khi bắt đầu cuộc cách mạng tại Pháp năm 1789, việc tra tấn tội
phạm bị cấm ở Pháp và tính độc lập của luật sư dần được khẳng định. Luật sư
được hưởng quyền miễn trừ khi tham gia bào chữa. Và từ năm 1851, luật sư
phải bào chữa miễn phí cho các đối tượng khó khăn. Thời kỳ Đệ tam Cộng hòa
(1870 - 1940) là thời kỳ phát triển rực rỡ của giới luật sư Pháp. Trong số 23
Tổng thống thời kỳ này thì có 11 người là luật sư. [8]
Nguồn: Luật sư. Vũ Văn Tính ( Paris ngày 10 tháng 10 năm 2013)
[*] Bài viết này có tham khảo các tài liệu: “Les avocats à travers
l’histoire” trên trang web www.avocats.fr; “Thi cử và nền giáo dục Việt Nam
dưới thời thuộc Pháp” của tác giả Trần Bích San; “Cuộc đời anh hùng của Đại
tướng Võ Nguyên Giáp” – Báo GTVT ngày 5 tháng 10 năm 2013.
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm luật sư và HNLS:
Đại từ điển Tiếng Việt do Nhà xuất bản Đại học Quốc Gia Thành phố Hồ
Chí Minh định nghĩa, luật sư là “người có chức trách dùng pháp luật bào chữa
cho bị can trước Tòa án) [51, tr970]. Theo cách hiểu dân gian, Luật được hiểu là
luật pháp, “sư” nghĩa là “thầy”, luật sư được hiểu là người thầy về luật pháp. Ở

cả hai cách hiểu này, mới đề cập đến một khía cạnh cụ thể luật sư trong hoạt
động bào chữa tại Tịa án hay trình độ của người luật sư mà chưa giải thích được
tồn diện về nghề luật sư.
Một quan điểm khác cho rằng “luật sư là người hành nghề liên quan đến
lĩnh vực pháp luật khi có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của
mỗi quốc gia” [8] . Ở khái niệm này, việc chỉ ra rằng luật sư là người hành nghề
liên quan đến lĩnh vực pháp luật nói chung đã đồng hóa nghề luật sư với những
người làm pháp luật khác như thẩm phán, kiểm sát viên (ở Việt Nam), công tố
viên (ở Mỹ), ủy viên cơng tố (ở Cộng hịa Czech)…
Tại Điều 2 Luật Luật sư 2006 định nghĩa về Luật sư như sau: “Luật sư là
người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật này, thực
7


hiện DVPL theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức (sau đây gọi chung là
khách hàng).” [ Luật Luật sư 2006]
Ở khái niệm này, có đề cập tới cơng việc cụ thể của luật sư đó là “DVPL”,
vậy DVPL là gì? Theo Hiệp định chung về thương mại dịch vụ của WTO (viết
tắt là GATS) liệt kê các loại DVPL, trong khuôn khổ này, các loại DVPL được
đề cập đến đều mang tính thương mại. Theo WTO, DVPL là một phân ngành
của Dịch vụ kinh doanh. Tại Bảng phân loại các ngành dịch vụ này, dịch vụ
pháp luật được chia thành nhiều loại: Dịch vụ tư vấn và tranh tụng trong nhiều
lĩnh vực pháp luật; dịch vụ tư vấn và tranh tụng liên quan đến luật hình sự; dịch
vụ tư vấn và tranh tụng về các thủ tục tại tòa án liên quan đến các lĩnh vực pháp
luật khác; dịch vụ tư vấn và tranh tụng về các thủ tục theo quy định của luật
thành văn tại các tổ chức mang tính chất tịa án; dịch vụ cung cấp và chứng nhận
hồ sơ pháp luật; dịch vụ khác về thông tin pháp luật và tư vấn.
Theo từ điển Luật học của Viện Khoa học pháp lý, “DVPL là loại hình
dịch vụ do những tổ chức, cá nhân có hiểu biết, có kiến thức và chun mơn
pháp luật được Nhà nước tổ chức hoặc cho phép hành nghề thực hiện nhằm đáp

ứng nhu cầu được biết, được tư vấn hoặc giúp đỡ về mặt pháp lý của các tổ
chức, cá nhân trong xã hội”.
Theo tác giả Nguyễn Văn Tuấn, “DVPL là tổng thể các dịch vụ tư vấn
pháp luật và dịch vụ đại diện pháp lý… những người đủ tiêu chuẩn để cung cấp
DVPL chỉ có thể là luật sư”. Theo đó, phạm vi DVPL được xác định gồm: Dịch
vụ tư vấn pháp luật; dịch vụ đại diện pháp lý (trong tố tụng tư pháp, trong thủ
tục hành chính, tố tụng trọng tài và đại diện theo ủy quyền về những vấn đề liên
quan đến pháp luật; các hoạt động DVPL khác như soạn thảo hợp đồng, các giấy
tờ pháp lý… [47, tr46].
Theo TS. Nguyễn Văn Tuân thì “phạm vi DVPL bao gồm DVPL của luật
sư với bốn lĩnh vực hành nghề như pháp luật hiện hành quy định đó là: Tư vấn
pháp luật, tranh tụng, đại diện, DVPL khác và DVPL của tổ chức, đoàn thể xã
hội với hoạt động chủ yếu là tư vấn pháp luật theo Nghị định 65/NĐ-CP ngày
11/6/2003 của Chính phủ về tổ chức, hoạt động tư vấn pháp luật” [46, tr18].
8


Theo TS. Đặng Vũ Huân “DVPL là tổng thể các dịch vụ tư vấn pháp luật
và dịch vụ đại diện pháp lý được định lập và thực hiện theo quy định của pháp
luật của nước nơi các dịch vụ đó được định lập và có thể được thực hiện trong
các lĩnh vực pháp luật nội dung và thủ tục tố tụng khác nhau của hệ thống pháp
luật quốc gia” [18, tr10].
Tác giả Nguyễn Như Chính có quan điểm rằng “dịch vụ thương mại pháp
lý là loại hình dịch vụ liên quan tới lĩnh vực pháp luật mà công việc của bên
cung ứng dịch vụ cho khách hàng để hưởng lợi nhuận có liên quan chặt chẽ với
các vấn đề pháp luật, quyền và nghĩa vụ theo pháp luật mà bên sử dụng dịch vụ
quan tâm’’.
Có thể nhận thấy rằng, các quan điểm nêu trên đều tiếp cận DVPL dưới
góc độ thương mại. Theo đó các đặc điểm cơ bản của DVPL là một hoạt động
thương mại, có cung có cầu, chủ thể thực hiện DVPL phải đáp ứng được những

