Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

TIỂU LUẬN trình bày hoàn cảnh lịch sử ,chủ trương chiến lược mới của đảng và quá trình đảng lãnh đạo tổng khởi nghĩa giành chính quyền giai đoạn 1939 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.54 KB, 18 trang )

Câu hỏi: Trình bày hồn cảnh lịch sử ,chủ trương chiến lược mới của Đảng và quá trình Đảng lãnh đạo
tổng khởi nghĩa giành chính quyền giai đoạn 1939-1945?

Bối cảnh lịch sử
1. Hoàn cảnh quốc tế:
Từ giữa những năm 30 của thế kỉ XX, các thế lực phát xít đã bành trướng ở nhiều quốc gia.
Chúng câu kết với nhau, tiến hành chạy đua vũ trang, chuẩn bị gây chiến tranh thế giới. Ngày 25 - 11 1936, Đức và Nhật Bản kí kết “Hiệp ước chống Quốc tế Cộng sản”. Một năm sau, ngày 6 - 11 - 1937,
Italia tuyên bố tham gia Hiệp ước này. Trục Beclin - Rơma - Tơk hình thành. Liên minh phát xít đã mở
rộng từ Châu Âu sang Châu Á.Trong thời gian này, các cuộc chiến tranh xâm lược cục bộ đã được phát
động ở một vài khu vực. Tháng 7 - 1937, Nhật Bản mở cuộc chiến tranh xâm lược quy mô lớn trên tồn
lãnh thổ Trung Quốc. do chính sách chống Nhật Bản tiêu cực của tập đoàn cầm quyền Tưởng Giới
Thạch, quân Nhật trong một thời gian ngắn đã được nhiều thành phố, trung tâm công nghiệp và các vị trí
đầu mối giao thơng quan trọng của Trung Quốc.
Tháng 7 - 1938, quân Nhật mở nhiều cuộc tấn công vào vùng hồ Khát-xan thuộc lãnh thổ Liên
Xơ để thăm dị. Trong khi đó, ở châu Âu, Anh và Pháp thực hiện chính sách nhượng bộ Phát xít Đức.
Ngày 29 - 8 - 1938, chính phủ hai nước này kí với Đức một hiệp ước tại Muyních (Đức), chấp nhận cho
Đức chiếm đóng Tiệp Khắc [1] với hy vọng hướng mũi tiến cơng của Đức về phía Đơng, đáng Liên
Xơ. Tháng 2 - 1939, Nhật chiếm đảo Hải Nam, phong tỏa hoàn toàn lục địa Trung Quốc. Tháng 3 - 1939,
quân Nhật tấn công vào khu vực sông Khan Khin Gôn của Mơng Cổ, khiêu khích Liên Xơ. Hồng qn
Liên Xơ phối hợp với qn Mơng Cổ tiêu diệt tồn bộ tập đoàn quân số 6 của Nhật Bản.
Ngày 23 - 8 - 1939, Liên Xơ kí với Đức hiệp ước khơng xâm phạm, để tránh rơi vào tình thế bị
tấn cơng từ hai phía Đơng và Tây, đồng thời để tranh thủ thời gian tăng cường lực lượng quốc phòng và
triệt để lợi dụng mâu thuẩn giữa hai khối đế quốc và Phát xít.
Từ 1-9-1939 đến 2-9-1945, Chiến tranh thế giới thứ hai khốc liệt diễn ra. Cuộc chiến gồm nhiều
mặt trận: mặt trận Tây Âu; mặt trận Xô - Đức; mặt trận Bắc Phi; mặt trận châu Á - Thái Bình Dương và
mặt trận trong lịng địch (của nhân dân các nước bị phát xít chiếm đóng). Trong đó, ngoài mặt trận chủ
yếu, quyết định đối với toàn bộ tiến trình của Chiến tranh thế giới thứ hai là mặt trận Xô-Đức, tác động
đến số phận của Việt Nam, là mặt trận Tây Âu (cụ thể là Pháp) và trực tiếp nhất là mặt trận châu Á-Thái
Bình Dương. Cũng trong Chiến tranh thế giới thứ hai, năm 1943, QTCS-tổ chức lãnh đạo phong trào vô
sản quốc tế đã tự giải tán, gây ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động của các ĐCS trên thế giới.
Nước Pháp tại mặt trận Tây Âu: Ngày 10-5-1940, quân Đức tràn vào Pháp, Bỉ, Hà Lan và Lúcxăm-bua. Chỉ trong thời gian ngắn, Đức vượt qua phòng tuyến của Pháp và đầu tháng 6 đến thủ đơ Pari.


Ngày 10-6, Chính phủ Pháp bỏ Pari chạy về Tua. Nội bộ Chính phủ Pháp mâu thuẫn, trong đó đa số
thành viên Chính phủ chấp nhận đầu hàng. Ngày 17-6, Pê tanh (Pétain) lên cầm đầu chính phủ đầu hàng
phát xít Đức, Ý. Nền Cộng hịa Pháp bị thủ tiêu, thay thế bằng chế độ độc tài qn sự. Ngày 27-10-1940,
Đờ Gơn (DeGaulle) thành lập “Chính phủ Pháp tự do”, muốn dựa vào lực lượng Anh, Mỹ để giải phóng
đất nước. Mỹ và Anh vẫn chưa tham gia chiến tranh, mà theo dõi tình hình các mặt trận. Khi thấy thất bại


của Đức đã rõ ràng, Mỹ - Anh mới mở Mặt trận thứ hai, đổ bộ lên miền
Bắc
Pháp
vào
ngày
6-6-1944.
Ngày 25-8-1944, quân Đồng minh tiến vào Pari. Chính phủ lâm thời của nước
Cộng
hịa
Pháp,
do
Đờ
Gơn đứng đầu, được thành lập ở Pari. Nước Pháp được giải phóng khỏi ách
phát xít Đức.
Mặt trận Xơ-Đức: Ngày 22-06-1941, Liên Xơ chính thức bước vào cuộc chiến. Phát xít Đức mở
cuộc tấn cơng trên khắp biên giới phía Tây của Liên Xô, dù tháng 8-1939, hai nước đã ký Hiệp ước
không xâm lược Xô-Đức. Tháng 10-1941, Đức tập trung lực lượng mở cuộc tấn công vào Mátxcơva.
Sáng 7-11-1941, kỷ niệm lần thứ 24 ngày Cách mạng Tháng Mười, một cuộc duyệt binh đặc biệt diễn ra,
trong đó các đơn vị duyệt binh sẵn sàng vũ khí và đạn dược, diễu qua Hồng trường và tiến thẳng ra mặt
trận. Trong đó, có một trung đồn quốc tế thuộc sư đoàn cơ động đặc nhiệm của Hồng quân (gọi tắt tiếng
Nga là OMSBON) gồm hơn 2.000 người cộng sản của Bungary, Séc, Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Pháp... Trận
Stalingrad diễn ra cuối năm 1942 mở đầu cho những thất bại của phát xít Đức. Ngày 16-4-1945, Liên Xơ
tấn cơng Béclin, và chiếm toàn thành phố ngày 2-5. Ngày 9-5-1945, lễ ký kết văn kiện đầu hàng không

điều kiện của phát xít Đức được tiến hành, kết thúc cuộc chiến tranh ở châu Âu.
Mặt trận châu Á - Thái Bình Dương: Ở châu Á, Nhật Bản sớm có dã tâm bành trướng. Tháng 91931, Nhật xâm lược miền Đông Bắc Trung Hoa, rồi dần mở rộng khu vực chiếm đóng. Tháng 11-1937,
Đức, Ý và Nhật ký Hiệp ước chống QTCS. Ngày 23-9-1940, với sự giúp đỡ của Đức, Nhật đã ký với
Chính phủ Pháp hiệp định để Nhật đưa quân đội vào Đơng Dương. Ngày 27-9-1940, ba nước phát xít lại
ký hiệp ước đồng minh quân sự và chính trị ở Béclin. Hiệp ước này nhằm chống Liên Xô, và cả Anh, Mỹ.
Hiệp ước đề ra việc phân chia thế giới: Đức, Ý ở châu Âu; Nhật ở Viễn Đông. Ngày 7-12-1941, máy bay
Nhật oanh tạc dữ dội các tàu chiến và sân bay Mỹ ở cảng Trân Châu (Hawaii), gây tổn thất nặng cho Mỹ.
Ngày 8-12-1941, Mỹ và Anh tuyên chiến với Nhật Bản. Từ cuối năm 1941 đến tháng 5-1942 là giai đoạn
Nhật Bản thắng lớn. Anh - Mỹ bị đánh bật ra khỏi Thái Bình Dương, mất hết các thuộc địa Đơng Nam Á
và Nam Thái Bình Dương. Ngày 7-12-1941, quân Nhật từ Đông Dương kéo vào Thái Lan. Ngày 31-121941, quân Nhật tấn công Inđônêxia. Ngày 15-2-1942, Xingapo thất thủ. Đầu tháng 5-1942, quân Nhật
chiếm được toàn bộ lãnh thổ Philíppin. Đầu năm 1943, Mỹ chuyển sang phản cơng trên tồn chiến
trường, chiếm lại các quần đảo và đảo ở Thái Bình Dương. Ngày 6-8 và ngày 9-8-1945, Mỹ ném hai quả
bom nguyên tử xuống Hirosima và Nagasaki, hủy diệt 2 thành phố này. Ngày 8-8-1945, Liên Xô tuyên
chiến với Nhật. Ngày 9-8-1945, Hồng quân Liên Xô chính thức mở cuộc tấn cơng vào đạo qn Quan
Đơng của Nhật và chỉ trong một tuần đã đánh bại đạo quân này. Ngày 15-8-1945, Nhật hoàng tuyên bố
đầu hàng các nước Đồng minh. Ngày 2-9-1945, Nhật chính thức ký văn kiện đầu hàng, Chiến tranh thế
giới thứ hai kết thúc.
Quốc tế Cộng sản tự giải tán Trong năm 1943, Quốc tế Cộng sản - tổ chức cách mạng quốc tế
lớn chỉ đạo phong trào cộng sản và công nhân quốc tế cũng như phong trào giải phóng dân tộc thuộc địa
- tự giải thể. Nguyên nhân là do Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra và lan rộng đã cản trở hoạt động của
Quốc tế Cộng sản. Sự khó khăn trong duy trì liên lạc với nhau cũng như đa dạng trong tình hình mỗi
nước khiến việc lãnh đạo phong trào cộng sản quốc tế từ một trung tâm duy nhất khơng cịn thích hợp
nữa. Thêm nữa, các thế lực tư bản quốc tế coi sự tồn tại của QTCS như cái cớ để trì hỗn việc triển khai


mặt trận đồng minh chống phát xít. Do nhu cầu cấp thiết phải “củng cố
hơn
nữa
mặt
trận

thống
nhất
của
các nước”, ngày 15-51943, Ban Chấp hành QTCS đã ra quyết định giải tán
QTCS.
Ngày
8-6-1943,
Hội
nghị cuối cùng của Ban Chấp hành QTCS ra nghị quyết, từ 10-6-1943, tất cả
hoạt
động
của
QTCS
kết
thúc. QTCS tự giải thể, ngoài nguyên nhân trực tiếp là tình hình chiến tranh,
cịn

căn
ngun
sâu
xa

tổ chức này đã hồn thành vai trị lịch sử của mình. Những sự kiện trọng đại
của
thế
giới
này

ảnh
hưởng lớn đến tình hình cách mạng ở Việt Nam.

