Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

4 tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH về CÔNG tác dân vận và ý NGHĨA TRONG NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG tác dân vận HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.65 KB, 21 trang )

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CƠNG TÁC DÂN VẬN VÀ Ý
NGHĨA TRONG NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC DÂN VẬN
HIỆN NAY
MỞ ĐẦU
Việc quán triệt và thực hiện tốt tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác dân
vận, nhất là phương pháp “Dân vận khéo” đã góp phần quan trọng trong vận
động, tập hợp, tạo ra sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc - nhân tố cơ
bản để giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Quán triệt tư tưởng dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh; kế thừa các quan
điểm, đường lối công tác dân vận của Ðảng và từ yêu cầu thực tiễn của sự
nghiệp đổi mới, Hội nghị Ban Chấp hành T.Ư lần thứ 5 khóa XI đã ban hành
Nghị quyết số 25-NQ/TW, ngày 3-6-2013 về "Tăng cường và đổi mới sự lãnh
đạo của Ðảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới" (sau đây gọi tắt là
Nghị quyết 25-NQ/TW). Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân, Đảng gắn bó máu thịt với nhân dân đã trở thành một truyền thống tốt
đẹp và là nguồn sức mạnh của Đảng ta từ ngày thành lập đến nay. Đảng ta luôn
xác định: Dân vận và cơng tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối
với toàn bộ sự nghiệp cách mạng nước ta; là điều kiện quan trọng bảo đảm cho
sự lãnh đạo của Đảng và củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với
nhân dân. Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta trong điều
kiện hội nhập quốc tế càng đòi hỏi phải phát huy cao độ khối đoàn kết và sức
mạnh toàn dân tộc, kết hợp với sức mạnh của thời đại, đưa đất nước thoát khỏi
nghèo nàn, lạc hậu, thực hiện thành công công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.

1


I. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CƠNG TÁC DÂN VẬN
Ngày 15/10/1949, trên báo Sự Thật, số 120 đã đăng bài báo “Dân vận”


của Chủ tịch Hồ Chí Minh (với bút danh X.Y.Z). Bài báo ra đời trong thời điểm
công cuộc kháng chiến, kiến quốc của dân tộc ta có những chuyển biến mới, địi
hỏi cơng tác vận động quần chúng của Đảng phải được chú trọng, tăng cường
hơn nữa trong nhận thức và hành động nhằm động viên tối đa sức người, sức
của cho kháng chiến, kiến quốc. Tác phẩm rất ngắn gọn với dung lượng hơn 600
chữ, được thể hiện bằng ngôn ngữ giản dị, gần gũi với quần chúng; văn phong
súc tích, có tính khái qt cao; kết cấu mạch lạc, chặt chẽ, dễ nhớ, dễ thuộc và
dễ làm theo. Nội dung gồm 4 phần: Nước ta là nước dân chủ; Dân vận là gì? Ai
phụ trách dân vận? Dân vận phải thế nào? Tác phẩm có giá trị lý luận và thực
tiễn sâu sắc, là “cương lĩnh dân vận” của Đảng Cộng sản Việt Nam, là “kim chỉ
nam” về công tác dân vận trong mọi giai đoạn cách mạng, nêu rõ về bản chất,
vai trò, nhiệm vụ, trách nhiệm thực hiện công tác dân vận, phương pháp, quy
trình dân vận, tác phong người cán bộ dân vận. Là cở sở lý luận để Đảng, Nhà
nước ta đề ra các chủ trương, chính sách về cơng tác dân vận nói riêng, cơng tác
xây dựng Đảng nói chung; là cẩm nang cho các tổ chức, cá nhân trong hệ thống
chính trị nghiên cứu, học tập, thực hiện tốt công tác dân vận, đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay.
Là người sáng lập, rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí
Minh ln nhấn mạnh: Công tác dân vận là một bộ phận quan trọng trong cơng
tác của Đảng và các cấp chính quyền, nếu thiếu hoặc làm không tốt, sẽ không
tập hợp và huy động sức mạnh của quần chúng, bởi “cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng, chứ không phải là sự nghiệp của cá nhân anh hùng nào. Thành công
của Đảng ta là ở nơi Đảng ta đã tổ chức và phát huy lực lượng cách mạng vô tận
của nhân dân”[1].
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Kinh nghiệm trong nước và các
nước cho chúng ta biết: có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy
cũng làm được. Khơng có, thì việc gì làm cũng khơng xong”. Cho nên, nếu

2



khơng làm tốt cơng tác dân vận, thì khơng những khơng phát huy được sức
mạnh của tồn dân mà cịn bị kẻ thù chống phá, xuyên tạc, chia rẽ khối đại đồn
kết tồn dân tộc; đến lúc ấy, thì dù việc nhỏ đến mấy thì cũng khơng thành cơng.
Theo Người, chỉ có làm tốt cơng tác dân vận thì mới huy động được sức mạnh
vô địch của quần chúng nhân dân, vì thế, cơng tác vận động, giác ngộ quần
chúng là công tác quan trọng quyết định thành bại của sự nghiệp cách mạng.
Trong tác phẩm “Dân vận”[2] gồm 4 mục, đăng báo Sự Thật ngày
15/10/1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định tiền đề, cơ sở có tính chất
quyết định trong cơng tác dân vận chính là vì: “Nước ta là nước dân chủ”. Trong
mục I này, Người đã tóm tắt bản chất của một nước dân chủ thật sự chính là:
“Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi
mới xây dựng là trách nhiệm của nhân dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là
cơng của dân. Chính quyền từ xã đến chính phủ Trung ương do dân cử ra, đoàn
thể từ xã đến Trung ương do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực
lượng đều ở nơi dân”[3].
Suy ngẫm sâu sắc về vấn đề này, chúng ta thấy tính chất nhân dân đậm nét
trong tư tưởng Hồ Chí Minh; theo đó: Của dân tức là tồn thể quốc dân tự do
lựa chọn những người có tài, có đức gánh vác cơng việc nước nhà; chính quyền
từ xã đến Chính phủ Trung ương đều do dân bầu ra, kiểm soát. Do dân là nhân
dân phát huy quyền làm chủ của mình trong mọi lĩnh vực, tự tổ chức lên các
Đoàn thể từ Trung ương đến xã và nhà nước chỉ can thiệp khi quyền lợi của dân
hay pháp luật bị vi phạm. Vì dân là mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước đều phải xuất phát từ quyền lợi của nhân dân, bảo
vệ những lợi ích chính đáng và tạo điều kiện sống thuận lợi cho nhân dân. Các
cơ quan công quyền khơng được đặc quyền, đặc lợi, chỉ có một mục tiêu là phục
vụ nhân dân và “muốn cho dân u, muốn được lịng dân, việc gì có lợi cho dân
phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh (…) Muốn được dân
yêu mến, muốn được lòng dân trước hết phải yêu dân, phải đặt quyền lợi của
dân lên hết thảy, phải có tinh thần chí cơng vơ tư”[4].