điều kiện theo quy định của pháp luật, đối tượng mà DVPL hướng đến là quy
định của các lĩnh vực pháp luật và quá trình thi hành pháp luật trong đời sống.
Với quan niệm về DVPL như vậy thì hiện nay, chủ thể cung cấp DVPL bao gồm
cả tổ chức HNLS, tổ chức công chứng, tổ chức thừa phát lại… Tuy nhiên, trong
phạm vi đề tài này, tác giả chỉ nghiên cứu hoạt động cung cấp DVPL của nghề
luật sư, các vấn đề phát sinh và liên quan đến DVPL do nghề luật sư cung cấp.
Từ sự phân tích những quan điểm, khái niệm về luật sư và DVPL nêu trên,
trong phạm vi, đối tượng nghiên cứu của đề tài, tác giả có thể đưa ra khái niệm về
nghề luật sư như sau: Nghề luật sư là hoạt động nghề nghiệp của luật sư và tổ
chức HNLS trong việc cung ứng DVPL cho các tổ chức, cá nhân có nhu cầu sử
dụng DVPL với mục đích nhận thù lao.
Như vậy, tác giả loại trừ hoạt động của luật sư, tổ chức HNLS khi thực
hiện trợ giúp pháp lý miễn phí cho các đối tượng được trợ giúp pháp lý với trách
nhiệm xã hội của luật sư, tổ chức HNLS và các hoạt động khác không nhằm
cung cấp DVPL để nhận thù lao.
1.1.2. Đặc điểm của nghề luật sư
9


Thứ nhất, hoạt động HNLS mang tính chất thương mại hành nghề chủ yếu
bằng kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm chuyên môn chứ không phải là vốn vật
chất. Đây là hoạt động nghề nghiệp có sinh lợi nhuận. Đặc điểm này biểu hiện ở
chỗ nghề nghiệp mà luật sư hoạt động mang tính chất dịch vụ (DVPL) và là loại
hình dịch vụ có thù lao, theo đó người sử dụng DVPL phải trả cho người hoạt
động nghề luật sư một khoản thù lao theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp
luật. Người hoạt động nghề nghiệp sử dụng thù lao này như một nguồn thu nhập
và phải nộp thuế. Mặt khác, tổ chức HNLS cung cấp DVPL được tổ chức và hoạt
động như loại hình doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ, ở hầu hết các nước trong đó
có cả Việt Nam đều ghi nhận mơ hình hoạt động nghề nghiệp luật sư dưới dạng
này trong Hiệp định chung về thương mại, dịch vụ GATS của WTO, hiệp định

thuơng mại Việt Mỹ hay hệ thống ngành kinh tế của Việt Nam. Tuy nhiên, hoạt
động nghề nghiệp này vẫn được hưởng một cơ chế đặc thù riêng so với các loại
hình dịch vụ thơng thường do đây là lọai hình kinh doanh dịch vụ về pháp luật
(một trong những vấn đề cơ bản, quan trọng của một quốc gia, là cầu nối giữa
Nhà nước và người dân).
Thứ hai, hoạt động HNLS trên cơ sở quy định của pháp luật và quy tắc
đạo đức nghề nghiệp luật sư. Là loại hình kinh doanh các dịch vụ về pháp luật,
tuy nhiên, HNLS cũng phải tuân theo hành lang quy định của pháp luật. Luật sư
được cấp chứng chỉ hành nghề hay tổ chức HNLS đăng ký hoạt động phải đáp
ứng điều kiện, tiêu chuẩn được quy định trong các văn bản pháp luật, hoạt động
HNLS trong phạm vi pháp luật quy định, không được vi phạm những điều pháp
luật cấm, đồng thời hoạt động HNLS được quản lý bởi cơ quan quản lý nhà
nước có thẩm quyền. Luật sư, tổ chức HNLS trong quá trình hành nghề phải ứng
xử theo quy tắc đạo đức nghề nghiệp trong các quan hệ với khách hàng, đồng
nghiệp, tổ chức và xã hội. Đây là các nguyên tắc đặc thù xuất phát từ vai trò tự
quản của tổ chức nghề nghiệp luật sư, các quy tắc này do tổ chức xã hội nghề
nghiệp của luật sư đặt ra và được thực hiện trước hết bởi sự tôn trọng của mỗi
thành viên luật sư với nghề nghiệp của mình. Đồng thời, các quy tắc ứng xử này
có sức chi phối mạnh mẽ đến uy tín, danh dự của luật sư. Việc tôn trọng và thực
10


hiện nghiêm túc quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư có tính chất
quyết định đến chất lượng DVPL và luật sư cung cấp cho khách hàng.
Thứ ba, hoạt động HNLS mang tính nhân văn sâu sắc.
Giống như các hoạt động nghề nghiệp khác, nghề luật sư hình thành, tồn tại
và phát triển trong lịch sử xã hội loài người để nhằm phục vụ con người. Sự hình
thành của nhà nước đặt ra yêu cầu quản lý xã hội và pháp luật được lựa chọn là
công cụ thực hiện nhiệm vụ quản lý đó. Các quan hệ phát sinh trong xã hội được
Nhà nước điều chỉnh bằng pháp luật. Luật sư, với tư cách một nghề cung cấp

DVPL cho cá nhân, tổ chức sẽ phổ biến pháp luật, giải thích, trang bị cho khách
hành của mình tri thức pháp luật, củng cố ý thức chấp hành pháp luật cho khách
hành của mình. Đồng thời, với sự hiểu biết sâu sắc về pháp luật, luật sư bảo vệ
quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của mình trong các quan hệ của đời sống xã
hội khi phát sinh tranh chấp hoặc phòng ngừa rủi ro về pháp lý khi tham gia các
quan hệ đó. Các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng ở đây chính là nhân quyền,
các quyền của công dân được pháp luật tôn trọng, thừa nhận và bảo đảm, là tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản… quyền của tổ chức được pháp luật
quy định. Là một nghề pháp luật trong hệ thống tư pháp, nghề luật sư giống như
các nghề khác như: Tòa án, kiểm sát, thi hành án… luật sư có chức năng và sứ
mạng bảo vệ pháp luật, bảo vệ pháp chế trong nhà nước pháp quyền đảm bảo cho
pháp luật được thực thi một cách nghiêm minh, công bằng với đầy đủ bản chất
nhân văn của pháp luật. Luật sư, khi tham gia tố tụng dù ở vai trò bào chữa hay
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho các đương sự thì đều góp phần phân tích,
đánh giá các tình tiết vụ án, chứng cứ, các yếu tố pháp lý khác nhằm làm sáng tỏ
sự thật khách quan, từ đó giúp cho pháp luật được áp dụng đúng đắn, xét xử đúng
người, đúng tội. Người có quyền, lợi ích bị xâm phạm thì được bồi thường xứng
đáng, người vi phạm phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ và chấp hành các hình phạt
mà pháp luật quy định. Như vậy, vai trị bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các
chủ thể pháp luật trong quan hệ mà Nhà nước điều chỉnh thơng qua pháp luật và
vai trị bảo về pháp luật, pháp chế trong nhà nước pháp quyền là hai nhiệm vụ
song hành có mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau. Bởi vậy, tính nhân văn của nghề
11


nghiệp luật sư bất luận trong trường hợp nào cũng được coi là đặc tính vốn có
mang tính bản chất nghề nghiệp. Đối tượng của nghề nghiệp luật sư, vì thế khơng
đơn thuần mang tính dịch vụ và chỉ nghĩ đến việc kiếm lời từ dịch vụ đó, mà
trước hết chính là nhằm đáp ứng nhu cầu chính đáng, sự bảo đảm quyền lợi của tổ
chức, cá nhân cần được sự trợ giúp pháp lý.