2. Hoàn cảnh trong nước:
Do tham dự vào Chiến tranh thế giới thứ hai, chính quyền Pháp thực thi chính sách thời chiến
một cách thô bạo ở Đông Dương. Là thuộc địa đem lại lợi ích kinh tế hàng đầu cho Pháp, trong chiến
tranh, Đông Dương càng bị thực dân Pháp bóc lột ghê gớm. Chúng thực hiện chính sách kinh tế thời
chiến, tức là chính sách “kinh tế chỉ huy” nhằm huy động tối đa sức người, sức của phục vụ chiến tranh.
Chính quyền thực dân vơ vét vàng bạc, phát hành thêm tiền giấy, ấn định giá cả, tăng thuế cũ, thêm thuế
mới, phát hành công trái, sa thải viên chức, giảm tiền lương, tăng giờ làm, bắt lính... Đã có 8 vạn lính Việt
Nam bị đưa sang Pháp. Những quyền tự do, dân chủ đã giành được trong thời kỳ 1936-1939 bị thủ tiêu.
Toàn quyền Pháp ra nghị định cấm tuyên truyền cộng sản, đóng cửa các tờ báo và nhà sản xuất, cấm
hội họp và tụ tập đơng người. Ngày 4-1-1940, Tồn quyền Đơng Dương Catơru (George Catroux) tuyên
bố: “Chúng ta đánh toàn diện và mau chóng vào các tổ chức cộng sản; trong cuộc đấu tranh này, phải
tiêu diệt cộng sản thì Đơng Dương mới được yên ổn và trung thành với nước Pháp. Chúng ta khơng có
quyền khơng thắng. Tình thế chiến tranh bắt buộc chúng ta hành động không chút thương tiếc”.
Đồng thời, Đông Dương cũng là mục tiêu quan trọng của Nhật Bản trong chiến lược bành
trướng. Đơng Dương có vị trí thuận lợi, phù hợp làm bàn đạp mở rộng xâm lược các nước: từ Bắc Kỳ có
thể tấn cơng vào miền Nam Trung Quốc; từ Nam Kỳ có thể sang các nước Thái Lan, Miến Điện, Ấn Độ
và vùng hải đảo Đơng Nam Á, thậm chí mở rộng tầm kiểm sốt tới các đảo phía Nam Thái Bình Dương
(Ơxtrâylia, Niu Di-lân...). Đây còn là nguồn dự trữ chiến lược quan trọng về lương thực, thực phẩm, năng
lượng và các tài nguyên khác phục vụ chiến tranh: các vựa lúa ở đồng bằng sông Cửu Long và sông
Hồng, mỏ than ở Bắc Kỳ, rừng cao su ở Nam Kỳ và Campuchia cùng các loại khoáng sản trải rộng trên
cả bán đảo có khả năng đáp ứng nhu cầu của quân đội Nhật.
Ngày 2 - 8 - 1940, Nhật Bản trao cho tồn quyền Đơcu một bức cơng hàm với nội dung: Pháp phải cho
Nhật tự do chuyển quân trên lãnh thổ Đông Dương để đánh Trung Hoa Quốc dân Đảng; được sử dụng
một số sân bay và bảo vệ những vị trí này ; Pháp phải giúp đỡ việc vận tải vũ khí và đạn dược cho qn
đội Nhật. Ngồi ra Nhật Bản đòi được hưởng những điều kiện về thương mại bình đẳng với Pháp ở
Đơng Dương. Nếu bị từ chối, Bộ ngoại giao Nhật Bản sẽ tiến vào Đông Dương.
Ngày 19 - 9 - 1940, Bộ ngoại giao Nhật bản thông báo cho đại sứ Pháp ở Tôkiô rằng, ngày 22 - 9, quân
đội Nhật sẽ vào Đông Dương dù có đạt được hiệp ước quân sự với Đơcu hay không.
Ngày 22 - 9, đại diện Pháp và Nhật đã kí kết một Hiệp ước, trong đó quy định :
1. Quân đội Nhật được quyền sử dụng 3 sân bay lớn ở Bắc Kỳ (các sân bay Gia Lâm, Hải Phịng, Phủ

Lạng Thương). 2. Bộ tư lệnh Nhật có quyền đóng 6000 qn ở Bắc sơng Hồng. 3. Qn đội Nhật được


2. quyền

đi qua Bắc Kì để lên đánh quân Tưởng Giới Thạch ở Vân Nam. Tổng
số
quân
Nhật
đồn
trú
trên
đất Đông Dương không lúc nào được quá 25.000 người. 4. Sư đoàn quân Nhật

Quảng
Tây
được
quyền đi qua đồng bằng Bắc Kì để đi ra biển.
3.
Mặc dù chính quyền thực dân Pháp ở Đơng Dương chấp nhận những đòi hỏi của Nhật, vào lúc
22
giờ
cùng ngày, Sư đoàn 5 Ngự lâm quân của Nhật do tướng Nakamura chỉ huy vượt biên giới Trung - Việt
tấn công các vị trí quân Pháp ở Đồng Đăng và Lạng Sơn. Các vị trí quân Pháp ở Na Sầm, Đồng Đăng,
Điểm He, Lộc Bình bị tiêu diệt. Ngày 24 - 9 quân Nhật tiến tới thị xã Lạng Sơn. Quân Pháp bỏ chạy về
Đồng Mỏ, và ngày 25 - 9, kéo cờ trắng xin hàng.
4.
Ngày 25 - 9 - 1940, ở một hướng khác, qn đồn viễn chinh Đơng Dương thuộc Pháp của Nhật
do
tướng Nishimura Takuma chỉ huy đổ bộ vào Đồ Sơn. Ngày hôm sau, 26 - 9, quân Nhật tiến vào chiếm

đóng Hải Phịng khơng tốn một viên đạn.
5.
Mặc dù quân Nhật đã làm chủ Bắc Đông Dương nhưng chúng vẫn chưa thỏa mãn. Ngày 14 - 7 1941,
Nhật Bản đưa yêu sách cho Pháp đòi đưa quân vào Nam Đông Dương và được sử dụng ác sân bay, hải
cảng ở khu vực này. Phía pháp đã chấp thuận.
6.
Ngày 25 - 7 - 1941, một hạm đội Nhật gồm 4 chiến hạm, 12 tuần dương hạm thả neo ở Ô Cấp
(Vũng
Tàu).
7.
Ngày 27 - 7 - 1941, tại Visi nước Pháp, đại diện của Nhật và Pháp kí hiệp ước phịng thủ chung
Đơng
Dương, với những điều khoản :
1. Pháp và Nhật cùng hợp tác quân sự trong việc phòng thủ chung Đơng Dương.
2. Chính phủ Pháp đồng ý cho chính phủ Nhật những tiện nghi sau đây:
8. a. Gửi qua nam Đông Dương một số lượng bộ binh, hải quân, và không Nhật cần thiết. b. Sử
dụng
như căn cứ không quân 8 điểm như: Siemreap, Phnom-Pênh, Tourane (Đà Nẵng), Nha Trang, Biên Hịa,
Sài Gịn, Sóc Trăng và Kompong Trach và căn cứ hải quân: Sài Gòn và Cam Ranh. c. Các đơn vị Nhật
được toàn quyền thực tập và điều động không bị hạn chế bởi hiệp ước Nashihara - Martin (23 - 9 1940). d. Chính phủ Pháp đồng ý cung cấp cho quân đội Nhật số tiền 23 triệu đồng trong tài khoản 1941,
tức là 4,5 triệu đồng một tháng. Số tiền này sẽ được bồi hoàn, hoặc bằng “yên”, hoặc bằng mỹ kim hay
vàng.
9.
Ngày 28 - 7 - 1941, quân Nhật đổ bộ lên đất Sài Gòn. Đến cuối năm 1941 đã có 125.000 quân
Nhật
đóng trên đất Đông Dương và thực chất đã làm chủ Đông Dương, tuy trên danh nghĩa Đông Dương vẫn
là thuộc địa của Pháp
10.
Chính sách thống trị của phát xít Nhật ở Đơng Dương. Đông Dương đã bị biến thành căn cứ quân
sự

của Nhật để đánh chiếm tồn Đơng Nam Á.
11.
Về kinh tế, Nhật vẫn để hệ thống kinh tế của pháp ở Đơng Dương tiếp tục hoạt động,
nhưng
nắm
quyền điều khiển nó. Với Hiệp định Tơkiơ ngày 6 - 5 - 1941, phía Pháp thừa nhận địa vị đặc biệt ưu đãi
của Nhật trong các quan hệ kinh tế ở Đông Dương, thực chất là Nhật độc chiếm Đông Dương.