3


Trong mục II, trả lời câu hỏi: “Dân vận là gì?”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa
ra khái niệm: “Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân
khơng để sót một người dân nào, góp thành lực lượng tồn dân, để thực hành
những cơng việc nên làm, những cơng việc Chính phủ và Đồn thể đã giao
cho”[5]. Đó chính là việc tập hợp và huy động cho được sức mạnh của toàn dân
(mọi người, mọi nhà, mọi đối tượng) vào các phong trào cách mạng. Cũng chính
trên tinh thần xác định rằng: Cơng tác dân vận là rất quan trọng, không thể chỉ
dùng “báo chương, sách vở, mít tinh, khẩu hiệu, truyền đơn, chỉ thị mà đủ”, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ 4 bước quan trọng, nhất thiết phải làm trong công tác
dân vận. Đó là: 1) Phải “tìm mọi cách giải thích cho mỗi người dân hiểu rõ ràng:
Việc đó có lợi ích cho họ và nhiệm vụ của họ, họ phải hăng hái làm cho kỳ
được”. 2) “Bất cứ việc gì cũng đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh
nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa
phương, rồi động viên và tổ chức toàn dân ra thi hành”. 3) Phải “theo dõi, giúp
đỡ, đơn đốc khuyến khích dân”. 4). “Khi làm xong phải cùng dân kiểm thảo lại
công việc, rút kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng”[6].
Trong mục thứ III, “Ai phụ trách dân vận?”, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ
lực lượng làm công tác dân vận là: “Tất cả cán bộ chính quyền, tất cả cán bộ
đồn thể và tất cả hội viên của các tổ chức nhân dân (Liên Việt Việt Minh, v.v.)
đều phải phụ trách Dân vận”. Như vậy, lực lượng làm công tác dân vận không
chỉ là những người chuyên trách công tác này, mà là rất đông đảo các tổ chức, cá
nhân cùng tham gia; theo đó, “những hội viên các đồn thể thì phải xung phong
thi đua làm để làm kiểu mẫu cho dân, giúp dân làm”[7].
Mục IV, “Dân vận phải thế nào?” đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra,
chỉ rõ; đó chính là phương pháp dân vận với những yêu cầu rất cụ thể, được đúc
kết bằng 12 từ. Theo đó, những người làm cơng tác dân vận phải “óc nghĩ, mắt

trơng, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm”, chứ khơng phải “chỉ nói sng, chỉ
ngồi viết mệnh lệnh. Tuy nhiên, trong thực tế, dường như 12 từ mà Chủ tịch Hồ
Chí Minh nêu ra vẫn chưa được thấu triệt, nên “khuyết điểm to ở nhiều nơi là

4


xem khinh việc dân vận. Cử ra một ban hoặc vài người, mà thường cử những
cán bộ kém rồi bỏ mặc họ. Vận được thì tốt, vận khơng được cũng mặc. Những
cán bộ khác không trông nom, giúp đỡ, tự cho mình khơng có trách nhiệm dân
vận. Ðó là sai lầm rất to, rất có hại”.
Cuối cùng, kết thúc tác phẩm, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ rằng: “Dân
vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành cơng”[8].
Đây là “cẩm nang dân vận”, là những chỉ dẫn hữu hiệu, thiết thực đối với những
người làm công tác dân vận.
Từ 4 mục trong tác phẩm Dân vận, có thể thấy tầm quan trọng và ý nghĩa
to lớn của công tác dân vận trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Để làm tốt được cơng
việc trọng yếu này, mỗi cán bộ làm công tác dân vận không chỉ phải nhận thức
rõ yêu cầu của công tác dân vận để thực hiện phương pháp dân vận đúng mà cịn
phải huy động mọi người, tổ chức, đồn thể và phải vận dụng “ngũ quan” trong
công tác trên cơ sở hiểu rõ thực tế, nắm vững bản chất của con người, của sự
việc để làm tốt công tác dân vận và nói phải đi đơi với làm.
Để làm tốt công tác dân vận, nhất là “Dân vận khéo”, người làm cơng tác
dân vận phải thành thạo quy trình dân vận: phải có phương pháp tun truyền,
giải thích cho dân hiểu; phải dân chủ bàn bạc với dân để đặt kế hoạch rồi tổ chức
cho toàn dân thi hành; phải kiểm tra, theo dõi, động viên, khuyến khích nhân
dân; khi xong phải kiểm thảo lại công việc, rút kinh nghiệm, phê bình, khen
thưởng kịp thời. Nhất là, phải tránh bệnh chủ quan, phải phát huy dân chủ, vì
“có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến” và “có phát huy
dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả lực lượng của nhân dân đưa

cách mạng tiến lên”. Đồng thời, trong công tác phải ln kiểm tra xem các chủ
trương, chính sách, các chỉ thị, nghị quyết về công tác dân vận được thi hành
đến đâu; có ưu khuyết điểm, hạn chế gì, để từ đó có hướng giải quyết, nhằm
thực hiện ngày càng tốt hơn.
“Dân vận khéo” trong tư tưởng Hồ Chí Minh chính là chỉ dẫn cơ bản về
phương pháp để mọi cán bộ, đảng viên tiến hành tốt công tác vận động quần