Thứ tư, nghề nghiệp luật sư là nghề tự do và đề cao vai trò cá nhân. Đặc
điểm này thể hiện ở việc các luật sư có hoạt động hành nghề độc lập với nhau,
luật sư khi hành nghề trên cơ sở kiến thức, trình độ, năng lực, kinh nghiệm và kỹ
năng nghề nghiệp tự mình đưa ra quan điểm và sự trợ giúp của cá nhân mình với
khách hàng, đồng thời chịu trách nhiệm cá nhân về kết quả trợ giúp ấy trước
pháp luật và trước khách hàng. Tùy theo nhu cầu của mình, khách hàng có thể
mời một hay nhiều hơn một luật sư cùng tham gia cung cấp DVPL cho mình,
tuy nhiên các luật sư này khi thực hiện DVPL đều phải chịu trách nhiệm cá nhân
về dịch vụ mình đã thực hiện hoặc nếu có sự thỏa thuận khác thì các luật sư
cùng tham gia cung cấp DVPL cùng liên đới chịu trách nhiệm về kết quả của
dịch vụ, tuy nhiên, sự liên đới này chỉ trong phạm vi những luật sư được mời
tham gia và có sự thỏa thuận với nhau. Hơn nữa, trong hoạt động nghề nghiệp
của mình, luật sư không bắt buộc phụ thuộc vào quan điểm, ý kiến của cá nhân
hay cơ quan, tổ chức nào. Trong một số trườn hợp, luật sư có thể tham khảo ý
kiến của các chuyên gia, người có thẩm quyền … tuy nhiên luật sư khơng bắt
buộc phải tn theo mà hồn tồn có thể đưa ra quan điểm của riêng mình trên
cơ sở phân tích, đánh giá, sự am hiểu pháp luật và kỹ năng vận dụng pháp luật
của mình để đạt được hiệu quả hành nghề cao nhất. Bên cạnh đó, trong hoạt
động nghề nghiệp luật sư uy tín nghề nghiệp của cá nhân luật sư đóng vai trị
quan trọng trong chất lượng, hiệu quả hành nghề của luật sư đó, tức là vai trị cá
nhân ln ln được xem trọng và đề cao.
Thứ năm, nghề nghiệp luật sư mang tính xã hội rộng rãi. Có thể nói trong
bất cứ mối quan hệ nào trong đời sống pháp luật để được điều chỉnh bằng pháp
luật, vì vậy, liên quan đến bất cứ lĩnh vực nào, quan hệ nào trong trường hợp
nhất định đều cần sử dụng DVPL của luật sư. Như vậy, đối tượng hướng đến của
12


nghề luật sư bao gồm hấu hết các đối tượng là cá nhân hay tổ chức bất cứ khi
nào đều có thể gặp vấn đề về pháp lý cần được hỗ trợ, bất cứ lĩnh vực nào, mối

quan hệ nào cũng cần đến DVPL của nghề luật sư, bên cạnh những quan hệ
thơng thường như: dân sự, hình sự, thương mại, lao động, hành chính … thậm
chí cả những quan hệ quốc tế giữa các quốc gia cũng cần đến DVPL của luật sư.
Lúc này, DVPL của luật sư không chỉ bó hẹp trong phạm vi pháp luật của một
quốc gia nữa mà là pháp luật nước ngoài khi khách hàng có hoạt động đầu tư,
giao dịch thương mại, vi phạm pháp luật nước ngoài… và pháp luật quốc tế
trong phạm vi các Điều ước quốc tế, công ước quốc tế, Hiệp định… mà quốc gia
mình hoặc quốc gia có yêu cầu DVPL của mình ký kết.
Thứ sáu, người HNLS địi hỏi phải có tính chun nghiệp, có trình độ
chun môn sâu về kiến thức pháp lý, kiến thức xã hội và kỹ năng hành nghề.
Với vai trò bảo về quyền lợi ích hợp pháp, chính đáng cho các chủ thể pháp lý,
nghề luật sư yêu cầu người hành nghề phải đạt được trình độ chun mơn về
pháp lý sâu, rộng, trình độ pháp lý của luật sư khơng dừng lại ở mức độ biết,
hiểu quy định của pháp luật mà địi hỏi phải giải thích, phân tích, đánh giá được
để vận dụng trong thực tế cho từng sự kiện pháp lý cụ thể, đồng thời, luật sư còn
đánh giá được mức độ hợp lý, hợp pháp của quy định pháp luật đó. Các chủ thể
pháp luật mà luật sư bảo vệ có thể là bất cứ cá nhân, tổ chức nào thuộc các đối
tượng khác nhau, sự kiện pháp lý mà họ đang yêu cầu luật sư trợ giúp có thể
thuộc bất cứ ngành, nghề, lĩnh vực hay quan hệ xã hội nào, vì vậy bên cạnh kiến
thức chuyên sâu về pháp luật, luật sư cần phải có tích lũy hiểu biết về kiến thức
xã hội để phục vụ cho hoạt động hành nghề của mình. Trên thực tế cho thấy, kỹ
năng hành nghề của luật sư là yếu tố đặc biệt quan trọng bên cạnh kiến thức
pháp lý, kiến thức xã hội để luật sư có thể đánh giá, nhận định sự thật khách
quan về sự kiện pháp lý của khách hàng mình để đưa ra dịch vụ hiệu quả nhất
cho khách hàng.
1.1.3. Vai trò của nghề nghiệp luật sư trong đời sống xã hội
Với hoạt động cung cấp DVPL của mình, nghề nghiệp luật sư thể hiện vai
trị quan trọng của mình trong đời sống xã hội. Trước hết, là loại hình nghề
13