12.
Nhật Bản yêu cầu chính quyền thực dân Pháp để 50% giá trị nhập khẩu và 15% giá trị xuất khẩu
của
Đông Dương cho các công ty thương mại cho Nhật. Ngồi ra, nhật cịn mua của Đơng Dương mănggan,
apatit, crơm, thiết, càphê..với giá rẻ so với thị trường thế giới.
13.
Một số công ty của Nhật cũng đầu tư vào những ngành cần cho những ngành quân sự như khai
khoáng.
Năm 1941, tư bản Nhật ở Đông Dương chiếm gần 50% tổng số vốn đầu tư của các cơng ty nước ngồi.
Tư bản Nhật đặt vốn khai thác quặng mănggan và sắt ở Thái Nguyên, phốt phát ở Lào Cai và quặng
Crôm ở Thanh Hóa.
14.
Nhật bắt chính quyền thực dân Pháp hàng năm nộp cho chúng một khoản tiền khá lớn. Năm
1940,
nộp
6
triệu đồng, năm 1941 - 58 triệu đồng, năm 1942 - 86 triệu đồng, năm 1943 - 117 triệu đồng, năm 1945 90 triệu đồng. Trong 4 năm 6 tháng, chính quyền thực dân Pháp phải nộp một khoản tiền là 723.786
nghìn đồng
15.
Về quân sự, Hiệp định ngày 29 - 7 - 1941 với danh nghĩa phịng thủ chung Đơng Dương,
qn

Nhật được tự do di chuyển trên khắp lãnh thổ Đông Dương không hạn chế số lượng,. Hiệp định quân
sự ngày 8 - 12 - 1941 nêu rõ chính quyền thực dân Pháp phải cung cấp các phương tiện chiến tranh,
thiết lập các căn cứ quân sự, cung cấp vật chất cho quân đội Nhật. Chính quyền thực dân Pháp phải cam
kết đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân Đông Dương, đảm bảo an ninh hậu phương cho quân
Nhật.
16.
Trong chiến tranh, việc giao thơng vận tải có một vai trị quan trọng. Qn đội Nhật ở Đơng
Dương
buộc
Pháp phải để chúng sử dụng mọi phương tiện giao thông. Chúng kiểm sốt hệ thống đường sắt, các tàu
biển chở hàng có trọng tải 200.000 tấn đậu ở các cảng Đông Dương.
17.
Quân Nhật cịn cướp ruộng đất của nơng dân để xây dựng trại lính, bắt nơng dân nhổ lúa, ngơ để
trồng
đay, thầu dầu để phục vụ cho nhu cầu chiến tranh.
18.
Về chính trị và tư tưởng, sau khi chiếm đóng Đơng Dương, bọn qn phiệt Nhật khơng lật
đổ
chính quyền thực dân Pháp ở Đơng Dương mà sử dụng nó như một cơng cụ với ba mục đích: Thứ nhất,
để đàn áp phong trào cách mạng Đông Dương, giữ yên hậu phương cho quân đội Nhật; thứ hai, để vơ
vét, bóc lột sức người, sức của ở Đông Dương để phục vụ cho cuộc chiến tranh của Nhật; thứ ba, để
che dấu bộ mặt xâm lược của mình, đóng vai “người giải phóng” nhân dân Châu Á. Chính sách đó khác
với chính sách bọn Nhật thi hành ở các nước Đông Nam Á vì lợi dụng được tình hình Chính phủ Pháp đã
đầu hàng Đức.
19.
Chính sách của quân phiệt Nhật đối với thực dân Pháp ở Đơng Dương là chính sách hai mặt.
Trong
khi
“cộng tác” với Pháp, Nhật Bản ra sức tuyên truyền tư tưởng Đại Đơng Á, như mở các phịng thơng tin,
xuất bản tạp chí Tân Á bằng tiếng Việt, mở các cuộc triển lãm bằng tranh ảnh,. Đồng thời Nhật cũng

chú trọng xây dựng cơ sở xã hội cho mình.
20.
Từ năm 1942, Nhật đã hồi phục các tổ chức thân Nhật ở Việt Nam bị Pháp đàn áp trong
những
năm 1940 - 1941, như Phục Quốc, Cao Đài, Hòa Hảo,.giúp đỡ các nhóm Đại Việt dân chính, Đại Việt
quốc xã, Đảng Việt nam ái quốc,...dựa vào nhóm này Nhật hy vọng lúc cần thiết sẽ lật đổ chính quyền
thực dân Pháp. Với cuộc đảo chính ngày 9 - 3 - 1945, bọn thân Nhật càng hy vọng vào lời hứa hẹn Nhật


sẽ trao trả độc lập cho Việt Nam. Hàng loạt đảng phái thân Nhật
xuất
hiện.
Chỉ
riêng
Bắc

đã

hơn
30
tổ chức thân Nhật .
21.

22.
Bọn thực dân Pháp ở Đông Dương một mặt cam chịu khuất phục quân Nhật, phải thực
hiện
các
yêu sách của Nhật, mặt khác ngấm ngầm chuẩn bị lực kượng chờ cơ hội lật lại. Chính sách của Pháp là
tranh thủ giới thượng lưu Đơng Dương và khuyến khích các nhóm hội thân Pháp hoạt động.
23.

Dưới hai tầng áp bức của Nhật và Pháp, nhân dân Việt Nam càng bị bóc lột nặng nề hơn.
Gánh
nặng lương thực, tiền bạc Nhật bắt Pháp nộp lại đổ lên đầu nhân dân. Mức nộp này mỗi năm một tăng:
năm 1941 là 558.000 tấn gạo, 58 triệu đồng; năm 1942 là 973.000 tấn gạo, 85 triệu đồng; năm 1943 là
1.023.470 tấn gạo, 117 triệu đồng; năm 1944 là 363 triệu đồng .Quân Nhật cướp ruộng đất xây dựng trại
lính, bắt nông dân nhổ lúa trồng đay phục vụ nhu cầu chiến tranh. Tình trạng bóc lột nặng nề và kéo dài
khiến xảy ra nạn đói đầu năm 1945, làm cho gần 2 triệu người chết đói ở miền Bắc.
24.
Chính sách của Pháp nhằm tranh thủ giới thượng lưu ở Đơng Dương, cho họ tham gia những
chức
vụ
quản lí và thừa hành, ràng buộc họ trung thànhvới nước Pháp. Được dịp, các nhóm thân Pháp cũng hoạt
động. Nhóm bảo hồng Phạm Quỳnh, Ngơ Đình Khơi hơ hào trở lại hiệp ước 1884, yêu cầu Pháp tăng
quyền cho vua quản quan bản xứ để chống lại bọn thân Nhật. Nhóm Nguyễn Phan Long, Bùi Quang
Chiêu, ra sức tuyên truyền khẩu hiệu “cách mạng quốc gia”, “Pháp - Việt phục hưng” của chính phủ phản
động Pêtanh.
25.
Nhận biết rõ ràng hoạt động của Pháp nhưng vẫn làm ngơ vì chưa đến lúc cần thiết phải hành
động.
Đến
3 - 1945, quân Nhật lâm vào tình trạng nguy ngập ở chiến trường Thái Bình Dương, Nhật làm đảo chính
Pháp ở Đơng dương để loại trừ mối hiểm họa. Từ ngày 9 - 3 - 1945, quân đội Nhật độc chiếm Đơng
Dương.
26.
Chính sách thống trị và bóc lột của Pháp - Nhật khiến cho tình cảnh và đời sống các giai cấp,
tầng
lớp

hội ở Đông Dương thay đổi sâu sắc.:
27.

Giai cấp công nhân bị tước đoạt một số quyền nhân sinh, dân chủ đạt được trong thời kì Mặt trận
dân
chủ 1936 - 1939. Theo nghị định của Toàn quyền Đông Dương ngày 10 - 4 - 1939, giờ làm việc của
công nhân tăng từ 60 lên 78 giờ mỗi tuần. Tiền lương bị giảm. Một số công nhân bị sa thải hoặc thất
nghiệp, một số bị động viên đi lính phục vụ cho chiến tranh.
28.
Giai cấp nơng dân bị sưu cao, thuế nặng. Ruộng đất của họ bị tước đoạt, tài sản bị vơ vét để
phục
vụ
cho chiến tranh. Họ còn phải đi phu làm đường, đào kênh, xây dựng các cơng trình cơng cộng. Khơng chỉ
bần, cố nơng bị đói khổ, mà cả những tầng lớp khá giả như trung, phú nông cũng bị sa sút.
29.
Tầng lớp tiểu tư sản : Nhiều tiểu thương, tiểu chủ bị phá sản, viên chức bị giảm lương, những
người
lao
động trí óc như nhà văn, nhà báo không kiếm được việc làm.
30.
Giai cấp tư sản dân tộc: Việc kinh doanh, sản xuất không tăng trưởng vì mức thuế cao của nhà
nước
thực dân và sức tiêu thụ hàng của dân giảm.
31.
Giai cấp địa chủ: trừ một số ít đại địa chủ có thế lực chính trị, lợi dụng chiến tranh để làm giàu,
còn
địa
chủ nhỏ và vừa cũng bị thiệt hại về chính sách thuế, thu thóc tạ, mua ngũ cốc rẻ của nhà nước.