5


chúng. Đặt “óc nghĩ” lên hàng đầu chính là Người đã khẳng định công tác dân
vận là một khoa học về con người, một nghệ thuật về vận động con người. Vì
thế, người làm cơng tác dân vận phải dày cơng suy nghĩ để phân tích chính xác
tình hình và vận dụng sáng tạo lý luận vào thực tiễn sinh động để vận động nhân
dân có hiệu quả. Cùng đó, Người yêu cầu phải “mắt trông, tai nghe, chân đi” để
yêu cầu người làm công tác dân vận phải sâu, sát cơ sở, am hiểu thực tiễn, phải
đến với nhân dân để lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, vận động
nhân dân thực hiện tốt các chủ trương, chính sách và giúp dân giải quyết các
cơng việc cụ thể, đề xuất chính sách hoặc điều chỉnh chính sách cho phù hợp.
Cịn “miệng nói, tay làm” chính là Hồ Chí Minh u cầu người làm cơng tác dân
vận phải làm việc một cách thật sự, phải cùng lao động, cùng hòa vào cuộc sống
hàng ngày của nhân dân để làm dân vận hiệu quả. Cán bộ, đảng viên phải làm
gương cho quần chúng, phải ln thống nhất nói và làm, vì “chỉ nói sng, chỉ
ngồi viết mệnh lệnh” thì không thể hiểu được nhân dân, không thể “vận động”
được nhân dân, quy tụ được nhân dân.
Theo Người, người làm cơng tác tưởng nói chung, cơng tác dân vận nói
riêng đều phải chú trọng yêu cầu: trong làm việc, tổ chức, nói chuyện, tuyên
truyền, khẩu hiệu, viết báo,v.v.. đều phải thấu triệt khuôn phép: “Từ trong quần
chúng ra. Về sâu trong quần chúng. Bất cứ việc to, việc nhỏ, chúng ta phải xét rõ
và làm cho hợp trình độ văn hóa, thói quen sinh hoạt, trình độ giác ngộ, kinh

nghiệm tranh đấu, lịng ham, ý muốn, tình hình thiết thực của quần chúng. Do đó
mà định ra cách làm việc, cách tổ chức. Có như thế, mới có thể kéo được quần
chúng”. Trong mọi mặt công tác, người cán bộ nói chung, cán bộ làm cơng tác
dân vận nói riêng đều phải chú ý điều kiện thực tế của đất nước, phải chú ý, vì
trong nhân dân có nhiều giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tơn giáo khác nhau; có bộ
phận tiên tiến, bộ phận trung bình, bộ phận chậm tiến; có nghề nghiệp, trình độ,
năng lực khơng giống nhau nên có u cầu, nguyện vọng, lợi ích khác nhau.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhưng các tầng lớp nhân dân lại khơng
đồng đều về trình độ nhận thức, hồn cảnh xuất thân, do đó, người làm dân vận

6


phải hiểu rõ thực tế này để có cách làm thật phù hợp.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói, dân vận khơng chỉ tun truyền sng
bằng sách báo, mít tinh, khẩu hiệu, mà phải bằng hành động cụ thể, thiết thực,
nên người làm công tác dân vận cũng cần phải quan tâm đến việc xây dựng
những điển hình tốt, những tấm gương tốt. Sinh thời, Người đã không chỉ quan
tâm đến việc xây dựng những gương điển hình, mà cịn trực tiếp viết thư khen
ngợi, động viên, khuyến khích những tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc
trong học tập, lao động, sản xuất, chiến đấu và đề nghị có mục “gương người
tốt, việc tốt” trên báo để động viên mọi người noi theo. Người thường nói, một
tấm gương sống cịn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền và cả
cuộc đời Người chính là một tấm gương sáng, một tấm gương mẫu mực về “Dân
vận khéo”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với người dân gần gũi, chân tình như về
với người thân, khơng có sự cách biệt. Người sẵn sàng lội xuống ruộng cầm dây
gầu tát nước, đạp guồng nước cùng dân; đến thăm cơ sở hay đơn vị, Người
thường không chỉ dừng lại ở phòng khách hay hội trường mà thường xem tận
nơi nhà bếp, giếng nước, nơi vệ sinh. Người cũng không chỉ gặp gỡ lãnh đạo mà
tận tình thăm hỏi từng người lao động bình thường nhất,v.v.. Người đến với

nhân dân để động viên phong trào, biểu dương thành tích và cố gắng của đồng
bào, đồng thời cũng nghiêm khắc phê bình những khuyết điểm cần phải sửa
chữa, để mỗi người đều tốt hơn lên, công việc cũng đạt chất lượng tốt hơn.
Việc quán triệt và thực hiện tốt tư tưởng Hồ Chí Minh về cơng tác dân
vận, nhất là phương pháp “Dân vận khéo” đã góp phần quan trọng trong vận
động, tập hợp, tạo ra sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc - nhân tố cơ
bản để giành thắng lợi trong đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong bối cảnh đất nước đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng, công tác
dân vận là một nhiệm vụ quan trọng của tồn bộ hệ thống chính trị từ Trung
ương xuống cơ sở và đó là yêu cầu cấp thiết, bảo đảm sự phát triển của đất
nước. Tuy nhiên, cơng tác dân vận của chính quyền cơ sở vẫn còn nhiều hạn