nghiệp dịch vụ, nghề nghiệp luật sư cũng giống như các loại hình dịch vụ khác
có vai trị thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, phục vụ nhu cầu của con người, giải
quyết việc làm, đóng góp cho ngân sách nhà nước… Tuy nhiên, với đặc thù
nghề nghiệp, nghề luật sư còn được ghi nhận với những vai trò sau:
Thứ nhất, trong việc bảo vệ quyền của bị can, bị cáo và các đương sự
trước Tòa.Trong lịch sử, vai trò của luật sư trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của bị can, bị cáo và các đương sự tại tịa khơng phải mọi lúc, mọi nơi
được tơn trọng. Ở những nước mà mối quan hệ giữa con người với con người bị
ảnh hưởng của tâm linh, thần cảm thì nghề luật sư chậm phát triển, ví dụ như ở
các nước Hồi giáo nghề luật sư ít phát triển, thâm chí khơng có nghề luật sư.
Ngược lại, ở các nước dân chủ và phát triển tiến bộ thì nghề luật sư lại giữ vai
trò rất quan trọng để đảm bảo công lý mọi người dân khi tham gia tố tụng đều có
sự giúp đỡ từ phía những nhà pháp luật chuyên nghiệp là luật sư. Theo người
dân ở những đất nước này thì luật sư khi tham gia bảo vệ quyền lợi cho khách
hàng, cho cá nhân, phải đặt quyền lợi của cá nhân cao hơn hoặc bằng quyền lợi
của cộng đồng xã hội.
Trên thế giới, nghề luật sư được tổ chức theo nhiều hình thức và rất đa
dạng xuất phát và tùy theo đặc thù lịch sử, văn hóa, cách suy nghĩ cũng như hệ
thống pháp luật của mỗi nước. Mặc dù có nhiều quan điểm khác nhau về nghề
luật sư nhưng đều có chung một điểm cho rằng, luật sư là một nghề trong xã hội,
là cơng cụ hữu hiệu góp phần bảo đảm cơng lý. Thơng thường người dân bị hạn
chế bởi trình độ văn hóa, nhận thức, điều kiện sống, tập tục… đặc biệt là không
được đào tạo bài bản, chuyên nghiệp dẫn đến sự hiểu biết pháp luật cũng hạn
chế, trong những sự kiện pháp lý nhất định không tự bào chữa, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình. Tổ chức HNLS được thành lập để giải quyết nhu cầu
được hỗ trợ về mặt pháp lý bằng những DVPL chuyên nghiệp, trình độ am hiểu
pháp luật chuyên sâu.
Thứ hai, trong hoạt động tư vấn pháp luật. Luật sư trước hết là một
chuyên gia pháp luật, họ vận dụng pháp luật bằng tư duy pháp lý khoa học, trình

độ hiểu biết sâu sắc các quy định của pháp luật và bằng kỹ năng nghề nghiệp. Sự
14


hội tụ của các yếu tố đó khiến luật sư trở thành nhà cố vấn pháp luật tin tưởng
cho các cá nhân, tổ chức khi tham gia vào các quan hệ xã hội hay trong một sự
kiện pháp lý cụ thể. Hoạt động tư vấn pháp luật là hoạt động thường xuyên của
luật sư, tùy từng sự việc cụ thể, hoạt động tư vấn của luật sư có thể là đưa ra ý
kiến pháp lý bằng miệng, bằng văn bản, hướng dẫn khách hàng hiểu biết đầy đủ
về quyền, lợi ích cũng như trách nhiệm, nghĩa vụ của mình theo quy định của
pháp luật, từ đó có những ứng xử phù hợp theo đúng pháp luật. Hoạt động tư
vấn của luật sư cũng có thể là hoạt động soạn thảo các hợp đồng, di chúc, đơn
hay các văn bản khác có liên quan đến pháp luật phục vụ cho việc giải quyết sự
kiến pháp lý của khách hàng.
Thông qua dịch vụ tư vấn pháp luật của luật sư trang bị cho các chủ thể
quan hệ pháp luật kiến thức pháp luật đầy đủ hơn, từ đó tăng cường ý thức tn
thủ pháp luật, phịng ngừa các tranh chấp có thể phát sinh, ngăn chặn những
hành vi vi phạm pháp luật, giảm áp lực giải quyết cho các cơ quan quản lý nhà
nước, tiết kiệm ngân sách… và một vai trò quan trọng hơn đó là, hoạt động tư
vấn pháp luật tạo ra môi trường pháp lý lành mạnh, minh bạch, ít rủi ro góp
phần thu hút đầu tư cho các tổ chức trong và ngoài nước thúc đẩy phát triển kinh
tế - xã hội. Đặc biệt là trong giai đoạn nền kinh tế phẳng, các quốc gia có xu
hướng hội nhậo quốc tế sâu, rộng thì nhu cầu tư vấn pháp luật của nước sở tại là
cấp thiết hơn bao giờ. Đây cũng là một trong những DVPL quan trọng mà chỉ có
các tổ chức HNLS mới đủ sức cung cấp một cách chuyên nghiệp và đáp ứng đầy
đủ niềm tin, sự mong đợi của khách hàng.
Ở khía cạnh quản lý nhà nước, hoạt động tư vấn pháp luật của luật sư góp
phần tích cực trong việc đưa pháp luật vào trong đời sống xã hội một các tồn
diện, chính xác, bảo đảm được sự công bằng, dân chủ với đúng bản chất, ý
nghĩa, vai trị vốn có của pháp luật.

Thứ ba, hoạt động HNLS là nhân tố tích cực tham gia tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục pháp luật, xây dựng và hồn thiện pháp luật. Có thể nói, bất cứ
một quan hệ pháp luật thuộc lĩnh vực nào, khi có sự kiện pháp lý xảy ra, luật sư
tiếp nhận yêu cầu của khách hàng và phải nghiên cứu, tìm tịi, phân tích kỹ
15


lưỡng, đánh giá khách quan cả về mặt khoa học pháp lý và hoàn cảnh thực tiễn.
Luật sư, ngoài việc đánh giá sự việc theo con mắt của người làm luật thì cịn một
góc nhìn khác đó là sự thật khách quan mà ở đó, có thể luật pháp đã điều chỉnh
đúng hoặc không đúng, đầy đủ hoặc chưa đầy đủ và cũng có thể là chưa được
điều chỉnh bởi pháp luật. Lúc này, ý kiến của luật sư mang tính phản biện thiết
thực tới các cơ quan quản lý nhà nước, các nhà làm luật và đây chính là nguồn
tài liệu thực tiễn vô cùng phong phú để giúp các nhà làm luật ngày càng hoàn
thiện hệ thống pháp luật hơn.
1.2. Khái niệm pháp luật về HNLS
1.2.1. Khái niệm, vai trị của pháp luật về HNLS
Cho đến nay, ít có quan điểm nào đưa ra xem xét pháp luật về HNLS dưới
dạng một định nghĩa hoàn chỉnh. Từ định nghĩa về nghề luật sư và những tính
chất đặc thù, trên cơ sở phân lý luận chung về pháp luật, Tiến sĩ Phan Trung
Hoài đã đưa ra Khái niệm pháp luật về luật sư như sau: “Pháp luật về luật sư là
tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát sinh
trong tổ chức và hoạt động nghề nghiệp giữa luật sư với khách hàng, các cơ
quan THTT và cơ quan có thẩm quyền khác, về việc quản lý Nhà nước và sự tự
quản của tổ chức xã hội nghề nghiệp luật sư do Nhà nước đặt ra, thừa nhận và
bảo đảm thi hành”. [Luận án tiến sĩ “cơ sở lý luận của việc hoàn thiện pháp luật
về luật sư hiện nay]
Ở đây, mặc dù có sự khác nhau về câu từ, chữ mà tác giả sử dụng, “pháp
luật về luật sư” và “pháp luật về HNLS”, tuy nhiên, xem xét tổng thể nội dung
nghiên cứu có thể thấy sự tương đồng . Khi nghiên cứu pháp luật về luật sư,

trong luận án của mình, tiến sĩ Phan Trung Hịai cũng xem xét tổng thể các quy
định của pháp luật về tổ chức, hoạt động của luật sư. Luật sư, đặt trong các mối
quan hệ mà pháp luật điều chỉnh gắn liền với hoạt động HNLS. Người có đủ
điều kiện, tiêu chuẩn được làm luật sư theo quy định thì trong hoạt động hành
nghề được điều chỉnh bởi các quy định pháp luật về luật sư hay có thể gọi là
pháp luật về HNLS.
16