32.
Nhìn chung, các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam đều chịu những tác động xấu bởi chính
sách

bóc lột của Nhật, Pháp và bọn phong kiến. Mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam với đế quốc Pháp - Nhật,
giữa nông dân với địa chủ phong kiến ngày càng gay gắt. Toàn thể nhân dân Việt Nam sẵn sàng đứng
lên giành độc lập, tự do dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương.
33.
*SỰ CHUYỂN HƯỚNG CHỈ ĐẠO CHIẾN LƯỢC CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG
1. Hội nghị Ban Chấp hành TW Đảng tháng 11 năm 1939:
34.
Trước những biến đổi nhanh chóng của tình hình thế giới và trong nước từ khi Chiến
tranh thế
giới thứ hai nổ ra, ngày 6-11-1939, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ sáu được triệu tập
tại Bà Điểm (Hóc Mơn, Gia Định), do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì. Hội nghị phân tích tính chất
của Chiến tranh thế giới thứ hai, vị trí của Đơng Dương trong cuộc chiến tranh, những chính sách của
thực dân Pháp, thái độ của các giai cấp xã hội và đề ra đường lối chính trị của cách mạng Đông Dương,
cũng như quyết định thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương.
35.
Ngày 1 tháng 9 năm 1939, chiến tranh thế giới nổ ra tại Châu Âu, một tuần sau, ngày 8 - 9 - 1939,
Tổng
Bí thư Đảng Cộng sản Đơng Dương, Nguyễn Văn Cừ triệu tập Hội nghị Xứ ủy Bắc Kì tại làng Vạn Phúc,
Hà Đơng.
36.
Trên cơ sở phân tích tình hình thế giới và trong nước đã thay đổi, Hội nghị đề cập tới việc tận
dụng thời
cơ chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Tiếp đó, từ ngày mồng 6 đến ngày 8-11-1939, tại Bà
Điểm, quận Hóc Mơn, tỉnh Gia Định (cách Sài Gịn khoảng 20km), Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương
Đảng) được triệu tập. Tham gia hội nghị có Tổng Bí thư Đảng Nguyễn Văn Cừ, Võ Văn Tần, Phan Đăng
Lưu, Lê Duẩn.
37.
Dựa vào các phân tích những vấn đề cơ bản của cuộc chiến tranh đế quốc, chính sách của Liên
Xơ đối
với chiến tranh, vị trí Đơng Dương trong cuộc chiến tranh, chính sách của chính quyền thực dân Pháp ở

Đơng Dương, vị trí, thái độ của các giai cấp xã hội, các đảng phái chính trị, vấn đề dân tộc và phong trào
dân tộc trong cuộc đấu tranh giải phóng Đơng Dương..., Hội nghị đề ra đường lối đấu tranh vũ trang
nhằm lật đổ chính quyền thực dân, phong kiến, thành lập chính quyền cách mạng của Đông Dương.
38.
Về vấn đề dân tộc, Hội nghị nêu rõ: “Vấn đề dân tộc ở Đông Dương phải xét theo hai mặt: Một
mặt là các
dân tộc Đơng Dương đồn kết thống nhất đánh đổ đế quốc Pháp địi Đơng Dương hồn tồn độc lập và
các dân tộc được quyền tự quyết, một mặt nữa là các phong trào dân tộc giải phóng ở Đơng Dương phải
liên lạc khăng khít với cách mệnh thế giới (là một bộ phận của cách mệnh vô sản thế giới) để đánh đổ kẻ
thù chung là tư bản đế quốc và xây dựng một thế giới khơng có dân tộc bị áp bức, khơng có ranh giới
quốc gia và chia rẽ dân tộc, nghĩa là thế giới cộng sản.
39.
“.Khơng có một dân tộc nào có thể giải phóng riêng rẽ vì Đông Dương ở dưới quyền thống trị duy
nhất
của đế quốc Pháp về mặt chính trị, kinh tế và binh bị. Khơng thể có một bộ phận nào thốt khỏi nền thống
trị ấy mà chẳng liên quan đến cả toàn thể nền thống trị của đế quốc Pháp. Sự liên hiệp các dân tộc Đông
Dương không nhất thiết bắt buộc các dân tộc phải thành lập một quốc gia duy nhất vì các dân tộc như


Việt Nam, Miên, Lào xưa nay vẫn có sự độc lập. Mỗi dân tộc có quyền
giải quyết vận mệnh theo ý muốn
của mình, song sự tự quyết khơng nhất định là rời hẳn nhau ra”
40.

41.

Về tương quan lực lượng:

a) Một bên là đế quốc Pháp cầm hết quyền kinh tế, chính trị, dựa vào bọn vua quan bổn xứ thối nát
và bọn chó săn phản bội dân tộc.

b) Một bên là cả các dân tộc từ Việt Nam, Miên, Lào đến Thổ, Thượng, v.v..tất cả các giai cấp trừ bọn
phong kiến và một số bộ phận phản động trong đám địa chủ và tư sản, tất cả các đảng phái, trừ bọn chó
săn đế quốc phản bội quyền lợi dân tộc...”
42.
Về mục tiêu trực tiếp của Cách mạng Đông Dương trong tình hình mới:
43.
“Dưới đường sinh tồn của các dân tộc Đơng Dương khơng có con đường nào khác hơn là con
đường
đánh đổ đế quốc Pháp, chống lại tất cả ách ngoại xâm vô luận da trắng hay da vàng để tranh lấy giải
phóng dân tộc. Đế quốc Pháp cịn, dân chúng Đông Dương chết, đế quốc Pháp chết, dân chúng Đơng
Dương cịn" .
44.
Về phương hướng chiến lược cách mạng: “.đứng trong tình thế khác ít nhiều với tình thế 19301931,
chiến lược cách mệnh tư sản dân quyền bây giờ cũng phải thay đổi ít nhiều cho hợp với tình thế mới.
Cách mệnh phản đế và điền địa là hai cái mấu chốt của cách mệnh tư sản dân quyền. Không giải quyết
được cách mệnh tư sản dân quyền, không giải quyết được cách mệnh điền địa - cái nguyên tắc chính ấy
khơng bao giờ thay đổi được, nhưng nó phải ứng dụng một cách khôn khéo thế nào mà để thực hiện
được nhiệm vụ chính cốt của cách mệnh là đánh đổ đế quốc. Hiện tình hình có thay đổi mới. Đế quốc
chiến tranh, khủng hoảng cùng với ách thống trị phát xít thuộc địa đã đưa vấn đề dân tộc thành một vấn
đề khẩn cấp rất quan trọng. Đám đông trung tiểu địa chủ và tư bản bổn xứ cũng căm tức đế quốc. Đứng
trên lập trường giải phóng dân tộc, lấy quyền lợi dân tộc làm tối cao, tất cả mọi vấn đề của cuộc cách
mệnh, cả vấn đề điền địa cũng phải nhằm vào cái mục đích ấy mà giải quyết .
45.
Về hình thức tiến hành đấu tranh, Nghi quyết viết: “Phải biết xoay tất cả phong trào đấu tranh lẻ tẻ
vào
cuoậc đấu tranh chung, phản đối đế quốc chiến tranh, chống đế quốc Pháp và bè lũ, dự bị những điều
kiện bước tới bạo động làm cách mệnh giải phóng dân tộc.
46.
Về mặt tổ chức, Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp Hành Trung ương Đảng quyết nghị thành lập Mặt
Trận

Thống nhất phản đế Đông Dương, trong đó “lực lượng chính của Cách Mệnh là công nông”, “dưới quyền
chỉ huy của vô sản giai cấp” [6;539-540]
47.
Hội nghị đã đưa ra một cương lĩnh cụ thể của cơng cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, gồm 14
điểm:
1 .Đánh đổ đế quốc Pháp, vua chúa bổn xứ và tất cả bọn phản động tay sai cho đế quốc và phản bội
dân tộc ta.
2.

Đơng Dương hoản tồn độc lập (thi hành quyền dân tộc tự quyết).


48.

3 .Lập Chính Phủ Liên bang Cộng hồ dân chủ Đông Dương.
4.

Đánh đuổi hải, lục, không quân của đế quốc Pháp ra khỏi xứ, lập Quốc dân cách mạng quân.

5. Quốc hữu hoá những nhà hàng, các cơ quan vận tải, giao thông, các binh xưởng, các sản vật trên
rừng, dưới biển và dưới đất.
6. Tịch kí và quốc hữu hố tất cả các xí nghiệp của tư bản ngoại quốc, bọn đế quốc thực dân và tài
sản của bọn phản bội dân tộc.
7. Tịch kí và quốc hữu hố đất ruộng của đế quốc thực dân, cố đạo và bọn phản bội dân tộc. Lấy đất
của bọn phản bội, cố đạo, đất công điền, đất bỏ hoang chia cho quần chúng nhân dân cày cấy.
8. Thi hành Luật lao động ngày 8 giờ, 7 giờ chia cho các hầm mỏ, luật xã hội bảo hiểm hồn tồn,
tiền
hưu trí cho thợ, tìm cơng ăn việc làm cho thợ thất nghiệp, công việc ngang nhau đồng lương ngang
nhau.
9. Bỏ tất cả các khế ước cho vay đặt nợ. Lập nhà băng nơng phố và bình dân ngân hàng.

49. 11 .Ban hành các quyền tự do dân chủ, các quyền nghiệp đoàn, bãi công, phổ thông đầu phiếu.
12. Phổ thông giáo dục cưỡng bách.
13.

Nam nữ bình quyền về mọi phương diện xã hội, kinh tế, chính trị.
14. MỞ rộng các cuộc xã hội, y tế, cứu tế, thể thao [6;541-542].

50.
Tóm lại, với đường lối Cách mạng được đề ra tại Hội nghị lần 6 Ban Chấp Hành Trung ương
Đảng, cách
mạng Việt Nam bước vào một giai đoạn mới - giai đoạn trực tiếp chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa vũ trang
giành độc lập dân tộc.
51. Hội nghị Ban Chấp hành TW lần 7 tháng 11 năm 1940.
52.
Để ứng phó với tình hình mới (sự có mặt của phát xít Nhật ở Đơng Dương), Ban Chấp
hành
Trung ương họp Hội nghị lần thứ bảy (ngày 6 đến 9-11-1940 tại Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh). Hội nghị
phân tích tình hình thế giới, tình hình Đơng Dương, tình hình Đảng và các hội quần chúng, đưa ra đường
lối cho cách mạng tương ứng với tình hình mới. Hội nghị lần thứ 7 của Trung ương Đảng tháng 11-1940
vạch rõ nguy cơ của các dân tộc Đơng Dương bị "một cổ hai trịng". Kẻ thù chính của các dân tộc Đông
Dương lúc này không chỉ là thực dân Pháp mà cả phát xít Nhật. Hai tên đế quốc này ra sức vơ vét, bóc
lột nhân dân để phục vụ cho chiến tranh. Do đó "một cao trào cách mạng nhất định sẽ nổi dậy, Đảng phải
chuẩn bị để gánh lấy cái sứ mạng thiêng liêng, lãnh đạo các dân tộc bị áp bức Đông Dương, võ trang
bạo động giành lấy quyền tự do, độc lập" Hội nghị đã thảo luận và quyết định hai vấn đề cấp thiết:


53.
Thứ nhất, duy trì lực lượng vũ trang Bắc Sơn, thành lập những đội du kích hoạt động phân tán,
dùng
hình thức vũ trang công tác vừa chiến đấu chống địch, bảo vệ nhân dân vừa phát triển cơ sở cách mạng

tiến tới thành lập khu du kích, lấy vùng Bắc Sơn - Vũ Nhai làm trung tâm. Đảng cho rằng cuộc khởi nghĩa
Bắc Sơn nổ ra ngày 27-9-1940 dù chỉ tồn tại trong một tháng và diễn ra trong phạm vi một huyện nhưng
có ý nghĩa lịch sử lớn. Nó mở đầu cuộc đấu tranh vũ trang của các dân tộc Đông Dương thời kỳ Chiến
tranh thế giới thứ II, đồng thời qua cuộc khởi nghĩa này Đảng ta rút được bài học quý giá về đấu tranh vũ
trang, khởi nghĩa vũ trang và chọn thời cơ.
54.
Thứ hai, quyết định đình chỉ việc chuẩn bị phát động khởi nghĩa của Xứ ủy Nam Kỳ vì chưa có
điều kiện
bảo đảm thắng lợi. Chủ trương của Trung ương vừa truyền đạt đến Sài Gịn thì đêm 23-11-1940 cuộc
khởi nghĩa đã bùng nổ và bị thất bại. Tiếp đó, cuộc nổi dậy của binh lính yêu nước trong quân đội Pháp
ngày 13-1-1941 do Đội Cung chỉ huy cũng bị dập tắt. Cả ba cuộc nổi dậy diễn ra ở ba miền Bắc - Trung Nam tuy bị dập tắt, song đã thức tỉnh tinh thần cách mạng của quần chúng cả nước, như“chim én nhỏ
báo hiệu mùa xuân”.
55.Hội nghị Ban Chấp hành TW lần 8 tháng 5 năm 1941.
56.
Đầu năm 1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc bí mật trở về nước sau 30 năm Người ra nước
ngồi tìm
đường cứu nước. Tháng 5-1941, thay mặt Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị lần thứ 8
của Trung ương Đảng. Hội nghị tiến hành từ ngày 10 đến 19-5-1941 tại khu rừng Khuổi Nậm, Pác Bó
(Hà Quảng, Cao Bằng) do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trì, với sự tham gia của Trường Chinh, Hồng
Văn Thụ, Hồng Quốc Việt, Phùng Chí Kiên, đại biểu xứ ủy Bắc Kỳ và Trung Kỳ.
57.
Phân tích tình hình thế giới, Nghị quyết của hội nghị nhận định: “Nếu cuộc chiến tranh đế quốc lần
trước
đã đẻ ra Liên Xơ, một nước xã hội chủ nghĩa, thì cuộc chiến tranh đế quốc lần này, sẽ đẻ ra nhiều nước
xã hội chủ nghĩa, sẽ do đó mà cách mạng nhiều nước thành công”. ội nghị đã ra nhiều quyết định quan
trọng.
58.
Một là tiếp tục đặt giải phóng dân tộc lên làm nhiệm vụ hàng đầu: Về tình hình Đơng Dương, Hội
nghị xác
định rõ: “Khẩu hiệu của Đảng ta là trước hết phải làm sao giải phóng cho được các dân tộc Đông Dương

khỏi ách của giặc Pháp - Nhật”. Ban chấp hành Trung ương nêu rõ mâu thuẫn chủ yếu ở nước ta đòi hỏi
phải được giải quyết cấp bách là mâu thuẫn giữa dân tộc ta với bọn đế quốc, phát xít Pháp - Nhật. Bởi
“Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, khơng địi được độc lập, tự do cho
tồn thể dân tộc, thì chẳng những tồn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi
của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng khơng địi lại được”.
59.
Để tập trung cho nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng lúc này, Ban Chấp hành Trung ương quyết
định tạm
gác lại khẩu hiệu "Đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày", thay bằng khẩu hiệu "Tịch thu ruộng đất
của bọn đế quốc và Việt Nan cho dân cày nghèo", "Chia lại ruộng đất công cho công bằng và giảm tô,
giảm tức"...
60.
Hai là, quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh để đoàn kết tập hợp lực lượng cách mạng
nhằm
mục tiêu giải phóng dân tộc. Theo đề nghị của Nguyễn Ái Quốc, Ngày 19-5-1941, Hội nghị quyết định


thành lập Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) thay
cho Mặt trận Dân tộc thống nhất phản đế
Đông Dương và đặt ra nhiệm vụ giúp đỡ các dân tộc Lào và Campuchia thành
lập mặt trận của mình.
Các tổ chức của Việt Minh sẽ là các Hội Cứu quốc. đổi tên các Hội phản đế
thành Hội cứu quốc (Công
nhân cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc,
Phụ lão cứu quốc, Thiếu
niên cứu quốc...) để vận động, thu hút mọi người dân u nước khơng phân
biệt thành phần, lứa tuổi,
đồn kết bên nhau đặng cứu Tổ quốc, cứu giống nòi.
61.


62.
Ba là, quyết định xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của Đảng
và nhân
dân ta trong giai đoạn hiện tại.
63.
Hội nghị nhận định “cuộc cách mạng Đông Dương sẽ kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang”
và “với
lực lượng sẵn có, ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương giành thắng
lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn” và quyết định sau khi đánh đuổi đế quốc Pháp Nhật “sẽ thành lập một chính phủ nhân dân của Việt Nam dân chủ cộng hòa lấy lá cờ đỏ ngơi sao vàng 5
cánh làm cờ tồn quốc”, nhấn mạnh nhiệm vụ tăng cường đội ngũ của Đảng là lấy “vận động công nhân
làm công việc đầu tiên trong việc tổ chức quần chúng của Đảng”.
64.
Để đưa ra cuộc khởi nghĩa vũ trang đến thắng lợi, cần phải ra sức phát triển lực lượng cách
mạng, bao
gồm lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, xúc tiến xây dựng căn cứ địa cách mạng. Ban Chấp hành
Trung ương chỉ rõ: Việc "chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của Đảng ta và dân ta trong giai đoạn
hiện tại". Trung ươg quyết định duy trì lực lượng vũ trang Bắc Sơn và chủ trương thành lập những đội đu
kích hoạt động phân tán, dùng hình thức vũ trang vừa chiến đấu chống địch, bảo vệ nhân dân, vừa phát
triển cơ sở cách mạng, tiến tới thành lập khu căn cứ, lấy vùng Bắc Sơn, Vũ Nhai làm trung tâm.
65.
Hội nghị đã bầu ra Ban chấp hành Trung Đảng và cử Trường Chinh làm Tổng bí thư. Ban
Thường vụ có thêm Hịang Văn Thụ và Hồng Quốc Việt.
66.
Hội nghị lần 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã hoàn chỉnh đường lối đấu tranh mới
của
Đảng được nêu ra ở Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương (tháng 11 -1939).Đó là đặt nhiệm vụ
giải hpóng dân tộc lên hàng đầu, đoàn kết rộng rãi mọi lực lượng yêu nước trong Mặt Trận Việt Minh, xây
dựng lực lượng quần chúng ở cả nông thôn và thành thị; tiến tới xây dựng căn cứ địa cách mạng và lực
lượng vũ trang; tích cực chuẩn bị lực lượng mọi mặt đón thời cơ khởi nghĩa giành độc lập.
67.

QUÁ TRÌNH CHUẨN CHO TỔNG KHỞI NGHĨA VŨ TRANG GIÀNH CHÍNH QUYỀN.
68.
Quá trình chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa vũ trang gồm chuẩn bị về lực lượng chính trị, vũ
trang,
căn cứ địa cách mạng.
69.
1. Xây dựng lực lượng chính trị.
70.
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tám (5/1941) đã xác định lực lượng cách mạng của ta
bao
gồm: Tiền phong quân chính là giai cấp vô sản trong nước; đội quân hậu bị trực tiếp: trong nước gồm
nông dân và các tầng lớp nhân dân, ngồi nước: cuộc cách mạng giải phóng dân tộc của các dân tộc
thuộc địa và cuộc cách mạng của nhân dân ở chính quốc. Đồng thời Hội nghị cũng nhấn mạnh nếu
khơng có lực lượng cách mạng (bao gồm lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang) hùng hậu thì khơng
thể có khởi nghĩa thắng lợi, chúng ta phải dựa trên sức ta mà giải phóng cho ta. Quán triệt sâu sắc quan


điểm trên Đảng ta đã tích cực bắt tay vào xây dựng lực lượng
chính trị và lực lượng vũ trang vững mạnh
để chuẩn bị cho khởi nghĩa. Dưới ánh sáng Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám
của Trung ương Đảng và
các chỉ thị tiếp theo, các cấp bộ đảng và Mặt trận Việt Minh đã tích cực xây
dựng tổ chức đảng và các tổ
chức cứu quốc của quần chúng, phát triển lực lượng chính trị và phong trào
đấu tranh của quần chúng ở
cả nông thôn và đô thị, xây dựng các căn cứ địa cách mạng, tiến hành vũ
trang cho quần chúng cách
mạng, củng cố và phát triển lực lượng du kích.
71.


72.
Ngày 19 - 5 - 1941, Việt Nam Độc lập đồng minh ra đời. Ngày 25-10-1941 Việt Minh công
bố
tuyên ngơn, Chương trình, Điều lệ. Tun ngơn nêu rõ: “Từ khi lập quốc, xét lịch sử nước ta, chưa bao
giờ dân tộc ta nhục nhằn, đau khổ như lúc này.Nguy cơ diệt vong đã bày ra trước mắt. Hiện thời, chúng
ta chỉ có một con đường mưu sống là đồn kết thống nhất, đánh đuổi Nhật, Pháp, trừ khử Việt gian.
Chương trình cứu nước của Việt Minh gồm 44 điểm, bao gồm các chính sách về chính trị, kinh tế, văn
hoá, xã hội nhắm thực hiện hai điều cốt yếu mà quốc dân đồng bào đang mong ước là:
73. “1 .Làm cho dân Việt Nam được hoàn toàn độc lập. 2. Làm cho dân tộc Việt Nam được sung
sướng, tự
do”.
74.
Chương trình cứu nước của Việt Minh sau khi được đúc kết thành 10 chính sách lớn đem thực
hiện ở
Khu giải phóng Việt Bắc và được Đại hội Quốc dân ở Tân Trào thơng qua tháng 8-1945, trở thành chính
sách cơ bản sau này của nước Việt Nam dân chủ cộng hồ.
75.
Cơng tác tun truyền, vận động được tiến hành dưới nhiều hình thức phong phú, đa dạng như
truyền
đơn, ca dao, hị vè...nhất là xuất bản báo chí Cách mạng.
76.
Tại Cao Bằng, Nguyễn Ái Quốc sáng lập và trực tiếp phụ trách báo “Việt Nam độc lập” (gọi tắt là
“Việt
Lập” - cơ quan tuyên truyền của Mặt trận Việt Minh. Ngày 1 - 8 - 1941, báo “Việt Lập” là vũ khí sắc bén
của Mặt Trận Việt Minh trong cuộc vận động giải phóng dân tộc, góp phần giáo dục, động viên quần
chúng hăng hái tham gia các tổ chức cứu quốc.
77.
Ngày 25 - 1 - 1942, Tổng bộ Việt Minh xuất bản báo Cứu quốc - cơ quan tuyên truyền đường lối,
chính
sách của Mặt Trận Việt Minh.