7


chế, bất cập, như chưa gần dân, sát dân, chưa nắm được hết tâm tư, nguyện vọng
chính đáng của nhân dân; có biểu hiện mất dân chủ; một bộ phận cán bộ, công
chức ở cơ sở làm việc quan liêu, hách dịch, mệnh lệnh, xa dân, chưa vận dụng
thành thạo quy trình tiến hành dân vận… Do đó, có nơi, có lúc, việc tuyên
truyền, vận động nhân dân thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, cải
thiện đời sống, chấp hành pháp luật đạt hiệu quả chưa cao. Một số địa bàn cơ sở
xảy ra tình trạng mất ổn định do nhân dân chưa đồng thuận, vi phạm dân chủ,
khiếu kiện về tranh chấp đất đai kéo dài,v.v..
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu
quả công tác dân vận, tăng cường quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân”.
Cụ thể hóa Nghị quyết XII của Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành
nhiều nghị quyết, chỉ thị về công tác dân vận và liên quan đến cơng tác dân vận,
điển hình là: Ban Bí thư ban hành Kết luận số 43-KL/TW, ngày 07/01/2019 về
tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 25-NQ/TW khóa XI về “Tăng cường và đổi

mới sự lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác dân vận trong tình hình mới”, Chỉ thị
số 49-CT/TW ngày 20/10/2015 về “Tăng cường và đổi mới công tác dân vận
của Đảng ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số”; Chỉ thị số 16/CT-TTg, ngày
16/5/2016 của Thủ tướng Chính phủ về “Tăng cường và đổi mới cơng tác dân
vận trong cơ quan hành chính nhà nước, chính quyền các cấp trong tình hình
mới”… Việc đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII
về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”
gắn với cơng tác dân vận sâu rộng, có hiệu quả chính là góp phần thiết thực thực
hiện lời căn dặn của Người: “Dân vận kém thì việc gì cũng kém, dân vận khéo
thì việc gì cũng thành cơng”.
Đồng thời, phát huy vai trị gương mẫu, đi đầu của đội ngũ cán bộ, đảng
viên nói chung, đội ngũ cán bộ, đảng viên lãnh đạo, quản lý nói riêng trong mọi
mặt cơng tác, nhất là cơng tác dân vận cũng chính là “lấy gương người tốt việc
tốt để hàng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây
dựng Đảng, xây dựng tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống

8


mới”, để mỗi cán bộ, đảng viên thật sự xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy
tớ thật trung thành của nhân dân, để hoàn thành trọng trách mà Đảng và nhân
dân giao phó.
II. Ý NGHĨA TRONG NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC
DÂN VẬN HIỆN NAY
Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Ðảng, sự vào cuộc của cả hệ
thống chính trị, cơng tác dân vận đã đạt được kết quả quan trọng, đóng góp tích
cực vào việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ kinh tế - xã hội của đất
nước, tăng cường khối đoàn kết toàn dân tộc, củng cố niềm tin của Nhân dân đối
với Ðảng, Nhà nước. Những kết quả đạt được cùng những chuyển biến tích cực
trong cơng tác dân vận của cả hệ thống chính trị được thể hiện trên một số mặt

chủ yếu như sau:
Tăng cường xây dựng Ðảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức;
tập trung giải quyết kịp thời, có hiệu quả những bức xúc chính đáng của nhân
dân
Ban Chấp hành T.Ư, Bộ Chính trị, Ban Bí thư ban hành nhiều văn bản
liên quan đến công tác xây dựng Đảng, việc nêu cao trách nhiệm của cán bộ,
đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, đặc biệt là Nghị quyết T.Ư
4 (các khóa XI, XII), Nghị quyết T.Ư 6, 7 (khóa XII). Cơng tác phịng, chống
tham nhũng được tập trung chỉ đạo quyết liệt, đạt nhiều kết quả tích cực. Cấp ủy,
ủy ban kiểm tra các cấp tập trung kiểm tra, giám sát việc thực hiện các nghị
quyết, quy định của Đảng; kịp thời kiểm tra cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng có
dấu hiệu vi phạm, xử lý, tạo bước đột phá mạnh mẽ trong công tác kiểm tra, kỷ
luật của Đảng, được đông đảo cán bộ, đảng viên và Nhân dân đồng tình, đánh
giá cao. Tổ chức cơ sở đảng được củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu, đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp tạo sự chuyển biến về chất
trong hoạt động của các loại hình tổ chức cơ sở đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ,
đảng viên cơ sở gần dân, nêu cao tinh thần trách nhiệm với Nhân dân.
Tập trung giải quyết kịp thời, có hiệu quả những bức xúc chính đáng của

9


Nhân dân. Nhiều văn bản pháp luật sửa đổi, bổ sung cơ chế để Nhân dân tham
gia đóng góp ý kiến, phản ánh tâm tư, nguyện vọng. Việc phản ánh ý kiến của
người dân qua hoạt động của cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc (MTTQ), các tổ
chức chính trị - xã hội và trực tiếp của Nhân dân được quan tâm, công khai báo
cáo kiến nghị của cử tri cả nước và kết quả giải quyết kiến nghị của cử tri. Các
cấp ủy, chính quyền tăng cường đối thoại, tiếp xúc với Nhân dân; tạo điều kiện
để MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện giám sát, phản biện, góp ý
xây dựng đảng, chính quyền; phân công trách nhiệm cụ thể để giải quyết, trả lời

phản ánh, kiến nghị chính đáng của Nhân dân; chú trọng việc phát huy vai trị
của người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số, cốt cán trong tôn giáo; quan
tâm chỉ đạo giải quyết những vụ khiếu nại, tố cáo tồn đọng, phức tạp, kéo dài ở
một số địa phương.
Công tác dân vận của cơ quan nhà nước và chính quyền các cấp có nhiều
chuyển biến tích cực, hiệu quả rõ nét hơn.
Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp tiếp tục
đổi mới cả về nội dung và hình thức. Nội dung giám sát tập trung vào những chủ
trương, chính sách quan trọng, có liên quan mật thiết đến người dân, những vấn
đề bức xúc, nổi cộm ở nhiều địa bàn, giám sát thực hiện luật pháp, nghị quyết
của Quốc hội. Hoạt động tiếp xúc cử tri được đổi mới, mở rộng thêm nhiều hình
thức (tiếp xúc nơi cư trú, nơi làm việc, theo chuyên đề, lĩnh vực, theo đối tượng
và cá nhân hoặc nhóm cử tri...) ngày càng phát huy tốt hơn trách nhiệm của cử
tri, của đại biểu trong việc tham gia góp ý xây dựng, quyết định chính sách, pháp
luật.
Chính phủ và chính quyền các cấp đẩy mạnh việc thể chế đường lối, quan
điểm của Đảng, tổ chức thực thi chính sách, pháp luật; ban hành nhiều văn bản
liên quan đến công tác dân vận, nhất là thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở...
Tích cực triển khai thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà
nước giai đoạn 2011 - 2020, trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính; đẩy mạnh
việc ứng dụng công nghệ thông tin trong giải quyết thủ tục hành chính; cải thiện