Với khái niệm như nêu ở trên, Tiến sĩ Phan Trung Hoài đã liệt kê cụ thể
các mối quan hệ xã hội phát sinh trong tổ chức và hoạt động luật sư, lấy luật sư
là trung tâm trong các mối quan hệ với: Khách hàng, cơ quan THTT, cơ quan có
thẩm quyền khác, về quản lý nhà nước và chế độ tự quản của tổ chức xã hội
nghề nghiệp của luật sư.
Theo quan điểm của tác giả, giống như bất cứ loại hình nghề nghiệp nào,
khi pháp luật điều chỉnh thì trước hết cần xác định cho nó một vị trí pháp lý, tức
là định vị nó là cái gì? Nó có vai trị, chức năng như thế nào? Từ đó đặt ra hành
lang pháp lý điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh. Như vậy, như khái niệm mà
Tiến sĩ Phan Trung Hoài đưa ra, các mối quan hệ xã hội phát sinh trong tổ chức
và hoạt động của luật sư mà pháp luật cần điều chỉnh chỉ gói trong quan hệ giữa
“luật sư với khách hàng, với cơ quan THTT, và cơ quan có thẩm quyền khác, về
việc quản lý Nhà nước và sự tự quản của tổ chức xã hội nghề nghiệp luật sư do
Nhà nước đặt ra, thừa nhận và bảo đảm thi hành”, sự liệt kê này chưa đầy đủ,
bởi lẽ ngay bản thân “luật sư”, “HNLS”, “tổ chức HNLS”… là những vấn đề rất
cơ bản mà pháp luật phải định vị để xác định các mối quan hệ xã hội phát sinh.
Có nghĩa là, việc định vị “luật sư”, các chủ thể của pháp luật về HNLS mới có
vai trị quan trọng và trung tâm. Hơn nữa, với những đặc điểm rất riêng của nghề
luật sư, với vai trị và vị trí quan trọng trong nền tư pháp cùng các chức danh tư
pháp khác, việc điều chỉnh các điều kiện, tiêu chuẩn để trở thành luật sư, để
HNLS cũng như các quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của luật sư, phạm vi hoạt

động, hình thức hành nghề …. cũng là những vấn đề rất cần thiết.
Vì vậy, trên cơ sở quan điểm của Tiến sĩ Phan Trung Hoài về pháp luật về
Luật sư, đứng dưới góc nhìn kinh tế, tác giả đưa ra quan điểm của mình như sau:
“Pháp luật về HNLS là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các mối
quan hệ phát sinh liên quan đến luật sư, tổ chức HNLS và hoạt động cung cấp
dịch vụ vụ pháp lý của luật sư, tổ chức HNLS do Nhà nước đặt ra, thừa nhận và
bảo đảm thi hành”
Nhiều nước trên thế giới có đạo luật riêng điều chỉnh về tổ chức và HNLS
với tên gọi gắn với thuật ngữ “luật sư” hoặc “HNLS”, ví dụ: Đạo luật về HNLS
17


năm 1984 (được sửa đổi năm 2011) của Singapore; Đạo luật về luật sư (B.E
2528) năm 1995 của Thái Lan; Luật về luật sư năm 1996 của Cộng hòa nhân
dân Trung Hoa, sửa đổi ngày 28/10/2007; Luật về HNLS số 205 năm 1949 của
Nhật Bản, sửa đổi ngày 24/6/201; Luật HNLS số 3594 năm 1982 của Hàn Quốc;
Bộ luật về hành nghề của ĐLS Vương quốc Anh và xứ Wales; Luật về cải cách
HNLS năm 1991 của Cộng hòa Pháp; Luật về hành nghề pháp lý số 109 năm
1987 của Bang New South Wales của Australia sửa đổi ngày 19/8/2005.
1.2.2. Nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật của hoạt động HNLS
Hoạt động HNLS trên thực tế phát sinh xung quan nó rất nhiều quan hệ xã
hội, có những quan hệ chỉ phát sinh trong trong hoạt động luật nhưng lại diễn ra
thường xuyên mà bất cứ cá nhân luật sư nào, tổ chức luật sư nào hay đều nằm
trong trong mối quan hệ ấy, nói cách khác, đây là những quan hệ mang tính chất
điển hình, phổ biến trong nghề luật sư, để có một chuẩn mực xử sự chung cho
các chủ thể địi hỏi phải có sự điều chỉnh của pháp luật. Tuy nhiên, bên cạnh đó
có những quan hệ phát sinh trong hoạt động nghề nghiệp luật sư nhưng mang
bản chất của quan hệ pháp luật khác và đã được điều chỉnh bởi các các quy
phạm pháp luật chuyên ngành khác hoặc được điều chỉnh bởi các quy phạm đạo
đức, quy pháp xã hội khác thì khơng nhất thiết phải điều chỉnh trong quy định

pháp luật luật sư. Có nhiều cơ sở, tiêu chí để xác định những mối quan hệ phát
sinh trong HNLS cần điều chỉnh bởi pháp luật về nghề luật sư và những mối
quan hệ không cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật, chúng ta có thể xác định
trên các cơ sở cơ bản như sau:
Về cơ sở chính trị, từ phía nhà nước đặt ra những yêu cầu cần điều chỉnh
hoạt động HNLS trước hết là để thể hiện vai trò trò đại diện quản lý, duy trì một
trật tự xã hội của một quốc gia và thực hiện trách nhiệm bảo đảm các quyền tự
do cơ bản của công dân và con người, đặc biệt trong nhà nước pháp quyền, các
giá trị công bằng và dân chủ luôn được coi trọng và bảo đảm thi hành, khi các
quyền con người và quyền cơng dân được ghi nhận trong Hiến pháp thì tất yếu
đòi hỏi một hệ thống quy định pháp luật dành cho nghề luật sư với vai trò là
phương tiện để thực thi dân chủ và thực hành công lý, bảo đảm công bằng và
18