78.
Từ cuối năm 1941, ở Cao Bằng đã có những xã, tổng tồn dân tham gia Việt Minh (gọi là “xã
hoàn toàn”,
“tổng hoàn toàn”). Đến cuối năm 1942, Cao Bằng có 3/9 châu là Hoà An, Hà Quảng, Nguyên Binh, trở
thành “châu hoàn toàn”.Ở những nơi này, bộ máy chính quyền địch chỉ tồn tại về mặt hình thức, cịn thực
tế quyền hành do Việt Minh nắm giữ. Phong trào Việt Minh, phát triển từ Cao Bằng, đến các tỉnh Hà
Giang, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Bắc Cạn, Thái Nguyên.
79.
Mặt trận Việt Minh với 3 hình thức cơ bản là Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốx, Nơng dân
cứu
quốc cịn được xây dựng ở các tỉnh đồng bằng, ở nông thôn và thành thị, như Hà Đông, Hà Nội, Hà
Nam, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hưng n, Phú Thọ, Sơn Tây, Phúc n, Hồ Bình (Bắc Kì), Thanh Hố,
Quảng Bình (Trung Kì).
80.
Chủ trương của Mặt trận Việt Minh cũng đến được số bộ phận đảng viên cịn lại ở Nam Kì. Vì
vậy, ở một
số nơi thuộc ngoại thành Sài Gịn, vùng Bà Điểm, Hc Mơn (Gia Định), Đức Hoà (Chợ Lớn), Lái Thiêu
(Thủ Dầu Một) đã xuất hiện cơ sở của Việt Minh.


81.
Một số nơi ở Nam Kì do chưa nhận được chủ trương thành lập Mặt trận Việt Minh, cán
bộ Đảng
và quần chúng yêu nước đã lập ra tổ chức quần chúng với các hình thức, như “Nhóm cơng nhân nịng
cốt”, “Hội đá banh”, “Hội đổi công”, “Hội tương tế”. Những tổ chức này đã góp phần vào việc bảo vệ cán
bộ, đảng viên, giữ vững tinh thần cho quần chúng trong hoàn cảnh bị khủng bố trắng.
82.
Sau khi đã tập hợp được đông đảo quần chúng vào mặt trận Việt Minh, hướng tiếp theo
của
Đảng là đưa quần chúng đấu tranh với các hình thức thích hợp. Thơng qua mặt trận Việt Minh, các cấp

ủy đảng địa phương đã lãnh đạo nhiều cuộc đấu tranh của nhân dân, trên khắp các địa bàn và ngay cả
trung tâm kinh tế chính trị của địch. Đó là các cuộc đấu tranh của cơng nhân bến tàu Sài Gịn, cơng nhân
Hịn Gai, nơng dân Thái Bình, cơng nhân nhà máy xe lửa Gia Lâm... nổi bật nhất trong thời kỳ này là
phong trào phá kho thóc để cứu đói cho nhân dân. Các cuộc đấu tranh tạo nên khí thế cách mạng mạnh
mẽ, thí thế của ngày khởi nghĩa sắp đến gần.
83.
Từ năm 1943 đến 1945, phong trào cách mạng phát triển ngày càng mạnh và đều khắp.
Ở Bắc
Kỳ, hầu hết các đảng bộ địa phương đã lãnh đạo xây dựng được các tổ chức cứu quốc ở hầu khắp các
vùng ở nông thôn và đô thị. Tại Hà Nội, tổ chức Việt Minh được thành lập trong nhiều nhà máy, trường
học, đường phố. Nhiều cuộc bãi cơng địi tăng lương của cơng nhân đã nổ ra ở Hà Nội, Hải Phịng, ng
Bí, Nam Định... Phong trào đấu tranh chống nhổ lúa trồng đay, nhổ ngơ trồng thầu dầu, chống bắt phu,
bắt lính, chống thu thóc tạ... lơi cuốn nơng dân tham gia ngày càng đông đảo. Phong trào Việt Minh ở các
tỉnh miền Trung cũng trên đà phát triển mạnh trong nông dân, công nhân, dân nghèo thành thị...
84.
Ở Nam Kỳ, phong trào cách mạng phục hồi, hệ thống tổ chức đảng được xây dựng lại ở
nhiều
địa phương. Tổ chức Việt Minh đã có cơ sở ở Sài Gịn, Gia Định, Tây Ninh. Hàng chục cuộc đấu tranh
của công nhân đã nổ ra tại Sài Gịn.
85.
Phong trào thanh niên, học sinh, trí thức ở thành phố bắt đầu phát triển khiến cho bọn đế quốc
phátxít
Pháp-Nhật lo sợ. Bên cạnh thủ đoạn bạo lực đàn áp, chúng tích cực dùng nhiều thủ đoạn chính trị, văn
hóa rất xảo quyệt để ngăn chặn phong trào thanh niên, trí thức. Phátxít Nhật ra sức tuyên truyền thuyết
"Đại Đông Á", thuyết "Khu vực thịnh vượng chung". Chúng mở trường dạy tiếng Nhật, tổ chức triển lãm,
chiếu phim, phát hành báo chí gây tâm lý sợ Nhật và phục Nhật.
86.
Đảng đã đẩy mạnh hoạt động chống lại những nọc độc văn hóa tư tưởng phản động của
PhápNhật và tay sai, tuyên truyền đường lối cứu nước của Đảng, cổ vũ quần chúng lên trận tuyến cách mạng.
Báo chí cách mạng là một vũ khí sắc bén trong cơng tác này. Đảng và Việt Minh cho xuất bản các

báo: Giải phóng, Cờ giải phóng, Chặt xiềng, Cứu quốc, Việt Nam độc lập, Bãi Sậy, Đuổi giặc nước, Tiền
phong, Kèn gọi lính, Qn giải phóng, Kháng địch, Độc lập, v.v.. Trong các nhà tù các chiến sĩ cách
mạng cũng cho ra báo Suối reo (Sơn La), Bình Minh (Hịa Bình), Thơng reo (Chợ Chu), Dịng sơng
Cơng (Bá Vân)...
87.
Trên văn đàn cơng khai lúc đó xuất hiện xu hướng cải lương, bi quan, yếm thế. Một số tác phẩm
tiến bộ,
thể hiện tinh thần yêu nước, nhưng chưa có phương hướng đấu tranh rõ rệt. Đảng chủ trương phái cán
bộ hoạt động trong lĩnh vực văn hóa để gây một phong trào văn hóa tiến bộ, sử dụng các hình thức cơng
khai hoặc nửa công khai để tập hợp các nhà hoạt động văn hóa, văn nghệ...


88.
Năm 1943, Đảng đưa ra bản Đề cương văn hóa Việt Nam. Bản đề cương khẳng định văn hóa là
một
trong ba mặt trận cách mạng do Đảng lãnh đạo. Nhiệm vụ của các nhà văn hóa yêu nước và cách mạng
là phải chống lại văn hóa nơ dịch, ngu dân của bọn phátxít và tay sai, tiến tới xây dựng trong tương lai
một nền văn hóa mới theo ba nguyên tắc: dân tộc, khoa học và đại chúng.
89.
Cuối năm 1944, Hội Văn hóa cứu quốc Việt Nam ra đời, thu hút trí thức và các nhà hoạt động văn
hóa
vào trận tuyến đấu tranh vì một nền văn hóa mới, vì sự nghiệp chống Pháp-Nhật, giành độc lập, tự do.
Đảng vận động và giúp đỡ một số sinh viên, trí thức yêu nước và tiến bộ thành lập Đảng Dân chủ Việt
Nam (tháng 6-1944), một chính đảng của tư sản dân tộc và trí thức yêu nước, tiến bộ. Đảng này tham gia
Mặt trận Việt Minh và tích cực hoạt động, góp phần mở rộng thêm khối đại đồn kết dân tộc, làm thất bại
âm mưu chia rẽ và lôi kéo tư sản dân tộc và trí thức của phátxít Nhật và tay sai.
90.
Đảng cũng tăng cường công tác vận động binh lính người Việt, lính Pháp và lê dương.
Từ Trung
ương đến các địa phương đều có tổ chức ban binh vận. Đảng đã cử người liên lạc với những người

thuộc phái tả của Đảng Xã hội Pháp trong quân đội lê dương, trong công chức Pháp ở Việt Nam và cả
những người Pháp thuộc phái Đờ Gôn ở Đông Dương để thực hiện một liên minh chống phátxít. Song
do bản chất thực dân ngoan cố và sợ Nhật của những người theo phái Đờ Gơn nên chủ trương liên minh
đó của Đảng khơng có kết quả.
91.
2. Q trình chuẩn bị về lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng.
92.
Cùng với việc xây dựng lực lượng chính trị, Trung ương Đảng và Nguyễn Ái Quốc quan tâm xây
dựng
lực lượng vũ trang cách mạng.
93.
Ngay từ Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (11 - 1940), Đảng ta chủ
trương
phát triển Đội du kích Bắc Sơn làm vốn quân sự lâu dài của Đảng. Thực hiện chủ trương của Hội nghị
lần thứ 7 Ban chấp hành Trung Ương Đảng, Hoàng Văn Thụ đã tổ chức một cuộc họp với Ban chỉ huy
Đội du kích Bắc Sơn thành Cứu quốc quân, làm lực lượng nòng cốt xây dựng căn cứ địa Bắc Sơn - Vũ
Nhai.
94.
Đội cứu quốc quân vừa tích cực chiến đấu, mở rộng địa bàn hoạt động,vừa phát triển lực
lượng,
chuẩn bị cho ngày lễ thành lập chính thức Cứu quốc quân.
95.
Ngày 1 - 5 - 1941, một cuộc mít tinh lớn được tổ chức trọng thể tại Khuổi Nọi (xã Vũ Lễ, châu Bắc
Sơn)
kỉ niệm ngày Quốc tế lao động, đồng thời làm lễ ra mắt “Đệ nhất trung đội du kích Bắc Sơn”.Tham gia mít
tinh có đông đảo quần chúng cách mạng thuộc nhiều dân tộc.
96.
Sau hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung Ương Đảng, “Đệ nhất Trung đội đội du kích
Bắc
Sơn” đổi tên thành “Trung đội cứu quốc quân I”.