10


môi trường đầu tư, kinh doanh; tập trung xây dựng, hồn thiện các quy định của
pháp luật có liên quan đến quan hệ giữa Nhà nước và Nhân dân, hoạt động giám
sát của Nhân dân đối với cơ quan hành chính, hoạt động tiếp dân, đối thoại...
Tăng cường việc cơng khai quy định cụ thể về trách nhiệm, thái độ phục vụ
Nhân dân của cán bộ, công chức, viên chức để Nhân dân biết và giám sát; đã có

sự chuyển biết rõ nét hơn về tinh thần trách nhiệm, ý thức phục vụ Nhân dân
trong đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức chính quyền các cấp.
Cơng tác dân vận của Quân đội và lực lượng Công an được tăng cường.
Cấp ủy, chỉ huy các cấp trong Quân đội đã ban hành nghị quyết, quy chế lãnh
đạo, thực hiện công tác dân vận; đẩy mạnh thực hiện Quy chế Dân chủ, góp
phần nâng cao hiệu quả cơng tác dân vận trong tồn qn. Triển khai sáng tạo,
có hiệu quả phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”; chú trọng vận động
Nhân dân ở các địa bàn trọng điểm, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo nâng
cao nhận thức về nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, phòng ngừa và tham gia đấu
tranh với các loại tội phạm buôn bán ma túy, vũ khí, bn bán người, gian lận
thương mại, khai thác tài nguyên trái phép... góp phần củng cố vững chắc “thế
trận lòng dân”, cảnh giác với âm mưu thủ đoạn của thế lực thù địch. Lực lượng
Công an đổi mới nội dung, hình thức, biện pháp vận động Nhân dân tham gia
phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc” với nhiều cách làm hay, hiệu
quả.
MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội, hội quần chúng tiếp tục đổi mới
nội dung, phương thức hoạt động, tăng cường vận động, tập hợp đoàn viên, hội
viên và Nhân dân
MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội chú trọng hướng về cơ sở, làm nòng
cốt trong việc nắm bắt tình hình Nhân dân, phát huy dân chủ, tăng cường hoạt
động giám sát, phản biện, góp ý xây dựng Đảng, chính quyền; các phong trào thi
đua yêu nước được đẩy mạnh gắn với việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh và phong trào thi đua “Dân vận khéo” góp phần phát
triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh, đối ngoại, nâng cao đời

11


sống của Nhân dân. Cơng tác nắm tình hình quần chúng được đổi mới, sát hơn
với thực tiễn, nhất là những vấn đề phức tạp, người dân bức xúc; bám sát cơ sở,

phân công cán bộ về địa bàn, xây dựng lực lượng cốt cán, phối hợp tuyên
truyền, vận động, giải quyết tình hình khiếu kiện phức tạp, đơng người, phản
ứng cực đoan của một bộ phận người dân tại một số địa bàn góp phần ổn định
tình hình. Tạo điều kiện để các Hội quần chúng hoạt động, từng bước đáp ứng
nhu cầu chính đáng, hợp pháp của các tầng lớp Nhân dân; khuyến khích các hội
quần chúng hoạt động gắn với quyền lợi chính đáng của hội viên, tích cực đóng
góp cho xã hội.
Những kết quả quan trọng này đã góp phần tăng cường, đổi mới sự lãnh
đạo của Đảng đối với công tác dân vận, tạo sự đồng thuận, vận động Nhân dân
tham gia thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà
nước, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh to lớn của
Nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, củng cố lòng tin của
Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.
Bên cạnh những kết quả quan trọng nêu trên, có thể thấy cơng tác dân
vận của hệ thống chính trị cịn một số hạn chế, yếu kém như:
Nhận thức và trách nhiệm lãnh đạo, thực hiện công tác dân vận của cấp ủy
tổ chức đảng một số nơi chưa có sự chuyển biến rõ nét; chưa thực sự coi trọng
và đổi mới công tác vận động quần chúng; chưa thực sự lấy lợi ích chính đáng
của Nhân dân làm mục tiêu, động lực nhằm tạo sự đồng thuận trong thực hiện
đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; chưa tạo
nhiều cơ chế, điều kiện thuận lợi cho Nhân dân tham gia giám sát, góp ý kiến
xây dựng Đảng, chính quyền.
Chưa thể chế kịp thời, đầy đủ chủ trương, nghị quyết của Đảng về lĩnh
vực công tác dân vận; một số chính sách ban hành chưa lắng nghe thấu đáo ý
kiến Nhân dân; một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức chưa nhận thức sâu
sắc vai trò của công tác dân vận trong thực thi chức trách, nhiệm vụ. Nội dung
và phương thức hoạt động của MTTQ, tổ chức chính trị - xã hội chưa đổi mới