khuyến khích tơn trọng quyền của con người, quyền của cơng dân trong vị trí là
đối tượng quản lý của nhà nước.
Tiếp theo, sự điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động nghề nghiệp là
một sự bảo đảm của nhà nước cho sự phát triển ổn định, lâu dài với hoạt động
nghề nghiệp này phù hợp với định hướng của nhà nước và phù hợp với thể chế
chính trị, sao cho người HNLS, tổ chức HNLS được đảm bảo các giá trị thụ
hưởng quyền lợi vật chất, tinh thần, sự tôn vinh xứng đáng của xã hội nhằm tạo
ra sự phát triển ổn định phù hợp với mục tiêu, chức năng nghề nghiệp. Theo đó,
các vấn đề cơ bản như điều kiện, tiêu chuẩn để HNLS, phạm vi HNLS, quyền và
nghĩa vụ của luật sư, các hành vi bị cấm, các yêu cầu về chất lượng cung cấp
DVPL và tuân thủ quy tắc ứng xử và đạo đức nghề nghiệp luật sư, các điều kiện
đảm bảo cho luật sư hành nghề, nội dung quản lý nhà nước về HNLS…. Sự điều
chỉnh này nhằm xây dựng và phát triển đội ngũ luật sư cả về số lượng và chất
lượng. Có thể nói, ở đa số các quốc gia, tiêu chuẩn để một người có thể hành
nghề luật là rất cao. Để trở thành luật sư, người đó phải trải qua đào tạo cử nhân

chuyên ngành luật, đào tạo nghiệp vụ luật sư và phải có q trình tập sự HNLS.
Q trình này kéo dài liên tục ít nhất khoảng 8 năm, sau 8 năm ấy, người tập sự
HNLS phải trải qua kì kiểm tra ngặt nghèo về cả kiến thức chuyên môn cũng
như kỹ năng nghề nghiệp, vựơt qua được kì kiểm tra này mới đáp ứng được điều
kiện, tiêu chuẩn trở thành luật sư và được phép HNLS.
Một nhu cầu nữa xuất phát từ phía nhà nước đó là tận dụng vai trị của
nghề luật sư trong việc đóng góp cho ngân sách (tiền thuế, phí, lệ phí, ủng hộ,
tài trợ…) và những giá trị xã hội mà nghề luật sư mang lại như: góp phần nâng
cao nhận thức, ý thức pháp luật của các tổ chức, cá nhân; góp phần tạo ra mơi
trường đầu tư lành mạnh, ít rủi do và đối với hoạt động tư pháp, nghề luật sư là
nhân tố quan trọng góp phần giảm oan sai, tiết kiệm kinh phí cho việc xét xử,
bảo đảm sự công bằng, khách quan trong việc thực hiện pháp luật.
Cơ sở kinh tế, dưới góc nhìn thương mại, nghề nghiệp luật sư cũng giống
như các loại hình nghề nghiệp khác cần được điều chỉnh bằng pháp luật trước
hết để bảo đảm một trật tự khi hành nghề, đảm bảo duy trì quyền lợi, nghĩa vụ
19


của các chủ thế trong quan hệ ấy và đảm bảo cho việc quản lý nhà nước. Đặc
biệt trong nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh giữa các chủ thể. Trong bất cứ
hoạt động thương mại nào thì hiệu suất và hiệu quả kinh tế của các chủ thể được
đặt lên hàng đầu, nghề luật sư cũng không nằm ngịai sự vận hành đó, tuy nhiên
với đặc thù nghề nghiệp, pháp luật cần đảm bảo tính hợp pháp, hợp lý và công
bằng xã hội trong HNLS. Với sự điều chỉnh của pháp luật, hành lang pháp lý
đảm bảo cho hoạt động nghề nghiệp này sinh ra lợi ích vật chất và giá trị tinh
thần xứng đáng và phù hợp với cơ chế vận hành trong nền kinh tế thị trường
bằng việc quy định cơ chế linh hoạt để luật sư hưởng thù lao từ DVPL của mình
trong từng vụ việc cụ thể. Thù lao này được ước tính trên cơ sở giá trị đầu tư,
giá trị công sức, thời gian, giá trị kiến thức của luật sư và cũng đảm bảo cho cho
một khoản lời nhất định. Đây cũng là động lực thu hút người tham gia HNLS,

cũng như là yếu tố nội tại thúc đẩy nâng cao tính chuyên nghiệp của nghề luật sư
nhằm cung cấp DVPL có chất lượng ngày càng cao, đáp ứng được địi hỏi của
khách hàng và xã hội, cùng với đó sẽ được thụ hưởng giá trị vật chất và tinh
thần mà khách hàng và xã hội đem lại.
Ở tầm nhìn rộng lớn hơn khi xu hướng hội nhập quốc tế ngày càng sâu
rộng, những thách thức và cả những cơ hội trong tiến trình hội nhập quốc tế địi
hỏi pháp cụ thể hóa về mặt pháp luật, tạo khn khổ cho các quan hệ kinh tế
phát triển trong đó có pháp luật về HNLS với các hoạt động dịch vụ pháp - loại
hình dịch vụ thương mại theo tiêu chuẩn WTO. Khi các chủ thể tham gia nền
kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, tất yếu sẽ phát sinh các tranh chấp, xung
đột về quyền lợi và các bất cập giữa các hệ thống pháp luật giữa các quốc gia
hay điều ước quốc tế. Lúc này, cần phải có hành lang pháp lý để luật sư phát huy
được vai trị và tính chun nghiệp trong hoạt động của mình cũng như có cơ
chế, chính sách bảo đảm sự cạnh tranh giữa luật sư trong nước và luật sư nước
ngoài trong hoạt động nghề nghiệp ở trong nước hoặc quốc tế.
Cơ sở xã hội của nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật đối với nghề luật sư,
như ở trên tác giả đã đề cập đến những vai trò rất quan trọng của nghề nghiệp
luật sư đối với đời sống xã hội. Sự điều chỉnh của pháp luật đối với hoạt động
20


nghề nghiệp này cũng chính là việc tạo điều kiện để luật sư phát huy đầy đủ vai
trị của mình. Vai trị của nghề luật được thể hiện thơng qua hoạt động cung cấp
DVPL của luật sư, qua đó một số mặt của đời sống xã hội được thúc đẩy nhờ có
hoạt động nghề nghiệp luật sư như: Vấn đề đảm bảo quyền con người, quyền
công dân, đảm bảo dân chủ, công lý, công bằng xã hội; đảm bảo pháp luật được
thực thi nghiêm túc, tồn diện, góp phần phổ biến, giáo dục pháp và hoàn thiện
hệ thống pháp luật…. Sự điều chỉnh phù hợp của pháp luật đối với đặc thù nghề
nghiệp sẽ có tác động tích cực tạo điều kiện cho luật sư phát huy tối đa vai trị
của mình. Pháp luật về luật sư vì thế phải thiết lập vị trí, vai trị đối với xã hội