97.
Trung đội cứu quốc quân I lúc đầu có 32 cán bộ, chiến sĩ, gồm con em các dân tộc Tày, Nùng,
Dao,
Kinh. Đây là đơn vị vũ trang chính quy đầu tiên của Đảng, ra đời trong phong trào quần chúng. Ngay sau
khi thành lập, Trung đội Cứu quốc quân I vừa tổ chức huấn luyện, vừa tham gia những hoạt động quân
sự nhằm chống khủng bố, bảo vệ dân, bảo vệ căn cứ Cách mạng.
98.
Giữa năm 1941, thực dân Pháp huy động một lực lượng gồm 4.000 quân mở cuộc càn
quét
vùng Bắc Sơn - Vũ Nhai với âm mưu tiêu diệt Cứu quốc quân, phá phong trào cách mạng. Trung đội


Cứu quốc quân I bám đất, bám dân, kiên trì chiến đấu. Sau 8
tháng chiến đấu gian khổ (từ tháng 71941đến tháng 2-1942), một bộ phận Cứu quốc quân vượt vòng vây địch, rút
lên biên giới Việt-Trung.
Trên đường rút, Cứu quốc quân bị địch phục kích đã bị tổn thất lớn. Bộ phận
Cứu quốc quân còn lại hoạt
động phân tán trong dân, gây dựng cơ sở chính trị, phát triển lực lượng.
99.

100.
Ngày 15 - 9 - 1941, Trung đội Cứu quốc quân II được thành lập tại rừng Khuôn Máy (xã
Tràng
Xá, châu Vũ Nhai). Trung đội cứu quốc quân II lúc đầu có 47 chiến sĩ chia thành 5 tiểu đội. Sau khi thành
lập, Ban chỉ huy Cứu quốc quân II đã phân công các đơn vị đến các địa phương đẩy mạnh cuộc đấu
tranh chống địch khủng bố. Mục tiêu chiến đấu của Cứu quốc quân lúc này là tiêu diệt những tên mật
thám đầu sỏ, phá các cuộc hành quân càng quét của địch. Địa bàn hoạt động của Cứu quốc quân ở Thái
Nguyên, Tuyên Quang, Lạng Sơn.
101.
Cuối tháng 10 - 1941, thực hiện chỉ thị Trung ương về việc kiện toàn lực lượng chiến đấu

lâu
dài, Cứu quốc quân rút vào rừng sâu để chấn chỉnh đội ngũ.Lúc này tồn độicó khoảng 60 người, phiên
chế thành 7 tiểu đội. Sau đó, tồn Đội bước vào học tập đường lối, chính sách của Đảng, Chương trình
và Điều lệ Việt Minh, cách tổ chức các Hội Cứu Quốc, học chiến thuật du kích, các động tác quân sự cơ
bản, học 10 điều kỉ luật và 5 lời thề của Đội. Cứu quốc quân ra tờ báo Bắc Sơn, in bằng chữ Quốc ngữ,
chữ Hán, chữ Pháp để giáo dục trong nội bộ và làm tài liệu tuyên truyền trong quần chúng.
102.
Ở Nam Kì, sau cuộc khởi nghĩa 23 - 11 - 1940, những Đảng viên còn lại lãnh đạo các đội ngũ
quân tiếp
tục hoạt động diệt ác, trừ gian, tuyên truyền Cách mạng.
103.
Tại vùng Đồng Tháp Mười, các đội nghĩa quân của các tỉnh Gia Định, Chợ Lớn, Tân An rút vào
Mương
Xanh, Kinh Bo Bo, hoạt động trong một khu vực rộng lớn nằm giữa hai sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ
Tây.
104.
Ở vùng hạ lưu sông Vàm Cỏ Tây, lực lượng du kích Mĩ Tho với hơn 100 đội viên vẫn hoạt động ở
Phú
Mĩ, Tân Hoà Thành, Tân Thạch Mĩ...Du kích đã diệt nhiều tên tay sai, chỉ điểm cho giặc.
105.
Đến giữa năm 1942, địch tập trung càn quét, hoạt động của du kích đã tạm dừng.
106.
Tại vùng Lạc An (Tân Uyên, Biên Hoà), một đội vũ trang đã rút vào rừng thực hiện chiến tranh du
kích.
Những hoạt động của các đội du kích trên tiêu biểu cho tinh thần anh dũng, bất khuất của các Đảng viên
và nhân dân Nam Kì.Trong lời kêu gọi đồng bào, các Đảng phái cách mạng và các dân tộc bị áp bức
Đông Dương, Trung Ương Đảng đã viết “Những đội du kích Nam Kì rút vào rừng sâu,sau cuộc khởi
nghĩa cuối năm ngối cũng vẫn chiến đấu khơng ngớt”.Thơng báo “Cuộc chiến tranh Thái Bình Dương và
trách nhiệm cần kíp của Đảng”, ngày 21-12-1941, Trung ương kêu gọi: Đối với những bộ đội du kích Bắc
Sơn, Nam Kì [...], các đảng bộ cần phải xem xét những điều kiện có thể mở rộng những bộ đội ấy, gây

thêm những bộ đội mới để mở rộng du kích chiến tranh. Đồng thời phải gia tăng việc cổ động ủng hộ các
bộ đội du kích về mọi phương diện.
107.
Về phía trung tâm Cao Bằng, phong trào Việt Minh phát triển mạnh mẽ. Khu căn cứ được
mở
rộng sang các tỉnh Hà Giang, Bắc Cạn, Lạng Sơn. Các đoàn xung phong Nam tiến hoạt động mạnh, phát
triển cơ sở chính trị quần chúng trong các dân tộc thiểu số, đánh thông đường liên lạc bằng một hành


lang chính trị nối liền hai khu căn cứ Cao Bằng và Bắc Sơn-Võ
Nhai (cuối năm 1943), chuẩn bị cho sự ra
đời khu giải phóng Việt Bắc về sau.
108.

109.
Đồng thời với việc xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang. Trung ương Đảng và
Nguyễn Ái Quốc còn đẩy mạnh xây dựng căn cứ địa. Sau Hội nghị lần thứ 7 của Ban chấp hành Trung
ương, nhiều cán bộ được cử đến tăng cường cho Bắc Sơn. Khi các Trung Đội cứu quốc quân ra đời, khu
căn cứ Bắc Sơn - Vũ Nhai được củng cố và mở rộng. Từ tháng 4-1941, một vùng núi hiểm trở, rộng lớn
thuộc các xã Vũ Lễ, Vũ Lăng, Ngư Viên (châu Bắc Sơn), Lán Thượng, Tràng Xá (châu Vũ Nhai) được
nối liền với nhau, trở thành khu trung tâm của căn cứ Bắc Sơn - Vũ Nhai, trong đó vùng Khuổi Nọi (thuộc
xã Vũ Lễ) là trung tâm chính.
110.
Vùng Khuồi Nọi được cứu quốc quân cùng lực lượng tự vệ tổ chức canh phòng, bảo vệ chặt chẽ.
Trên
các ngả đường vào khu vực này đều được canh gác.Ở khu trung tâm căn cứ địa, phong trào quần chúng
diễn ra công khai. Trật tự trị an các làng bản được bảo đảm. Mọi tầng lớp nhân dân các dân tộc ở đây
đều hăng hái ủng hộ cách mạng. Các lớp huấn luyện quân sự, chính trị của Xứ uỷ Bắc Kì được tổ chức
ở Khuổi Nọi đã đào tạo nhiều cán bộ cho căn cứ Bắc Sơn - Vũ Nhai và cho cá tỉnh Lạng Sơn, Thái
Nguyên, Bắc Giang. Một trong những công việc quan trọng trong khu căn cứ địa là xây dựng các đoàn

thể Cứu quốc trong Mặt trận Việt Minh và phong trào quần chúng, đồng thời xây dựng lực lượng vũ trang
cách mạng.
111.
Tháng 10-1941, đội du kích tập trung đầu tiên của Cao Bằng được thành lập gồm 13
người.
Nhiệm vụ của đội là bảo vệ cơ quan Đảng, bảo vệ cán bộ, xây dựng cơ sở cho lực lượng tự vệ, thực
hiện công tác đặc biệt, giao thông liên lạc. Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Trung ương và Nguyễn Ái Quốc,
căn cứ địa Cao Bằng đã hình thành và từng bước phát triển vững chắc, trở thành một trung tâm lãnh đạo
phong trào cách mạng của cả nước.
112.
Một công tác quan trọng nữa của Trung ương Đảng thực hiện trong thời gian này là xây
dựng
các khu an toàn ở Hà Nội - cơ quan đầu não của địch. Từ đầu năm 1942, ban thường vụ Trung ương
lập các khu an tồn ở Đơng Anh, n Lãng (Phúc n), Từ Sơn, Gia Lâm (Bắc ninh), Hồi Đức (Hà
Đơng). Các khu an toàn này cách Hà Nội từ 10 đến 20km, sau đó Trung ương cịn xây dựng các khu an
tồn dự bị ở Hiệp Hịa (Bắc Giang), Phổ Yên, Phú Bình (Thái Nguyên). Cơ quan đầu não của Đảng
chuyển về xuôi. Ban thường vụ Trung ương bám sát Hà Nội theo dõi phong trào chung và chỉ đạo tồn
Đảng.
113.
Sang năm 1943, tình hình thế giới có những chuyển biến lớn. Hồng quân Liên Xô chiến thắngở
Xtalingrat, đánh dấu bước ngoặt căn bản của cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của Liên Xô. Mùa hè năm
1945, quân đội Xơ Viết đập tan cuộc phản cơng của Hitle vịng cung ở cuôcxơ. Chiến thắng của Hồng
quân Liên Xô cổ vũ manh mẽ phong trào giải phóng ở các nước thuộc địa và phụ thuộc.
114.
Đầu năm 1943, cách mạng Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển mới. Những thay đổi của tình
hình
thế giới và trong nước địi hỏi Đảng ta phải có chủ trương đẩy mạnh hơn nữa cơng tác chuẩn bị cho cuộc
khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.