12



mạnh mẽ, kịp thời. Hoạt động giám sát, phản biện xã hội chưa đáp ứng được yêu
cầu tình hình mới, chưa gắn kết chặt chẽ quyền, lợi ích thiết thực của đoàn viên,
hội viên và nhân dân với việc tập hợp, phát triển đoàn viên, hội viên.
Trong thời gian tới, để nâng cao chất lượng công tác dân vận và nhân
rộng các điển hình “Dân vận khéo” theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cấp ủy, chính
quyền, các ban ngành chức năng các cấp cần thực hiện tốt một số nội dung,
phương hướng cơ bản sau:
Một là, phát huy vai trò của các tổ chức trong hệ thống chính trị để tiến
hành cơng tác dân vận; trong đó, tổ chức cơ sở đảng là hạt nhân trực tiếp lãnh
đạo công tác dân vận. Cấp ủy cơ sở phải đề ra chủ trương, biện pháp cụ thể
trong kế hoạch công tác; giao trách nhiệm dân vận cho từng cán bộ, đảng viên;
lãnh đạo chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, đồn thanh niên, hội nông dân, hội phụ
nữ, hội cựu chiến binh... cùng tiến hành công tác dân vận. Đặc biệt, phải lãnh
đạo, chỉ đạo việc kiểm tra, đơn đốc và có sự phối hợp giữa các tổ chức để thực
hiện công tác dân vận nhịp nhàng, đồng bộ, hiệu quả.
Công tác dân vận phải gắn liền với công tác xây dựng Đảng, xây dựng
Nhà nước trong sạch, vững mạnh. Nêu cao tinh thần trách nhiệm, đạo đức của
đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đối với Nhân dân; thực sự phát huy vai trò
gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, cán bộ lãnh đạo,
quản lý chủ chốt các cấp, nhất là từ cấp T.Ư.
Hai là, quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận và phương
pháp “Dân vận khéo” một cách nghiêm túc, bài bản, cụ thể và phù hợp với thực
tiễn của từng địa phương, cơ quan, đơn vị, gắn với chương trình học tập, bồi
dưỡng của cán bộ, đảng viên; tập huấn nghiệp vụ; sinh hoạt, nói chuyện chuyên
đề; sơ, tổng kết về cơng tác dân vận. Q trình đó đồng thời gắn với quán triệt,
thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng về công tác dân vận, đặc biệt là thực
hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 7 khóa XI về “Tăng cường và đổi mới
sự lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác dân vận trong tình hình mới”.
Phải chú trọng thể chế hóa cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,


13


nhân dân làm chủ” và phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”;
khuyến khích, tạo điều kiện để Nhân dân phát huy đầy đủ tình cảm và trách
nhiệm của mình tích cực tham gia xây dựng, bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ xã
hội chủ nghĩa (XHCN).
Ba là, thường xuyên bồi dưỡng phương pháp “Dân vận khéo”, xây dựng
đội ngũ cán bộ, cơng chức có tinh thần tôn trọng và phục vụ nhân dân; xây dựng
và thực hành phong cách “trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách
nhiệm với dân”. Rèn luyện cho cán bộ, đảng viên vận dụng thành thạo các bước
công tác dân vận trong tình hình mới: Điều tra, nghiên cứu, khảo sát nắm chắc
tình hình nhân dân trên địa bàn thông qua các kênh thông tin khác nhau, các
hoạt động của các tổ chức đoàn thể...; tuyên truyền, giáo dục nhân dân về chấp
hành đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, quy
định ở địa phương; vận động, thuyết phục nhân dân hưởng ứng, tham gia phát
triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội,
quốc phịng,v.v..
Cần phải xác định trọng tâm của cơng tác dân vận trong giai đoạn hiện
nay là đáp ứng nhu cầu, lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; thực sự
thấm nhuần tư tưởng dân vận Hồ Chí Minh: “Việc gì có lợi cho dân phải hết sức
làm, việc gì có hại cho dân thì hết sức tránh”, nhất là trong hoạt động quản lý
của Nhà nước và chính quyền các cấp; phát huy mạnh mẽ lịng u nước chân
chính, ý thức tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo, mọi nguồn lực trong nhân dân
cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng.
Bốn là, chú trọng xây dựng và nhân rộng các điển hình “Dân vận khéo”
chặt chẽ từ lựa chọn mơ hình; dự kiến nhân sự; bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng,
phương pháp dân vận; xây dựng cơ sở vật chất và điều kiện cần thiết cho công
tác dân vận đến thử nghiệm mơ hình và tổ chức rút kinh nghiệm, học tập, vận

dụng để nhân rộng mơ hình. Trong lúc thi hành phải luôn luôn theo dõi, đôn đốc,
đồng thời nắm bắt các vấn đề phát sinh để có cách khắc phục kịp thời; khi cơng
việc hồn thành phải kiểm điểm, rút kinh nghiệm, tổng kết kinh nghiệm những

14


việc làm được và chưa làm được để đề ra giải pháp khắc phục; phải chú trọng và
có sự động viên, khuyến khích kịp thời bằng các hình thức biểu dương, khen
thưởng, đồng thời phê bình các biểu hiện, các cách chưa tốt, để nâng cao hiệu
quả công tác dân vận.
Phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong công tác dân vận, chú
trọng công tác dân vận chính quyền; đổi mới cơng tác dân vận của MTTQ và
các tổ chức chính trị - xã hội, các hội quần chúng sát hợp với tình hình mới;
quan tâm cơng tác dân vận vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào có tơn
giáo, những địa bàn có vấn đề phức tạp...
Phát huy kết quả đã đạt được, khắc phục những tồn tại, hạn chế, tiếp tục
đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết 25-NQ/TW và các văn bản của Đảng về công
tác dân vận trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập
quốc tế, trong thời gian tới cần tiếp tục thực hiện tốt một số nhiệm vụ, giải pháp
chủ yếu sau:
Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, hành động về công tác
dân vận của các cấp ủy đảng, hệ thống chính trị; phát huy vai trò của Nhân
dân tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh
Nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức
về quan điểm, đường lối của Đảng đối với công tác dân vận, yêu cầu đổi mới
công tác dân vận trong quá trình hồn thiện nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; thực sự coi trọng phát huy dân
chủ và đáp ứng lợi ích chính đáng của Nhân dân là động lực phát huy tiềm lực
và khối đoàn kết toàn dân. Tiếp tục nâng cao nhận thức về công tác dân vận, về

phong trào thi đua “Dân vận khéo”; tăng cường công tác tuyên truyền, định
hướng phong trào gắn với chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức trong
hệ thống chính trị.
Đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nêu cao tinh thần gương
mẫu, ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả tình trạng suy thối, “tự diễn biến”, “tự
chuyển hóa” trong nội bộ Đảng; nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng,