của nghề luật sư, đội ngũ luật sư phải thực sự tham gia và trở thành lực lượng
thúc đẩy sự phát triển của dân chủ và xã hội.
1.3. Những vấn đề pháp lý cơ bản của pháp luật về nghề luật sư
Hay nói cách khác chính là phạm vi điều chỉnh của pháp luật về luật sư.
Từ sự phân tích cơ sở xác định nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật trong hoạt
động nghề nghiệp luật sư, có thể xác định các vấn đề pháp lý cơ bản cần điều
chỉnh trong pháp luật về luật sư như sau: Khái niệm luật sư; Nguyên tắc HNLS;
Điều kiện HNLS; Tiêu chuẩn và thủ tục công nhận luật sư; Đào tạo nghề luật sư
và tập sự hành nghề; Các hình thức hành nghề của luật sư, quyền và nghĩa vụ
của luật sư; Các loại hình tổ chức HNLS; Đạo đức nghề nghiệp, bảo hiểm trách
nhiệm nghề nghiệp của luật sư; Hành nghề của luật sư nước ngồi; Thù lao và
chi phí; Tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư; Trình tự, thủ tục xử lý kỷ luật
luật sư, giải quyết khiếu nại của luật sư; Một số quy định khác liên quan đến
hoạt động hành nghề của luật sư.
Ngoài đạo luật về luật sư, một số nước trong khu vực châu Á cịn có văn
bản quy phạm pháp luật riêng quy định về tổ chức luật sư toàn quốc, về hành
nghề của luật sư nước ngồi. Ví dụ: Luật về LĐLS Nhật Bản, Quy chế về hoạt
động của Văn phòng đại diện luật sư nước ngoài tại Trung Quốc (năm 2002).
1.3.1. Những vấn đề pháp lý chung
a) Nguyên tắc HNLS: Là những nguyên tắc cơ bản, xuyên suốt, làm nền
tảng để xây dựng các quy phạm pháp luật khác trong việc điều chỉnh hoạt động
21


nghề nghiệp luật sư, các quy phạm trong pháp luật luật sư phải đảm bảo phù hợp
với những nguyên tắc này. Những nguyên tắc này thông thường là những định
hướng mà nhà nước mong muốn và qua đó cũng thể hiện nhận thức, quan điểm
điều chỉnh của nhà nước về nghề luật sư. Ví dụ: Tuân thủ Hiến pháp, pháp luật
và quy tắc đạo đức nghề nghiệp; độc lập, trung thực, tôn trọng sự thật khách
quan; bảo đảm dịch vụ tốt nhất cho khách hàng; chịu trách nhiệm trước pháp

luật về hoạt động hành nghề.
b) Quản lý HNLS: Quản lý HNLS được thực hiện bởi hai chủ thể là nhà
nước và tổ chức xã hội nghề nghiệp của luật sư. Hai sự quản lý này là khác
nhau, nhà nước thực hiện việc quản lý với hoạt động hành nghề sao cho nghề
nghiệp đó duy trì và phát triển theo định hướng, u cầu, mục đích của mình,
trên cơ sở đó, nhà nước đảm bảo cho các quy định pháp luật mà mình đề ra được
thực thi nghiêm túc, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả. Tổ chức xã hội nghề nghiệp
luật sư là tổ chức hội của các luật sư được thành lập để làm nơi sinh hoạt nghề
nghiệp, thực hiện các hoạt động nhằm nâng cao chất lượng hành nghề của các
luật sư, đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích của luật sư thành viên; tổ chức xã hội
nghề nghiệp quản lý hoạt động HNLS bằng hình thức tự quản, nghĩa là những
quy tắc xử sự do các luật sư thành viên thống nhất xấy dựng, thông qua và làm
chuẩn mực ứng xử. Các quy tắc này được các luật sư thành viên thực hiện trên
tinh thần tự nguyện, các quy tắc, thiết chế xử lý vi phạm có giá trinh trong tổ
chức xã hội nghề nghiệp luật sư.
Để đảm bảo hiệu quả hoạt động quản lý luật sư, cần phải kết hợp chặt chẽ
hai chế độ này nhằm bảo đảm cho hoạt động HNLS ngày càng phát triển.
1.3.2. Những vấn đề pháp lý cụ thể
a) Điều kiện HNLS: Theo quy định pháp luật của nhiều nước trên thế giới,
thì điều kiện HNLS bao gồm chứng chỉ công nhận luật sư và gia nhập một ĐLS
hoặc tổ chức luật sư ở Trung ương. Như vậy, để được HNLS thì điều kiện cần là
phải được công nhận là luật sư và điều kiện đủ là đã được gia nhập một ĐLS.
Công nhận luật sư là việc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xác nhận một
người có đủ tiêu chuẩn luật sư theo quy định của pháp luật và được thể hiện
22


bằng việc cấp một giấy xác nhận. Ở các quốc gia khác nhau, giấy xác nhận này
có tên gọi khác nhau, cụ thể là Chứng chỉ công nhận luật sư; Chứng chỉ công
nhận đủ tiêu chuẩn HNLS, Chứng chỉ HNLS, Giấy phép HNLS...Tuỳ thuộc vào

quy định pháp luật của mỗi quốc gia, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cấp
Chứng chỉ cũng có sự khác nhau. Có nước quy định cơ quan có thẩm quyền cấp
Chứng chỉ cơng nhận luật sư là Tồ án (Anh, Mỹ, Pháp, Singapore), có nước
quy định Bộ Tư pháp (Trung Quốc). Đa số các nước tư cách luật sư là do cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền cơng nhận. Sau khi có Chứng chỉ HNLS, người
muốn HNLS phải gia nhập một ĐLS thì mới được phép HNLS. Đa số các nước
quy định việc gia nhập ĐLS là điều kiện bắt buộc để được HNLS (Hy Lạp, Bỉ,
Mỹ, Singapore, Đức, Anh, Brazil, Canada, Pháp, Nhật, Thái Lan).
Tiêu chuẩn luật sư: Luật sư hành nghề bằng kiến thức pháp luật, kỹ năng
nghề nghiệp của mình. Nói cách khác, phẩm chất và năng lực cá nhân là yếu tố
quyết định trong hoạt động nghề nghiệp của luật sư. Người muốn HNLS phải
được công nhận là luật sư. Pháp luật các nước đều quy định chặt chẽ về tiêu
chuẩn luật sư. Tiêu chuẩn tối thiểu để được công nhận là luật sư bao gồm: Có
bằng cử nhân luật; Có phẩm chất đạo đức tốt.
Ngoài 2 tiêu chuẩn phổ biến nêu trên thì ở các quốc gia như Hy Lạp, Bỉ,
Ý, Singapore, Anh, Thái Lan, Pháp còn quy định thêm một số tiêu chuẩn khác,
như: qua khoá đào tạo nghề luật sư, tập sự HNLS, đỗ kỳ thi công nhận luật sư.
b) Đào tạo nghề luật sư, tập sự HNLS và kỳ kiểm tra kết quả tập sự HNLS
Đào tạo, tập sự và kiểm tra kết quả tập sự HNLS là các tiêu chuẩn rất quan
trọng để trở thành luật sư. Bởi lẽ, nghề luật sư là một nghề có nhiều đặc thù đòi
hỏi người HNLS phải được đào tạo nghề và tập sự hành nghề trong một thời gian
nhất định. Quy định về đào tạo nghề, tập sự và kiểm tra kết quả tập sự HNLS ở
mỗi nước có sự khác nhau do chương trình đào tạo cử nhân luật khác nhau, nội
dung và yêu cầu của việc đào tạo nghề cũng khác nhau dẫn đến quy định về tập
sự cũng khác nhau. Có thể phân chia quy định pháp luật của các nước về vấn đề
này thành các nhóm như sau:
23