115.
Từ ngày 25 đến 28-2-1943, Ban thường vụ Trung ương họp ở Võng La (Đông Anh, Phúc Yên)
bàn việc
mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất và xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang. Về cuộc chiến tranh thế
giới, Hội nghị nhận định: “Năm 1943 này là năm phe dân chủ sẽ đánh phe phát xít một cách quyết liệt
hơn để sửa soạn điều kiện cho bước thắng lợi cuối cùng. Dưới sức thúc đẩy mạnh mẽ của nhân dân,
Anh - Mỹ sẽ phải đánh vào Âu lục, mặt trận thứ hai sẽ phải mở. Đó là lúc Liên Xô tổng phản công đuỏi
hẳn quân Trục ra khỏi nước, phe dân chủ sẽ thừa thắng phản công Trục bên Viễn Đơng.
116.
Chiến tranh cịn kéo dài. Nhưng những thắng lợi của Liên Xơ, sự tan rã của phát xít quốc tế và sự
cùng
khổ của nhân dân các nước phát xít sẽ thúc đẩy cho cách mạng các nước bùng nổ trong nhiều nước”.
Về đặc điểm của phong trào cách mạng Đông Dương, Hội nghị nhận định:
1. Ở Đông Dương, Đảng cộng sản, chính đảng cách mạng của thợ thuyền, là Đảng duy nhất lãnh đạo
phong trào cách mạng. song những cuộc đấu tranh của thợ thuyền lại không được mạnh mẽ và rộng rãi
xứng đáng với vai trò lãnh đạo ấy.
2. Với Đông Dương hiện nay thiếu một phong trào cách mạng quốc gia tư sản và phong trào thanh
niên học sinh. Do đó, cuộc vận động cách mạng ở Đơng Dương vẫn hẹp hịi, có tính cách cơng nơng hơn
là tính cách tồn dân tộc.
3. Phong trào quần chúng đấu tranh hàng ngày tuy khơng bao gồm những hình thức biểu tình thị uy,
tổng bãi cơng...nhưng trái lại có nhiều cuộc tranh đấu vũ trang có tính cách du kích và khởi nghĩa. Nhân
dân Đơng Dương cực khổ dưới hai tầng áp bức, lai được tình hình thế giới kích thích, nên phong trào
cách mnạg Đơng Dương có thể bổng chốc tiến lên bằng những bước nhảy cao.[7;290]
117.
Vì vậy, Đảng phải xúc tiến hơn nữa công việc khởi nghĩa theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần
thứ 8
Ban chấp hành Trung ương, coi việc “chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của Đảng ta và dân ta
trong giai đoạn hiện tại”.
118.
Hội nghị vạch ra một kế hoạch cụ thể về cơng việc chuẩn bị tồn diện cho cuộc khởi nghĩa vũ

trang, như
tổ chức huần luyện các đội tự vệ, các tiểu tổ du kích, phổ biến kinh nghiệm về khởi nghĩa và chiến tranh
du kích qua sách báo và các lớp huấn luyện.
119.
Nghị quyết cũng nêu rõ phải đưa quần chúng ra đấu tranh chống Nhật - Pháp áp bức, bốc lột,
tăng thuế,
phá hoại hoa màu...Qua đó, rèn luỵện tập dượt họ.
120.
Nghị quyết Hội nghị nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng lực lượng cách mạng ở thành
thị, vận
động công nhân tham gia khởi nghĩa.
121.
Thực hiện nghị quyết Hội nghị, trong các năm 1943 - 1944, ở Bắc Kì các đồn thể Việt Minh được
xây
dựng và củng cố cả ở nông thôn và thành thị. Ở Hà Nội, tồ chức Việt Minh được thành lập trong nhiều
nhà máy, trường học, khu phố, nhu nhà máy xe lửa Gia Lâm, nhà máy sửa chữa ô tô Avia, xưởng đóng
tàu, trường Bưởi, trường Gia Long, trường kĩ nghệ thực hành...nhiều cuộc bãi cơng địi tăng lương của
cơng nhân nổ ra ở Hà Nội, Hải Phịng, ng bí, nam định, việt trì.
122.
Nơng dân các tỉnh đồng bằng Bắc Kì đấu tranh chống nhổ lúa trồng đay, nhổ ngơ trồng thầu dầu,
chồng
cướp thóc, cướp đất...Tổ chức Việt Minh đã phát triển ở hầu khắp các huyện.


123.
Ở Bắc Sơn - Vũ Nhai, cứu quốc quân hoạt động mạnh mẽ gây cơ sở chính trị, mở rộng khu căn
cứ ra
nhiều huyện thuộc các tỉnh Thái Nguyên, tuyên quang, vĩnh yên, phú thọ, bắc ninh, Bắc Giang...Trong
quá trình đó, lực lượng cứu quốc quân phát triển thêm một trung đội nữa - Trung đội cứu quốc quân III.
Ngày 25 - 2 - 1944, lễ thành lập trung đội cứu quốc quân III được tổ chức trọng thể tại khu rừng Khuổi

Kịch (Sơn Dương, Tuyên Quang). Trung đội có 30 cán bộ, chiến sĩ.
124.
Ở Cao Bằng, khắp nơi trong tỉnh sôi nổi chuẩn bị khởi nghĩa, thành lập thêm các đội tự vệ

trang, đội du kích, mở liên tiếp các lớp huấn luyện quân sự, chính trị...Khu căn cứ được mở rộng ra các
tỉnh Hà Giang, Bắc Cạn, Lạng Sơn.
125.
Năm 1943, Ban Việt Minh liên tỉnh Cao - Bắc - Lạng cử ra 19 đội xung phong “Nam tiến” gặp đội
“Bắc
tiến” của cứu quốc quân ở chợ Đồn (Bắc cạn). hai trung tâm căn cứ địa Bắc Sơn - Vũ Nhai đã được nối
liền với nhau bằng một hành lang chính trị, những căn cứ liên đồn.
126.
Để đẩy mạnh hơn nữa việc kởi nghĩa, ngày 7 - 5 - 1944, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị “Sửa soạn
khởi
nghĩa”.
127.
Ngày 10 - 8 - 1944, kêu gọi toàn dân “sắm vũ khí, đuổi thù chung”.
128.
Đáp lại kêu gọi của Đảng và Việt Minh, nhân dân khắp nơi góp tiền mua vũ khí, ra sức huấn luyện
quân
sự, củng cố và phát triển đội tự vệ.
129.
Tháng 10 - 1944, thực dân Pháp mở cuộc càn quét lớn vào vùng Vũ Nhai (Thái Nguyên). Cấp ủy
Đảng
địa phương phát động quần chúng khởi nghĩa. Cuộc khởi nghĩa nổ ra khi chưa có thời cơ, làm cho lực
lượng cách mạng bộc lộ sớm, bị cô lập và tổn thất lớn. thường vụ Trung ương Đảng đã nghiêm khắc phê
bình lãnh đạo Đảng bộ địa phương và kịp thời chỉ thị chuyển hướng hoạt động để bảo toàn lực lượng.
Cũng trong thời gian này, liên tỉnh ủy Cao - Bắc - Lạng chủ trương phát động chiến tranh du kích trong
phạm vi 3 tỉnh. Khi cơng việc chuẩn bị nổi dậy hồn thành, Hồ Chí Minh từ trung quốc trở lại Cao Bằng,
đã quyết định hoãn, vì kế hoạch đó “mới chỉ căn cứ vào tình hình địa phương mà chưa căn cứ vào tình

hình cụ thể trong cả nước, mới chỉ thấy bộ phận mà chưa thấy tồn cục".
130.
Hồ Chí Minh đã nhận định: “bây giờ thời kì cách mạng hịa bình đã qua, nhưng thời kì tồn dân
khởi
nghĩa chưa tới. nếu bây giờ chúng ta vẫn chỉ hoạt động bằng hình thức chính trị không đủ để đấy mạnh
phong trào đi tới. nhưng phát động vũ trang khởi nghĩa ngay thì quân địch sẽ tập trung đối phó. Cuộc đấu
tranh bây giờ pahỉ từ hình thức chính trị tiến lên hình thức qn sự. phải tìm ra một hình thức thích hợp
thì mới có thế đấy manh phong trào tiến lên.
131.
Người và Trung ương Đảng ra “Chỉ thị thành lập đội Việt Nam tuyên truyền Giải Phóng quân”. Nó
là đội
quân tuyên truyền, nghĩa là chính trị trọng hơn qn sự. Đội có nhiệm vụ vũ trang tuyên truyền, vận động
nhân dân nổi dậy, gây dựng cơ sở chính trị và quân sự cho cuộc khởi nghĩa sắp tới.
132.
Thực hiện chỉ thị này, ngày 22 - 12 1944, Võ Nguyên Giáp đứng ra thành lập đội Việt Nam tuyên
truyền
giải phóng quân trong khu rừng Sau Cạo nằm giữa hai tổng Trần Hưng Đạo và Hoàng Hoa Thám (thuộc
châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng) Sau ngày thành lập, Đội xuất quân giành được chiến thắng đầu tiên,
tiêu diệt gọn hai đồn Phay Khắt và Nà Ngần (Cao Bằng) trong hai ngày 25 và 26 - 12 - 1944.



×