15


đảng viên, đấu tranh với quan điểm, luận điệu của thế lực thù địch, phản động;
tăng cường công tác đấu tranh phịng, chống tham nhũng, lãng phí.
Tiếp tục tăng cường công tác tuyên truyền, quán triệt các Nghị quyết Đại
hội Đảng các cấp, chủ trương của Đảng, chính sách phát luật của Nhà nước và
phát động phong trào thi đua u nước, phấn đấu hồn thành mục tiêu, nhiệm
vụ, góp phần thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng đặc
biệt là phối hợp tuyên truyền sâu rộng về truyền thống công tác dân vận của
Đảng, các quan điểm của Đảng, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cơng tác
dân vận; vận động người lao động và các tầng lớp nhân dân đẩy mạnh phong
trào thi đua “Dân vận khéo”, tích cực tham gia phong trào “Tồn tỉnh chung sức
xây dựng nơng thơn mới”.
Thường xuyên sâu sát cơ sở, lắng nghe ý kiến góp ý, phản ảnh, kiến nghị
của các tầng lớp Nhân dân; rà sốt giải quyết kịp thời, có hiệu quả nguyện vọng
chính đáng, hợp pháp của Nhân dân. Những vấn đề phức tạp phát sinh, chưa
đồng thuận cao cần tổ chức đối thoại giữa người đứng đầu các cấp để vận động,
giải thích, giải quyết thỏa đáng; giải quyết dứt điểm những vụ việc khiếu kiện
phức tạp, đơng người cịn tồn đọng, chủ động ngăn ngừa, xử lý sớm các vấn đề
có thể phát sinh phức tạp trong đời sống xã hội.
Tiếp tục thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng liên quan đến
công tác dân vận, cuộc sống của Nhân dân

Nâng cao chất lượng công tác xây dựng, ban hành chủ trương, quyết sách
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Rà soát, sửa đổi, bổ sung, ban
hành mới chính sách, pháp luật liên quan đến cuộc sống người dân, tạo thuận lợi
cho việc thực hiện các quyền con người, quyền cơ bản của công dân. Quan tâm
các chính sách tác động trực tiếp đến cuộc sống của người dân ở vùng sâu, vùng
xa, đồng bào dân tộc thiểu số, người lao động thu nhập thấp, người yếu thế.
Q trình ban hành chính sách, pháp luật cần tạo điều kiện cho Nhân dân
nhất là các đối tượng chịu tác động trực tiếp tham gia đóng góp ý kiến, góp phần
quyết định các chính sách có liên quan mật thiết đến cuộc sống của mình. Đối

16


với những vấn đề lớn, nhạy cảm phải nghiên cứu kỹ lưỡng, thận trọng, đánh giá
toàn diện, tiếp thu ý kiến, tạo điều kiện cho MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội
tham gia phản biện trước khi quyết định.
Xác định nội dung trọng tâm phong trào thi đua “Dân vận khéo” phù hợp
với điều kiện từng địa bàn, từng đối tượng. Chú trọng 2 Chương trình mục tiêu
quốc gia xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững, gắn các phong trào
thi đua của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội với việc thực hiện
Chỉ thị số 05-CT/TW và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII.
Trên cơ sở đường lối của Đảng, Hiến pháp (sửa đổi năm 2013), tiếp tục
hoàn thiện, cụ thể hóa cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm
chủ” và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Tiến hành
đánh giá kết quả thực hiện Pháp lệnh 34/2007/PL-UBTVQH11 của Ủy ban
Thường vụ Quốc hội, các Nghị định 60/NĐ-CP, 04/NĐ-CP của Chính phủ và
các văn bản liên quan để nghiên cứu ban hành pháp luật về thực hành dân chủ ở
cơ sở phù hợp với tình hình mới.
Tăng cường cơng tác dân vận của cơ quan nhà nước, chính quyền các
cấp, từ trung ương đến địa phương

Đẩy mạnh thực hiện Kết luận số 114-KL/TW của Ban Bí thư về nâng cao
hiệu quả công tác dân vận của cơ quan nhà nước các cấp, Chỉ thị số 16/CT-TTg
của Thủ tướng Chính phủ “về tăng cường và đổi mới công tác dân vận trong cơ
quan hành chính nhà nước, chính quyền các cấp trong tình hình mới”.
Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước gắn với việc bảo đảm quyền, lợi ích
hợp pháp của Nhân dân; thực hiện có hiệu quả các chính sách, mục tiêu phát
triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, nâng cao đời sống Nhân dân. Đẩy
mạnh cải cách hành chính, cơng khai, minh bạch; nâng cao đạo đức công vụ, mở
rộng việc thực hiện việc đánh giá sự hài lòng của Nhân dân đối với cơ quan
hành chính, lấy phiếu tín nhiệm của các cơ quan dân cử.
Khắc phục tính hình thức, nâng cao chất lượng hoạt động tiếp xúc cử tri,
hoạt động giám sát, tiếp dân, đối thoại, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị

17


của Nhân dân. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thực thi công vụ. Tập
huấn, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của các cơ quan hành
chính nhà nước về kỹ năng cơng tác dân vận, tiếp dân, đối thoại, xử lý những
tình huống trong quan hệ với dân... nhằm nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, tinh
thần thái độ, ý thức phục vụ Nhân dân.
Chú trọng xây dựng, phát triển mơ hình, điển hình ở những nơi khó khăn,
phức tạp, ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đồng bào có tơn giáo, cơng
nhân ở các khu công nghiệp, trong giải quyết các điểm nóng phức tạp, bức xúc
nổi cộm, trong cải cách hành chính, xây dựng bộ máy tinh gọn, hiệu lực, hiệu
quả, phục vụ nhân dân.
Phát huy dân chủ, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước trong các
tầng lớp Nhân dân; đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận
Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, tạo sinh lực mới cho khối đại đoàn kết
toàn dân tộc