Nhóm 1: Khơng bắt buộc đào tạo nghề, khơng bắt buộc tập sự HNLS

(Hoa Kỳ là nước quy định theo chiều hướng này). Nhóm 2: Bắt buộc đào tạo
nghề nhưng không bắt buộc tập sự HNLS (Pháp luật về luật sư của Nhật Bản,
Thái Lan, Vương quốc Anh có quy định về khóa đào tạo nghề luật sư nhưng
khơng bắt buộc phải qua thời gian tập sự HNLS). Nhóm 3: Bắt buộc đào tạo
nghề, bắt buộc tập sự HNLS (Một số nước quy định người muốn trở thành luật
sư vừa phải qua thời gian đào tạo nghề, vừa phải qua thời gian tập sự HNLS như
Singapore, Pháp, bang New South Wales của Úc). Nhóm 4: Quy định lựa chọn
giữa đào tạo nghề và tập sự hành nghề (Bang Victoria của Úc)
b) Hoạt động HNLS
* Hình thức HNLS: Theo thơng lệ nghề luật sư, luật sư khi muốn hành
nghề thì buộc phải thành lập tổ chức HNLS hoặc làm việc theo hợp đồng lao
động cho tổ chức HNLS (tổ chức HNLS là những hình thức pháp nhân được nhà
nước thừa nhận và cấp phép hoạt động HNLS như: văn phòng luật sư, công ty
luật…). Tuy nhiên, quy định này giường như là cứng nhắc và không phù hợp với
yêu cầu mở rộng và phát triển DVPL của luật sư trong sự vận hành của xã hội
hiện tại. Trong nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế sâu sắc, nhu cầu sử
dụng DVPL luật sư của các tổ chức, doanh nghiệp, cơ quan nhà nước ngày càng
nhiều và thường xuyên, để đảm bảo cho hiệu quả công việc, các tổ chức này đặt
ra yêu cầu tuyển dụng một hoặc một nhóm luật sư chun mơn để thực hiện các
cơng việc mà lẽ ra họ phải đi thuê DVPL của luật sư. Về bản chất công việc này
vẫn thuộc phạm vi hoạt động DVPL của luật sư, là cần thiết người làm việc
trong các tổ chức này phải là luật sư để có đủ tư cách đại diện cho tổ chức khi
cần thiết và thực tế họ vẫn hoạt động như những luật sư thực thụ làm việc cho
các tổ chức HNLS. Xuất phát từ yêu cầu đó, nghề luật sư có sự cởi mở hơn, linh
động trong hình thức hành nghề bằng việc xuất hiện, thừa nhận hình thức luật sư
hoạt động hành nghề với tư cách cá nhân. Sự điều chỉnh kịp thời những mối
quan hệ xã hội mới phát sinh trong hoạt động nghề nghiệp luật sư của pháp luật
là hết sức cần thiết. Theo đó, luật sư có thể lựa chọn hành nghề với tư cách cá
nhân hoặc hành nghề trong tổ chức HNLS.
24



Theo quy định pháp luật của nhiều nước, hình thức tổ chức HNLS phổ
biến

là:

Văn

phịng

luật





nhân/hành

nghề

độc

lập

(sole

practitioner/principal); Cơng ty hợp danh (partnership). Ngồi 2 hình thức phổ
biến nêu trên thì ở nhiều nước cho phép luật sư thành lập công ty luật trách
nhiệm hữu hạn (Mỹ, Pháp, Canada, Bỉ, Singapore, Thái Lan, Đức). Bên cạnh đó,

một số nước như Hy Lạp, Arhentina, Italia, Mexico, Đài Loan, Brazil, Thuỵ Sỹ,
Nhật Bản, hình thức cơng ty luật trách nhiệm hữu hạn không được chấp nhận vì
khơng phù hợp với chế độ trách nhiệm vơ hạn đối với luật sư trong hoạt động
nghề nghiệp. Đối với nghề luật sư ở Anh, Mỹ thì hình thức cơng ty luật hợp
danh lại rất phổ biến. Một số nước cịn quy định hình thức luật sư hành nghề độc
lập mà không cần thành lập tổ chức hành nghề (Mỹ, Anh, Singapore, Canada)
hoặc cho phép hai hay nhiều luật sư biện hộ có chung văn phịng, chia sẻ một số
chi phí văn phịng nhưng khơng tham gia hợp danh với nhau (Italia, Đài Loan,
Anh, Pháp, Thuỵ Sỹ, Nhật). Ngoài ra, ở một số nước (Arhentina, Mỹ, Anh,
Singapore), luật sư có thể làm thuê cho khách hàng là cá nhân, doanh nghiệp, tổ
chức khác (lay client) với tư cách luật sư riêng (in-house lawyer) hoặc làm th
cho Chính phủ thơng qua hợp đồng với tư cách là người làm thuê. Một đặc điểm
khác biệt là người chủ thuê luật sư đồng thời cũng là khách hàng duy nhất của
luật sư đó. Hay nói một cách khác, luật sư làm th khơng được có khách hàng
riêng ngồi người chủ đã th luật sư đó. Trên thế giới có khơng ít luật sư làm
công ăn lương. Họ làm việc cho các doanh nghiệp hoặc cho các cơ quan của
Chính phủ. Nét cơ bản của luật sư làm công ăn lương so với những người làm
công ăn lương khác là họ chịu sự quản lý về thời gian của người chủ thuê họ,
còn về mặt nghiệp vụ họ hành nghề độc lập.
Ở một số nước như Italia, Thái Lan, Đài Loan thì trong Chính phủ và các
tổ chức doanh nghiệp tồn tại một đội ngũ tư vấn pháp luật. Những người này
khơng địi hỏi phải có đủ điều kiện, tiêu chuẩn như luật sư.
* Hoạt động hành nghề của luật sư với tư cách cá nhân: Luật sư hành
nghề với tư cách cá nhân tất yếu sẽ có những đặc điểm khác so với luật sư hành
nghề trong tổ chức HNLS. Luật sư hành nghề với tư cách cá nhân là việc luật sư
25


×