Thực hiện tốt Quy chế Dân chủ ở cơ sở, hoàn thiện cơ chế cụ thể, thuận
lợi để Nhân dân được thơng tin, tham gia ý kiến đóng góp, giám sát chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Mở rộng và tạo điều
kiện cho các hoạt động tự quản của Nhân dân như ban thanh tra Nhân dân, ban
giám sát đầu tư cộng đồng, tổ hòa giải cơ sở...
Nâng cao chất lượng các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước
theo hướng thiết thực; đa dạng hóa các hình thức tập hợp Nhân dân, hướng
mạnh các hoạt động về cơ sở; xây dựng cơ chế phối hợp giữa chính quyền, các
cơ quan, tổ chức với MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp. Hệ thống
dân vận tăng cường tham mưu cho cấp ủy đảng lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện hiệu
quả hơn phong trào thi đua “Dân vận khéo”. Các cấp, các ngành, cơ quan, đơn
vị định hướng, hướng dẫn, hỗ trợ xây dựng mơ hình, điển hình; thường xuyên
kiểm tra, đôn đốc, định kỳ sơ kết, tổng kết, khen thưởng kịp thời và có giải pháp
để nhân rộng điển hình.
Tạo sự chuyển biến thực sự trong nội dung và phương thức hoạt động của

18


MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội, hội quần chúng. Đổi mới cách thức nắm
tình hình Nhân dân, đánh giá, dự báo kịp thời diễn biến trong các tầng lớp Nhân
dân; làm tốt công tác tham mưu cũng như phối hợp xử lý các vấn đề phát sinh
trong đời sống xã hội. Thực hiện có hiệu quả vai trị đại diện, chăm lo, bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của các tầng lớp Nhân dân gắn với cơng tác phát triển
đồn viên, hội viên và nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ chức.
Hoạt động giám sát hướng đến các vấn đề liên quan mật thiết, bức xúc của
người dân; chủ động và đổi mới hoạt động phản biện thơng qua việc phát huy
vai trị tư vấn của các chuyên gia, ý kiến của các tầng lớp Nhân dân; triển khai
có hiệu quả Quy định số 124-QĐ/TW của Ban Bí thư về giám sát việc tu dưỡng,
rèn luyện đạo đức, lối sống của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt và cán bộ,

đảng viên.
Kiện toàn tổ chức, bộ máy; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ làm cơng
tác dân vận, MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội
Kiện toàn tổ chức, bộ máy của MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội, ban
dân vận các cấp theo Nghị quyết T.Ư 6 (khóa XII) bảo đảm đủ điều kiện để thực
hiện chức năng, nhiệm vụ được phân công gắn với đổi mới nội dung, phương
thức hoạt động theo hướng tập trung cho cơ sở, gắn bó với đồn viên, hội viên,
từng bước khắc phục “hành chính hóa”, “cơng chức hóa”. Thực hiện thí điểm
trưởng ban dân vận đồng thời là chủ tịch ủy ban MTTQ ở cấp tỉnh, cấp huyện
những nơi đủ điều kiện.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến Nghị quyết của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước, các văn bản quy phạm pháp luật thuộc lĩnh vực
xây dựng cho đội ngũ cơng chức, viên chức, đồn viên, hội viên và nhân dân.
Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của cấp ủy đối với công tác dân vận; phát
huy vai trị của cả hệ thống chính trị để thực hiện tốt công tác dân vận. Đẩy
mạnh phong trào thi đua “dân vận khéo” gắn với các phong trào thi đua yêu
nước, xây dựng nông thôn mới.
Xây dựng đội ngũ cán bộ làm cơng tác dân vận có năng lực và đạo đức,

19


có kinh nghiệm thực tiễn, có kỹ năng làm cơng tác dân vận; thực hiện tốt công
tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí cán bộ làm công tác dân
vận, không phân công cán bộ vi phạm kỷ luật hoặc phẩm chất, năng lực yếu
kém, khơng có uy tín với Nhân dân làm cơng tác dân vận.
KẾT LUẬN
Trong giai đoạn này, công tác dân vận tiếp tục được đổi mới, nâng cao
chất lượng, hiệu quả, đi vào chiều sâu, chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần của nhân dân, tăng cường mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng - Nhà

nước với nhân dân, tập trung vào các nhiệm vụ, giải pháp: Tạo chuyển biến
mạnh mẽ trong nhận thức, hành động về công tác dân vận của các tổ chức, cá
nhân trong hệ thống chính trị, nhất là của các cấp ủy đảng, chính quyền và người
đứng đầu các cấp; Tăng cường thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng liên
quan đến cơng tác dân vận, cuộc sống của nhân dân; tăng cường cơng tác dân
vận của các cơ quan nhà nước, chính quyền các cấp, nhất là trong giải quyết các
vấn đề liên quan đến người dân; đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của
Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội theo hướng thiết thực, cụ thể,
tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chú trọng cơng tác vận động người
Việt Nam ở nước ngồi. Đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước trong các
tầng lớp nhân dân, trong đó có phong trào thi đua “Dân vận khéo”; Phát huy dân
chủ, nhất là vai trị của nhân dân tham gia xây dựng Đảng, chính quyền trong
sạch, vững mạnh, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, xuất bản lần
thứ 3, H, 2011, t.12, tr.672 .
[2] Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.6, tr.232-234 (Tác phẩm “Dân vận” lần
đầu tiên đăng trên báo Sự thật, số 120, ngày 15/10/1949).
[3] Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.6, tr.232.
[4] Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.4, tr.51-52.
[5] Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.6, tr.232.

20


[6] Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.6, tr.233.
[7] Hồ Chí Minh: Tồn tập, Sđd, t.6, tr.233.
[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.234.
[9] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, H.2016.

[10] Lê Ngọc Hùng. Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất và
phương pháp luận nghiên cứu dư luận xã hội. Tạp chí Cộng sản, tháng 6/2006.

21



×